NHỮNG QUAN HỆ CƠ BẢN CẦN GIẢI QUYẾT
ĐỂ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG TRONG BỐI CẢNH
HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
Dương Văn Thịnh
Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQG Hà Nội
1. Quan niệm về phát triển bền vững và phát triển vùng bền vững
Quan niệm về phát triển bền vững
Xã hội là một kết cấu vật chất vô cùng phức tạp. Sự phát triển của xã
hội cũng là một quá trình vận động phức tạp, bao gồm nhiều hệ thống
các mối quan hệ tác động với nhau. Trong lịch sử đã có nhiều quan niệm
về sự phát triển xã hội. Có người cho rằng phát triển xã hội là sự tăng
trưởng về kinh tế, chẳng hạn tăng quy mô của sản xuất, hoặc tăng trình
độ của lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội. Có người lại
cho rằng phát triển xã hội là làm cho mức thu nhập của nhân dân tăng
lên, đời sống về vật chất và tinh thần của con người tăng lên năm sau
cao hơn năm trước v.v Nhưng sự tăng về quy mô sản xuất, hay tăng
năng suất lao động xã hội vẫn có thể không làm cho đời sống về vật chất
và tinh thần của nhân dân lao động được cải thiện, bởi vì không có sự
công bằng xã hội. Mặt khác, sự tăng quy mô sản xuất có thể không duy
trì được bao lâu, chỉ tăng được trong một vài năm, sau đó lại bị chậm lại
do nhiều lý do khác nhau, thậm chí còn bị thụt lùi. Đó là sự phát triển
không đều và không toàn diện. Từ đó cần phải có quan niệm về sự phát
triển lâu bền hay vững chắc. Thế nào là sự phát triển bền lâu và vững
chắc, hay phát triển bền vững? Đây là khái niệm cần xác định. Việc hình
thành khái niệm này là kết quả của quá trình nhận thức về mối quan hệ
giữa con người và thế giới xung quanh, giữa hoạt động của con người,
của xã hội với môi trường tự nhiên.
Ban đầu, với năng lực sản xuất của con người còn thấp kém, người
ta quan niệm tự nhiên như là môi trường sống có thể cung cấp mọi thứ
178
CƠ SỞ KHOA HỌC CHO PHÁT TRIỂN VÙNG TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
cho con người và là nguồn cung cấp vô hạn. Quan niệm về phát triển
chỉ là sự sự tăng năng lực sản xuất, tăng khả năng khai thác tự nhiên
của con người. Nhưng về sau người ta thấy, theo đuổi sự phát triển
nhằm thỏa mãn những nhu cầu bức thiết của cộng đồng xã hội đã đưa
đến những hậu quả về môi trường và xã hội mà không ai không thừa
nhận là: Sự cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên; sự gia tăng dân số
quá nhanh, dẫn đến tình trạng đói nghèo, tình trạng dân trí thấp, ảnh
hưởng đến vấn đề an ninh, trật tự an toàn xã hội; tình trạng ô nhiễm môi
trường; gây biến đổi khí hậu, làm nhiệt độ trái đất tăng lên; gây thủng
tầng ozon, làm tan băng trên các dãy núi cao và ở Bắc cực dẫn đến nước
thủy triều dâng cao, đe dọa đến sản xuất và đời sống của hàng loạt các
quốc gia và hàng trăm triệu con người trên thế giới. Những hiện tượng
thời tiết bất thường: các trận nắng nóng kéo dài; những đợt giá rét, các
trận mưa bão dữ dội phá hoại nhiều cơ sở vật chất, gây thiệt hại nhiều
người và tiền của cho xã hội; động đất, sóng thần gây thiệt hại lớn cho
con người, có nguyên nhân sâu xa từ việc con người khai thác tự nhiên
một cách bừa bãi. Bằng kỹ thuật hiện đại con người ra sức hút dầu, khoét
than, khai thác quặng từ lòng đất với mức độ ngày càng lớn; các cuộc
thử vũ khí hạt nhân trong lòng đất, làm cho các kết cấu địa tầng của trái
đất thay đổi, điều đó sẽ gây lên những biến đổi trong lòng đất mà con
người không thể lường hết những tác hại đã, đang và sẽ xảy ra v.v. Còn
rất nhiều những hậu quả khác nữa, cuối cùng lại gây cản trở sự phát
triển xã hội.
Vậy, phát triển xã hội không thể thực hiện được nếu không tính đến
việc bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường sống của con người. Sự
phát triển chỉ nhằm khai thác tự nhiên càng nhiều càng tốt là không bền
vững. Quan niệm về phát triển bền vững được nêu ra chính trong bối
cảnh vấn đề môi trường tự nhiên bị đe dọa do con người khai thác quá
mức để phát triển xã hội vì nhu cầu của con người, không tuân thủ các
quy luật phát triển của tự nhiên. Trước những nguy cơ về môi trường,
các hội nghị quốc tế về môi trường từ những năm 70 và 80 của thế kỷ
XX đã đưa ra những chương trình hành động để bảo vệ môi trường.
Năm 1972 Hội nghị quốc tế về môi trường họp tại Xtốc‑khôm (Thụy
Điển) đã nêu lên thực trạng nạn ô nhiễm môi trường và sự nguy hại của
nó đối với cuộc sống toàn nhân loại. Năm 1980, Hiệp hội quốc tế về bảo
vệ thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên (IUCN) đã đưa ra “Chiến lược
bảo toàn thế giới” nhằm mục tiêu phát triển bền vững và bảo vệ môi
Những quan hệ cơ bản cần giải quyết để phát triển bền vững vùng
179
trường sống. Chương trình môi trường của Liên hợp quốc (UNEP) cũng
đưa ra khái niệm phát triển bền vững với 3 nội dung: phát triển bền
vững về môi trường sinh thái; phát triển bền vững về xã hội; bước đầu
đề cập đến sự phát triển bền vững về kinh tế. Năm 1987, tại Hội nghị
quốc tế về môi trường, Ủy ban thế giới về môi trường và phát triển
(WCED) của Liên hợp quốc đã công bố “Báo cáo Tương lai của chúng
ta”, trong đó thống nhất quan niệm về phát triển bền vững: “Phát triển
bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu của thế hệ hiện tại
mà không làm tổn hại đến khả năng thỏa mãn nhu cầu của các thế hệ
tương lai”.
Hội nghị Thượng đỉnh trái đất họp tại Ri‑ô đờ Gia‑nây‑rô (Bra‑xin)
năm 1992 đã đề ra Chương trình Nghị sự 21 về phát triển bền vững toàn
cầu (trong đó có 2.500 khuyến nghị hành động) và Hội nghị Thượng
đỉnh thế giới về phát triển bền vững họp tại Giô‑han‑ne‑xbuốc (Cộng
hòa Nam Phi) năm 2002 để đánh giá 10 năm thực hiện Chương trình
Nghị sự 21, quan niệm về sự phát triển bền vững nêu trong “Báo cáo
Tương lai của chúng ta” lại được khẳng định và cụ thể hóa thêm một số
nội dung: Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt
chẽ, hợp lý, hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển là phát triển kinh tế,
phát triển xã hội và bảo vệ môi trường nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày
càng đa dạng của đời sống con người trong hiện tại mà không làm tổn
hại đến khả năng thỏa mãn nhu cầu của các thế hệ tương lai.
Quan niệm về sự phát triển bền vững trên đây cho thấy: để thực hiện
mục tiêu phát triển bền vững, cần đảm bảo 3 điều kiện cơ bản: 1‑ Muồn
phát triển bền vững về kinh tế cần phải đầu tư có hiệu quả và duy trì
được tốc độ tăng trưởng cao, ổn định trong một thời gian dài. 2‑ phát
triển bền vững về xã hội cần phải gắn tăng trưởng, phát triển kinh tế với
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ và phát triển bản sắc văn hóa
dân tộc. 3‑ muốn phát triển bền vững về môi trường cần phải khai thác
các nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý, sử dụng tiết kiệm, có
hiệu quả, bảo vệ được môi trường và tính đa dạng sinh học. Ba mặt trên
đây có quan hệ mật thiết với nhau, tác động với nhau và tạo điều kiện
cho nhau phát triển lâu bền.
Chương trình Nghị sự 21 về phát triển bền vững toàn cầu đã được
Chính phủ Việt Nam hưởng ứng. Chính phủ Việt Nam đã xây dựng
180
Dương Văn Thịnh
chương trình Nghị sự về sự phát triển bền vững trong thế kỷ XXI ở Việt
Nam, gọi là Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 153/QĐTTg ngày 17‑8‑2004 và
được xây dựng trên 8 nguyên tắc là:
1. Con người là trung tâm của phát triển bền vững.
2. Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn phát
triển sắp tới, đảm bảo an ninh lương thực, năng lượng để phát
triển bền vững, kết hợp chặt chẽ, hợp lý hài hòa với phát triển xã
hội; khai thác hợp lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên
trong giới hạn cho phép về mặt sinh thái và bảo vệ môi trường.
3. Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường phải được coi là một
yếu tố không thể tách rời trong quá trình phát triển.
4. Quá trình phát triển phải đảm bảo đáp ứng một cách công bằng
nhu cầu của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống
của các thế hệ tương lai.
5. Khoa học công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy phát triển nhanh mạnh và bền vững
đất nước.
6. Phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp chính
quyền, các bộ, ngành và địa phương, của các cơ quan doanh
nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và mọi người dân.
7. Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển bền vững đất nước.
8. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo
vệ môi trường với đảm bảo quốc phòng, an ninh và trật tự an
toàn xã hội”
1
.
Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam về phát triển bền vững với
những nội dung cơ bản trên đây thể hiện quan điểm của Đảng về phát
triển bền vững nói chung và phát triển bền vững vùng khi đặt sự phát
triển của Việt Nam trong hệ thống các mối quan hệ trong nước và quan
hệ quốc tế.
1. Trần Nguyễn Tuyên (2006), Phát triển bền vững – Kinh nghiệm quốc tế và định
hướng của Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị, Số 2, tr.46.
Những quan hệ cơ bản cần giải quyết để phát triển bền vững vùng
181
Phát triển vùng bền vững là gì?
Theo từ điển Tiếng Việt, vùng là khái niệm để chỉ một phần đất đai,
hay nói chung là một phần không gian tương đối rộng, có những đặc
điểm nhất định về tự nhiên hoặc xã hội, phân biệt với các không gian
khác ở xung quanh. Thí dụ vùng biển là một bộ phận không gian nhất
định trên biển, khác với vùng núi cao, hay vùng đồng bằng, vùng trung
du. Căn cứ vào đặc điểm về tự nhiên hoặc đặc điểm về xã hội mà người
ta có thể phân chia không gian thành các vùng khác nhau. Phạm vi bao
quát của vùng tùy theo cách phân chia mà có những giới hạn rộng hẹp
khác nhau. Thí dụ đối với thế giới người ta có thể phân chia thành các
vùng như: vùng Đông Nam Á, vùng Trung Á, vùng Địa Trung Hải; vùng
Bắc Âu v.v Trong phạm vi quốc gia, chẳng hạn ở Việt Nam người ta có
thể chia thành các vùng như: vùng nông thôn, vùng ven đô, vùng trung
du, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng đồng bằng sông Cửu Long v.v
Dù phân chia theo cách nào, vùng cũng là một bộ phận của quốc gia,
một bộ phận của thế giới. Ranh giới của vùng khác với địa giới hành
chính quốc gia ở chỗ ranh giới vùng không được xác định một cách
chính xác bằng các điểm mốc cố định. Ranh giới của vùng chỉ được con
người xác định một cách tương đối. Tuy nhiên việc xác định ranh giới
các vùng vẫn phải căn cứ vào đặc điểm khách quan vốn có của sự vật
(của vùng), không thể tùy tiện chia vùng theo ý muốn chủ quan. Mỗi
vùng với những đặc điểm về tự nhiên và xã hội của nó có vị trí nhất
định đối với quốc gia và quốc tế. Mặt khác sự phát triển của mỗi vùng
cũng không tách rời sự phát triển chung của các vùng khác, của toàn thể
quốc gia và quốc tế.
Trước đây ở nước ta, trong nền kinh tế tự cấp tự túc, sự phát triển
kinh tế, xã hội khép kín trong phạm vi làng xã, hoặc một địa phương
tương đối nhỏ hẹp, tách rời với các địa phương khác. Sự tách rời, khép
kín như vậy đã cản trở việc phát huy các ưu thế của địa phương và dẫn
đến cản trở sự phát triển của địa phương nói riêng và của toàn thể quốc
gia nói chung, làm cho nước ta chậm phát triển so với các nước khác
trên thế giới.
Trong xu thế hội nhập vào nền kinh tế thế giới hiện nay, sự phát triển
kinh tế, xã hội của từng vùng cũng như của cả quốc gia dân tộc đang
đứng trước nhiều thời cơ thuận lợi, nhưng đồng thời cũng đứng trước
182
Dương Văn Thịnh
nhiều thách thức khó khăn. Vấn đề đặt ra ở đây là phải phát triển vùng
như thế nào để có thể phát huy được thế mạnh, tiềm năng của vùng và
duy trì sự phát triển đó một cách bền vững. Tiềm năng của vùng là
những đặc điểm vốn có, có thể bắt nguồn từ điều kiện tự nhiên, có thể
do sự phát triển lịch sử, xã hội lâu đời tạo nên. Tuy nhiên tiềm năng đó
được thực hiện trên thực tế như thế nào lại tùy thuộc vào trình độ phát
triển chung của xã hội, nhất là trình độ phát triển của khoa học, công
nghệ và sự ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất. Thí dụ vùng
biển trước đây, khi chưa có công nghệ đóng tàu, chưa có công nghệ
khoan thăm dò và khai thác dầu khí dưới đáy đại dương, thì những tiềm
năng của biển còn chưa bộc lộ ra, ý nghĩa của vùng biển đối với đời sống
kinh tế xã hội của quốc gia, dân tộc không lớn lắm. Nhưng khi khoa học
công nghệ đã phát triển cho phép khai thác được các nguồn lợi của biển,
tức các tiềm năng của biển được thể hiện ra, thì vùng biển có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với đời sống kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia
dân tộc và cả quốc tế. Chính vì vậy hiện nay vấn đề xác định chủ quyền
của các quốc gia trên các vùng biển trở thành vấn đề thời sự trong quan
hệ giữa các quốc gia trên thế giới. Hoặc đối với những vùng hoang mạc
cũng vậy, khi trình độ khoa học công nghệ chưa cho phép thì dường
như nó không có tiềm năng gì, chỉ là vùng khô cằn, biểu tượng của sự
chết chóc, nhưng khi khoa học công nghệ cho phép khai thác được các
nguồn lợi trên đó, chẳng hạn đưa được nước về vùng hoang mạc cùng
với việc nuôi trồng các giống cây, con vật thích hợp, hoặc người ta có
thể xây dựng các nhà máy (điện nguyên tử chẳng hạn) trên vùng hoang
mạc, tức những tiềm năng vốn có của nó được thể hiện ra, thì hoang
mạc lại trở nên có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với quốc gia và quốc tế.
Vậy xem xét sự phát triển vùng cũng như sự phát triển bền vững của
vùng cần phải xem xét toàn diện nhiều mặt, phải xem xét vùng trong
sự vận động phát triển trong tiến trình lịch sử, phải đặt sự phát triển
vùng trong quan hệ tổng thể của quốc gia và quốc tế.
Từ những điều phân tích trên đây ta có thể đưa ra một quan niệm
khái quát (chưa phải là một định nghĩa khoa học) về phát triển bền vững
vùng: đó là sự thiết lập các mối quan hệ toàn diện trên các mặt trong
nội bộ vùng và các mối quan hệ tổng thể giữa các vùng trong phạm vi
quốc gia và thế giới để phát huy tiềm năng của mỗi vùng đảm bảo lợi
ích con người trong điều kiện hiện tại, đồng thời không cản trở, mà tạo
điều kiện để đảm bảo lợi ích của các thế hệ con người trong tương lai.
Những quan hệ cơ bản cần giải quyết để phát triển bền vững vùng
183
Trong quan niệm trên đây đã nhấn mạnh đến các quan hệ cơ bản:
quan hệ trong nội bộ vùng, quan hệ với các vùng lân cận, quan hệ với
tổng thể quốc gia và quốc tê, quan hệ giữa hiện tại với tương lai, quan
hệ giữa con người, xã hội với môi trường tự nhiên.
2. Một số đánh giá về sự phát triển vùng trong thời kỳ Đổi mới ở
Việt Nam
‑ Những kết quả
Thứ nhất, nhận thức về phát triển bền vững nói chung đã có sự
chuyển biến nhất định. Điều đó thể hiện ở chỗ Việt Nam đã ủng hộ và
hưởng ứng Chương trình Nghị sự 21 về phát triển bền vững toàn cầu
do Hội nghị Thượng đỉnh trái đất họp tại Riô đơ Gia‑nây‑rô (Bra‑xin)
năm 1992. Chính phủ Việt Nam đã cử đoàn đại biểu do Phó thủ tướng
Phạm Gia Khiêm dẫn đầu tham gia Hội nghị Thượng đỉnh về phát triển
bền vững toàn cầu diễn ra tại Giô‑han‑ne‑xbuốc (Cộng hòa Nam Phi)
tháng 9‑2002. Tại đây, đoàn đại biểu của Chính phủ Việt Nam đã trình
bày Định hướng phát triển bền vững trong thế kỷ XXI. Đó chính là
Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam sau đó đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duỵệt, ban hành theo quyết định số 153/2004/QĐTTg,
ngày 17‑8‑2004 của Thủ tướng Chính phủ. Chương trình Nghị sự 21 của
Việt Nam thể hiện sự nhận thức mới của Đảng, Chính phủ và nhân dân
Việt Nam về phát triển bền vững, khẳng định: phát triển bền vững (theo
khái niệm nêu trong Chương trình Nghị sự 21 về phát triển bền vững
toàn cầu) phải trở thành quan điểm chiến lược chung để xây dựng kế
hoạch phát triển kinh tế ‑ xã hội của Việt Nam; Chương trình Nghị sự
21 của Việt Nam là một kế hoạch chung để thiết kế các chương trình
hành động, để phối hợp hành động của các bộ, ngành, từ trung ương
đến các địa phương, các tố chức và cá nhân nhằm đạt đến sự phát triển
bền vững ở Việt Nam trong thế kỷ XXI.
Nhận thức về phát triển vùng cũng được thay đổi và phát triển theo
tinh thần Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam. Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X viết: “Bằng chính sách thích hợp tạo điều
kiện cho tất cả các vùng trong cả nước phát triển nhanh hơn trên cơ sở
phát huy lợi thế so sánh, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý của mỗi vùng
và liên vùng; đồng thời, tạo ra sự liên kết giữa các vùng nhằm đem lại
184
Dương Văn Thịnh
hiệu quả cao, phát triển nhanh và ổn định, có sức cạnh tranh, khắc phục
tình trạng chia cắt, khép kín theo địa giới hành chính”
1
. Văn kiện còn
viết: “Phát huy thế mạnh của mỗi vùng trọng điểm để các vùng này
đóng góp ngày càng lớn cho sự phát triển chung của cả nước và trợ giúp
các vùng khó khăn, có năng lực hội nhập kinh tế quốc tế với quy mô lớn
và trình độ cao.
Có chính sách trợ giúp nhiều hơn về nguồn lực để phát triển các
vùng khó khăn, nhất là các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số”.
2
Nghị quyết của Đại hội Đảng trên đây đã được cụ thể hoá bằng việc
Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về phát
triển kinh tế‑xã hội của cả nước, xây dựng nhiều chương trình về phát
triển kinh tế vùng như chương trình 135 về xây dựng và phát triển miền
núi, chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình Tây Bắc, chương
trình Tây Nguyên, chương trình Tây Nam Bộ, chương trình xây dựng
các vùng kinh tế trọng điểm Bắc, Trung, Nam; xây dựng nhiều chương
trình, dự án về khai thác, bảo vệ và phát triển môi trường như chương
trình 5 triệu ha rừng, chương trình bảo vệ và phát triển rừng đầu nguồn.
Ngoài ra còn xây dựng các chương trình về phát triển văn hóa xã hội,
giáo dục, y tế như chương trình bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các
dân tộc thiểu số, chương trình cải cách giáo dục, chương trình chăm sóc
sức khỏe cộng đồng v.v. Những chương trình, dự án đó đã liên kết các
vùng thành một hệ thống thống nhất, hỗ trợ nhau và tạo điều kiện phát
huy thế mạnh của từng vùng trong mối liện hệ chung của cả nước.
Thứ hai, nhờ có chuyển biến về mặt nhận thức thể hiện trong việc
đề ra các chủ trương, chương trình, dự án, theo đó những năm vừa qua
chúng ta đã đạt được một số kết quả thực tế về phát triển của cả nước
cũng như phát triển vùng như sau:
Tăng trưởng kinh tế với tốc độ khá cao và liên tục trên cả nước và
đều ở các vùng; giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động,
phát huy được nguồn lực lao động dồi dào ở các vùng, nhất là vùng
1. 2006, Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
CTQGHN, tr. 224.
2. 2006, Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
CTQGHN, tr. 224‑225.
Những quan hệ cơ bản cần giải quyết để phát triển bền vững vùng
185
nông thôn; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lên
mức đáng kể, giải quyết tốt vấn đề đói nghèo, an sinh xã hội; giữ vững
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Một vài con số sau đây cho thấy
điều đó: Năm 1988 nước ta ở vào tình trạng thiếu lương thực, phải nhập
khẩu 45 vạn tấn, nhưng “đến năm 1990 chúng ta đã đảm bảo đủ nhu
cầu lương thực cho nhân dân, có dự trữ và bắt đầu xuất khẩu. Đến nay
trung bình mỗi năm nước ta xuất khẩu khoảng 4 triệu tấn gạo, đứng thứ
nhì thế giới, sau Thái Lan”
1
. Mức độ tăng GDP khá cao, giai đoạn 1991
‑ 1995 trung bình đạt 8,2%/năm, giai đoạn 1996 – 2000 đạt 7,5%/năm,
giai đoạn 2000 – 2005 đạt gần 7,5%/năm. Năm 2006 đạt 8,17%; năm 2008
mặc dù chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nhưng
GDP của chúng ta vẫn tăng 6,18% so với năm 2007. Quý I năm 2009 mức
tăng đạt 3,1% so cùng kỳ năm 2008
2
. “Mức thu nhập bình quân đầu
người có xu hướng tăng, đạt bình quân trên 12%/năm”
3
; “tỷ lệ hộ nghèo
giảm nhanh từ 17,5% năm 2005 xuống còn khoảng dưới 7% năm 2005,
bình quân mỗi năm giảm trên 2% hộ nghèo; riêng năm 2006 giảm 3%
hộ nghèo (theo chuẩn mới)”
4
.
Sự phân hóa vùng trên các phương diện kinh tế, giáo dục, bảo vệ sức
khỏe có tăng nhưng không lớn lắm. Sau 20 năm Đổi mới, chuyển sang
nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, thu nhập quốc dân
theo đầu người bình quân cả nước tăng từ 140 USD lên 830 USD (2007),
tức tăng 5,9 lần “nhưng mức độ tăng của các vùng không đều từ hơn 2
lần đến 7‑8 lần. Cụ thể, các vùng tăng thấp (2 lần) là Tây Bắc, Đông Bắc,
Bắc Trung Bộ; các vùng tăng cao (7‑8 lần) là Đông Nam Bộ, đồng bằng
Bắc Bộ, đồng bằng sông Cửu Long. Khoảng cách thu nhập thực tế của
người dân giữa vùng có mức thu nhập cao nhất (Đông Nam Bộ) với
vùng có thu nhập thấp nhất (Tây Bắc) cũng không lớn lắm”
5
là 3,1 lần
vào năm 2004.
1. 2009, Đỗ Thế Tùng: Thời cơ và thách thức đối với sự phát triển bền vững ở Việt
Nam, Tạp chí Cộng sản số 7, tr. 36.
2. Đỗ Thế Tùng: Sđd, tr. 36‑37.
3. Nguyễn Hữu Dũng (2007), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xóa đói giảm
nghèo theo hướng bền vững, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số3, tr. 52.
4. Nguyễn Hữu Dũng: sđd, tr. 52.
5. Ngô Kim Ngân, Nguyễn Thanh Tuấn (2008), Quản lý kinh tế theo vùng lãnh thổ ở
nước ta hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 4, tr. 51‑52.
186
Dương Văn Thịnh
Những kết quả trên đây có ý nghĩa to lớn thể hiện sự nỗ lực phấn
đấu của toàn Đảng, toàn dân ta để thúc đẩy xã hội phát triển, tuy nhiên
đó chưa phải là sự phát triển bền vững, bên cạnh đó còn nhiều yếu kém.
Những yếu kém thể hiện sự phát triển vùng chưa bền vững:
Thứ nhất, cơ cấu nền kinh tế chưa hợp lý dẫn đến sức cạnh tranh
yếu. Điều đó thể hiện ở chỗ cơ cấu thu hút FDI chủ yếu đầu tư vào ngành
công nghiệp khai tác tài nguyên thiên nhiên, trong khi đó đầu tư vào
ngành nông, lâm, thủy sản và ngành công nghiệp chế biến nông, lâm,
thủy sản chiếm tỷ lệ rất thấp. Dịch vụ tập trung quá nhiều vào lĩnh vực
kinh doanh khách sạn, du lịch và bất động sản. Năm 2007, FDI đầu tư
vào công nghiệp khai thác tài nguyên thiên nhiên chiếm tỷ lệ 36,8% trong
khi nông, lâm, thủy sản chỉ chiếm 0,67%, năm 2008 tương ứng là 59,5%
và 0,4%. FDI đầu tư vào ngành khách sạn năm 2007 chiếm 21,8%, đến
năm 2008 tăng lên 33,3%. Cơ cấu hàng xuất khẩu tỷ lệ hàng thô và sơ
chế rất cao, giai đoạn 1996 – 2000 chiếm 54,8%, giai đoạn 2000 – 2005
giảm xuống còn 45,3%. Các ngành dệt, may, giầy dép và ngành sản xuất
ô‑tô qua nhiều năm chủ yếu phải nhập nguyên vật liệu và linh kiện từ
nước ngoài, do vậy giá trị thực tế thu được không nhiều.
Thứ hai, chưa có quy hoạch phát triển tổng thể về kinh tế, xã hội
trong thời gian dài trên quy mô cả nước và từng khu vực. Các khu công
nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng xây dựng không đồng bộ giữa các
ngành và các địa phương, mang tính chất chắp vá, cục bộ, chạy theo lợi
ích trước mắt, chưa xét đến hiệu quả kinh tế lâu dài và lợi ích toàn cục.
Mỗi tỉnh dường như là một “quốc gia” riêng. Tỉnh nào cũng có thể xây
dựng nhà máy bia, nhà máy xi măng, mặc dù điều kiện xây dựng không
thuận lợi, hiệu quả kinh tế không cao. Các địa phương ra sức lập, duyệt
dự án xây dựng sân gôn, sân bay, nhà ở, chợ v.v. nhưng không tính đến
hiệu quá kinh tế. Nhiều dự án cốt để chiếm đất, để sử dụng vào các mục
đích khác. Nhiều dự án chuyển nhượng nhiều lần, có dự án không thực
hiện được, hoặc thực hiện xong, sau khi nghiệm thu lại không vận hành
sử dụng được, gây lãng phí, thiệt hại rất nhiều tiền của, công sức của
nhân dân và Nhà nước.
Thứ ba, sự tàn phá môi trường tự nhiên rất nghiêm trọng, chưa cân
đối giữa phát triển kinh tế‑xã hội với bảo vệ phát triển môi trường tự
nhiên và các tài sản văn hóa dân tộc. Chưa có những số liệu thống kê cụ
Những quan hệ cơ bản cần giải quyết để phát triển bền vững vùng
187
về sự tàn phá môi trường tự nhiên do tăng trưởng kinh tế đơn thuần,
nhưng chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy sự tàn phá rừng nghiêm trọng
đến mức nào. Không chỉ những khu rừng tái sinh mà cả những khu rừng
nguyên sinh rất quý hiếm, không chỉ những những khu rừng ngập mặn
ven biển mà cả những khu rừng đầu nguồn đều bị tàn phá nghiêm
trọng. Điều đó đã làm thay đổi môi trường sinh thái, mất cân bằng hệ
sinh thái động thực vật và điều kiện khí hậu, dễ đưa đến các thiên tai
như lũ quét, lũ ống, sạt lở đất v.v Tình trạng ô nhiễm môi trường nước,
như ô nhiễm con sông Thị Vải ở Đồng Nai, các con sông ở Hà Nội, sông
Cầu v.v.; môi trường không khí ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và
các khu công nghiệp như Quảng Ninh, Hải Phòng v.v. cũng ở mức độ
báo động, gây nên các bệnh hiểm nghèo như ung thư, bệnh phổi, bệnh
đường ruột cho cộng đồng dân cư hiện nay, nhất là đối với người nghèo,
trẻ em hậu quả lại càng nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu cho cả nòi giống
trong tương lai.
Thứ tư, giải quyết vấn đề công bằng xã hội, chống tham nhũng chưa
có hiệu quả, ảnh hưởng lớn đến phát triển bền vững vùng. Đây là vấn
đề vô cùng nan giải và nhức nhối hiện nay. Nó ảnh hưởng đến niềm tin
của quần chúng nhân dân vào chế độ, vào Đảng và Nhà nước. Điều đó
lại tác động trực tiếp đến toàn bộ các yếu tố, các mặt của quá trình phát
triển bền vững của vùng cũng như của cả nước. Chính tệ nạn tham
nhũng gây nên sự bất công, làm cho công bằng xã hội không thể thực
hiện được. Thời gian qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương,
chính sách để thực hiện công bằng xã hội, đã thực hiện nhiều biện pháp
để chống tham nhũng, nhưng hiệu qủa chưa cao, chưa ngăn chặn được
tệ tham nhũng. Điều đó đòi hỏi phải tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa cuộc
đấu ranh chống tham nhũng mới đảm bảo phát triển bền vững.
3. Một số quan hệ cần giải quyết để phát triển vùng bền vững
trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay
Trong bối cảnh hội nhập hiện nay chúng ta có những thuận lợi và
thách thức cho phát triển bền vững vùng:
Thuận lợi: Về nguồn vốn, kỹ thuật, khoa học công nghệ và thị trường
tiêu thụ sản phẩm, do hội nhập, mở cửa, có nhiều điều kiện để nước
ngoài đầu tư vào Việt Nam.
188
Dương Văn Thịnh
Khó khăn: Cạnh tranh gay gắt do nhiều nhà đầu tư nước ngoài có
tiềm lực lớn, mà sức cạnh tranh của chúng ta lại yếu nên gặp khó khăn
là tất nhiên. Bên cạnh đó các ảnh hưởng của biến động trên thị trưởng
thế giới, các âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch bên ngoài có điều
kiện xâm nhập vào Việt Nam, kết hợp với các lực lượng trong nước, tạo
nên một lực lượng đối lập, phá hoại khối đoàn kết toàn dân, sẽ gây cho
chúng ta nhiều khó khăn hơn.
Từ tình hình trên đây, để phát triển bền vững vùng cần giải quyết
các quan hệ cơ bản sau:
1. Quan hệ giữa bộ phận và toàn thể, giữa vùng, địa phương và toàn
cục, cả nước, trung ương; Vừa ưu tiên cho lợi ích chung tổng thể
cả nước đồng thời đảm bảo lợi ích của từng vùng, từng địa
phương.
2. Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường tự nhiên.
Tăng trưởng kinh tế trên cơ sở đảm bảo giữ gìn và phát triển môi
trường tự nhiên, không phá vỡ sự cân bằng sinh thái, nhất là môi
trường nước và không khí.
3. Quan hệ giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của con người.
Không hy sinh lợi ích lâu dài vì lợi ích trước mắt hoặc ngược lại.
4. Quan hệ giữa thực hiện công bằng xã hội và phát triển kinh tế xã
hội. Không tăng trưởng kinh tế một cách đơn thuần, gây nên sự
chênh lệch quá lớn về mức thu nhập và chất lượng sống giữa các
tầng lớp xã hội làm mâu thuẫn xã hội gia tăng, ảnh hưởng không
tốt đến an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
5. Phòng và chống các tệ nạn xã hội, đặc biệt là tệ tham nhũng.
Đó là những mối quan hệ cơ bản để phát triển bền vững vùng trong
bối cảnh hiện nay.
Những vấn đề trên đây cần phân tích sâu hơn, nhưng trong khuôn
khổ bài báo này tác giả chưa có điều kiện trình bày được chi tiết.
Những quan hệ cơ bản cần giải quyết để phát triển bền vững vùng
189