Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Bản sắc văn hóa và bảo tồn bản sắc văn hóa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.83 KB, 19 trang )

Bản sắc văn hóa và bảo tồn bản sắc văn hóa Việt Nam
Nếu như người Đức chính xác, kỉ luật, người Hoa thực dụng không
khéo, người Nhật đoàn kết trung thành, người Tây Ban Nha cuồng
nhiệt nghệ sĩ thì người Việt Nam là gì nhỉ? Người Việt Nam cần cù chịu
thương chịu khó hay một người Việt khôn lanh, trễ hẹn, vô tổ chức?
Tìm hiểu bản sắc văn hóa người Việt Nam đang ngày càng nhận được
nhiều sự chú ý hơn. Cụ thể là hàng loạt các công trình, luận án lớn nhỏ
lội ngược dòng tìm về bến nước cây đa, là bộ môn cơ sở văn hóa, chuyên
ngành văn hóa học, Việt Nam học được đưa vào chương trình giảng
dạy chính thống trên các giảng đường đại học, cao đẳng. Câu hỏi được
đặt ra là Việt Nam có bản sắc văn hóa hay không?
Văn hóa là cái gì còn lại khi tất cả những cái khác bị quên đi, là cái vẫn
thiếu khi người ta đã học tất cả - Edouard Herriot.
Nếu như văn minh là tìm cách hòa mình vào dòng chảy không ngừng của
nhịp độ phát triển đi lên với thế giới thì tìm về văn hóa lại là cú lội ngược
dòng vào trong tâm khảm để tìm lại những giá trị bền vững, truyền thống,
tinh hoa được kết tụ ngàn năm trong mỗi con người, mỗi dân tộc, mỗi quốc
gia. Không có một đất nước nào chỉ công nghiệp hóa, lãng quên vào việc giữ
gìn văn hóa mà có thể tồn tại cân đối và lâu dài. Và có lẽ, trên thế giới này,
chẳng một dân tộc nào chịu phải trả một cái giá quá đắt khi đánh rơi đi cái
tôi riêng, khuôn mặt riêng, cá tính riêng của họ. “Cái tôi văn hóa”, hay người
ta vẫn gọi là bản sắc văn hóa ấy , tiêu tốn không biết bao nhiêu giấy mực mà
vẫn còn là một dấu hỏi lớn.
“Bản” là cái cá thể, là cái riêng biệt, “sắc” là sắc thái, tính chất. Nếu hiểu
theo nghĩa triết tự nôm na, “bản sắc văn hóa” có thể hiểu là những đặc điểm
đặc sắc, tiêu biểu, mang tính bán thể của một của nền văn hóa nào đó.
Nhưng dường như một định nghĩa quá nôm na nhưng vậy không đủ để thỏa
mãn cho trí tuệ của con người. Cái khó hiểu trong định nghĩa “bản sắc văn
hóa” không nằm ở hai chữ “bản sắc” và nằm trong phạm trù “văn hóa”.

Về văn hóa, có định nghĩa tiếp cận từ góc độ lịch sử qua việc nhấn


mạnh các quá trình kế thừa xã hội, truyền thống và tính ổn định: “Văn hóa
chính là bản thân con người, cho dù là những người hoang dã nhất sống
trong một xã hội tiêu biểu cho một hệ thống phức hợp của tập quán, cách
ứng xử và quan điểm được bảo tồn theo truyền thống.” Một số định nghĩa
dựa vào chuẩn mực bằng cách nhấn mạnh đến các quan niệm về giá trị:
“Văn hóa là các giá trị vật chất và xã hội như các thiết chế, tập tục, phản ứng
cư xử, của một nhóm người”; hay các đặc điểm tâm lý qua việc nhấn mạnh
vào quá trình thích nghi với môi trường, quá trình học hỏi, hình thành thói
quen, lối ứng xử của con người: “Văn hoá là tổng thể những thích nghi của
con người với các điều kiện sinh sống của họ chính là văn hóa, hay văn
minh Những sự thích nghi này được bảo đảm bằng con đường kết hợp
những thủ thuật như biến đổi, chọn lọc và truyền đạt bằng kế thừa.” Chính vì
sự đa dạng, muôn vẻ của khái niệm “văn hoá”, tổ chức UNESCO (năm
2002) chỉ đưa ra một định nghĩa mang tính gợi ý rằng: “Văn hóa nên được
đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri
thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó
chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung
sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin.”
Mỗi định nghĩa lại cho chúng ta một khía cạnh của văn hóa,Giống như bao
phạm trù xã hội khác, thật khó để hình dung ra văn hóa là gì. Bản thân Cái
“văn”, cái “đẹp” vốn đã khó định hình khi mà tư duy thẩm mĩ phụ thuộc vào
mỗi người, mỗi thời đại, mỗi bước đi của lịch sử. Nếu như trước kia người
Việt Nam cho đàn ông búi tóc củ hành là đẹp tức là người xưa cho là văn
hóa, thì ngày này búi tóc củ hành không còn nữa, nếu còn thậm chí bị cho là
dị hợm. Nét văn hóa ấy đã thay đổi khi tâm lí còn người thay đổi (mà tâm lí
thì luôn thay đổi) thì liệu giá trị văn hóa ấy có còn là văn hóa nữa không?
Văn hóa ấy có được coi là bản sắc không khi vị quan tòa thời gian đang dần
dần xóa tên đi nếp quen cũ đó. Trong những định nghĩa về văn hóa, khi mà
yếu tố hệ thống, nhân sinh, lịch sử được đề cập một cách cụ thể và rõ ràng,
thì tính giá trị- một yếu đặc trưng tiên quyết- thì dường như không được trực

tiếp nêu lên. Nếu như văn hóa chỉ là hệ thống giá trị vật chất, tih thần, được
con người tích lũy trong quá trình lao động thì khái niệm văn hóa vẫn chưa
được phân tách rõ ràng giữa tiêu cực hay chỉ đơn thuần tích cực, văn hóa hay
còn có cả phi văn hóa.
Nếu như văn hóa là kết quả của một quá trình chọn lọc lâu dài của tự
nhiên và xã hội thì bản sắc văn hóa hơn tất cả là tinh hoa kết đọng cuối cùng
của quá trình chuyển mình không ngừng ấy. Nó là văn hóa được tinh chế lần
hai, do một cá nhân, một dân tộc chọn để làm bộ mặt,để tổn tại thông qua
lăng kính thẩm mĩ của riêng mình.
Trong cái mơ hồ về khái niệm, tôi bắt gặp niềm trăn trở của nhà giáo
Chu Văn Sơn:
“Tìm kiếm bản sắc dân tộc cũng giống như đi tìm hồn quê. Đó là cuộc
kiếm tìm nhiều khi thật vô vọng. Ít ai không cảm nhận được nó, thấy nó là
một hiện hữu, một hiện thực. Nhưng tới gần thì nó cứ như bóng trong
gương, trăng đáy nước, ảo ảnh trên sa mạc. Người tìm kiếm luôn phải đối
diện với những câu hỏi nát óc: bản sắc là đơn thể hay tổng thể? thuộc nội
dung hay hình thức? là thuộc tính hay phẩm chất? gồm cả tiêu cực hay chỉ
thuần tích cực? là di sản hay luôn là tài sản? bất biến hay hằng biến? đóng
hay mở? chỉ là kết tinh hay luôn là quá trình? là bệ phóng hay rào cản? chỉ
khư khư giữ lấy hay cần cả cải cách làm mới? v.v Dường như đó là vấn đề
luôn làm vô vọng mọi nỗ lực nắm bắt thì phải. Nó chỉ cho người ta đến gần,
chỉ tiệm cận chứ khó mà tiếp cận, khó mà chiếm lĩnh [ ]Tôi quan tâm nhiều
hơn đến câu hỏi về bản chất. Để trả lời câu hỏi bản sắc là gì, trước đây,
người ta thường nghiêng về tìm kiếm các đơn thể. Đến nay, việc chỉ ra một
số cái này hay cái kia, rồi bảo rằng đó là bản sắc của dân tộc không còn là
cách nhận diện tin cậy nữa rồi. Giữa cái và kiểu, xem ra bản sắc thật,
nghiêng về kiểu nhiều hơn. Người Việt mình tài hoa. Đúng rồi. Nhưng bảo
đó là bản sắc thì không đúng. Nói thế khác nào bảo người các dân tộc khác
không tài hoa, khác nào xem tài hoa là độc quyền của người Việt. May
chăng, có thể thấy dấu ấn nằm ở kiểu. Tài hoa kiểu này ra người Trung

Quốc, tài hoa kiểu kia ra người Khơmer, tài hoa kiểu nọ ra người Nhật Bản,
tài hoa kiểu khác ra người Việt Nam Vì thế, ở phần tích cực, phần ưu
điểm, bản sắc không chỉ nằm ở các giá trị, mà còn nằm ở cung cách tạo ra
các giá trị, lựa chọn các giá trị nữa.
Tôi nghĩ, vẫn về phần tích cực thôi, bản sắc nằm nhiều ở kiểu lựa chọn
những giá trị sống. Nói giá trị sống là nói giá trị tổng quát, có khả năng bao
trùm tất cả mọi khía cạnh của việc sống và sáng tạo đối với mỗi cá thể cũng
như đối với từng cộng đồng (nó không đơn thuần chỉ là 12 giá trị mà chương
trình giá trị cuộc sống của Liên hợp quốc chủ trương). Việc cá nhân hay
cộng đồng chọn loại giá trị này mà không chọn loại giá trị khác, xem trọng
loại giá trị này hơn loại giá trị khác, chính là một khía cạnh quan trọng của
bản sắc. Do đó, nếu xem bản sắc bao giờ cũng có phía kết tinh và phía biến
đổi, thì nội dung các giá trị là phần dễ biến đổi (động), còn kiểu lựa chọn các
giá trị khó biến đổi hơn (tĩnh). Có thể so sánh tương quan giữa giá trị và kiểu
lựa chọn các giá trị trong bản sắc văn hóa với tương quan giữa phần ngữ
pháp và từ vựng trong một ngôn ngữ. Ngữ pháp là phần tương đối ổn định,
từ vựng thì biến đổi không ngừng. Vì thế, có thể xem kiểu lựa chọn như là
một hạt nhân tương đối ổn định, giúp định dạng cho phía kết tinh của bản
sắc. Không có sự định dạng này, thì cũng không thể có cái gọi là bản sắc.”
Quả thật đến nay giới nghiên cứu vẫn cứ “tiệm cận” mãi với cái hồn của
bản sắc văn hóa. Chu Văn Sơn không chỉ đưa ra những câu hỏi chìa khóa để
gợi một cánh cửa mà một cách thật giản dị nhưng sâu sắc, ông đã đưa đến
một định nghĩa bản sắc văn hóa hoàn chỉnh. Theo ông, bản sắc văn hóa
không nằm ở đơn thể (những yếu tố đơn lẻ) mà nằm ở chỉnh thể: một kiểu
sống, một kiểu lựa chọn giá trị sống của mỗi dân tộc. Bản sắc văn hóa bao
trùm lên mọi lĩnh vực đời sống, bao gồm nội dung là các giá trị và biểu hiện
là sự lựa chọn các giá trị. Ông cũng khẳng định tính kết tinh và biến đổi của
bản sắc văn hóa như một thể mở, luôn chuyển mình, có sự giao lưu, đào thải
nhất định. Quan điểm của thầy Chu Văn Sơn quả thực rất đáng lưu ý vì nó
đã chú trọng nêu lên bản chất của tính bản sắc (bản chất khái quát , không đi

vào đơn thể)chứ không mượn chức năng hay cách thức tồn tại của bản sắc
văn hóa để định nghĩa cho một phạm trù. Có những “tấm gương” văn hóa
trở nên nổi bật, không phải vì họ sáng tạo một nền văn hóa độc nhất mà họ
đã sáng suốt và thành công lựa chọn cho mình một “kiểu” riêng để phát
triển. Nổi bật nhất là Nhật Bản. Rõ ràng họ chịu ảnh hưởng Trung Quốc,
nhưng lại tạo ra một hướng phát triển khắc hẳn. Thành tựu văn hoá của họ
đã hoá thân vào mọi lĩnh vực và vươn xa ra toàn cầu. Lâu nay, mọi sản phẩm
công nghiệp hiện đại của Nhật, ngoài chất lượng và bảo hành tuyệt hảo còn
có kiểu cách không lẫn vào đâu được: đẹp mà lại còn có dáng vẻ rất Nhật.
Văn hoá các nước Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Nga đều chịu ảnh hưởng của
văn hoá Hy Lạp - La Mã cổ đại, được nhuộm thêm màu Cơ đốc giáo. Thế rồi
mỗi nước tách ra một kiểu riêng, không hẳn biệt lập nhưng rất khó lẫn: Pháp
điệu đàng, mơ mộng đến mức dài dòng văn tự; Đức suy tư dằn vặt kiểu triết
học; Tây Ban Nha nồng nhiệt và khốc liệt; Nga có vẻ nặng nề, hơi thô nhưng
tình cảm đằm thắm, buồn da diết
Giống như văn hóa “Không văn hóa nào có thể tồn tại nếu nó tìm cách
trở nên độc tôn” thì bản sắc văn hóa cũng cần có sự giao lưu bồi tụ không
ngừng. Cái “bồi tụ” đáng nói về bản sắc là sự tích lũy kinh nghiệm văn hóa
của nước bạn để làm giàu vốn hiểu biết, vốn văn hóa của nước mình, cũng
như góp phần cho công cuộc văn minh hóa đất nước. Tôi từng biết 2 chuyện
nhỏ, chẳng vui gì, về bản sắc. Chuyện 1: để giao lưu văn hoá, hai nước
Bulgarie và Senegal cử đoàn văn công sang thăm nhau. Đoàn Senegal đi
trước, múa kiểu châu Phi rất bốc, được nhiệt liệt hoan nghênh. Chỉ có điều
sau đó, bộ trưởng văn hoá nước Bul gửi thư cho đồng cấp nước Senegal đề
nghị các nữ vũ công của nước này phải đeo nịt ngực cho hợp thuần phong
nước Bulgarie. Vị bộ trưởng văn hoá Senegal trả lời đồng ý với điều kiện:
sau đó, các nữ vũ công đoàn Bulgarie khi sang Senegal diễn cũng phải để
ngực trần cho hợp thuần phong nước Se. Tất nhiên, bộ trưởng nước Bul sợ
quá, phải rút lại lời đề nghị. Chuyện 2: tại một hội nghị về vấn đề Hội nhập
văn hoá toàn cầu có một ông hiệu trưởng trường nghệ thuật cấp tỉnh của

Pháp bảo rằng: “mai đây, khi văn hoá toàn cầu chung một mối thì chẳng cần
phân biệt đâu là Việt Nam, đâu là Pháp nữa”. Đó là mặt trái của toàn cầu
hóa. Hội nhập là tất yếu, từ xưa đến nay các nền văn hóa toàn cầu không
ngừng có sự giao thoa. Hội nhập là cơ hội để ta tiếp xúc với nhiều “giá trị”,
nhưng cũng là thư thách buộc ta phải lựa chọn để ta kiểm định “kiểu” lựa
chọn giá trị sống của mình. Sự giao lưu giữa các nền văn hóa là điều tất yếu
để thỏa mãn tính mở của bản sắc văn hóa.
Phải chăng nếu bản sắc văn hóa là nét riêng nét độc đáo thì sẽ là chủ
nghĩa dân tôc hẹp hòi khi đề cao văn hóa của mình mà làm lu mờ nét riêng
của người. Tức là anh đã đặt cho chúng ta câu hỏi “bản sắc văn hóa là cái gì
hay là những gì?”. Xét riêng trong lãnh thổ Việt Nam đã có tới 54 dân tộc
anh em cùng sinh sống, mỗi dân tộc lại mang một màu sắc, một dư vị riêng.
Chính bản sắc văn hóa làm nên số 54 không hề nhỏ và khó trộn lẫn đó,
nhưng cũng chính bản sắc văn hóa đã hòa cái nhiều thành cái duy cái: bản
sắc văn hóa Việt Nam. Bản sắc văn hóa là là nhiều nhưng tụ lại làm một, là
một nhưng là một chỉnh thể thống nhất của nhiều khía cạnh văn hóa khác
nhau. Nhà nghiên cứu Phan Ngọc trong tác phẩm “Văn hóa Việt Nam và các
cách tiếp cận mới) cũng đã cho rằng: “văn hóa là một quan hệ. Nó là mối
quan hệ giữa thế giới biểu tượng và thế giới thực tai. Quan hệ ấy biểu hiện
thành một kiểu lựa chọn riêng của một dân tộc người, một cái nhân so với
một tộc người khác, một cá nhân khác. […] Bản sắc văn hóa, do đó, không
phải là một vật mà là một kiểu quan hệ, kiểu quan hệ kết hợp, chắp nốt từ
nhiều góc độ rất khác nhau nhưng tạo nên một thể thống nhất hữu cơ kì
diệu”.
Nhiều người đồng ý với quan điểm “Bản sắc văn hóa” mang ý nghĩa chỉ
cái cốt lõi, chỉ những đặc trưng riêng của một cộng đồng văn hóa trong lịch
sử phát triển, tạo cơ sở cho sự phân biệt, nhận diện sự khác nhau giữa tộc
người này với tộc người khác, dân tộc này với dân tộc khác. Định nghĩa đã
đề cao bản sắc văn hóa tính nhận dạng văn hóa, phân biệt các loại hình văn
hóa khác nhau để thấy được nét riêng nét chung. Có ai đó đã thốt lên rằng

“thật là mỉa mai khi đi giữa London mà muốn chứng tỏ mình là người Việt
Nam”. Cái mỉa mai kia phải chăng là nhận dạng văn hóa? Hay người ta hay
nói với nhau rằng cứ nhìn cách xếp hàng là biết đó là người Việt Nam hay
không. Người ta dùng “văn hóa xếp hàng”, “văn hóa chửi thề”, “văn hóa đái
bậy” để nhận diện người Việt từ xưa đến nay, phải chăng những “văn hóa”
ấy là “bản sắc”? Thế quả thật người kia đúng khi thấy mỉa mai khi nhận
mình là người Việt giữa lòng thủ đô London phồn thịnh và văn minh nhường
ấy. Hai ý kiến trên lại thật sai lầm khi chỉ hiểu đến sự nhận dạng, phân biệt
mà quên đi yếu tố “cốt lõi”, yếu tố “văn hóa” để làm tiên đề cho sự nhận
dạng đó. Những đặc trưng cốt lỗi của một nền văn hóa được cho là dấu hiệu
phân biệt không giống như vết sẹo, nốt ruồi, màu mắt, kiểu tóc để phân biệt
con người với con người. Riêng trong khái niệm văn hóa đã có tính “giá trị”.
Nghĩa là những đặc trưng ấy phải hàm chứa một ý nghĩa nào đó. Bản sắc
văn hóa phải có chiều sâu. Nếu như đi giữa London, bạn muốn chứng minh
mình là người Việt Nam da vàng mũi tẹt thì đúng là mỉa mai, nhưng nếu như
cũng là giữa lòng thủ đô London bạn có thể mặc áo dài, nói một câu “xin
chào” bằng tiếng Việt, đó mới là bản sắc. Thật sai lầm khi lấy những yếu tố
phi văn hóa để phân biệt các nền văn hóa. Người ta hay nhìn vào những cái
xấu mà quên đi bên cạnh đó còn nhiều hơn nữa những mặt tốt đẹp của con
người. Ví dụ như khi ăn cơm chung một mâm, bạn có thể chỉ nhìn thấy
những sự chung đụng ở bát canh bát mắm là mất vệ sinh, nhưng lại không
thấy được sự hòa hợp âm dương trong từng món ăn, hay tính cộng đồng
quanh mâm cơm nhỏ bé ấy. Định nghĩa trên nói về sự phân biệt, nói đến tính
lịch sử nhưng lại chưa đề cập thật đầy đủ về tính giá trị của văn hóa và bản
sắc văn hóa. “Đặc trưng riêng” phải là đặc trưng có giá trị nhân văn bền
vững thì định nghĩa mới thực sự đầy đủ và bản sắc văn hóa mới mang đúng
ý nghĩa của nó.
Nói tóm lại, bản sắc văn hóa là một thể thống nhất các giá trị sống và cách
lựa chọn các giá trị sống dựa trên “tính cách, tâm lí của một dân tộc” (giáo
sư Hà Văn Tấn) hay cộng đồng người. Bản sắc văn hóa không chỉ giúp định

danh loại hình văn hóa, phân biệt cá nhân, dân tộc này với cá nhân dân tộc
khác mà còn tạo nên một định hướng sống mang tính dân tộc, lịch sử, tạo
nên những giá trị nhân văn bền vững, lâu dài. Bản sắc văn hóa chắc chắn
phải là một thành tựu. Đó là tổng thể các giá trị đặc trưng bản chất của văn
hóa dân tộc, được hình thành, tồn tại và phát triển suốt quá trình lịch sử lâu
dài của đất nước, các giá trị đặc trưng ấy ở "tầng nền" mang tính bền vững,
trường tồn, trừu tượng và tiềm ẩn. Do vậy, muốn nhận biết nó, phải thông
qua vô vàn các sắc thái văn hóa, với tư cách là sự biểu hiện của bản sắc văn
hóa ấy. Nếu bản sắc văn hóa là cái gì trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững, thì các
sắc thái biểu hiện của nó thường tương đối cụ thể, bộc lộ và khả biến hơn.
Từ quan niệm chung như vậy, chúng ta có thể xem xét các sắc thái văn hóa
vô cùng phong phú và đa dạng của bản sắc văn hóa Việt Nam.
Nếu như người Đức chính xác, kỉ luật, người Hoa thực dụng không khéo,
người Nhật đoàn kết trung thành, người Tây Ban Nha cuồng nhiệt nghệ sĩ thì
người Việt Nam là gì nhỉ? Người Việt Nam cần cù chịu thương chịu khó hay
một người Việt khôn lanh, trễ hẹn, vô tổ chức? Tìm hiểu bản sắc văn hóa
người Việt Nam đang ngày càng nhận được nhiều sự chú ý hơn. Cụ thể là
hàng loạt các công trình, luận án lớn nhỏ lội ngược dòng tìm về bến nước
cây đa, là bộ môn cơ sở văn hóa, chuyên ngành văn hóa học, Việt Nam
học được đưa vào chương trình giảng dạy chính thống trên các giảng đường
đại học, cao đẳng. Câu hỏi được đặt ra là Việt Nam có bản sắc văn hóa hay
không?
“Về văn hóa ta đã bắt chước người Tàu một cách mê mải và vô điều kiện.
Nếu văn hóa của ta còn khác văn hóa Tàu thì cũng chỉ vì ta bắt chước chưa
xong mà thôi. Văn hóa ta khác văn hóa Trung Hoa không phải ở chỗ ta thực
sự khác mà là ở chỗ ta chưa bằng. Sự khác biệt ở trình độ nhiều hơn ở bản
chất”
(Trích “Tìm lại cội nguồn và văn hóa của người Việt” – Hà Văn Thùy)
Nhiều người đánh giá Việt Nam không có bản sắc văn hóa, văn hóa Việt
Nam chỉ là một nhánh nhỏ của nền văn hóa Trung Hoa, điểm khác nhau là ở

trình độ. Thêm vào đó văn hóa Việt Nam không có tính ổn định bền vững
mà liên tục biến đổi. Trước những thay đổi của lịch sử, nền văn hóa Việt
Nam liên tục quay cuồng trong cơn biến đổi, không giữ vững bản sắc, trong
khi rất nhiều cái mới du nhập thì cũng là sự mai một không hề ít của yếu tố
truyền thống. Ví dụ khi cơn gió phương Tây tràn qua. Hãy cùng nhau xem
lại thời khắc mà văn minh phương Tây “đi tới chỗ sâu nhất trong hồn ta”
làm thay đổi nhiều điều mà nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã tổng kết
trong sách “Thi nhân Việt Nam”:“Chúng ta ở nhà tây, đội mũ tây, đi giày
tây, mặc áo tây. Chúng ta dùng đèn điện, đồng hồ, ô tô, xe lửa, xe đạp… còn
gì nữa! Nói làm sao cho xiết những điều thay đổi về vật chất phương Tây đã
đưa tới giữa chúng ta! Cho đến những nơi hang cùng ngõ hẻm, cuộc sống
cũng không còn giữ nguyên hình ngày trước. Nào dầu tây, diêm tây, nào vải
tây, chỉ tây, kim tây, đinh tây” (Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội,
1988, tr.10). Nhà phê bình đã không ngần ngại đánh giá rằng: “Những đồ
dùng kiểu mới ấy chính đã dẫn đường cho tư tưởng mới. Trong công cuộc
duy tân, ảnh hưởng của nó ít ra cũng ngang với ảnh hưởng những sách nghị
luận của hiền triết Âu Mỹ, cùng những sách cổ động của Khang, Lương”.
Yếu tố ngoại lai làm thay đổi văn hóa Việt nhiều đến mức nhà thơ Nguyễn
Bính đã từng thốt lên rằng:
Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa
Như hôm em đi lễ chùa
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh
Trước sự “hương đồng gió nội bay đi ít nhiều” cũng là câu hỏi lớn khi
tìm hiểu về bản sắc văn hóa Việt Nam, càng quan trọng hơn khi ngày càng
nhiều yếu tố phi văn hóa diễn ra. Có lẽ dải đất hình chữ S chỉ có những tầng
lớp văn hóa vay mượn trọn vẹn mà không có bản sắc riêng, lập trường riêng
của mình?
Trước hết phải khẳng định dân tộc Việt Nam có bản sắc văn hóa. Bằng
chứng là trải qua hàng nghìn năm lịch sử, trước bao nhiêu âm mưu đồng hóa
người Việt, đưa người Việt trở về thời kì đồ đá…đều không thành. Bước cản

trở đầu tiên mà quân thù gặp phải không chỉ là lòng tự tôn yêu nước, mà còn
là lòng tự tôn văn hóa. Có thể nói rằng, không một người Việt nào từng cắp
sách đến trường mà lại không biết đến những câu nổi tiếng trong “Bình Ngô
Đại cáo”:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập…
Nước ta là một nước văn hiến từ lâu. Một đất nước có cương vực, có văn
hóa, phong tục độc lập, khác biệt với nước láng giềng phương Bắc. Mặc dù
chúng ta đã từng dùng chung một thứ chữ vuông với họ nhưng văn chương
của chúng ta vẫn là văn chương của người dân Đại Việt, thấm đẫm tinh thần
dân tộc và bản sắc văn hóa của mình. Việc chế ra chữ Nôm, sáng tác văn học
bằng chữ Nôm (song song với chữ Hán) thể hiện tinh thần độc lập, chủ động
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Theo các công trình nghiên cứu
đã cho rằng văn hóa Việt Nam có nguồn gốc khu vực Đông Nam Á, hơn nữa
nhiều hình tượng trong văn hóa Trung Hoa có nguồn gốc vay mượn từ người
Việt. Văn hóa Trung Quốc giống như Ấn Độ, phương Tây chỉ là sự giao
thoa của các luồng văn hóa, khi gặp nhau ở Việt Nam đã bồi tụ phù sa,
nhưng chất đất bản địa ngàn năm vẫn không bị biến đổi. Đại tướng Võ
Nguyên Giáp nói với McNamara - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ. Đại
tướng hỏi: “Ông có biết vì sao nước Mỹ lại thua Việt Nam không?”.
McNamara không trả lời được. Đại tướng đã nói với ông ta rằng: “Các ông
thua là vì các ông đánh nhau với Việt Nam, nhưng không hiểu gì về văn hóa
người Việt”. Đó là lời khẳng định mạnh mẽ, đầy tự hào, cụ thể và tiêu biểu
cho sự tồn tại và sức mạnh vượt lên tất cả của bản sắc văn hóa Việt Nam.
Người Việt Nam cũng không thể nhầm với người Trung Quốc, người Lào,
Thái Lan,….là nhờ sự định hình rõ nét ở bản sắc văn hóa riêng biệt độc đáo.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổng kết: Bản sắc dân tộc Việt Nam bao gồm

những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam
được vun đắp nên qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó là
lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức
cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái,
khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao
động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống… Bản sắc văn hóa
dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc
đáo.”
Có rất nhiều quan điểm khác nhau, nhiều tác phẩm khác nhau nói về
nguồn gốc của bản sắc văn hóa Việt Nam. Tôi xin dẫn ra ý tưởng của TS
Trương Gia Bình, vừa là nhà khoa học vừa là nhà doanh nghiệp lớn. Ông
cho rằng: Bản sắc Văn hóa Việt Nam được quy định bởi môi trường sống
với các đặc điểm sau: Khu vực nhiệt đới nhiều sông nước,l à điểm giao của
nhiều nền văn minh., là một trong các trung tâm sớm của loài người. Bản sắc
không ngẫu nhiên mà hình thành, nó là kết quả tất yếu của mối quan hệ giữa
con người và môi trường, trước hết là môi trường tự nhiên- môi trường sơ
khai nhất.Xuất phát từ các đặc điểm địa lý và lịch sử trên, văn hóa Việt Nam
gắn liền với các đặc thù của mình. Xétvề vị trí địa lí, Việt Nam nằm ở góc
tận cùng phía Đông Nam mêm thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp điển
hình. Loại hình văn hóa gốc nông nghiệp biểu hiện ở văn hóa Việt Nam có
những đặc điểm điển hình như sau: Trong cách ứng xử với môi trường tự
nhiên, nghề trồng trọt lúa nước buộc người dân phải sống định cư để canh
tác, do đó có ý thức tôn trọng và ước vọng sống hòa bình với thiên nhiên. Do
như cầu sinh tồn phụ thuộc vào tưới tiêu nên về mặt nhận thức hình thành lối
tư duy tổng hợp, được đúng kết trong kho tàng ca dao tục ngữ vô cùng
phong phú đa dạng. Về mặt tổ chức cộng đồng, con người nông nghiệp ưa
soosnng theo nguên tóc trong tình, dẫm tới các biểu hiện trọng đức, trọng
văn,, trọng phụ nữ. Người Việt Nam có lối sống linh hoạt, luôn biến động
sao cho phù hợp với hoàn cảnh sống. Do sống định cư lâu dài, gắn bó với
nhau nên ý thức coi trọng cộng đồng luôn được dề cao. Tuy nhiên mặt trái

của lối sống linh hoạt là sự tùy tiện trong cuộc sống. Trong lối ứng xử với
môi trường xã hội, người Việt Nam có thai độ dung hợp tôn trọng tiếp nhận,
đối phó với những yếu tố ngoại lai luôn mềm mỏng hiếu hòa. Nói tóm lại,
xuất phát từ các đặc điểm địa lý và lịch sử trên, văn hóa Việt Nam gắn liền
với các đặc thù của mình:Nền nông nghiệp lúa nước, tính bản địa, tính giao
lưu.
Văn hóa Việt Nam có nền tảng là văn hóa Đông Nam Á cổ đại nhưng
liên tục bị tác động theo thời gian với sự tiếp xúc sâu sắc với các nền văn
hóa lớn trên thế giới. Nằm ở ngã ba của nền văn minh Trung Quốc, Ấn Độ
và phương Tây (sau này), tính giao lưu của văn hóa Việt Nam thể hiện trong
ngôn ngữ, văn tự (Hán Nôm), trong hệ thống chính trị, trong tôn giáo-nghệ
thuật Văn hóa Việt Nam luôn có sự tiếp nhận. Tuy nhiên tính đặc trưng cơ
bản nhất, quan trọng nhất là tính bản địa của nền văn hóa Việt Nam. Người
Việt Nam đã chứng minh khả năng Việt Nam hóa cao độ các nền văn hóa
ngoại lai. Với mỗi cuộc tiếp xúc văn hóa khác nhau, người Việt Nam luôn
tiếp thu một cách có chọn lọc và biến đổi đầy sáng tạo để biến cái của người
thành của riêng ta. Có thể lấy rất nhiều ví dụ để khẳng định bản lĩnh văn hóa
rất ấn tượng của ông cha ta. Ví như tư tưởng "trung quân" của Nho giáo: nếu
như người Hán hiểu là trung thành với một ông Vua cụ thể (cá nhân ) thì
người Việt gắn trung quân với ái quốc.Phật giáo vào Việt Nam được bản địa
hóa mạnh mẽ như thờ Phật, cúng Đức thánh Trần Hưng Đạo, Phật Mẫu
(người Việt Nam tôn đứa con gái nàng Man tương truyền sinh vào 8/4 được
xem là Phật Tổ Việt Nam).Tính bản địa hóa thể hiện trong khả năng tích hợp
Việt Nam như Đạo Cao đài, là sự tổng hợp hết thảy "vạn giáo" từ một gốc
(Thượng đế) dưới các thể hiện khác nhau như Khổng Tử, Lão Tử, Thích ca,
Giê su, Mohamet, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Victor Hugo, Tôn Dật Tiên Trong
kiến trúc, tính Việt Nam hóa thể hiện ngay trong khuôn khổ cứng nhắc nhất
của Thiên chúa giáo như nhà thờ Phát Diệm - xây nhà thờ theo cung cách
của Phật giáo.Tư tưởng quân sự của Tôn Tử Trung quốc là lấy sức mạnh
đánh yếu thì tư tưởng quân sự Việt Nam là lấy ít địch nhiều

Tóm lại, bản sắc Việt Nam được xây dựng trên sự truyền thống và sáng
tạo. Theo dòng chảy lịch sử, với một bản lĩnh văn hóa vững vàng và tài hoa
sáng tạo linh hoạt, bản sắc văn hóa dân tộc ngày càng thêm sâu sắc, giàu có,
không hề có những dấu hiệu lai căng. Bản sắc văn hóa theo một cách thật tự
nhiên, đã đi sâu vào nhận thức của con người, tạo nên bước đệm văn hóa,
làm định hướng cho tư tưởng, tiếp nhận của con người. Những biểu hiện của
bản sắc văn hóa Việt Nam có thể kể đến là:
a) Ngôn ngữ
Ngôn ngữ vừa là sản phẩn vừa là nhân tố câu thành nên văn hóa. Khi tiếp
xúc với một nền văn hóa, cái đầu tiên bạn bắt gặp trước hết đó hẳn là lời ăn
tiếng nói, chữ viết. Mỗi dân tộc có một dấu ấn ngôn ngữ khác nhau. Khi
người Trung Quốc xâm lược nước ta, bắt nước ta học tiếng Hán để nhằm
đồng hóa đồng bào ta cũng là lúc ra đời chữ Nôm- loại chữ riêng của người
Việt Nam thể hiện lập trường và ý chí cũng như trí tuệ của ông cha ta. Ngay
từ xa xưa, vai trò tiên quyết của ngôn ngữ đã được khẳng định. Đến khi chữ
La tinh du nhập, trên cơ sở bộ chữ La tinh , người Việt cũng sáng tạo nên
ngôn ngữ riêng của dân tộc. Đó là tiếng Việt mà ngày nay được sử dụng
làm ngôn ngữ toàn dân. Trên địa bàn Việt Nam có 54 dân tộc an hem cùng
sinh sống, mỗi dẫn tộc lại có một tiếng nói riêng, mang đậm bản sắc văn
hóa riêng. Tuy nhiên người Việt trên cơ sở dân số đã chọn tiếng Việt- tiếng
nói và chữ Viết của người Kinh (người Việt) là tiếng nói chung. Thông qua
ngôn ngữ (lời nói, chữ viết), nhiều nét bản sắc văn hóa với các giá trị đặc
trưng của văn hóa tộc người được bộc lộ, được bảo tồn và phát huy trong
các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên - xã hội và giữa con người với
nhau.
b). Tập quán - Tín ngưỡng - Nghi lễ
- Mỗi dân tộc, mỗi tộc người thường có các hệ thống tập quán, tín ngưỡng,
nghi lễ của riêng mình. Mức độ và trình độ nhận thức để cấu thành nên
thành tố văn hóa này gắn bó chặt chẽ với truyền thống văn hóa của chính
dân tộc đó. Thường nhận thấy một số loại sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng -

nghi lễ bộc lộ đặc trưng khác nhau giữa các tộc người, các dân tộc thiểu số:
+ Tập quán - tín ngưỡng thờ vật tổ, sùng bái tự nhiên.
+ Nghi lễ vòng đời người từ trước khi sinh ra đến sau khi mất đi.
+ Các đồ vật dùng cho nghi lễ và các hình thức tế lễ.
c). Luật tục, phong tục
- Là thiết chế văn hóa vô hình, là luật pháp riêng của cộng đồng nhằm thiết
lập và được mọi thành viên tuân theo. Ở mỗi dân tộc, mỗi tộc người, các
điều luật tục, phong tục cũng khác nhau, thể hiện quan niệm, quan điểm của
người dân trước việc quy định các sự việc, hiện tượng, điều khiển các hành
vi, hành động của từng cá nhân, phục vụ mục đích bảo vệ môi trường sinh
thái, bảo vệ và ổn định, phát triển đời sống xã hội và gìn giữ an ninh cộng
đồng.
- Thông qua luật tục, phong tục ta thấy bản sắc văn hóa của từng dân tộc
trong quá trình giáo dục nhân cách, đạo đức của con người theo những
chuẩn mực văn hóa nhất định do cộng đồng quy định.
d). Lễ hội
- Là trung tâm sinh hoạt văn hóa mang tính tổng hợp nhất và là nơi bộc lộ
rực rỡ nhất bản sắc văn hóa của một cộng đồng nhất định. Quy tụ tại đây
mọi loại hình tín ngưỡng, mọi sắc thái trang phục, sinh hoạt dân ca, trò chơi
dân gian, và các hình thái nghi lễ của tộc người, của dân tộc. Lễ hội là nơi
bảo lưu rõ nét nhất cho bản sắc văn hóa một dân tộc, một cộng đồng người
trong một không gian văn hóa nhất định.
e). Trang phục - trang sức
- Trang phục là nơi thể hiện ý thức thẩm mỹ, nhu cầu thẩm mỹ và là nơi gửi
gắm những nhận thức về thế giới tự nhiên và xã hội cũng như môi trường
sống nói chung thông qua các biểu tượng hoa văn, màu sắc, hình ảnh được
thêu trên áo, quần và các đồ trang sức khác nhau.
- Nhìn vào trang phục và cách trang sức ta có thể dễ nhận ra bản sắc văn
hóa của một tộc người, của một dân tộc.
f) Trò chơi dân gian

- Trò chơi dân gian trong đời sống, trong các hoạt động lễ tiết, lễ hội của
các dân tộc cũng thể hiện những bản sắc văn hóa riêng theo quan niệm và
sáng tạo của người dân, đáp ứng nhu cầu giải trí, giáo dục thể chất và
truyền dạy các tri thức về tự nhiên, xã hội hay gửi gắm những khuyên răn
về nhân cách, đạo đức của thế hệ trước với thế hệ sau.
- Trong số các trò chơi dân gian, bao giờ cũng có những trò chơi nhất định
được coi như “sáng tạo riêng” của một cộng đồng nhất định, được sản sinh
ra sao cho phù hợp với điều kiện sống và nhu cầu của chính cộng đồng đó.
g). Nhà cửa - kiến trúc
- Ngôi nhà chính là nơi/ tấm gương phản ánh truyền thống văn hóa của một
tộc người, một dân tộc. Sự hiện diện của cách kiến trúc và hình thức kiến
trúc từ một ngôi nhà cụ thể không chỉ nơi nghỉ ngơi, sinh hoạt, tránh mưa
nắng, mà còn thể hiện những tín ngưỡng, tập tục, những nhận thức về cách
ứng xử với môi trường tự nhiên và quan niệm về tín ngưỡng, tôn giáo. Đối
với các tộc người, dân tộc miền núi, bản sắc văn hóa từ sự hiện diện của
loại hình văn hóa vật thể này còn thể hiện rõ cả ở những khu nhà mồ, nhà
kho, nhà bếp…
h) Sinh hoạt văn hóa nghệ thuật trình diễn
- Mỗi dân tộc đều sáng tạo cho mình những thể loại dân ca với các làn điệu
độc đáo, tạo nên bản sắc riêng, phản ánh tâm tư, tình cảm và đời sống sinh
hoạt văn hóa cộng đồng. Các hình thức nghệ thuật cổ truyền, thể hiện các
thủ pháp nghệ thuật đa dạng, phong phú, in đậm lối tư duy, khiếu thẩm mỹ
của từng dân tộc. Các hệ thống nhạc cụ được người dân sáng tạo từ nguyên
vật liệu của vùng đất mình cư trú, góp phần tạo ra diện mạo của nghệ thuật
âm thanh và nghệ thuật trình diễn mang bản sắc độc đáo, đại diện cho bản
làng, vùng, miền, tạo ra những truyền thống âm nhạc dân tộc quý báu.
Những đề mục nêu trên tôi cho rằng đó là bản sắc văn hóa, nhưng là
cái vỏ vật chất, cái vỏ biểu hiện của bản sắc văn hóa. Bản sắc văn hóa còn
nằm sâu hơn thế. Nó nằm ở cách người Việt Nam hình thành và sáng tạo nên
lớp “vỏ bản sắc” kia. Hay nói cách khác, bản chất của bản sắc văn hóa nằm

ở yếu tố con người, nằm ở tính cách và thị hiếu của một dân tộc, một cộng
đồng người. Chính những yếu tố phi vật chất ấy mới là cách để con người
tồn tại văn hóa và đào thải những giá trị không phù hợp với văn hóa. Giữa
đời sống tinh thần của nhân dân ta, chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp một kho
tàng ca dao để nói cái tình, một kho tàng truyện ngụ ngôn để nói cái lí, một
kho tàng tục ngữ ca dao để nói cái tri thức… Yếu tố nội dung của chúng là
những đúc kết của nhân dân về nhiều khía cạnh tư tưởng và cũng trở thành
những “chân lí” hết sức đời thường, xuất phát từ cả lí trí lẫn trái tim, để giáo
dục, dẫn dắt bao thế hệ người Việt. Tôi cho rằng những tư tưởng, tình cảm
đó mới là sợi dây gắn kết lâu bền nhất của bản sắc văn hóa giữa các thế hệ
khác nhau, làm nên một bản sắc bền vững và lâu dài.
Nhiều người tỏ ra lo lắng cho bản sắc văn hóa Việt Nam trong thời kì
hội nhập và phát triển. Hội nhập là tất yếu của quá trình toàn cầu hóa. Nó
không chỉ đóng vai trò trong giao lưu kinh tế mà có tác động rất lớn tới các
nền văn hóa. “Một thế giới phẳng” cũng là khi những nền văn hóa có cơ hội
giao lưu, học hỏi lẫn nhau, tiếp cận nhau một cách trực tiếp và mạnh mẽ.
Đây cũng là thời điểm những thách thức về bản lĩnh văn hóa được nảy sinh,
ngày càng xuất hiện nhiều hơn nữa những quan ngại về đạo đức, lối sống, về
vấn đề giữ gìn và bảo tồn bản sắc văn hóa. Đặc biệt với Việt Nam trong thời
kì này, ở những bước quá độ ban đầu của quá trình toàn cầu hóa, dường như
những thay đổi chóng mặt về đời sống, kinh tế, quan hệ, những màu sắc mới
mẻ của thế giới làm cho ta, đặc biệt là giới trẻ, ngỡ ngàng và bối rối, quá hấp
dẫn để ham thích, quá nhanh để thích ứng, quá vội vã để hòa mình, quá đáng
tiếc để lãng quên. Văn hóa Việt Nam hiện tại đang đứng trước ba vấn đề lớn
đó là tác động xấu của yếu tố phi văn hóa, sự ảnh hưởng của các yếu tố
ngoại lai và sự mất dần đi các yếu tố truyền thống đang nổi lên trong dư
luận. Trước hết là yếu tố phi văn hóa. Đó là những “văn hóa” không đẹp của
rất nhiều người Việt khi ứng xử với môi trường tự nhiên và môi trường xã
hội. Cũng chẳng phải oan ức khi mà cứ nghĩ tới ngýời Việt Nam nhiều ngýời
cả tây cả ta ðề có những ðáp án ðại loại nhý kiểu: “vãn hóa” cao su, “vãn

hóa” xếp hàng, “vãn hóa” WC, “vãn hóa” giao thông, “văn hóa” chửi bậy,
văn hóa “hôi của”…để mà nói “thế là người Việt Nam”. Chẳng biết có một
quốc gia nào không khi mà một xe ô tô gặp tai nạn người dân hàng trăm
người không ai cứu giúp, hè nhau vào hôi bia, mỗi người một ít, mệnh ai lấy
vơ để người lái xe đứng van xin bất lực? Thậm chí những chuyện không hay
mắt như vậy xảy ra thường xuyên tới nỗi chúng ta thấy bình thường, bình
thường trước những cái bất thường thì thật đáng báo động. Đó là kết quả của
kiểu sống tùy tiện của người Việt được hình thành từ lâu, lại thêm yếu tố
cộng đồng tác động khiến các yếu tố tiêu cực càng diễn ra công khai hơn.
Thứ hai là yếu tố ngoại lai- những yếu tố bên ngoài tác động vào văn hóa
việt. Trong một bài phỏng vấn, giáo sư Phan Ngọc có đưa ra những dẫn
chứng rất sinh động: “Chúng ta có thể giỏi nhiều ngoại ngữ, điều đó rất quan
trọng. Tuy nhiên tiếng Việt đủ phong phú và đã đủ sức giảng dạy tại bậc Đại
học và sau Đại học. Không có lý gì một số bọn trẻ thích nói lẫn lộn tiếng
Việt và tiếng Anh trong đời sống cộng đồng. Ngôn ngữ tuổi teen có cái thú
vị riêng khi nhắn tin, nhưng tuyệt đối không thể lạm dụng trên ngôn ngữ
viết. Chẳng hạn Nhân dịp Năm mới mà viết là x dịp 5 mới thì thật không thể
chấp nhận được. Còn trong đời sống nhiều bạn trẻ đã làm hỏng ngôn ngữ ,
kiểu như Yết Kiêu vừa thôi (!), Tiền ăn bữa này Căm Pu Chia nhé(!)
Trong kiến trúc không nên đánh mất những Làng tôi xanh bóng tre để thay
vào đó những kiểu nhà có chóp , có mái lửng (chỉ nhô lên ở mặt tiền), chỉ
quét vôi phía trước và bất chấp mọi quy hoạch (cả ở đô thị và Thủ đô cũng
vậy). Việc thế hệ trẻ quay lưng lại với dân ca và nhạc cách mạng để chạy
theo lối âm nhạc "thời thượng" với lời ca vô nghĩa làm thế hệ lớn tuổi không
sao hiểu nổi”. Bên cạnh đó còn vô vàn các biểu hiện sính ngoại khác (fan
cuồng thần tượng, cuồng trai đẹp, cuồng văn hóa bạn…). Đó là vấn đề phần
nhiều ở giới trẻ. Nguyên nhân là do những thứ đó quá hấp dẫn hay ta không
có nền tảng văn hóa truyền thống để giữ vững cái “tôi” riêng, lòng tự trọng,
tự tôn riêng? Nếu như các biểu hiện thiếu tích cực của người việt có thể sửa
thì đến yếu tố thứ 3, khi yếu tố truyền thống mất đi, lấy gì để bù đắp lại?

Thực tế là văn hóa truyền thống đang mất dần chỗ đứng trong cuộc sống đời
thường. Tivi chiếu tới tuồng chèo là chuyển kênh, đi thăm di tích, thắng
cảnh thì đua nhau tạo dáng chụp ảnh… Các làng nghề truyền thống không
còn như xưa nữa. Làng tranh Đông Hồ xưa nổi tiếng là vậy mà nay chỉ còn
duy nhất gia đình hai nghệ nhân. Nhã nhạc cung đình Huế được UNESCO
công nhận di sản văn hóa thế giới mà ở Việt Nam ngoài mấy khánh nước
ngoài trả tiền xem thì cũng lẵng lẽ, chưa kể các loại hình văn hóa nghệ thuật
khác.
. Việt Nam có cái gọi là văn hóa làng xã rất hay. Cái thứ đã ngấm vào
máu và nuôi dưỡng hồn người.Sáng chủ nhật ở nhà, thức dậy và ra đầu ngõ
để được nghe những tiếng chào hỏi nhau, chẳng hiểu sao mà nghe thôi cũng
đủ thấy những cái đầu gật gù, những ánh mắt hấp háy. Người ta không chào
như là những người đi xa hay lâu lắm mới gặp, vẫn nồng hậu nhưng có lẽ
ngày nào người ta cũng chào nhau như vậy, như một cách nói "chào buổi
sáng" thông thường. Tiếng râm ran của chợ, tiếng xèo xèo, khói và mùi
thơm từ những bếp lan tỏa trong không gian, đã tạo nên cái vị rất đặc trưng
của những sáng chủ nhật an nhàn hiếm hoi trong tôi. Bước vào một hàng quà
sáng, ( cái thứ văn hóa ăn quà của người Việt thì lại là một thứ đáng bàn
khác ), đứng chờ cũng nhận được một nụ cười nồng hậu bên dưới một chòm
râu đã bạc : "Thôi thì mày đứng đấy chơi, xem ông bà bán hàng, đã được
mấy khi mày đến ". Có cái gì thân quen lạ, mà tôi nhận ra đó là mùi vị của
quê hương. Tôi thậm chí còn không có quá nhiều ấn tượng, chưa nói đến ký
ức và tình cảm dành cho những con người đó. Nhưng vì chúng tôi cùng sống
trên một mảnh đất - một mảnh đất vốn cũng lắm dị thường và không thiếu
những tang thương, nhưng hơn hết thì nó kéo tất thảy những con người ở
đây lại gần với nhau, bằng những truyền thống và những văn hóa lâu đời của
nó. Mà tôi thì sẽ buồn lắm nếu những thứ đó mất đi. Tôi cũng gọi những
điều mà sáng chủ nhật tôi cảm nhận được là văn hóa Việt, là bản sắc, là
những tình cảm vô hình khó gọi tên nhưng chắc chắn đã tồn tại ở đấy lâu
lắm rồi.

Chúng ta thờ ơ với chính văn hóa của mình quá. Chúng ta chạy theo
những thứ quá xa để rồi đánh mất những thứ thật gần. Với những người có
tuổi,bản sắc ở dạng bảo tồn. Còn ở những người trẻ, văn hóa vẫn nằm ở
khám phá, cái quan trọng là cách ta lựa chọn nó, giống như lựa chọn nó cho
đúng với thuần phong mĩ tục. Cũng không thể trách hoàn toàn giới trẻ khi
những giá trị tryền thống mất dần đi. Những thời đại khác nhau, những thị
hiếu khác nhau. Không thể bắt một 18 tuổi phải thích ca trù, hát văn giai
điệu kém hấp dẫn, ca từ cổ xưa xa cách quá trong khi có bao nhiêu dòng
nhạc hiện đại đến bên tai chỉ sau một lần ấn chuột. Hơn nữa việc giáo dục
tuyên truyền về văn hóa truyền thống chưa thực sự phát huy đúng mức. Văn
hóa là gần nhưng khi không được tiếp cận đúng hướng thì trở nên mơ hồ,
khó hiểu. Ví dụ như khi tìm hiểu về chầu văn, ta có thể tìm tài liệu về nguồn
gốc, thậm chí thị phạm buổi chầu nhưng những nghi lễ, ca từ trong đó thực
sự là khó hiểu. Nghĩa là việc đưa giới trẻ tới văn hóa bây giờ chỉ giống như
cưỡi ngựa xem hoa, chỉ thấy được cái bên ngoài chứ không hiểu bản chất
những thứ mình được bảo tồn, như thể xem cho có. Bản sắc văn hóa không
có sức hấp dẫn nữa cũng bởi một phần nó được bảo tồn không đúng cách.
Nhiều nét văn hóa xuất hiện xù xì, thô lệch, tưởng là bảo tồn văn hóa nhưng
được bảo tồn hết sức phi văn hóa.Thật là cười ra nước mắt khi chứng kiến
những lễ hội truyền thống thiêng liêng là vậy mà bây giờ xô bô bao nhiêu tệ
nạn. Đi xem múa rối chục lần vẫn là tích rồng phun nước phun lửa diễn cho
trẻ con xem, qua bao nhiêu năm không có gì đặc sắc. Hay là nghe hát quan
họ trong đám cưới khách sạn cũng vậy, thật là kệch cỡm quá mức. Nếu như
bảo tồn văn hóa xộc xệch như vậy có khác nào tiếp tay cho những yếu tố
ngoại lai đồng hóa, lai căng người Việt?
Vấn đề bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa đang được ưu tiên hàng đầu
ở nước ta. Đảng và nhà nước rất chú trọng các giải phảp căn bả để bảo tồn
giá trị văn hóa truyền thống:
- Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú,
đa dạng

Đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” đi vào
chiều sâu, thiết thực, hiệu quả; xây dựng nếp sống văn hoá trong các gia
đình, khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, làm cho các giá trị văn hoá
thấm sâu vào mọi mặt đời sống, được thể hiện cụ thể trong sinh hoạt, công
tác, quan hệ hằng ngày của cộng đồng và từng con người, tạo sức đề kháng
đối với các sản phẩm độc hại. Tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng
đạo đức, lối sống có văn hóa; xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới,
tang, lễ hội; ngăn chặn và đẩy lùi các hủ tục, bạo lực, gây rối trật tự công
cộng, mại dâm, ma tuý, cờ bạc Sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng
gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống
của văn hoá, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Đúc kết
và xây dựng hệ giá trị chung của người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ thống thiết chế văn hoá ở các
cấp, đồng thời có kế hoạch cải tạo, nâng cấp và đầu tư xây dựng mới một số
công trình văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao hiện đại ở các trung tâm
kinh tế - chính trị - văn hoá của đất nước. Xã hội hoá các hoạt động văn hoá,
chú trọng nâng cao đời sống văn hoá ở nông thôn, vùng khó khăn, thu hẹp
dần khoảng cách hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, các nhóm xã hội, giữa
đô thị và nông thôn.
- Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các
di sản văn hoá truyền thống, cách mạng
Tiếp tục phát triển nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, giàu chất nhân văn, dân chủ, vươn lên hiện đại, phản ánh
chân thật, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước;
cổ vũ, khẳng định cái đúng, cái đẹp, đồng thời lên án cái xấu, cái ác. Khuyến
khích tìm tòi, thể nghiệm những phương thức thể hiện và phong cách nghệ
thuật mới, đáp ứng nhu cầu tinh thần lành mạnh, đa dạng và bồi dưỡng lý
tưởng, thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ. Bảo vệ sự
trong sáng của tiếng Việt. Khắc phục yếu kém, nâng cao tính khoa học, sức

thuyết phục của hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, góp phần
hướng dẫn sự phát triển của sáng tạo văn học, nghệ thuật, từng bước xây
dựng hệ thống lý luận văn nghệ Việt Nam.
Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về sở
hữu trí tuệ, về bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá vật thể và phi vật
thể của dân tộc. Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn hoá, văn nghệ, bảo
tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá với phát triển du lịch và hoạt động
thông tin đối ngoại nhằm truyền bá sâu rộng các giá trị văn hoá trong công
chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ và người nước ngoài. Xây dựng và thực hiện các
chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá, ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc
thiểu số. Xây dựng và thực hiện các chính sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng,
chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện để đội ngũ những người
hoạt động văn hoá, văn học, nghệ thuật sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị
cao về tư tưởng và nghệ thuật.
- Phát triển hệ thống thông tin đại chúng
Chú trọng nâng cao tính tư tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng thông
tin, giáo dục, tổ chức và phản biện xã hội của các phương tiện thông tin đại
chúng vì lợi ích của nhân dân và đất nước; khắc phục xu hướng thương mại
hoá, xa rời tôn chỉ, mục đích trong hoạt động báo chí, xuất bản. Tập trung
đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ hoạt động báo chí, xuất bản vững vàng
về chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ và có năng lực đáp ứng tốt yêu cầu của thời
kỳ mới. Rà soát, sắp xếp hợp lý mạng lưới báo chí, xuất bản trong cả nước
theo hướng tăng cường hiệu quả hoạt động, đồng thời đổi mới mô hình, cơ
cấu tổ chức, cơ sở vật chất - kỹ thuật theo hướng hiện đại.
Phát triển và mở rộng việc sử dụng internet, đồng thời có biện pháp quản lý,
hạn chế mặt tiêu cực, ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động lợi dụng internet
để truyền bá tư tưởng phản động, lối sống không lành mạnh.
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hoá
Đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hoá, văn học, nghệ
thuật, đất nước, con người Việt Nam với thế giới. Mở rộng, nâng cao chất

lượng, hiệu quả hoạt động thông tin đối ngoại, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
văn hoá, báo chí, xuất bản. Xây dựng một số trung tâm văn hoá Việt Nam ở
nước ngoài và trung tâm dịch thuật, quảng bá văn hoá Việt Nam ra nước
ngoài.
Tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hoá của các nước, giới
thiệu các tác phẩm văn học, nghệ thuật đặc sắc của nước ngoài với công
chúng Việt Nam. Thực hiện đầy đủ cam kết quốc tế về bảo đảm quyền sở
hữu trí tuệ, quyền tác giả các sản phẩm văn hoá. Xây dựng cơ chế, chế tài
ngăn chặn, đẩy lùi, vô hiệu hoá sự xâm nhập và tác hại của các sản phẩm đồi
trụy, phản động; bồi dưỡng và nâng cao sức đề kháng của công chúng, nhất
là thế hệ trẻ.
Đó là những biện pháp tổng quan nhất để dần thay đổi và gìn giữ bộ mặt
của đất nước. Đối với cá nhân tôi, khi đã xác định những hạn chế của văn
hóa trong thời kì này, cần cố những biện pháp cụ thể hơn, hấp dẫn hơn nữa
để đưa văn hóa Việt Nam sống dậy giữa đời sống và giữa tâm hồn con
người. Trước hết để xây dựng một dân tộc văn hóa, phải hạn chế và loại bỏ
những yếu tố phi văn hóa ra khỏi xã hội. Các vấn đề xã hội nêu trên rất khó
giải quyết trong một sớm một chiều do đã ăn sâu vào trong thói quen của
nhiều người nên cần có thời gian khắc phục. Ta có thể dùng nhiều biện pháp,
từ tuyên truyền, truyền thông, cho đến những xử phạt pháp lí, coi những
hành vi phi văn hóa cũng là phi pháp luật để có những chế tài nghiêm minh
nhất. Vấn đề quan trọng hơn cả trong giữ gìn bản sắc văn hóa đó là giữ lại
những nét văn hóa truyền thống của nó. Theo tôi, để những yếu tố văn hóa
tồn tại lâu dàu phải gồm hai yếu tố truyền thống và tạo mới. Truyền là trao
lại, thống là tiếp nhận, thế hệ sau kế thừa chọn vẹn tinh hoa của thế hệ trước.
Muốn vậy trước hết tinh hoa phải là tinh hoa. Phải giữ gìn văn hóa theo thể
sống của nó, tức là theo hình thức diễn ngôn mà nó được nhắm tới, loại bỏ
những tạp tố của đời sống thị trường mới ra khỏi sân khấu văn hóa dân gian,
đưa người xem tiếp cận gần hơn nữa với bản chất của văn hóa truyền thống.
Thứ hai là cải tạo, tức là chỉnh sửa để phù hơp hơn với thời đại. Song song

với việc giữ gìn nguyên trạng lớp sơn son thiếc bạc mà bụi thời gian giàu giá
trị của văn hóa, ta cũng cần có những sáng tạo để văn hóa truyền thống hấp
dẫn hơn, đặc biệt là với giới trẻ. Giống như nghệ thuật tò he, trước đây chỉ
có hình hoa, hình con giống, bây giờ có nhiều hình hoạt hình hơn cho mọi
người lựa chọn. Vẫn màu đất nặn quen thuộc, vẫn đôi bàn tay nghệ nhân
quen thuộc nhưng mỗi con tò he sinh ra sống với thời đại mới của nó. Hay
như các làn điệu truyền thống, khi người ta đã biết thể sống của nó, sao lại
không thể tiếp nhận văn hóa với một cách thức phối khí khác? Tôi thấy ấn
tượng với một “lí ngựa ô” rock, một “bèo dạt mây trôi” ballat nhẹ nhàng,
nghệ thuật múa dân gian đương đại uyển chuyển hơn…. Ta vẫn tiếp cận với
văn hóa dân tộc, nhưng theo một góc độ mới. Để có thể tồn tại, bản sắc dân
tộc không chỉ phải giữ trọn vẹn thể sống của nó mà còn có thể song song
thổi hồn thời đại mới, tạo nên trước hết là tính hấp dẫn cho bản sắc văn hóa.
Bản sắc văn hóa Việt Nam càng đi sâu càng thấy thú vị, nhưng nếu chỉ đứng
ngoài nhìn thì có khi chỉ thấy một nền nông nghiệp lúa nước lạc hậu. Việc
giáo dục văn hóa là rất quan trọng. Giáo dục văn hóa chỉ bắt đầu ở bậc đại
học là chưa đủ, ta cần cho các em tiếp cận ở những cấp học thấp hơn để có
thể tìm hiểu sớm và sâu sắc hơn văn hóa. Giáo dục trên sách vở cũng là chưa
đủ, việc giáo dục văn hóa phải gắn liền với sân khấu diễn xướng và đời sống
hằng ngày để thể hiện trọn vẹn, sinh động hơn những giá trị của bản sắc Việt
Nam.

×