Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

BẢN SẮC VĂN HÓA VÀ TRI THỨC ĐỊA PHƯƠNG TRONG PHÁT TRIỂN VÙNG ĐÔNG NAM BỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.64 KB, 13 trang )

BẢN SẮC VĂN HÓA VÀ TRI THỨC ĐỊA PHƯƠNG
TRONG PHÁT TRIỂN VÙNG ĐÔNG NAM BỘ
ThS. Nguyễn Thị Nguyệt
Bảo tàng Đồng Nai
1. Từ bản sắc văn hóa
Bản sắc là cái gốc, cái căn bản thể hiện ra của một sự vật. Bản sắc văn
hóa là giá trị cơ bản của văn hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam tức
là nói những giá trị gốc, căn bản, cốt lõi, những giá trị hạt nhân của dân
tộc Việt Nam. Giá trị văn hóa là những giá trị tiêu biểu nhất, bản chất
nhất, chúng mang tính dân tộc sâu sắc đến nỗi chúng biểu hiện trong
mọi lĩnh vực của nền văn hóa Việt Nam, trong các lĩnh vực văn học nghệ
thuật, sân khấu, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, trong sinh hoạt, giao tiếp,
ứng xử hàng ngày của người Việt Nam.
Những giá trị văn hóa đó không phải tự nhiên mà có, mà được tạo
thành dần dần và được khẳng định trong quá trình lịch sử xây dựng,
củng cố và phát triển của nhà nước dân tộc Việt Nam. Những giá trị đó
được bảo tồn, bổ sung và tiếp biến những giá trị mới cho phù hợp. Dân
tộc Việt Nam, với tư cách là chủ thể sáng tạo, thường xuyên kiểm
nghiệm những giá tri hạt nhân đó, quyết định những thay đổi và bổ
sung cần thiết, tái tạo những giá trị đó từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Miền Đông Nam Bộ nằm trên lưu vực sông Đồng Nai, gồm các tỉnh,
thành: Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, thành phố Hồ
Chí Minh và Bà Rịa ‑ Vũng Tàu. Miền Đông Nam Bộ là vùng cư trú của
nhiều thành phần dân tộc có nguồn gốc địa phương khác nhau tụ họp
về đây. Đây là vùng đất có nhiều tôn giáo và các hình thức tín ngưỡng
tồn tại trong nhân dân, là vùng hội tụ dân cư do những cuộc di dân lớn
diễn ra hàng thế kỷ tạo nên, vốn có nhiều hệ thống phong tục tập quán
khác nhau kết tinh thành truyền thống văn hóa chung có đặc tính riêng
trong văn hóa Việt Nam.
374
CƠ SỞ KHOA HỌC CHO PHÁT TRIỂN VÙNG TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM


Trải qua quá trình lịch sử, nhiều lớp dân cư từ đồng bằng Bắc Bộ,
từ các tỉnh duyên hải miền Trung đến đây lập làng xóm, khai thác đất
đai, phát triển nông nghiệp, xây dựng nên những cánh đồng lúa. Từ
những làng xóm của vùng đồng lúa đi đến sinh sống ở những vùng đô
thị, trước hết là vùng đô thị Sài Gòn – Chợ Lớn, miền đồi núi, Đông
Nam Bộ…
Cư dân người Việt (Kinh) và văn hóa người Việt đã thực sự trở thành
nền tảng căn bản từ đầu thế kỷ XVIII cho đến ngày nay. Sự giao tiếp
giữa các tộc người và sự tiếp cận giữa những hệ thống văn hóa khác
nhau đã tạo nên những đặc điểm văn hóa có tính đặc thù cho các dân
tộc vùng miền Đông Nam Bộ.
Cư dân ở vùng miền Đông Nam Bộ ngoài người Việt chiếm đa số,
còn có các dân tộc bản địa và nhập cư như: Chơro, Mạ, Stiêng, Cơho,
Hoa, Chăm, Khơme, Tày, Nùng, Mường… Bản sắc văn hóa của các dân
tộc vùng miền Đông Nam Bộ bao hàm những những giá trị tiêu biểu
nhất, bản chất nhất, chúng mang tính dân tộc sâu sắc biểu hiện trên các
lĩnh vực đời sống vật chất và tinh thần thông qua sinh hoạt sản xuất,
giao tiếp, ứng xử hằng ngày của con người ở vùng miền Đông Nam Bộ.
1.1. Cách thức tổ chức xã hội cổ truyền
Không giống như người Việt ở Bắc Bộ, làng xóm của người Việt Nam
Bộ không nằm trong những lũy tre xanh bao bọc mà được hình thành
dọc theo những con kênh, rạch, triền sông và vùng đồng bằng thấp bằng
phẳng. Nơi ở, đằng trước có ghe thuyền qua lại, xung quanh là vườn
cây ăn trái và đằng sau là ruộng đồng. Tổ chức làng xã ở Đông Nam Bộ
cũng như Nam Bộ không chặt chẽ như làng ở miền Trung và miền Bắc.
Các dân tộc bản địa nơi đây cư trú theo các bòn, sóc. Người Chơro
gọi làng là palây, đublây; người Mạ gọi là bòn; người Stiêng gọi là sóc, bòn,
bù; người Khơme gọi là phum, sóc… Mỗi làng gồm nhiều gia đình, dòng
họ hoặc vài tộc họ tập trung lại. Ranh giới làng không rõ rệt, gồm vài
nhà sàn dài (sau này là vài chục nhà sàn nhỏ) ở cùng một địa điểm cư

trú. Xưa kia đứng đầu mỗi nhà dài có vị trưởng họ hay tộc trưởng gọi
là ông đầu nhang ‑ voh yang va (người Chơro), chau đoòng (người Mạ),
tom yau (người Stiêng) hoặc vị già làng hay hội đồng già làng có trách
nhiệm giải quyết các việc trong trong một làng, palây, bòn, sóc… Đây là
Bản sắc văn hóa và tri thức địa phương trong phát triển vùng Đông Nam Bộ
375
những người già có uy tín, có nhiều kinh nghiệm được mọi người trong
làng tín nhiệm và tuân phục.
1.2. Phong tục tập quán:
Phong tục của người Việt ở vùng Đông Nam Bộ cũng có nguồn
gốc từ đồng bằng Trung và Nam Trung Bộ, nhưng có tiếp biến thêm
nhiều yếu tố từ phong tục của người Khơme, người Chăm, người
Hoa… Chẳng hạn, hầu hết người Việt Nam Bộ vẫn giữ tập quán giẫy
mả vào ngày 25 tháng Chạp trước khi làm lễ đón ông bà vào ngày 30
tháng Chạp âm lịch, nhưng một bộ phận người Việt Nam Bộ cũng
theo tập quán tảo mộ vào tiết Thanh minh tháng Ba âm lịch giống như
người Hoa.
Tính cách của người Việt Nam Bộ cũng có nhiều nét khác biệt với
người Việt ở đồng bằng Trung và Nam Trung Bộ: cởi mở, không ưa sự
ràng buộc, chuộng sự bình đẳng; trong mưu sinh thì có tinh thần mạo
hiểm, bươn chải, đầu óc sáng tạo, nhanh nhạy với cái mới; trong ứng xử
thì bộc trực, hào hiệp, trọng nghĩa, khinh tài, thích ăn chơi xả láng…
Người Chăm ở Đông Nam Bộ hầu hết theo đạo Hồi (Islam) nên
có những món ăn riêng, gọi là các món halal. Họ ăn thịt các loài động
vật do chính họ cắt tiết và làm lấy. Trong tháng chay nhịn Ramadan,
người Chăm Hồi giáo phải giữ mình trong sạch và phải chịu thử thách
bằng cách nhịn ăn, uống, hút thuốc vào ban ngày (khi có ánh sáng mặt
trời) và chỉ được phép ăn, uống, hút thuốc vào ban đêm.
Người Chăm Islam có tục chôn cất người chết trong vòng 24 giờ và
không có quan tài với ý nghĩa thân xác người chết sẽ mau hòa tan trở về

với đất.
1.3. Tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội
Miền Đông Nam Bộ có nhiều sinh hoạt văn hóa dân gian. Các dân
tộc bản địa như: Chơro, Mạ, Stiêng, Cơho theo tín ngưỡng vạn vật hữu
linh, tôn sùng tự nhiên. Hàng năm đồng bào có những lễ hội gắn với
nông nghiệp, với núi rừng như: lễ mừng lúa mới, lễ cúng Yang
(SaYangva), cúng thần rừng, thần sông suối, thần nhà, thần cửa, lễ
đâm trâu…
376
Nguyễn Thị Nguyệt
Ở Tây Ninh có núi Bà Đen, trên núi có đền Linh Sơn Thánh Mẫu
nổi tiếng Đạo Phật kết hợp với đạo Lão
, đạo Khổng, đạo Kitô, đạo
Mẫu là cơ sở hình thành đạo Cao Đài trên vùng đất Đông Nam Bộ. Tây
Ninh là thánh địa của đạo Cao Đài
. Hiện đạo Cao Đài có 2,7 triệu tín
đồ. Còn các làng ven biển Bà Rịa ‑ Vũng Tàu và Cần Giờ ‑ thành phố
Hồ Chí Minh thì có các đình miếu thờ cúng Cá Ông. Miền Đông Nam
Bộ cũng là nơi có đông đồng bào theo đạo Công giáo (tập trung đông
nhất ở tỉnh Đồng Nai).
Lễ hội tín ngưỡng ‑ tôn giáo bao gồm các lễ hội thường niên của
đạo Phật, đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành,
hội đền Linh Sơn Thánh mẫu ở núi Bà Đen Ở các đình làng, thường
xuyên có các lễ Kỳ yên tiến hành vào đầu năm và cuối năm tạ ơn
Thành hoàng bổn cảnh, thần linh và các bậc tiền hiền, hậu hiền. Ở
vùng ven biển, lễ hội Nghinh Ông là sự kiện quan trọng bậc nhất
trong đời sống văn hóa và tâm linh của cư dân. Ở Bà Rịa‑Vũng Tàu,
nơi có 10 đền thờ cá voi, nhiều nhất ở miền Nam, bên cạnh lễ hội
Nghinh Ông còn có lễ Lệ Cô Long Hải từ 10/2 đến 12/2 âm lịch
để thờ

cúng Mẫu ‑ Nữ thần và kết hợp cúng thần biển. Ở Cần Giờ (thành phố
Hồ Chí Minh) và Bà Rịa ‑ Vũng Tàu đều có lễ hội Nghinh Ông trọng
thể hằng năm. Lễ hội văn hóa ‑ lịch sử bao gồm các lễ tết cổ truyền
như tết Nguyên Đán, tết Đoan ngọ Các lễ hội tưởng niệm các danh
nhân có công mở đất như Nguyễn Hữu Kính, Lê Văn Duyệt, Trần
Thượng Xuyên…
Người Khơme vẫn duy trì tín ngưỡng thờ Neak ‑ tà là các thần bảo
hộ con người và đất đai dưới hình tượng những viên đá cuội. Các lễ
hội truyền thống của người Khơme bao gồm hai loại chính: các lễ hội
Phật giáo (lễ Phật Đản (bon Pisakh Bâuchea), lễ nhập hạ (bon Châul
Vâssa), lễ cầu phước (bon Đa), lễ hội linh (bon Pchum Bôn), lễ tang (bon
Sôp) ) và các lễ hội văn hóa ‑ lịch sử (lễ Tết‑ pithi Chôl Chnam Thmây,
lễ cúng tổ tiên ‑pithi Sen Đônta, lễ cúng trăng ‑pithi Sâm Peak Preach
Khe hay còn gọi là lễ đút cốm dẹp ‑ Âk Âmbok với các nghi lễ cảm tạ
thần Mặt Trăng bảo hộ mùa màng, điều hòa thời tiết, đem lại ấm no, tổ
chức đua ghe ngo ‑ Um tuk ngua ). Các nghi lễ vòng đời có lễ cắt tóc
(đầy tháng), lễ giáp tuổi (12 tuổi), lễ đi tu cho nam giới, lễ cưới, lễ chúc
thọ và lễ tang với hình thức hỏa táng.
Bản sắc văn hóa và tri thức địa phương trong phát triển vùng Đông Nam Bộ
377
Người Hoa phần nhiều theo các tín ngưỡng dân gian và thờ cúng tổ
tiên. Hệ thống thần thánh của người Hoa rất phong phú và phức tạp.
Các thần thánh được cộng đồng thờ cúng gồm bà Thiên Hậu, Quan
Thánh Đế Quân, Quan Âm Bồ Tát, Phúc Đức Chánh thần, Khổng Tử
Trong đó, thánh nhân được thờ cúng nhiều hơn thần linh như Thiên
Hậu Thánh Mẫu, Quan Thánh Đế Quân, Phước Đức Chánh thần (ba vị
thần được tôn sùng nhất).
Người Chăm ở Đông Nam Bộ theo đạo Hồi (Islam), tôn thờ Thượng
đế Allah và lấy Kinh Qur’an làm kim chỉ nam cho hoạt động tín ngưỡng
của mình. Các lễ hội

truyền thống của người Chăm ở Đông Nam Bộ chủ
yếu là lễ hội tín ngưỡng ‑ tôn giáo: lễ Tolakbala vào ngày thứ Tư tuần
cuối tháng Safar (tháng 2 Hồi lịch) để cầu xin Thượng đế ban sự bình
an, lễ kỷ niệm ngày sinh của Đấng Muhammad vào ngày 12 tháng
Rabiul Awal (tháng 3 Hồi lịch), lễ Raya Iadil Fitrah vào ngày cuối cùng
của tháng chay nhịn Ramadan (tháng 9 Hồi lịch). Các nghi lễ vòng đời
gồm có lễ đặt tên, cắt tóc cho trẻ sơ sinh (cha kak buk), lễ thành niên
thực hiện tiểu phẫu (khotan) ở bộ phận sinh dục khi con trai và con gái
đến 15 tuổi, hôn lễ và tang lễ với hình thức địa táng.
Những đặc điểm văn hóa về cư trú, tổ chức làng xã, sinh hoạt sản
xuất, hay phong tục tập quán, tín ngưỡng, lễ hội dân gian… đã tạo nên
những giá trị văn hóa được lưu truyền qua nhiều thế hệ trở thành bản
sắc văn hóa cho cộng đồng cư dân ở vùng Đông Nam Bộ.
2. Đến tri thức địa phương
Bên cạnh những giá trị tiêu biểu hay còn gọi là bản sắc văn hóa thì
còn có hệ thống tri thức địa phương là những kiến thức, kinh nghiệm
được người dân địa phương trải nghiệm và học tập qua quá trình lao
động thực tế. Đó là sản phẩm văn hóa có giá trị thực tiễn vô cùng to lớn
của người địa phương.
Tri thức địa phương là sản phẩm văn hóa có giá trị tinh thần vô cùng
to lớn cho thế hệ mai sau. Tuy nhiên hiện nay, những giá trị ấy ngày
càng bị mai một và có nguy cơ mất đi khi nền kinh tế thị trường phát
triển. Cho nên việc lưu giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau là điều
cần thiết và quan trọng.
378
Nguyễn Thị Nguyệt
2.1. Tri thức về thiên nhiên và môi trường
Văn hóa của các dân tộc bản địa Chơro, Mạ, Stiêng, Cơho nổi lên
với các đặc trưng của các dân tộc có nguồn gốc nông nghiệp, sống gắn
bó rừng, còn lệ thuộc vào thiên nhiên, đời sống còn chưa cao. Kinh tế

nông nghiệp theo kiểu du canh du cư. Họ tôn sùng các hiện tượng
trong tự nhiên, các vật trong thiên nhiên thể hiện sự hòa nhập với thế
giới tự nhiên.
Khoảng ba năm dân trong làng (bòn) tổ chức lễ cúng thần rừng (lở
Yàng Bri). Họ góp gạo, rượu, gà, vịt… đem ra miếu lá dựng trên đường
đi vào rừng làm lễ cúng, mong Yàng Bri cho bà con những nguồn thực
phẩm từ rừng như: thú rừng, măng, dầu chai, mật ong…
Cây nêu trong lễ đâm trâu người Mạ tượng trưng cho cây hoa đẹp
nhất. Cây nêu được làm bằng cây muỗng là loại cây cao thẳng, sống lâu
năm, có nhiều hoa và trái (trái muỗng nhìn giống như trái bông gòn).
Cây muỗng không sử dụng để cất nhà chỉ dùng làm cây nêu.
Còn người Cơho thì có kinh nghiệm sử dụng cây bông lang làm cây
nêu trong lễ đâm trâu và mừng lúa mới.
Người Chơro có kinh nghiệm chọn cây vàng nghệ làm cây nêu vì
dẻo và thân thẳng, cao, không bị mối mọt.
2.2. Tri thức về quản lý xã hội và cộng đồng
‑ Người Việt ở các làng cổ Đồng Nai còn có tục lệ hết sức tiêu biểu
mang tính văn hóa cộng đồng, đó là “lễ lạy làng” trong đám cưới. Sau
khi đôi trai gái được hai gia đình đồng ý cho kết hôn, đám cưới phải
trình “lễ bát nhật” theo lệ làng. Ban Hội tề viết bố cáo tên tuổi của đôi
trai gái cũng như tên tuổi của cha mẹ hai bên và dán ở nhà Hội của làng.
Nếu trong 8 ngày không có ai phản đối hay tờ bố cáo không bị xé đi thì
cả hai gia đình mới được tổ chức lễ cưới cho đôi trẻ.
Ngày thành hôn cũng là ngày mà làng đứng ra chứng nhận và lập
giấy Hôn thú cho đôi hôn phối trước sự chứng kiến của mọi người. Sau
khi cô dâu chú rể lạy Cửu huyền Thất tổ, thì phải trình “lễ lạy làng”. Cô
dâu chú rể lạy tạ hai vị Hương cả và Hương hào để tỏ lòng cảm ơn
“làng” đã chứng giám và xác lập hôn thú cho họ. Ngày nay nghi thức
Bản sắc văn hóa và tri thức địa phương trong phát triển vùng Đông Nam Bộ
379

“lạy làng” được thay thế bằng nghi thức “lạy họ” mục đích để cám ơn
bà con, họ hàng đã dự lễ thành hôn của cô dâu chú rể. Sau lễ lạy làng là
lễ lạy ông bà, cha mẹ là những bề trên và là thân sinh ra cô dâu chú rể.
‑ Trước đây nếu một thành viên trong làng Việt cổ vi phạm lệ làng
thì bị làng phạt “đóng trăn” (bị nằm trên tấm ván, trói hai tay hai chân
căng ra bốn phía vào cây cột và bị nọc ra đánh phạt vạ).
‑ Tăm‑pớt là một loại hình văn hóa đặc sắc của đồng bào dân tộc Mạ,
phản ảnh rất nhiều lĩnh vực trong lịch sử cộng đồng tộc người như: Luật
tục, tập quán, truyền thống, cội nguồn dân tộc quan hệ dòng tộc, tình
yêu nam nữ… được thể hiện dưới dạng hát kể trong các dịp lễ hội, cưới
hỏi, làng có việc vui… bằng hình thức truyền khẩu.
2.3. Tri thức trong sinh hoạt sản xuất
‑ Từ tháng ba âm lịch, người Chơro, Mạ, Stiêng bắt đầu đốn cây rừng,
phát cỏ để làm rẫy. Nhiều bà con tin rằng, nếu dọn sạch rẫy xong trước
rằm tháng ba thì rẫy sẽ ít cỏ và được mùa. Sau những trận mưa giông
đầu mùa nửa cuối tháng ba âm lịch, họ bắt đầu gieo giống trỉa hạt. Theo
tập quán, bà con trỉa hạt rẫy cũ xong mới đến rẫy mới. Cách làm này có
cơ sở khoa học: rẫy mới tuy trỉa sau nhưng vì màu mỡ hơn nên cây trồng
vẫn phát triển kịp với cây trỉa trước. Trên mảnh đất rẫy, bà con trồng
nhiều loại cây như: bắp, đậu ván, đậu rồng, mướp… ở ngoài cùng; trồng
khoai mì bên trong và trong cùng (ở giữa) người ta trỉa lúa và mè xen
với bắp.
Ngày nay, nhiều bà con người Chơro, Mạ, Stiêng biết trồng lúa nước
và thành thạo kỹ thuật (chăm sóc lúa và bón phân) như người Việt.
Những nơi có sẵn nước, họ có thể làm hai vụ một năm (đông xuân và
hè thu). Ruộng lúa nước cho năng suất cao hơn hẳn lúa rẫy, năng suất
cao và ổn định, thâm canh tốt có thể đạt 4 tấn/vụ/ha.
‑ Các dân tộc bản địa miền Đông Nam Bộ thường tổ chức lễ cúng
Thần Lúa (Yang Va) vào khoảng tháng ba âm lịch sau khi mùa vụ cũ thu
hoạch đã xong và chuẩn bị cho một mùa vụ mới. Trước đây, hệ thống

nhà dài còn tồn tại thì lễ cúng Yang Va mang tính tập thể kéo dài khoảng
một tuần lễ. Nay từng hộ nhỏ lần lượt cúng ở mỗi ấp tuần tự kéo dài
trong suốt tháng ba âm lịch.
380
Nguyễn Thị Nguyệt
‑ Trước kia, vào mùa cấy gặt, chiếc tù và, tù ló còn được người nông
dân ở làng Việt cổ Đồng Nai sử dụng để thổi kêu thợ đi cấy, đi làm. Đây
là nét sinh hoạt văn hóa nông nghiệp đặc thù của nông thôn làng Việt ở
Nhơn Trạch (Đồng Nai) so với những nơi khác. Trong cấy gặt, thanh
niên nam nữ thôn quê còn có tục hò đối đáp giao lưu tình cảm với nhau.
‑ Dân tộc bản địa Stiêng hiện nay vẫn còn một số hộ giữ được phong
tục cầu mưa, thường thực hiện vào dịp thu hoạch mùa màng xong và
chuẩn bị cho mùa vụ gieo trỉa sắp tới.
‑ Vào những năm thời tiết không thuận lợi, người Tày và người
Nùng tổ chức làm Then để xin Thần Nông ban cho mưa nắng thuận hòa,
mùa màng thuận lợi, con người khỏi bị đói kém thất mùa, dịch bệnh…
Người ta tiến hành lễ Then trên một thửa ruộng khô bên bờ suối với các
nghi nghi lễ theo chu kỳ canh tác như: lễ xuống đồng, lễ gieo mạ, lễ lúa
lên đòng, lễ lúa chín, lễ mừng sân lúa, lễ hội mùa (mừng lúa tốt) và lễ
dâng gạo mới (còn gọi là lễ Tiến cốm).
2.4. Tri thức về phong tục, tập quán
‑ Nhà ở của các dân tộc bản địa là nhà sàn, sàn cao chừng 1,5m, dựng
theo hướng đông‑tây tránh mặt trời đi qua đòn dông nhà, hai cửa hông
có hai cầu thang bằng gỗ hoặc tre. Thang người đi ở bên trái, thang
chuồng gà (nhiier) ở bên phải. Nhà có trổ một số cửa sổ, cửa ra vào không
có cánh để đóng mở mà dựng như phên liếp. Khoảng giữa rộng rãi là
nơi ngồi chơi ăn cơm. Khoảng sàn phía đông được đắp một ô đất chống
cháy để làm bếp đun nấu. Nửa sàn nhà phía tây là sạp tre cao hơn sàn
một chút được trải chiếu, đệm làm nơi ngủ của gia đình. Phía trên nơi
ngủ là bàn thờ Nhang cúng nhang lúa.

Nhà ở tiêu biểu của các dân tộc bản địa Đông Nam Bộ là nhà sàn rất
thích hợp với hoàn cảnh của vùng rừng núi, tránh được thú dữ có thể
làm hại đến con người. Ngôi nhà dựng trên những cột trụ rất phù hợp
với môi trường ẩm ướt về mùa hạ. Tùy theo hoàn cảnh và tư duy từng
tộc người mà hình thức ngôi nhà dài ngắn khác nhau, hoặc lệ thuộc vào
số lượng người trong một gia đình mà ngôi nhà che chở.
‑ Người Việt còn có tục lệ đón mừng năm mới vào ngày mùng 1 tháng
giêng âm lịch (tết Nguyên Đán). Tết của người Việt có những lễ nghi và
Bản sắc văn hóa và tri thức địa phương trong phát triển vùng Đông Nam Bộ
381
tập quán dân gian như: “Mùng một Tết cha, mùng hai Tết mẹ, mùng ba
Tết thầy”… Sau giao thừa thì phải chọn người có vía tốt để xông nhà với
mong muốn gia đình sẽ được mọi điều may mắn, tốt lành trong năm mới
hoặc phải chọn giờ tốt để xuất hành thì cả năm mới gặp may ‑ “hên”.
Vào ngày Tết trên bàn thờ người Việt ở Đông Nam Bộ thường phải có
mâm ngũ quả gồm năm loại trái cây như: mãng cầu, sung, dừa, đu đủ
và xoài; theo đó với tên gọi của trái mà có ý nghĩa tương ứng “cầu sung
túc vừa đủ xài”… để mong làm ăn thuận lợi, phát đạt.
‑ Trong việc cúng lễ tổ tiên, người Việt còn có tục qui định vật cúng
nhất định cho từng dòng họ (còn gọi là cúng việc lề). Mục đích của những
qui định về vật cúng là làm cho dòng họ dễ nhận biết nhau. Hễ gặp vào
ngày, tháng, giờ cúng nhất định được truyền lại và với vật cúng nào đó
thì dù không biết nhau cũng có thể nhận ra người cùng dòng họ tổ tiên
với mình. Lễ cúng của người Việt ở Bến Gỗ‑ Long Thành thường có món
thịt kho tàu và khổ qua nhồi thịt, có lẽ ảnh hưởng từ văn hóa ẩm thực
của người Hoa. Đây cũng là biểu hiện của “cúng việc lề” ở vùng Đông
Nam Bộ.
‑ Ngay từ buổi đầu khai phá đất Đồng Nai, người Việt đã định cư
nơi những vùng kênh rạch ven sông hoặc cù lao như: Bàn Lân, Cù lao
Phố, Bến Gỗ, Bến Cá, Cù lao Rùa, Tân Triều, Cù lao Tân Chánh, rạch Lá

Buông (sau này mới đến Sài Gòn thuộc huyện Tân Bình) Có lẽ xuất
phát từ ý nghĩa quan trọng đó mà từ lâu người Việt ở vùng Đông Nam
Bộ đã tổ chức những dịp lễ hội đua ghe, đua thuyền trên sông – một nét
văn hoá sông nước được duy trì cho đến hiện nay.
‑ Người Stiêng ở Bình Phước, Đồng Nai còn giữ được món ăn truyền
thống (như cơm lam, rượu cần, canh bùi) biết đan gùi, rèn kim loại và
giao tiếp bằng tiếng Stiêng.
‑ Người Tày và người Nùng làm Then trong nghi lễ cúng giỗ, cầu
thọ, cầu an, giải hạn và chữa bệnh… Dựa vào mục đích, có thể chia Then
thành 7 loại gồm: Then cầu mùa, Then chữa bệnh, Then bói toán, Then
chúc tụng (làm nhà mới, cưới xin), Then cầu yên (cầu an), Then cầu tự
(cầu con cái), Then cấp sắc (còn gọi là Lẩu Then). Then thường được tổ
chức vào những thời tiết đẹp của mùa xuân và mùa thu. Đây là hai mùa
hoa thơm và cỏ lạ, mùa của trăng sáng, cũng là mùa ứng với hai quẻ
Thái (tháng giêng) và Bỉ (tháng bảy).
382
Nguyễn Thị Nguyệt
2.5. Tri thức về tín ngưỡng dân gian
‑ Các vị thần được các dân tộc bản địa thờ như: Yang Va (thần lúa),
Yang Bri (thần rừng), Yang Dal (thần suối), Yang Re (thần rẫy), Yang
Mơ (thần ruộng), Yang Nhi (thần nhà hay thổ công)… Một trong
những lễ cúng quan trọng của các dân tộc bản địa là lễ cúng Thần Lúa
(sa Yang Va) hay mừng Lúa mới đến nay vẫn còn bảo tồn nhiều nét
đặc sắc.
‑ Trong một vụ mùa, người Cơho còn tổ chức nhiều nghi lễ tương
ứng với chu kỳ sinh trưởng của cây lúa như: cúng lúa đang xanh tốt sắp
làm đòng để mong cho lúa chắc hạt, lúc lúa chín nửa bông cúng cho lúa
chín tương tự lễ cúng cơm mới, cầu mong thần linh ban cho mùa vụ
thuận lợi, mùa màng bội thu…
‑ Trong lễ cúng sa Yang Va của dân tộc Chơro bao giờ cũng có tục

chặt hai cây chuối con về giắt trên bàn thờ với ý nghĩa cho con cháu mát
mẻ, mau lớn, đông đúc.
2.6. Tri thức về y học cổ truyền
‑ Dân tộc Mường biết dùng cây rừng làm thuốc chữa bệnh sốt rét,
quai bị
‑ Dân tộc Thái biết chữa một vài bệnh như viêm cơ, thấp khớp, sỏi
thận, thương hàn, bệnh hậu sản bằng lá cây rừng.
‑ Hầu hết người Tày điều biết chữa bệnh bằng lá cây rừng như:
bướu cổ, bệnh gan
‑ Trong cộng đồng người Stiêng nhiều người biết chữa bệnh sốt
rét, rắn cắn bằng các loại lá cây rừng.
‑ Người Việt có các bài thuốc dân gian cổ truyền còn ở nhiều địa
phương như chữa rắn cắn, lên hạch, sốt rét
2.7. Tri thức về nghề thủ công truyền thống
‑ Người Chơro có kỹ thuật ủ men rượu cần từ 77 loại lá, vỏ, củ, quả
cây rừng có vị cay, thơm, đặc tính nóng. Muốn có loại men tương đối
hoàn chỉnh để ủ rượu ngon phải tập hợp đầy đủ các loại cây rừng như
sau: lá củ cây sốt rét, rễ cây sâm đất, rễ cây xương dỉ, ổ chim cu đất, vỏ
Bản sắc văn hóa và tri thức địa phương trong phát triển vùng Đông Nam Bộ
383
cây la‑don, dây lá cây chiều trơn, vỏ cây nhào, vỏ cây trai đồi, vỏ cây
trai nước, vỏ lá cây cùi đèn cái, cây chân vịt, cây chìa vôi, cây quai gùi,
vỏ dây kim‑cuôn, củ riềng rừng, củ chai nhí, dây xưng đừng, vỏ cây sắc,
cây bá bệnh, lá cây lòng mót, vỏ cây bời, vỏ cây chùm hum, dây trầm
hương, vỏ cây bù nâu, dây lá sanh, dây lá dằn, củ nghệ, lá vỏ cây bải
thưa, lá vỏ cây đỏ cọng, vỏ cây mai rừng, lá cây cơm rượu, cây chân rít,
củ cây tổ rồng cánh gà, dây lá dẻ trơn, dây lá dẻ lông, củ lá cây tổ rồng
bay, lá cây bông trang, lá vỏ cây lấu, cây mua, củ thiên niên kiện, rễ cây
sâm cao, vỏ lá cây nàng nàng, vỏ cây cà đuối, củ cây chuối chín, vỏ cây
dâu đất, dây xưng…; (lá cà ung và lá cây cùi đèn dùng để đậy ủ men).

Men ủ khoảng 10 ngày thì được. Men được đem phơi nắng cho khô dần,
có thể dành sử dụng trong vài năm.
‑ Người Kơho làm men ủ rượu cần sau đó treo men gác bếp lửa vì sợ
phơi nắng làm men không tốt.
‑ Người Mạ cũng có tri thức làm men ủ rượu cần và bọc men rượu
trong lớp vải để giữ hơi men.
‑ Người Mạ có kinh nghiệm từ việc trồng bông làm sợi, xe chỉ cho
đến việc lấy vỏ cây làm màu nhuộm sợi vải đều từ những loại cây trong
rừng. Những bí quyết về cách làm thuốc nhuộm cổ truyền cho sợi dệt
từ vỏ, lá cây rừng đều có trong truyện kể dân gian người Mạ. Một số
người Mạ lớn tuổi đều có kinh nghiệm truyền dạy lại nghề dệt thổ cẩm
truyền thống cho con cháu.
Nhìn chung, mỗi một dân tộc lại có những kho tàng tri thức dân gian
của riêng dân tộc mình. Trong tổng thể vùng, thì miền Đông Nam Bộ có
một kho tàng tri thức địa phương khá phong phú và đa dạng trên nhiều
mặt của đời sống xã hội. Trong đó, các tri thức về sản xuất phong phú
và nhiều hơn cả. Đối với các dân tộc ở Việt Nam, việc sản xuất chủ yếu
là trồng lúa, do đó những tri thức phong phú nhất cũng được hình thành
ở lĩnh vực này. Người Việt sống ở vùng đất thấp đã tích luỹ tất cả các tri
thức về nông nghiệp và thể hiện nó trong 4 khâu kỹ thuật “nước, phân,
cần, giống”…
Hệ thống tri thức của cộng đồng đóng một vai trò rất quan trọng,
nó đảm bảo sự ổn định và bền vững trong phát triển truyền thống
xã hội.
384
Nguyễn Thị Nguyệt
3. Phát triển vùng Đông Nam Bộ
Đông Nam Bộ là vùng kinh tế phát triển và năng động nhất nước ta,
phát triển theo chiều sâu với cơ cấu công ‑ nông nghiệp. Do có những
nguồn lực phát triển về vị trí địa lý rất thuận lợi như tiếp giáp với những

vùng giàu tài nguyên và thị trường tiêu thụ lớn, có quỹ đất phong phú;
có khoáng sản giá trị kinh tế cao; nguồn lợi hải sản phong phú. Cơ sở hạ
tầng được trang bị khá tốt: giao thông phát triển, hệ thống thủy lợi hiện
đại, nguồn lao động dồi dào và trình độ dân trí cao.
Đặc biệt trên các lĩnh vực như công nghiệp, tài chính, ngân hàng,
viễn thông, hàng không, thương mại, khoa học công nghệ, du lịch với
tốc độ tăng trưởng cao, các mặt văn hóa, xã hội phát triển vào loại tiêu
biểu của cả nước.
Trong phát triển công nghiệp, vùng Đông Nam Bộ luôn là khu vực
trọng điểm phát triển kinh tế ở phía Nam và của cả nước. Nơi đây tập
trung được nhiều nguồn lực lao động, phát triển cơ sở hạ tầng, quản lý
nhân sự, tiềm năng đầu tư…
Từ những đặc trưng về dân cư, tôn giáo, văn hóa, kết cấu kinh tế và
tổ chức xã hội, đặc biệt là bản sắc văn hóa và tri thức địa phương cho
thấy đây là tổng thể của những mối quan hệ xã hội và phát triển văn
hóa trong phát triển kinh tế ‑ xã hội địa phương. Nghiên cứu đặc tính
văn hóa và tri thức địa phương của cộng đồng cư dân nhằm hiểu rõ thực
trạng và tiềm năng của địa phương trong quá trình vận hành bước vào
thời kỳ công nghiệp hóa ‑ hiện đại hóa là việc làm cần thiết.
Kết hợp bản sắc văn hóa và tri thức địa phương trong phát triển vùng
Đông Nam Bộ xuất phát từ quyền lợi chung của các dân tộc là một vấn
đề rất quan trọng, có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong việc đề ra những
chính sách kinh tế – xã hội cho trước mắt và cho quy hoạch phát triển
vùng trong tương lai.
Bản sắc văn hóa dân tộc, tri thức địa phương vùng Đông Nam Bộ
cần được nghiên cứu, định vị, bảo tồn; cần có sự kết hợp ứng dụng trong
chiến lược phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trong tổng thể
nền kinh tế ‑ xã hội của đất nước trong quá trình thực hiện công nghiệp
hóa ‑ hiện đại hóa.
Bản sắc văn hóa và tri thức địa phương trong phát triển vùng Đông Nam Bộ

385
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] />=view&id=74&Itemid=70
[2] />=119&sX_Menu_selectedID=18B2EC6
[3] />=view&id=1238&Itemid=74
[4] />=details#ixzz0KLdyBVMB&C
[5] Ngo Duc Thinh, local knowledged and development,
.
[6] Nguyễn Thị Nguyệt (2008), Văn hóa‑ văn vật cư dân Đồng Nai, tài liệu tổng
hợp điền dã sưu tầm.
[7] Sở Văn hóa Thông tin Đồng Nai, Bảo tàng Đồng Nai (12/2007), Thông tin
Khoa học.
386
Nguyễn Thị Nguyệt

×