Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Các kết quả nghiên cứu xói lở và bồi tụ vùng cửa sông ven biển Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.11 KB, 15 trang )

Phạm Huy Tiến, Trần Đức Thạnh, Bùi Hồng Long, Nguyễn Văn Cư, 2002. Các kết quả nghiên cứu xói lở và
bồi tụ vùng cửa sông ven biển Việt Nam. Khoa học và Công nghệ biển. Tập 2, số 4. Trang 12 – 26.
CÁC KẾT QUẢ CHÍNH NGHIÊN CỨU XÓI LỞ, BỒI TỤ VÙNG
CỬA SÔNG VEN BIỂN VIỆT NAM
Phạm Huy Tiến (1), Trần Đức Thạnh (2), Bùi Hồng Long (3), Nguyễn Văn Cư (4)
1- Trung Tâm Khoa học Tự nhiên và Cồng nghệ Quốc gia
2- Phân Viện Hải dương học tại Hải phòng
3- Viện Hải Dương học Nha Trang
4- Viện Địa lí
Mở đầu
Bờ biển Việt Nam trải dài trên 3200 km với 114 cửa sông lớn nhỏ. Dải bờ biển là nơi
tập trung dân cư, mật độ dân số cao nhất nước, chỉ riêng các huyện ven biển đã chiếm 24%
trong dân số 77 triệu người của cả nước và có nhiều cơ sở kinh tế quan trọng. Xói lở và bồi
tụ là hai xu thế tự nhiên cơ bản của qúa trình trầm tích ở dải bờ biển. Tuy nhiên, hiện nay ở
không ít nơi, thiên tai bồi tụ, xói lở trở thành mối lo sâu sắc của các cấp chính quyền, nhân
dân địa phương và của nhiều công trình, cơ sở kinh tế. Xói lở bờ biển có xu hướng tăng lên
gần đây trên qui mô toàn cầu. Những năm qua, xói lở bờ biển ở cả ba miền Bắc Bộ, Trung
Bộ và Nam Bộ, diễn biến hết sức phức tạp và gây thiệt hại nặng nề về sinh mạng, tài sản, để
lại những hậu quả lâu dài về kinh tế - xã hội, môi trường sinh thái. Về cơ bản, bồi tụ mang
lại những vùng đất bồi quý giá ở dải ven biển, có gía trị mở rộng đất sinh cư, phát triển
nhiều lĩnh vực kinh tế quan trọng. Nhưng ở nhiều nơi, bồi tụ cũng trở thành tai biến gây thiệt
hại nghiêm trong cho phát triển kinh tế, đặc biệt là giao thông-cảng. Sa bồi cửa sông, cửa
biển còn góp phần gây ngập lụt, ngọt hoá gây thiệt hại về dân sinh, kinh tế và ô nhiễm môi
trường.
Sự tập trung dân số và nhịp độ, qui mô phát triển kinh tế - xã hội dải ven biển đang
tăng mạnh, cần được đảm bảo phát triển bền vững. Vì vậy, bảo vệ bờ biển và phòng chống
xói lở, bồi tụ trở thành một đòi hỏi cấp bách. Nhiều năm qua, nghiên cứu phòng chống xói
lở, bồi tụ cửa sông và bờ biển đã được nhiều cơ quan như Viện Khoa học Kỹ thuật Thủy lợi,
Viện Hải Dương Học Nha Trang, Phân viện Hải dương học tại Hải Phòng, Viện Địa lý, Viện
Cơ học v.v. thực hiện thông qua các đề tài thuộc Chương trình Biển, các đề tài, dự án độc
lập cấp nhà nước, cấp ngành hoặc các đề tài do địa phương quản lý. Mặc dù điều kiện điều


tra khảo sát hạn chế, và kinh phí đầu tư hạn hẹp, những kết quả nghiên cứu đạt được đã cho
những hiểu biết cơ bản và tạo dựng cơ sở khoa học quan trọng giúp cho định hướng nghiên
cứu tiếp theo và đề xuất các giải pháp phòng chống xói lở, bồi tụ cửa sông ven biển Việt
Nam. Dựa vào những nghiên cứu đã thực hiện, đặc biệt của nhóm dự án độc lập cấp nhà
nước "Nghiên cứu, dự báo phòng chống xói lở bờ biển" thực hiện vào các năm 1999-2001,
bài viết này trình bày các kết quả chính nghiên cứu xói lở, bồi tụ vùng cửa sông ven biển
Việt Nam.
1. Hiện trạng xói lở và bồi tụ
1.1. Hiện trạng xói lở
1
Tình hình xói lở dọc bờ biển
Xói lở bờ biển là một hiện tượng phổ biến ở ven bờ cả ba miền. Tổng các đoạn bờ
Xói lở thống kê được là 397 với tổng chiều dài 920,21km. Trong đó, Xói lở có cường độ yếu
chiếm 196,82km (21,4%), trung bình 179,90km (19,5%), mạnh 260,67km (28,3%) và rất
mạnh 282,81km (30,7%). Chiều dài các đoạn Xói lở có thể chỉ một vài trăm mét, cho thể
hàng chục kilomet. Tốc độ Xói lở trung bình phổ biến 5-10m/năm, nhưng có thể đạt tới 50-
100m/năm, thậm chí 200-250m/năm trong các thời khoảng ngắn. Có những khu vực Xói lở
qui mô lớn kéo dài cỡ thế kỷ, gần thế kỷ. Có những điểm Xói lở xảy ra bất thường gần đây
với tốc độ cực lớn. Có những khu vực, Xói lở xảy ra theo những thời khoảng xen kẽ với bồi
tụ. Tuy nhiên, có thể khảng định rằng cường độ và tính bất thường xói lở bờ biển tăng lên rõ
ràng gần đây và thiệt hại do xói lở gây ra rất lớn.
Xói lở bờ biển Bắc Bộ được xác định trên 51 đoạn với tổng chiều dài 113.930m,
chiếm 34,2% chiều dài đường bờ cơ bản, tốc độ trung bình 6.0 m/năm và hàng năm bị mất
68 ha đất. Cường độ xói lở được phân thành 4 cấp, yếu (0 - 2,5 m/năm) chiếm 22,40%; trung
bình (2,5 - 5 m/năm) 34,2%; mạnh (5 - 10 m/năm) 16,6% và rất mạnh (≥ 10 m/năm) chiếm
26,8% tổng chiều dài xói lở. Xói lở bờ trên qui mô lớn, diễn biến phức tạp với nhiều đoạn
bờ có cường độ xói lở mạnh và rất mạnh và tiếp tục tăng theo thời gian. Từ Móng Cái đến
Đồ Sơn, xói lở qui mô lớn, lâu dài, chủ yếu cường độ trung bình và yếu. Từ Đồ Sơn đến Ba
Lạt, xói lở trước đây rất mạnh, gần đây suy giảm; từ Ba Lạt đến Lạch Trường, xói lở đặc biệt
mạnh và ngày càng tăng ở Hải Hậu và Hậu Lộc. Một số điểm xói lở mới xuất hiện, qui mô

nhỏ, nhưng cường độ mạnh và rất mạnh, mặc dù gần đây ít bão. Xói lở bờ biển Cát Hải (Hải
Phòng) chiều dài 6,4 km, Hải Hậu (Nam Định) chiều dài 17,2 km và Hậu Lộc (Thanh Hóa)
dài 5,0 km là những trọng điểm ở ven biển Bắc Bộ, có qui mô lớn, cường độ mạnh và rất
mạnh, diễn biến lâu dài và có xu hướng tiếp tục tăng (T.Đ. Thạnh và Nnk, 2001).
Xói lở bờ biển Trung Bộ từ Thanh Hóa (Cửa Lạch Trường) đến Ninh Thuận (Sơn
Hải, Ninh Phước) được xác định trên 275 đoạn với tổng chiều dài 328,16 km, chiếm 21,1%
chiều dài đường bờ cơ bản, tốc độ phổ biến dưới 5 m/năm, nhưng ngày càng gia tăng.
Nhiều nơi, xói lở mới gần đây (1999 và 2000), nhưng tốc độ lớn 40-60m/năm, thậm chí 150-
250m/năm. Cường độ xói lở đạt được chia thành 4 cấp: yếu (< 5 m/năm) chiếm 52,2%; trung
bình (5 - 15 m/năm) chiếm 24,3%; mạnh (15 - 30 m/năm) chiếm 10,0% và rất mạnh (> 30
m/năm) chiếm 13,5% tổng chiều dài xói lở. Mỗi năm, xói lở làm bờ biển mất đi 389,9 ha. Từ
cửa Lạch Trường dến mũi Chân Mây, xói lở qui mô lớn và rất lớn, cường độ yếu và trung
bình. Khu vực Cửa Lạch Trường - mũi Ròn có qui mô xói lở lớn, cường độ yếu và trung
bình. Khu vực mũi Ròn - mũi Chân Mây có qui mô xói lở lớn và rất lớn, cường độ xói lở
yếu, cục bộ có nơi rất mạnh và tăng trong thời gian gần đây. Từ mũi Chân Mây đến mũi
Dinh, xói lở có qui mô lớn và trung bình, cường độ xói lở tập trung ở 3 mức yếu, trung bình
và rất mạnh. Khu vực mũi Chân Mây - mũi Nam Trâm có qui mô xói lở lớn, cường độ xói lở
yếu và rất mạnh. Khu vực mũi Nam Trâm - mũi Dinh có qui mô xói lở lớn và trung bình,
cường độ tập trung ở 3 mức yếu rất mạnh và trung bình. xói lở bờ Trung Bộ mạnh và rất
mạnh diễn ra ở kiểu bờ lồi, thẳng hướng sóng gió và vật chất tạo bờ chủ yếu là cát. Xói lở bờ
biển giảm đi nhờ các biện pháp chống khác nhau (P.H. Tiến và Nnk, 2001).
Xói lở bờ biển Nam Trung Bộ và Nam Bộ từ Sơn Hải (Ninh Thuận) đến Hà Tiên
(Kiên Giang) có 71 đoạn, tổng chiều dài 478.120m, (52% chiều dài đường bờ cơ bản), tốc độ
trên 2,5 m/năm và diện tích tới 15.738 ha. Cường độ xói lở được phân thành 3 cấp: trung
bình (2,5 - 5 m/năm) chiếm 12,8%; mạnh (5 - 10 m/năm) chiếm 43,7% và rất mạnh (≥ 10
m/năm) chiếm 43,5% tổng chiều dài xói lở. Từ Sơn Hải đến Vũng Tàu xói lở diễn biến lâu
dài, qui mô không lớn, cường độ mạnh, đoạn Phước Thể, Liên Hương, cửa sông Phan Rí, xói
2
lở rất mạnh và có xu hướng gia tăng trong thời gian gần đây. Từ Vũng Tàu đến Cà Mau, qui
mô, độ dài và cường độ xói lở rất lớn, diễn biến lâu dài, phức tạp. Trong đó, Khu vực Vũng

Tàu - Cửa Soài Rạp có độ dài xói lở không lớn, cường độ rất mạnh và rất nguy hiểm do ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động cảng - giao thông biển, du lịch; Khu vực Cửa Soài Rạp - Cửa
Tranh Đề có độ dài xói lở lớn, cường độ mạnh và nguy hiểm do nhiều đoạn xói lở mạnh tập
trung đông dân cư; Khu vực Cửa Tranh Đề - Mũi Cà Mau có độ dài ói lở rất lớn, thời gian
xói lở lâu dài, cường độ xói lở rất mạnh. Từ Cà Mau đến Hà Tiên, qui mô, độ dài xói lở
không lớn, cường độ trung bình cao và không nguy hiểm (B.H.Long và Nnk, 2001).
Đặc điểm xói lở trên các địa hệ ven bờ
Xói lở xuất hiện ở tất cả các kiểu hệ thống cửa sông ven biển. Tại hai vùng cửa sông
châu thổ lớn, nổi tiếng về bồi tụ, xói lở cũng xẩy ra trên một phần năm đến một phần tư
chiều dài bờ mỗi châu thổ với cường độ kớn và rất lớn với nhiều đoạn xói lở tiêu biểu nhất cả
nước. Bờ biển Gành Hào ngay sát phía đông bắc bán đảo Cà Mâu bị xói lở trên chiều dài bờ
dài 60 km. Tại bờ Bồ Đề, tốc độ xói lở 30 - 50 m/năm trên chiều dài 36 km và mỗi năm mất
đi 112 ha đất (T.Q. Thịnh, 1992). Bờ biển Giao Thuỷ-Văn Lý ở châu thổ sông Hồng cũng bị
xói lở với tốc độ 10 - 15 m/năm trên chiều dài 30 km trong thời gian 1930-1990, nay quy mô
giảm đi do phòng chống tích cực nhưng cường độ tiếp tục tăng.
Tại các vùng cửa sông hình phễu Đồng Nai, Bạch Đằng và vùng bờ thuỷ triều Đông
bắc, xói lở cường độ nói chung không lớn nhưng quy mô lớn, đã xảy ra từ rất lâu và xu thế
xói còn lâu dài. Tại đây, cũng xuất hiện các đoạn xói lở nổi tiếng như Cần Giờ, Cát Hải. Bờ
biển Cần Giờ bị xói lở 5 - 10 m/năm trên chiều dài bờ 8,5km trong nhiều năm qua. Xói lở
đảo Cát Hải trên chiều dài 6km có tôc sđộ trung bình tăng từ 3,5m/năm lên 13m/năm trong
khoảng thời gian 1930-2000.
Ở ven bờ Miền Trung, tạị các đoạn bờ cát ven cửa sông và cửa đầm phá, xói lở có
tính bất thường rất cao nên rất nguy hiểm. Xói lở ở bờ phía bên này cửa sông và đầm phá
cùng với bồi tụ đẩy lấn ở bờ phía bên kia tạo nên sự di chuyển vị trí cửa trên khoảng dài hàng
km tới hàng chục km trong thời gian từ vài năm đến vài chục và thậm chí đến một vài trăm
năm. Điển hình cho cách thức như vậy là các cửa Thuận An và Tư Hiền ở đầm phá Tam
Giang-Cầu Hai và cửa đầm Ô Loan.
Hiện tượng xói lở bờ cũng phổ biến ở các đảo, kể cả các đảo xa bờ như đảo Bạch
Long Vỹ nằm giữa Vịnh Bắc Bộ, hay đảo Trường Sa nằm giữa Biển Đông. ở các đảo này,
bồi tụ và xói lở tại một đoạn bờ luôn đổi theo mùa gió đông bắc và tây nam, nhưng đều có xu

thế chung dài lâu là xói lở ở đầu đảo hứng gió đông bắc và tao nên sự biến dạng bờ đảo rất
lớn. Do tác động của quá trình bòi-xói, đảo Trường Sa dài ra vào mùa gió đông bắc với kích
thước 700m x 300m và ngắn lại vào mùa gió tây nam với kích thước 650m x 320m (T.Đ.
Thạnh, 1994). Tình trạng tương tự đã được biết trên quần đảo Hoàng Sa (Krempf, A, 1927).
1.2. Hiện trạng bồi tụ
Bồi tụ ở các cửa sông châu thổ
Hàng năm, các dòng sông đổ vào dải ven bờ Việt Nam khoảng 880 tỷ m
3
nước và
200-250 triệu tấn bùn cát, tạo nên các vùng châu thổ sông Hồng rộng 17 nghìn km2 và Mê
Kông rộng 39 nghìn km2 và các dải tích tụ chiếm phần lớn chiều dài bờ của cả nước. ở cả
hai châu thổ lớn, tốc độ bồi lấn ra biển trong khoảng 10-100m năm, trung bình 30-50m/năm,
cực đại 120/năm ở châu thổ sông Hồng và 150m/năm ở châu thổ Mê Kông. Trong thế kỷ
qua, đồng bằng châu thổ sông Hồng bồi lấn ra biển mỗi năm trung bình 360 ha. Quá trình bồi
tụ xảy ra mạnh nhất ở khu vực Kim Sơn nằm ở rìa nam châu thổ, tốc độ bồi lấn trung bình
3
60-100m/năm, cực đại 120m/năm trong thế kỷ qua (Thanh, T.D. 1995). Tương tự, bán đảo
Cà Mâu cũng nằm ở phía tây nam đồng bằng Mê Kông có tốc độ bồi tụ lớn nhất, mỗi năm 50
- 80m, cực đại 150m và mở rộng 130 ha. Theo kết quả của đề tài KHCN trong thời gian
1965-1995 vùng cửa sông ven biển Việt Nam bồi tụ 1411ha/năm, trong đó, 316ha/năm ở
ven bờ châu thổ sông Hồng và 794ha/năm ở chau thổ Mê Kông (L.P. Trình và Nnk, 2000). ở
các cửa sông ven biển Trung Bộ, quá trình bồi tụ có tính chất lấp đầy bồn tích tụ sau các doi
cát chắn cửa, tốc độ mở lấn lâu dài thường chỉ 2-5m/năm, hiếm khi đạt 10m/năm. Đối với
một đất nước hơn 68% diện tích lãnh thổ là đồi núi thì đất bồi mở mang do bồi tụ ở ven biển
hàng năm quả là một tài nguyên quí gía.
Sa bồi luồng bến
Tuy nhiên, các bồi tụ bất thường, ngoài mong muốn gần đây gia tăng đáng kể và gây
nhiều thiệt hại trực tiếp và gián tiếp, không chỉ về kinh tế mà còn về môi trường sinh thái,
ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. Đối với ngành giao thông, sa bồi luồng bến đã trở
thành hiện tượng phổ biến (N.C. Hồi và Nnk, 1996). Cảng Hải Phòng được xây dựng từ

năm 1876 và đã từng là cảng biển lớn nhất Việt Nam suốt một thế kỷ. Do cả tác động tự
nhiên và nhân sinh, luồng vào cảng đã bị sa bồi nghiêm trọng. Từ năm 1920 đến 1992, độ
sâu luồng cảng giảm từ 6m xuống 4m, trong khi lượng nạo vét tăng từ 2 lên 4 triệu tấn mỗi
năm. Đến nay đã có một số phương án nhằm khắc phuc sa bồi để cải tạo nâng cấp cảng
nhưng tính khả thi còn rất hạn chế. Cảng Cửa Lò được xây dựng từ năm 1981, thiết kế cho
tàu trên vạn tấn, nhưng trên thực tế, năng lực hoạt động của cảng này thấp do sa bồi và chỉ
những tàu 5-7 nghìn tấn mới có khả năng cập cảng. Cảng Sài Gòn cũng đang phải đối mặt
với những biến động sa bồi phức tạp ở luồng cửa Soài Rạp. Đối với các cảng nằm ở các vùng
cửa sông châu thổ, sa bồi cửa luồng hết sức căng thẳng. Sa bồi tại luồng cửa Định An gây
khó khăn lớn cho hoạt động của cảng Cần Thơ. Sa bồi luồng cửa sông Ninh Cơ gần như làm
tê liệt hoạt động của cảng Hải Thịnh mới xây dựng gần đây. Đó là chưa kể nhiều cảng nhỏ,
bến cá khác bị sa bồi trực tiếp tại bến hoặc cửa luồng.
Bồi lấp cửa sông và cửa biển
ở nhiều cửa sông và cửa đầm phá Miền Trung, sa bồi gây lấp kín cửa với thời khoảng
kéo dài có khi đến trên chục năm. Đó là các trường hợp đối với cửa Tư Hiền ở đầm phá Tam
Giang - Cầu Hai ở Thừa Thiên - Huế, cửa sông Vệ, cửa Mỹ Á ở Quảng Ngãi, cửa sông Bàn
Thạch và cửa đầm Ô Loan ở Phú Yên,.v.v. Trong thời gian 1985-1995 Cửa Đại (Hội An)
dịch về phía nam 50m/năm; Cửa Lở (sông Trường Giang) dịch về phí đông nam trên
50m/năm; cửa Vệ, cửa Đà Rằng, cửa Đà Nông dịch đáng kể về phía bắc (L.P. Trình và Nnk,
2000). Điển hình nhất cho bồi lấp cửa biển Trung Bộ là ở đầm phá Tam Giang-Cầu Hai. Gần
nửa thế kỷ qua, Cửa Tư Hiền được biết bị bồi lấp trong các thời khoảng 1953 – 1959, 1979 -
1990 và 1994 –1999. Nhịp điệu lấp, mở cửa mau hơn nhiều so với trước đây. Do bồi lấp và
chuyển chỗ, Cửa Thuận An đã từng tồn tại nhiều vị trí cũng như tên gọi khác nhau trong lịch
sử. Năm 1404, cửa mở lần đầu tại vị trí Hoà Duân, sau đó bị đắp lại rồi lại bị vỡ vào đời
Cảnh Thống (1498 - 1504). Trong khoảng thời 200 năm kể từ năm 1504, cửa có vị trí ở Thái
Dương Hạ. Khoảng 200 năm tiếp theo cho tới năm 1897, cửa có vị trí tại làng Hoà Duân.
Kể từ năm 1897, cửa có vị trí cơ bản như hiện nay. Cửa Hoà Duân được mở lại sau gần thế
kỷ, trong trận lũ lịch sử, vào ngày 2 tháng 11 năm 1999. Tính từ vị trí đập chắn cũ (1931)
đến nay trục cửa di chuyển lên phía bắc 15m/năm, còn bờ lạch bị bồi lấn dịch chuyển về phía
bắc có chỗ 40m/năm. Do bồi lấn từ phía nam lên phía bắc, chuyển dịch cửa Thuận An tạo

nên sự không ổn định của đoạn bờ dài 7km (T.Đ. Thạnh và Nnk, 2001b). Không chỉ bồi lấp
cửa, hiện tượng bồi cạn cửa sông, đầm phá xảy ra lâu dài trong quá trình phát triển địa chất,
nhưng có thể rút ngắn thời gian đáng kể do gia tăng các nguồn bồi tích từ thượng nguồn và
4
các cồn đụn cát ven rìa. Hoạt động sa bồi còn dẫn đến sự ứ tắc và đổi hướng nhánh cửa sông
của châu thổ sông Hồng. Các nhánh lớn như cửa Đáy, Ba Lạt, Văn úc đổi hướng về phía bắc
hoặc phía nam với thời khoảng 30-40 năm. Các nhánh nhỏ như Lạch Giang, Trà Lý đổi
hướng chảy chính với thời khoảng 5-10 năm (T.Đ. Thạnh và Nnk, 2001a).
Bồi lấp do di động của cồn cát
Một quá trình bồi tụ đặc biệt, có tính phi địa đới của quá trình bờ Việt Nam là hiện
tượng các cồn cát Miền Trung di động về phía lục địa gây bồi lấp đường xá, nhà cửa và
ruộng vườn. Các cồn cát này cao 10-30m, nhiều nơi cao 50-80m, phân bố trên dọc chiều dài
bờ khoảng 1000km từ Hà Tĩnh đến Bình Thuận. Thông qua quá trình “cát bay” và “ cát
chảy”, chúng lấn về phía lục địa với tốc độ 2-15m/năm. Các cồn cát ven rìa cửa sông và đầm
phá xâm lấn về phia trong gây nông cạn đầm phá và cửa sông nhanh chống (T.D. Thanh,
1995).
2. Nguyên nhân và xu thế
Bờ biển là một hệ thống động lực, tồn tại ở ba trạng thái bồi tụ, ổn định và xói lở phụ
thuộc vào cân bằng giữa nguồn bồi tích đưa đến và mang đi dưới tác động của các yếu tố
ngoại sinh thường xuyên biến đổi trên nền tác động chậm chạp, lâu dài của các yếu tố nội
sinh. Về cơ bản, xu hướng gia tăng tai biến sa bồi và xói lở gần đây trên thế giới là do những
biến động bất thường về khí hậu và tác động ngày càng tăng của hoạt động nhân tác.
2.1. nguyên nhân xói lở
Nguyên nhân sâu xa xói lở bờ biển có ba nhóm: tiến hóa tự nhiên bao gồm cả vai trò
của chuyển động kiến tạo hiện đại, biến động bất thường về khí hậu, thủy văn và tác động
nhân sinh ở cả lưu vực và ven bờ, thậm chí ở quy mô toàn cầu như hiệu ứng nhà kính làm
dâng cao mực biển. ở mỗi nơi, bờ Xói lở có thể có sự kết hợp của hai đến ba nhóm và kèm
theo các nguyên nhân cụ thể. Tính chất tiến hóa tự nhiên của xói lở bờ có thể nhận thấy ở xu
hướng lâu dài tại các cửa sông hình phễu ngập chìm không đền bù, xu hướng xói lở theo mùa
gió ở nhiều đảo và các đoạn bờ cát Miền Trung, xu hướng xói lở theo các chu kỳ triều, pha

triều thấy rõ ở những vùng bờ nhật triều có biên độ lớn.
Động lực nội sinh đóng vai trò phông nền và có thể là nguyên nhân sâu xa Xói lở bờ
biển. ở châu thổ lớn như Sông Hồng Và Mê Kông, bản chất mở ra biển là do tốc độ bồi tụ
đền bù và vượt quá tốc độ ngập chìm (bao gồm cả yếu tố hạ kiến tạo và nâng chân tĩnh). Vì
thế, sự thiếu hụt bồi tích là yếu tố cực kỳ nhạy cảm gây xói lở bờ biển. ở ven bờ Trung Bộ,
hoạt động hiện đại của các đứt gãy hướng á vĩ tuyến và á kinh tuyến, các trũng hạ dạng chậu
đối với Xói lở bờ biển. Động lực ngoại sinh là nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp gây Xói lở
bờ biển, thông qua các tác nhân sóng, thủy triều và dòng chảy, đóng vai trò di chuyển gây
thiếu hụt bồi tích và trực tiếp phá hủy bờ. Tuy nhiên, ở mỗi điểm Xói lở, có thể là mỗi yếu tố
sóng, thủy triều, hoặc thậm chí dòng lũ cửa sông đóng vai trò chủ đạo.
Nhiễu động về khí hậu thủy văn có vai trò quan trọng đối với gia tăng Xói lở gần đây,
đặc biệt là ở Trung Bộ và Nam Bộ. Đó là sự thay đổi về phân bố, gia tăng về số lượng,
cường độ và tính thất thường của bão gây sóng lớn và nước dâng trong bão. Dao động mực
nước là tác nhân quan trọng gây Xói lở bờ biển do tạo ra cơ chế di chuyển ngang bồi tích ra
sâu và tái tạo trắc diện ngang bờ do quá trình trọng lực. Đó là các dạng dâng cao mực biển do
khí hậu trái đất ấm lên, các pha kỳ dao động triều, nước dâng trong bão, nước dâng gió mùa.
Xói lở bờ biển tăng lên gần đây còn do chịu tác động lớn của các hoạt động nhân sinh
như đắp đập ngăn sông, đào kênh tưới tiêu và thoát lũ, quai đê lấn biển, phá rừng ngập mặn,
hủy hoại hệ sinh thái rạn san hô, khai thác sa khoáng và vật liệu xây dựng làm thiếu hụt, thay
5
đổi cân bằng và phân bố bùn cát ven bờ. Các công trình quan trọng đáng chú ý là hệ thống đê
Bắc Bộ, đập sông Đà, hệ thống kênh thoát lũ ra Biển Tây. Ngoài ra, còn có nhiều đập ngăn ở
lưu vực các sông Trung Bộ gây tác động cục bộ đến Xói lở cửa sông ven biển. ở nhiều đảo,
vật liệu tạo bãi chủ yếu là nhờ các mảnh vôi sinh vật cung cấp từ rạn san hô. Rạn bị suy thoái
do tác động nhân sinh (bắt mìn, đào bới khai thác vật liệu xây dựng, dùng thuốc độc bắt thủy
sản ) nên nguồn cung cấp bồi tích bị mất đi và bờ đảo bị xói lở mạnh. Xói lở bờ biển còn do
con người xây dựng các công trình ở những nơi bờ động lực mạnh, chưa ổn định và còn
biến động mạnh, điển hình là đê Bắc Bộ đắp trên nền đất đang bồi nhưng còn thấp, có thể bị
sạt vỡ khi bão lớn, triều cường.
Nguyên nhân trực tiếp xói sạt bờ biển hết sức phức tạp, tuỳ điều kiện cụ thể, về bản

chất liên quan đến hai dạng thiếu hụt bồi tích. Thứ nhất, do bồi tích thiếu hụt khi lượng di
chuyển đến nhỏ hơn lượng di chuyển đi và cơ chế di chuyển chủ yếu là dọc bờ, như ở Cát
Hải (Hải Phòng), Hải Dương - cửa Hòa Duân (TT - Huế), Xuân Hải (Sông Cầu, Phú Yên) và
Cần Giờ (TP. HCM). Thứ hai, do phân bố lại bồi tích để tạo nên cân bằng trắc diện mới,
thường là do di chuyển ngang phân tán bồi tích ra sâu, như ở Phước Thể, Phan Rí (Bình
Thuận). Có khi, cả vai trò di chuyển dọc bờ và di chuyển ngang xa bờ đều có vai trò rất quan
trọng như ở Hải Hậu (Nam Định) và Sa Huỳnh (Quảng Ngãi).
2.2. Nguyên nhân bồi tụ
Bồi tụ cửa sông ven biển thường là qúa trình tự nhiên do bồi tích được cung cấp từ
các nguồn khác nhau được tập trung lắng động tại một khu vực cửa sông ven bờ. Đáng lưu ý
là bồi tụ quy mô lớn ở các châu thổ nổi tiếng như Mê Kông, sông Hồng đều xảy ra trên nền
ngập chìm được bồi tích đền bù.
Các quá trình sa bồi gây tai biến gồm ba hình thái cơ bản: bồi lấp cửa, bồi lấp luồng
lạch và bồi lấp góc. Bồi lấp cửa là tai biến phổ biến nhất do tác động của dòng bồi tích từ
sông, hoặc dòng bòi tích dọc bờ kết hợp với tác động bồi tụ của sóng. Bồi lấp luồng lạch
ngoài các đông trên còn có vai trò của dâng cao mực biển và quá trình cân bằng thể tích-trắc
diện, nhất là khi có hoạt động nạo vét. Bồi tụ lấp góc xảy ra dưới tác động của dòng dọc bờ,
thường do sóng, trong điều kiện có công trình tạo góc.
Có những tai biến sa bồi về cơ bản liên quan đến tiến hoá tự nhiên của bờ biển và cửa
sông. Đó là các quá trình bồi lấp, bồi cạn các cửa sông, cửa đầm phá miền Trung và cả cửa
các nhánh sông châu thổ lớn. Biến động khí hậu-thuỷ văn gây suy giảm dòng chảy sông tạo
điều kiện bồi lấp các cửa sông nhỏ, cửa đầm phá miền Trung, nhất là vào các năm El-Nino
và đổi hướng sóng bất thường gây tập trung bồi tích bồi lấp cửa.
Nhiều tai biến sa bồi liên quan đến hoạt động của con người ở các mức trực tiếp, gián
tiếp khác nhau. Sa bồi trầm trọng luồng cảng Hải Phòng là do một số nguyên nhân có liên
quan đến hoạt động nhân sinh như lưu lượng bùn cát sông Cấm tăng gần gấp đôi sau 40 năm
liên quan đến phá rừng và xói mòn đất thượng nguồn, việc đắp đập Đình Vũ và sự phát triển
của các khu khai hoang nông nghiệp, đầm nuôi nước lợ làm mất không gian sa lắng của
sông. Ngoài các nguyên nhân do nhiều động khí hậu, thủy văn, quá trình bồi lấp kín các cửa
sông, cửa đầm phá Miền Trung tăng lên có quan hệ đến suy giảm diện tích vùng đầu nguồn

tạo ra sự thay đổi phân bố và cân bằng và lưu lượng dòng chảy sông. Ngoài thời gian ngắn
dồn nước gây lũ kịch phát, thời gian dòng chảy sông cạn kiệt kéo dài tạo cơ hội cho dòng bồi
tích cát dọc bờ bồi lấp các cưả sông, cửa đầm phá. Nhiều tai biến sa bồi ven bờ do chính các
công trình bờ xây dựng làm thay đổi hình dạng, cấu trúc và cân bằng động lực bờ, gây tác
động trực tiếp đến công trình đó hoặc công trình bên cạnh. Ví dụ, kể từ khi xây dựng tuyến
đê biển đường 14, ngoài việc tuyến đê này bị xói lở, xung yếu, dòng bồi tích có xu hướng
6
dồn xuống phía nam gây sa bồi nghiêm trọng cảng cá Ngọc Hải. Tai biến sa bồi luồng cảng
còn do thiếu hiểu biết, xây cảng tại nơi sa bồi tự nhiên rất mạnh mà không thể có hoặc chưa
có khả năng chỉnh trị. Đó là trường hợp các cảng Hải Thịnh, Cửa Lò vàcửa Định An.
Khá phổ biến các trường hợp tai biến sa bồi đi kèm xói lở, do xói lở giải phóng và
đưa đến một lượng lớn bồi tích gây hoặc tăng cường sa bồi cho khu vực lân cận. Đó là các
trường hợp xói lở đảo Cát Hải và sa bồi luồng Nam Triệu vào cảng Hải Phòng, xói lở bờ hải
Hậu và sa bồi luồng vào cảng Hải Thịnh, xói lở bờ Thuận An và luồng vào cảng Tân Mỹ
trong phá Tam Giang. ở đây, cần thiết phải tiến hành đồng bộ phòng chống sa bồi và xói.
2.3. Xu thế diễn biến bồi-xói
Nhân tố kiến tạo được coi là không thay đổi trong phạm vi quá ngắn của thời gian địa
chất. Nguồn bồi tích từ sông có thể giảm nhiều do các hoạt động nhân tác trong lưu vực,
biến động về cả lưu lượng và phân bố chi lưu. Mực nước biển dâng cao do trái đất ấm lên,
theo dự báo hợp lý nhất gần đây, dâng cao trung bình 80 mm vào năm 2020, 200 mm vào
năm 2050 và 490 mm vào năm 2100 (so với năm 1990). Thay đổi bất thường khí hậu thủy
văn tăng lên theo hướng bất lợi. Tác động nhân sinh đến quá trình bờ ngày càng lớn. Vì vậy,
diễn biến xói lở bờ biển vẫn phức tạp thể hiện ở sự gia tăng cường độ và tính bất thường.
Trong tương lai, những trọng điểm xói lở vẫn là Cát Hải và Hải Hậu (Bắc Bộ), Hậu Lộc,
Thuận An-Hoà Duân, Sa Huỳnh, Xuân Hải, Phước Thể-Hàm Tiến (Trung Bộ) và dải bờ
biển từ cửa Soài Rạp đến cửa Tranh Đề, đặc biệt là bờ biển Gò Công (Nam Bộ). Tốc độ xói
lở có thể tăng 10-40% vào 20-50 năm tới.
Cùng với gia tăng xói lở, quy mô bồi tụ, nhất là ở hai châu thổ lớn có thể bị giảm mà
nguyên nhân quan trọng nhất là sử dụng nước trên lưu vực, đặc biệt xây dựng đập thuỷ điện
và dùng nước cho nông nghiệp, làm giảm đáng kể lượng bồi tích đưa ra ven bờ. Tuy nhiên,

quá trình sa bồi cửa sông, cửa biển và luồng lạch tiếp tục tăng như là một hệ quả đi kèm của
quá trình xói lở bờ và sự dâng cao mực xâm thực cơ sở cùng với dâng cao mực nước biển.
3. Hậu quả
Xói lở và bồi tụ cửa sông, bờ biển gây ra những hậu quả hết sức nặng nề: thiệt hại
trực tiếp về sinh mạng, tài sản, cơ sở hạ tầng và đất đai; gây ra các tai biến ven bờ khác và
và suy thoái môi trường sinh thái như ngập lụt, ngọt hoá, nhiễm măn, nhiễm bẩn và mất
habitat; tạo ra sự phát triển kinh tế xã hội kém bền vững như hiệu quả đầu tư thấp, hạn chế
khả năng đầu tư lớn và dài hạn, di dân và tâm lý không ổn định trong đời sống, sản xuất.
Các tỉnh ven biển, đặc biệt là Bắc Bộ có mật độ dân số và tỷ lệ tăng dân số cao, phần
lớn có quỹ đất hẹp, kinh tế thủy sản, nông nghiệp và diêm nghiệp chiếm một vị trí quan
trọng. Trên nền chung chưa phát triển, có mặt những tâm điểm kinh tế trọng yếu của cả
nước. Các khu vực dân cư, kinh tế quan trọng ven biển Bắc Bộ nằm trên nền đất thấp có đê
biển bao bọc, nếu xói lở làm vỡ đê sẽ cực kỳ nguy hiểm, nhất là khi xẩy ra có bão lớn, triều
cường, nước dâng gây ngập lụt, nhiễm mặn cho những vùng dân cư và kinh tế trù phú, rộng
lớn trong đê. Thiệt hại về người và tài sản trong những lần vỡ đê như vậy, ví dụ vào các năm
1955 và 1996, là cực kỳ to lớn. Có đến hàng nghìn người bị thiệt mạng do vỡ đê trong cơn
bão KATE vào tháng 9 năm 1955. Nhiều điểm dân cư, kinh tế quan trọng ven biển Trung Bộ
nằm trên vùng bờ cát, hết sức nhạy cảm và xói lở bờ biển bất thường khi có nhiễu động lớn
về bão, lũ. Tại 7 tỉnh miền Trung có tới 147 đoạn bờ bị xói lở với tổng chiều dài trên 200km
làm cho 6000 hộ dân phải di dời (N.T. Tiệp và Nnk, 2001). Có những điểm dân cư hiện đang
ở trạng thái hết sức nguy hiểm do xói lở như làng Hải Dương và Thuạan An ở Thừa Thiên-
Huế. Xói lở bờ Nam Bộ có quy mô lớn, diễn biến lâu dài, tuy không nguy hiểm trực tiếp
bằng Bắc Bộ và Trung Bộ, nhưng thiệt hại rất lớn về tài nguyên đất đai và sinh thái. Chỉ
7
riêng huyện Trà Vinh bị xói lở 112 ha vào năm 1980 và 240 ha vào năm 1990. Tuyến đê biển
nối các huyện Cầu Ngang - Duyên Hải xây dựng vào 1976 - 1977 bị sóng đánh vỡ, nước biển
tràn gây xâm nhập mặn và hoang hóa 5.000 ha đất lúa một vụ trước đây. Hàng năm, một
khối lượng lớn công sức, tiền của Nhà nước và nhân dân phải bỏ ra để tu bổ, nâng cấp đê kè
nhưng xói lở lâu dài vẫn là một hiểm họa lớn đối với nhiều đoạn bờ. Xói lở bờ biển làm thu
hẹp nơi ở và cư trú của sinh vật biển, không chỉ với những bãi triều bùn, bãi cát biển và

nhiều nơi còn làm mất cả rừng ngập mặn tự nhiên. Chỉ riêng ở Phù Long, Hải Phòng, xói lở
trên triều dài bờ 3km làm mất mỗi năm khoảng 2ha rừng ngập mặn xanh tốt. Bùn cát giải
phóng từ quá trình xói lở bờ gây đục và nhiễm bẩn chất hữu cơ các vùng nước. Nhiều khi
khối lượng bùn cát giải phóng rất lớn di chuyển đến vùng lân cận gây nên tai biến sa bồi. ở
vùng cửa sông Bạch Đằng, hàng năm bùn cát từ các sông ra trên 4 triệu tấn, còn bùn cát giải
phóng từ xói lở bờ bãi đến hơn 2 triệu tấn và khối lượng nạo vét luồng cảng hàng năm tới 3 -
5 triệu tấn.
Ngành giao thông-cảng chịu thiệtt hại kinh tế lớn nhất do sa bồi gây ra. Sa bồi đã
làm cảng Hải Phòng mất đi vị trí cảng hàng đầu trong suốt một thế kỷ và ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sự phát triển kinh tế xã hội của thành phố cảng. Nhiều cảng nhỏ gần đây đầu tư xây
dựng hàng chục tỉ, thạm chí trên dưới trăm tỉ đồng nhưng hiệu quả sử dụng rất thấp, thậm chí
gần như không sử dụng được do sa bồi luồng cửa, điển hình là cảng Hải Thịnh.
Bồi lấp cửa sông và đầm phá ở ven bờ Trung Bộ không chỉ làm mất lối ra biển cho
hàng trăm tàu thuyền tại mỗi cửa, mà còn gây ra tình trạng ngập lụt thường xuyên, ngọt hóa
kéo dài, gây thiệt hại trực tiếp cho dân sinh, cho các ngành kinh tế nông nghiệp, thủy sản,
gây đảo lộn cân bằng sinh thái giảm đa dạng sinh học và tăng cường ô nhiễm môi trường.
Ngay khi lấp cửa Tư Hiền vào tháng 12 năm 1994, lập tức 300 ha nuôi tôm sú bị hủy hại.
Khoảng 1.000 ha lúa bị ngập và khoảng 300 thuyền đánh cá lớn mất lối ra biển. Sau gần 5
năm kể từ ngày bị lấp, mặc dù đã được kè khá kiên cố cửa Tư Hiền đã bị phá mở vào năm
1999 trong cơn ngập lụt thế kỷ khủng khiếp. Việc bồi lấp cửa Tư Hiền năm 1994 cũng là một
nguyên nhân quan trọng gây ra trận lụt khủng khiếp ở Thừa Thiên-Huế với mực nước dâng
cao 5,94m tại Huế làm thiệt hại trên ba trăm sinh mạng và hơn 1500 tỉ đồng trong vòng 6
ngày đầu tháng 11 năm 1999. Ngập lụt là tai biến đồng hành với bồi lấp cửa sông và đầm
phá. ở khu vực ven bờ Thừa Thiên - Huế, gần nửa thế kỷ qua có 7 trận lụt lớn thì 6 trận rơi
vào các khoảng thời gian cửa Tư Hiền bị bồi lấp.
4. Giải pháp ứng sử
4.1. Định hướng chiến lược
Từ nhiều năm qua, phòng chống xói lở và sa bồi cửa sông ven biển ở nước ta đã được
quan tâm. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế khó khăn, các giải pháp phòng chống còn thụ
động, thiên về giải quyết tình huống và còn thiếu những căn cứ khoa học tin cậy. Đến nay,

những kết quả nghiên cứu cho phép đề xuất và hoàn thiện dần các giải pháp phòng chống
phù hợp với động lực tự nhiên và điều kiện kinh tế xã hội của đất nước. Để phòng chống các
tai biến này cần phải có những biện pháp ứng sử cấp bách và kế hoạch có tính chiến lược lâu
dài.
-Xác định chiến lược phòng chống tầm vĩ mô trong tổ chức lãnh thổ và qui hoạch phát
triển vùng. Trong đó, xác định các phương án và giải pháp ứng xử thích hợp, xác định mục
tiêu, nội dung cụ thể và mức độ ưu tiên phòng chống xói lở, sa bồi bờ biển trong quản lý dải
bờ biển. Quy hoạch bảo vệ bờ biển. Tiến hành theo dõi, giám sát và đánh giá để rút kinh
nghiệm, hoàn chỉnh phương án, giải pháp.
8
- Coi trọng thực hiện các giải pháp phi công trình như theo dõi diễn biến xói lở, bồi tụ
bằng hệ thống quan trắc, giám sát định kỳ, thông tin cảnh báo, dự báo kịp thời đến người
dân, tổ chức di dời dân ra khỏi khu vực nguy hiểm, tổ chức bảo vệ đê, luồng và thiết lập một
vành đai chỉ giới cho qui hoạch dân cư, kinh tế ven biển.
- Ưu tiên các công trình và giải pháp kết hợp nhiều lợi ích giữa phòng chống xói lở và
sa bồi với phát triển giao thông bộ, bến cảng, bến cá, phân lũ, đẩy mặn. Đặc biệt chú trọng
kết hợp phòng chống xói lở bờ biển với chỉnh trị sa bồi.
- Áp dụng các giải pháp phòng chống hiện đại của thế giới, đồng thời xây dựng các
giải pháp phù hợp với điều kiện Việt Nam. Xây dựng các giải pháp công trình cho từng cửa
sông, tuyến luồng và đoạn bờ cụ thể và tổng kết thành các mô hình tiêu biểu. Thử nghiệm,
hoàn chỉnh giải pháp công trình mềm nuôi bãi cho các khu trọng điểm và ứng dụng mở rộng.
Kết hợp giải pháp công trình cứng và mềm để bảo vệ bền vững, lâu dài cho các đoạn bờ xung
yếu.
-Nghiên cứu các vấn đề kỹ thuật như chống xói sập chân khay công trình, chống lún
cho đê kè trên nền đất yếu và vật liệu công trình thích hợp trong điều kiện ngập mặn và động
lực mạnh. Tăng cường trồng và bảo vệ cây ngập mặn, cây trên cạn ở những nơi thích hợp.
- Tăng cường cơ sở pháp lý, quy định bảo vệ bờ biển. Bắt buộc đánh giá tác động môi
trường về mặt xói lở, bồi tụ với tất cả các công trình ven biển, kể cả đắp đầm nuôi và các
công trình lớn liên quan tới thủy văn lưu vực, đặc biệt là các đập thượng nguồn.
- Xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ quản lý tai biến xói lở và sa bồi. Lập bản đồ tai biến

bồi, xói cho cả nước và chi tiết cho các trọng điểm để có kế hoạch ngăn ngừa, phòng chống.
- Thành lập mạng lưới quan trắc, giám sát tai biến bồi-xói lở định kỳ trên cơ sở phối
hợp giữa các cơ quan khoa học trung ương và các đơn vị kỹ thuật địa phương, nhằm phát
hiện và cảnh báo tai biến để có những giải pháp ứng sử kịp thời.
4. 2. Giải pháp công nghệ phòng chống xói lở
Phòng chống xói lở bờ biển cần được tiến hành đồng bộ và toàn diện các giải pháp từ
tầm vĩ mô đến cụ thể, trực tiếp và gián tiếp, phi công trình và công trình, giải pháp cứng và
giải pháp mềm, phù hợp với từng đoạn bờ cụ thể. Các giải pháp tầm vĩ mô nằm trong nội
dung quản lý lãnh thổ và qui hoạch phát triển. Các giải pháp phi công trình cần phải có sự
tham gia của cộng đồng. Các giải pháp công trình phải dựa trên cơ sở xác định rõ nguyên
nhân sâu xa, nguyên nhân trực tiếp và cơ chế xói lở, phải có hiệu quả và tác dụng lâu dài,
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam và không gây tác động xấu đến môi trường,
đặc biệt là gây bồi xói đến khu vực lân cận. Trong điều kiện nước ta hiện nay, có thể sử
dụng 6 nhóm giải pháp công trình bảo vệ, chống Xói lở bờ biển như sau:
Nhóm 1: gồm các giải pháp công trình cứng bảo vệ trực tiếp như kè lát mái bê tông; kè
bê tông áp bờ; kè mỏ xiên nắn dòng; kè phá sóng.
Nhóm 2: gồm các giải pháp công trình mềm nuôi bãi bảo vệ bờ trực tiếp như kè mỏ
vuông nuôi bãi; kè mỏ vuông chữ T nuôi bãi kết hợp phá sóng.
Nhóm 3: giải pháp dự phòng như đê kè dự phòng tuyến sau ở Hải Hậu.
Nhóm 4: các giải pháp công trình kết hợp như các loại kè mỏ dọc hoặc mỏ ngang
chống xói lở bờ và ổn định luồng tàu, chống sa bồi cảng; xây kè kết hợp xây dựng cảng bến
và chống xói lở bờ. Ví dụ, xây kè mỏ bảo vệ bờ Hải Hậu kết hợp chống sa bồi luồng và dịch
luồng vào cảng Hải Thịnh trong cửa sông Ninh Cơ.
9
Nhóm 5: các giải pháp sinh thái kết hợp như bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn, chú
trọng ở ven bờ Bắc Bộ và Nam Bộ; trồng cây trên cạn; bảo vệ rạn san hô, chú trọng cho ven
bờ Trung Bộ.
Nhóm 6: các giải pháp gián tiếp nhằm duy trì hoặc bổ sung bồi tích như khơi luồng phân
lưu bồi tích; xả bùn từ các đập thượng nguồn.
Trong số các giải pháp trên, việc bảo vệ các điểm nóng xói lở có thể áp dụng 3 giải

pháp công trình chủ yếu sau: Giải pháp kè bê tông áp bờ, nên dùng tường chắn song dạng
cong có đầu hắt để hạn chế nước tràn, áp dụng cho nơi có năng lượng sóng rất lớn và bảo vệ
công trình đặc biệt quan trọng; Giải pháp kè mỏ vuông chữ T kết hợp nuôi bãi và phá sóng
áp dụng cho nơi bồi tích bị mất đi do cả dòng dọc bờ và phân tán ngang ra sâu, hoặc nơi có
động lực sóng khá mạnh; Giải pháp kè mỏ vuông nuôi bãi áp dụng cho nơi bồi tích di
chuyển đi chủ yếu do dòng dọc bờ. Tuỳ điều kiện cụ thể, các giải pháp này có thể kết hợp với
nhau hoặc kết hợp với các giải pháp phụ khác. Để đảm bảo chống xói lở thành công, khi thiết
kế xây dựng kè phải đồng thời chú trọng ba vấn đề là cấu trúc hệ thống kè, cấu trúc mỗi kè
và kết cấu kè. Trong mọi trường hợp, phải giải qyết được các vấn đề chống lún, xói chân
hoặc xói nền tựa của công trình kè.
Giải pháp công nghệ phòng chống xói lở bờ biển có những nguyên tắc chung, nhưng
mỗi đoạn bờ xói lở, tuỳ nguyên nhân và điều kiện động lực mà chọn cho giải pháp phù hợp.
Trước đây, khi thực hiện nhiệm vụ của đề tài cấp nhà nước KT.03.14 (N.T.Ngà và Nnk,
1995), một số giải pháp công trình phòng chống xói lở bờ biển đã được đề xuất. Đó là:
- Kè mỏ nuôi bãi Đường 14 (Hải Phòng). Phân Viện Hải dương học tại Hải Phòng đề xuất.
- Kè mỏ ô vuông ở Hải Hậu (Nam Định). Viện Khoa học Thuỷ lợi đề xuất.
- Kè bờ Cảnh Dương (Quảng Bình) kết hợp mỏ hàn ổn định cửa sông Ròn (PA1) và nạo
vét bãi cửa sông phun đắp bãi bị xói Cảnh Dương (PA2). Viện Khoa học Thuỷ lợi đề
xuất.
- Kè mỏ hàn kết hợp kè chắn sóng bờ Phan Rí (Bình Thuận). Viện Hải dương học Nha
Trang đề xuất.
- Xây dựng tuyến đê dự phòng kết hợp trồng rừng phòng hộ bảo vệ bờ Gò Công. Viện
Khoa học Thuỷ lợi Nam Bộ đề xuất.
Một số đề xuất cũng đã có điều kiện áp dụng ở mức thử nghiệm tại một địa phương và
đã thu nhận được cả những thành công và chưa thành công. Một trong những thử nghiệm
thành công đã được khảng định là xây dựng kè mỏ nuôi bãi ở Cát Hải (Hải Phòng), tiến hành
trong thời gian 1995-2001 (T.Đ. Thạnh và Nnk, 1997). Xu hướng gần đây các đề xuất chú
trọng đến giải pháp công trình mềm nuôi bãi để bảo vệ bờ. Sau đây là một số giải pháp mới
được đề xuất cho các đoạ bờ xói lở trọng điểm.
Giải pháp phòng chống xói lở bờ dảo Cát Hải (Hải Phòng) là xây dựng hệ thống kè

mỏ hàn nuôi bãi trên chiều dài 6km. Cấu trúc kè mỏ được thiết kế thành 3 phần có độ cao và
độ dốc khác nhau và kè được xây dựng từ hai phía bờ đảo khép kín vào phần giữa. Giải pháp
chống lún dùng cọc ván vây thay thế cho bè đệm rong rào theo truyền thống. Đối với bờ Hải
Hậu (Nam Định), xây dựng hệ thống kè mỏ hàn nuôi bãi kết hợp với kè phá sóng trên chiều
dài 17km . Cấu trúc kè mỏ hình chữ T. Biện pháp chống lún dùng cọc ván vây. Việc xây
dựng kè đồng thời ở 3 nhóm, rồi mở rộng, khép kín dần. Trước khi xây dựng mở rộng, cần
khảo sát bổ sung để hoàn chỉnh thiết kế và xây dựng thử nghiệm (T.Đ. Thạnh và Nnk, 2001).
10
Đoạn bờ từ Hải Dương đến cửa Hòa Duân (Thừa Thiên – Huế) được bảo vệ bằng hệ
thống mỏ hàn chữ T nuôi bãi kết hợp với phá sóng trên tổng chiều dài khoảng 5,2 km. Đoạn
bờ Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) được bảo vệ bằng hệ thống công trình kết hợp giữa hệ thống
mỏ hàn và các đoạn đê nhô cao trên tổng chiều dài bảo vệ là 0,95 km. Đoạn bờ Xuân Hải –
Sông Cầu (Phú Yên) bảo vệ bằng hệ thống kè lát mái trên chiều dài bảo vệ 600m, phía trước
chân khay xếp đá hộc kết hợp tetrapod, phía ngoài biển xây dựng hệ thống đê ngầm và đê
nhô (P.H. Tiến và Nnk, 2001).
Khu vực Phước Thể (Bình Thuận) cần áp dụng các giải pháp kết hợp công trình cứng
và mềm với hai phương án: phương án bảo vệ kết hợp xa và gần gồm công trình kè phá sóng
trên tổng chiều dài bảo vệ 1800m; phương án bảo bệ bờ gần gồm công trình kè phá sóng, kè
chữ T , kè chữ T cụt và kè áp mái. Khu vực Hàm Tiến (Bình Thuận) cũng được bảo vệ bằng
giải pháp kết hợp công trình cứng và mềm với hai phương án phương án bảo vệ bờ kết hợp
gần và xa gồm tổ hợp công trình kè phá sóng, kè chữ T, kè chữ T cụt và kè áp mái (B.H.
Long và Nnk, 2001).
4.2. Giải pháp công nghệ phòng chống sa bồi.
Phòng chống sa bồi cửa sông ven biển hết sức khó khăn phức tạp, tốt hơn hết là
phòng và tránh hơn là phải chống. Xói lở phần nhiều xảy ra do tự nhiên, ngoài ý muốn,
nhưng sa bồi nhiều trường hợp xảy ra do quyết định sai lầm của con người đã không hiểu
biết đầy đủ quá trình trầm tích của khu vực xây dựng công trình.
Nghiên cứu các giải pháp công nghệ phòng chống sa bồi đã được tiến hành chủ yếu
cho các luồng vào cảng và những kết quả đạt được phần lớn chưa đáp ứng được yêu cầu của
thực tiễn. Nghiên cứu sa bồi luồng vào cảng Hải Phòng là một ví dụ về tính chất khó khăn

phức tạp của vấn đề. Trước tình trạng sa bồi luồng vào cảng, đến nay đã có nhiều phương án
đề xuất khác nhau. Kỹ sư thủy văn J. Renaud (1894) đề nghị đi vòng qua bắc Cát Bà vào
cảng Hải Phòng. Thuyền trưởng Lapique P. A (1932) và giám đốc cảng Meunier (1943) đề
nghị bỏ cảng Hải Phòng ra Hòn Gai và vịnh Cửa Lục, giám đốc Gauchier, J. (1938) có kế
hoạch tránh sa bồi bằng cách làm trong dòng sông Đuống. Phái đoàn Perrier (1930) của quốc
hội Pháp đề xuất phương án đi qua Lạch Huyện được cho là ít sa bồi hơn. Các chuyên gia
Liên Xô (cũ), đại diện là Proserov B. S và Maskovski, P. I. (1962 - 1964), cho rằng bồi tích
gây sa bồi đi từ biển vào và đưa ra kết luận bi quan về cải tạo luồng cảng Hải Phòng. Ý kiến
của các chuyên gia UNDP trong dự án VIE 88/014 (1992) và các chuyên gia JICA, Nhật Bản
(1994) cho rằng phương án tốt nhất là cải tạo luồng Nam Triệu là xây dựng kè dọc hai phía
mép luồng. Tuy nhiên, nghiên cứu gần nhất của Công ty HEACON (Bỉ) 1998 đã chọn lối
qua Lạch Huyện là phương án tối ưu, giống quan điểm của phái đoàn Perrier. Căn cứ vào đặc
điểm động lực của vùng cửa sông hình phễu có cảng, có thể thấy rằng sau một thời gian, tình
trạng luồng Lạch Huyện sẽ lặp lại như luồng Nam Triệu. Đó là chưa kể đến sa bồi trên kênh
Cái Tráp và nhiễm bẩn bùn cho vùng sinh thái biển Hạ Long và Đông nam Cát Bà, nơi có
nhiều giá trị quí giá và cần bảo tồn tự nhiên. Trên thực tế luồng Nam Triệu vào cảng Hải
Phòng sa bồi tự nhiên và được nạo vét thường xuyên, nhưng chưa từng thực hiện một giải
pháp chỉnh trị nào. Trong điều kiện gió mùa đổi hướng, giải pháp phổ biến nhất chống sa bồi
luồng cảng cửa sông là xây kè mỏ từ hai phía bờ luồng với độ dài cần thiết để đạt tới độ sâu
thiết kế, cản được dòng bồi tích dọc bờ và vượt qua được đới sóng vỡ. Quy mô và tính khả
thi của công trình phụ thuộc vào tải trọng-mớn nước tàu thiết kế và chi phí đầu tư.
Ở nhiều cửa sông và cửa đầm phá, việc phòng chống sa bôi cần đến giải pháp tổng
thể nằm trong khuôn khổ quản lý tổng hợp dải ven biển, kết hợp với quản lý lưu vực. Cụ thể
hơn, phòng chống sa bồi cửa sông cần kết hợp với phòng chống ngập lụt và phòng chống xói
lở khu bờ biển lân cận. Ví dụ, việc phòng chống sa bồi cửa Thuận An cho tàu vào cảng Tân
11
Mỹ cần thực hiện bằng kè dọc luồng vươn ra phía biển kết hợp với kè mỏ chống xói lở bãi
Thuận An, ngăn không cho dòng bồi tích dọc bờ ép luồng về phía bắc gây xói lở làng Hải
Dương. Giải pháp ổn định lâu dài chống bồi lấp cửa Tư Hiền cũng phải là xây dựng kè mỏ
hai bên cửa luồng chống cát lấn dọc bờ và chống xói lở bờ làng Vinh Hiền (T.Đ. Thạnh và

Nnk, 1996; P.H. Tiến và Nnk, 2001; T.Đ.Hợi và Nnk, 2001).
Kết luận
Kết quả nghiên cứu xói lở, bồi tụ bờ biển cửa sông đã đạt được trong những năm qua
đã tạo dựng được cơ sở quan trọng cho định hướng tiếp theo. Trước hết, đã có được một bức
tranh tổng thể về hiện trạng bồi-xói với đặc điểm phân bố, quy mô, cường độ và thời khoảng
xuất hiện để từ đó có được đánh giá diễn biến của chúng. Các kết quả nghiên cứu cũng đã
xác định được nguyên nhân các tai biến bồi và xói, từ các nguyên nhân sâu xa đến trực tiếp
và tiếp cận phương pháp thuỷ thạch động lực và mô hình toán để xác định cấu trúc hoàn lưu
di chuyển dẫn đến thiếu hụt hoặc tập trung bồi tích gây bồi và xói. Trên cơ sở đánh giá hậu
quả đối với dân sinh, kinh tế và môi trường sinh thái và dự báo xu thế, các công trình nghiên
cứu cũng đã đề xuất các giải pháp ngăn ngừa và phòng chống các tai biến này, kể cả các giải
pháp phi công trình và công trình, công trình cứng và công trình mềm. Một số đề xuất đã
được áp dụng tại các dịa phương và đã có những kết quả bước đầu.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu cũng bộc lộ những tồn tại. Trước hết, độ chính
xác và tính đồng bộ của các tư liệu đấnh gía hiện trạng chưa cao. Việc phân tích nguyên
nhân, cơ chế và dự báo xu thế ở một số công trình còn nặng về định tính, trong khi ở một số
công trình khác, kết quả ứng dụng mô hình còn sai khác nhiều so với thực tế. Các giải pháp
công trình đề xuất thường mới chỉ dừng ở định hướng, nguyên tắc hoặc dựa vào kinh nghiệm
nhiều hơn dựa vào các luận cứ khoa học. Tình trạng này một phần do chuỗi số liệu điều tra
khảo sát và quan trắc hết sức hạn chế.
Ngăn ngừa và phòng chống bồi tụ, xói lở bờ biển cửa sông là nhiệm vụ khó khăn và
lâu dài. Để các công trình khảo sát và nghiên cứu có hiệu quả hơn, trong tương lai cần chú ý
đến đào tạo chuyên gia; đầu tư thiết bị khảo sát, phân tích và các mô hình-phần mềm chuyên
dụng; xây dựng hệ thống phương pháp khảo sát và nghiên cứu phù hợp với điều kiện nước
ta; đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế. Cần xây dựng một hệ thống quan trắc và giám sát
bồi tụ, xói lở dọc bờ biển cửa sông để cập nhật số liệu tạo chuỗi và cảnh báo nhằm ứng xử
kịp thời các tai biến, sự cố liên quan tới bồi –xói. Các công trình nghiên cứu cần chú trọng
hơn nữa phân tích dự báo và đề xuất các công trình cụ thể, khả thi. Trong điều kiện khó có
thể sử dụng các mô hình vật lý, cần tăng cường các mô hình thử nghiệm phòng chống ngoài
hiện trường.

Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Chu Hồi, Trần Đức Thạnh và Nnk, 1996. Luận chứng bảo vệ môi trường trong
dự án qui hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2010. Báo cáo lưu trữ
tại Phân Viện Hải dương học tại Hải phòng.
2. Trần Đình Hợi, Nguyễn Văn Cư, Hồ Ngọc Phú và Nnk, 2001. Nghiên cứu phương án
phục hồi, thích nghi cho vùng cửa sông ven biển Thuận An - Tư Hiền và đầm phá Tam
Giang - Cầu Hai. Báo cáo dự án độc lập cấp nhà nước. Lưu trữ tại Trung tâm Tư vấn và
Phát triển vùng.
3. Krempf, A. 1927. La forme des recifs coralliens et regime des vents alternant. Memoir 2
de L'Institut Oceanographique de Nha Trang. p.1- 29.
12
4. Bùi Hồng Long, Tống Phước Hoàng Sơn và Nnk, 2001 Nghiên cứu dự báo, phòng chống
sạt lở bờ biển Nam Bộ. Dự án KHCN – 5C. Lưu trữ tai Viện Hải Dương học Nha
Trang.
5. Nguyễn Thanh Ngà, Quản Ngọc An, Nguyễn Khắc Nghĩa và Nnk, 1995. Hiện trạng và
nguyên nhân bồi xói bờ biển Việt Nam. Đề xuất các biện pháp khoa học kỹ thuật bảo vệ
và khai thác vùng đất ven biển. Báo cáo đề tài KT.03.14. Lưu trữ tại Viện Khoa học
Thuỷ lợi Quốc gia.
6. Trần Đức Thạnh, 1994. Động lực bồi tụ – xói lở và sự thay đổi hình dạng đảo san hô
Trường Sa. Tài nguyên và Môi trường biển. Tập II. Nxb. KH&KT Hà Nội Tr.13-19.
7. Tran Duc Thanh, 1995. Coastal morphological changes concerning the management of
coastal zone in Vietnam. Workshop Report No.105 Supplement UNESCO\IOC, p.451-
462.
8. Trần Đức Thạnh và Nnk, 1996. Động lực của quá trình chuyển cửa và lấp cửa ở hệ đầm
phá Tam Giang-Cầu Hai. Báo cáo chuyên đề, đề tài KT-ĐL.95.09 “Nghiên cứu, khai
thác và sử dụng hợp lý tiềm năng phá Tam Giang”. Lưu trữ tại Phân Viện Hải dương học
tại Hải Phòng.
9. Trần Đức Thạnh, Đinh Văn Huy và Trần Đình Lân và nnk, 1997. Đặc điểm biến dạng bờ
và gải pháp phòng chống xói lở bờ đảo Cát Hải. Tài nguyên và môi trường biển. T.IV.
Nxb. KH và KT Hà Nội. Tr. 41-49.

10. Trần Đức Thạnh, Nguyễn Đức Cự, Nguyễn Hữu Cử, Đỗ Đình Chiến và Nnk, 2001a.
Nghiên cứu dự báo, phòng chống sạt lở bờ biển Bắc bộ từ Quảng ninh tới Thanh Hóa.
Báo cáo dự án KHCN - 5A. Lưu trữ tại Phân Viện Hải dương học tại Hải Phòng.
11. Trần Đức Thạnh và Nnk, 2001b. Biến động cửa hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai. Khoa
học và Công nghệ biển. Hà Nội. No.2.
12. Tô Quang Thịnh, 1992. Biến động bờ biển Việt Nam. Tuyển tập báo cáo hội thảo “
Nghiên cứu và quản lý vùng ven biển Việt Nam”. Hà Nội . Tr.135 - 141.
13. Phạm Huy Tiến, Nguyễn Văn Cư và Nnk, 2001. Nghiên cứu dự báo, phòng chống sạt lở
bờ biển Trung Bộ. Dự án KHCN – 5B. Lưu trữ tại Viện Địa Lý.
14. Nguyễn Thế Tiệp, Bùi Công Quế, Nguyễn Tác An, Nguyễn Tứ Dần, Nguyễn Văn
Lương, Bùi Hồng Long, 2001, Một số kết quả đánh giá các loại hình tai biến địa chất đới
ven biển Việt Nam. Khoa học và Công nghệ biển. No.1, Tr.44-52.
15. Lê Phước Trình, Bùi Hồng Long, Trịnh Thế Hiếu và Nnk, 2000. Nghiên cứu quy luật và
dự báo xu thế bồi tụ – Xói lở vùng ven biển và cửa sông Việt nam. Báo cáo khoa học đề
tài KHCN-06.08. Lưu trữ tại Viện hải Dương Học Nha Trang.
Tóm tắt
Tai biến bồi tụ, xói lở cửa sông ven biển đang là mối lo sâu sắc của các cấp chính
quyền, nhân dân nhiều địa phương. Mặc dù còn nhiều hạn chế, những kết quả nghiên cứu
đạt được đã tạo dựng cơ sở khoa học giúp cho định hướng nghiên cứu tiếp theo và bước đầu
đã có những đề xuất giải pháp phòng chống.
Xói lở phổ biến ở cả ba miền, ở các kiểu địa hệ ven viển như bờ hở, cửa sông châu
thổ, cửa sông hình phễu, đầm phá và các đảo, với cường độ và tính bất thường ngày càng
tăng. Bồi tụ bất thường gây tai biến như sa bồi luồng bến , bồi lấp cửa sông, cửa biển và di
13
động của cồn cát ven biển cũng gia tăng đáng kể. Nguyên nhân sâu xa bồi, xói liên quan
đến tiến hóa tự nhiên, biến động khí hậu-thủy văn và tác động nhân sinh ở cả ven bờ và trên
lưu vực. Động lực nội sinh có vai trò phông nền và là nguyên nhân sâu xa. Động lực ngoại
sinh thường là nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp, có liên quan các quá trình thuỷ thạch động
lực gây ra thiếu hụt hoặc tập trung bồi tích. Khá phổ biến các trường hợp tai biến sa bồi đi
kèm và do xói lở. Tương lai, diễn biến xói lở, bồi tụ bờ biển cửa sông vẫn rất phức tạp.

Xói lở và bồi tụ cửa sông, bờ biển gây ra những hậu quả hết sức nặng nề như thiệt
hại trực tiếp về sinh mạng, tài sản và đất đai; gây tai biến đi kèm và suy thoái môi trường
sinh thái; tạo ra sự phát triển kinh tế xã hội kém bền vững như hiệu quả đầu tư thấp, hạn chế
khả năng đầu tư lớn và dài hạn, di dân và tâm lý không ổn định trong đời sống, sản xuất. Từ
nhiều năm qua, phòng chống xói lở và sa bồi đã được quan tâm. Tuy nhiên, do điều kiện kinh
tế khó khăn, các giải pháp phòng chống còn thụ động, thiên về giải quyết tình huống và còn
thiếu những căn cứ khoa học tin cậy. Những kết quả nghiên đã đạt được còn bộc lộ nhiều hạn
chế, nhất là khả năng ứng dụng thực tiễn. Phòng chống tai biến bồi và xói bờ biển cửa sông
là nhiệm vụ hết sức khó khăn và để đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, mức độ đầu tư
nghiên cứu cần được tăng cường hơn nữa.
Phòng chống bồi-xói cần được tiến hành đồng bộ và toàn diện các giải pháp từ tầm vĩ
mô đến cụ thể, trực tiếp và gián tiếp, phi công trình và công trình, giải pháp cứng và giải
pháp mềm, phù hợp với từng đoạn bờ cụ thể. Cần phải có giải pháp tổng thể nằm trong
khuôn khổ quản lý tổng hợp dải ven biển, kết hợp với quản lý lưu vực và có những biện pháp
ứng sử cấp bách và chiến lược lâu dài. Cần ưu tiên các giải pháp công trình kết hợp nhiều lợi
ích, chú trọng kết hợp phòng chống xói lở với chỉnh trị sa bồi. Áp dụng các giải pháp hiện
đại của thế giới, đồng thời xây dựng các giải pháp phù hợp với điều kiện Việt Nam. Tăng
cường cơ sở pháp lý, quy định bảo vệ bờ biển. Xây dựng cơ sở dữ liệu,thành lập mạng lưới
quan trắc, giám sát tai biến bồi-xói lở định kỳ nhằm phát hiện và cảnh báo tai biến để có
những giải pháp ứng sử kịp thời.
Abstract
Principal research results on coastal erosion and sedimentation in Vietnam
By Pham Huy Tien, Tran Duc Thanh & Bui Hong Long
The risks of coastal erosion and sedimentation are deeply anxious for many local
authorities and communities. Despite a lot of limitations, the archived research results have
established a scientific basement to orient the further investigation, and some initial
resolutions of controlling these risks have been proposed.
Increasing intensity and suddenness, the coastal erosion has expanded on the whole
country, and in all coastal geosystems such as open coasts, deltas, estuaries, lagoons and
islands. The risks of unusual sedimentation such as siltation of shipping channels, filling river

mouths and lagoon inlets, and moving sand dunes have been also increased remarkably. The
deep causes of sedimentation and erosion risks are related to coastal evolution, meteo-
hydrology factors and human impact in the both coastal zone and catchment. The endogenous
dynamics play the basement role, and are deep cause, generally. The exogenous dynamics are
often principal and direct cause relative to the litho dynamic processes, which make
concentration or dispersion of the sediments. In the many situations, the sedimentation risks
are accompanied and caused by sedimentary supplied from neighboring. The tendency of
coastal erosion and sedimentation will be very complicate in the future.
14
These risks have made the very heavy consequences, included damages of human
beings, properties and land; degradation of coastal environment and ecosystems;
unsustainable development with the investment of low effectiveness and small scale;
emigration; and unstable thought in life and production of communities. From long time, the
control of them has been interested. However, the implemented resolutions have been
passive, responded to concrete situations and lacked definite scientific bases. The existing
researches have exposed a lot of limitations, especially applied availability. The control of
these risks is a very complicated task, and investment for research needs to be strengthened
for responding to the requirements in practice.
The control of coastal sedimentation and erosion need to be implemented by the
synchronous and comprehensive resolutions, from macroscopic to concrete range, direct and
indirect, construction and non-construction, and soft and hard constructions, corresponding to
each coastal site. A comprehensive resolution must be in the framework of integrated coastal
management, combining with catchment management, and to have both immediate responses
and long-term strategy. The priority is given to the construction resolutions combined with
other benefits and a special importance is paid to the combination of controlling coastal
erosion and sedimentation. It needs to be applied modern resolutions, and building the
resolutions suitable to Vietnam situation. It is also necessary to strengthen legislative
basement for coastal protection; to build data base; and to establish a network of observing
and monitoring coastal erosion and sedimentation regularly for the purpose of detecting and
warning risks, and having the timely decisions.

15

×