Tải bản đầy đủ (.docx) (95 trang)

chuyên đề phân tích cấu thành tội phạm trong pháp luật hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.2 KB, 95 trang )

CẤU THÀNH TỘI PHẠM PLHS
Tội phạm là một hiện tượng xã hội và một trong những đặc điểm của tội phạm là tính
nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội thể hiện ở chỗ nó ảnh hưởng đến sự
tồn tại và phát triển của xã hội. Để xác định hành vi nào đó do con người thực hiện có
phải là tội phạm hay không phải dựa vào cấu thành tội phạm. Cấu thành tội phạm là cơ sở
pháp lý thống nhất để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội. Như vậy, “cấu thành
tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu được quy định trong Luật Hình sự đặc trưng cho một
loại tội phạm cụ thể”. Nhắc đến CTTP là đề cập đến các yếu tố bắt buộc cấu thành nên tội
phạm đó cũng như các dấu hiệu của mỗi yếu tố đó. Phụ thuộc vào mỗi chế độ, nhà nước
khác nhau và phụ thuộc vào chính sách hình sự của nhà nước đó mà quy định trong pháp
luật hình sự những yếu tố nào là các yếu tố cấu thành tội phạm. Nghiên cứu lịch sử ra đời
cho thấy lí luận cấu thành tội phạm xuất hiện từ thế kỉ thứ XVI, đầu tiên là ở các tòa án
của nước Đức thời kì phong kiến, sau đó vào các thế kỉ XVIII-XIX vấn đề này được soạn
thảo về mặt lí luận trong trường phái cổ điển của khoa học luật hình sự. Khái niệm CTTP
(theo tiếng Latinh cổ là “corpus delicti”) đã đóng vai trò tố tụng như là căn cứ đầy đủ cho
việc xét xử vụ án hình sự tại tòa án để chứng minh sự hiện diện trong các hành vi của
phạm nhân một CTTP. Lí luận CTTP được phát triển trong khoa học luật hình sự Nga
trước cách mạng vào cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX mà đặc biệt là CTTP đã được
nghiên cứu rộng rãi và phát triển nhất trong khoa học luật hình sự Xô viết từ những năm
50 của thế kỉ XX và tiếp tục cho đến tận ngày nay. Cấu thành tội phạm là một ngữ danh
từ chỉ những yếu tố cấu thành nên một tội pham. Tuy nhiên việc nghiên cứu các quan
điểm khác nhau về khái niệm CTTP cho thấy hiện nay trong khoa học luật hình sự, khái
niệm CTTP vẫn còn được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Chẳng hạng như:
- Nhà hình sự học người Nga nổi tiếng trước Cách mạng tháng Mười – giáo sư viện sĩ
Taganxev N.X phân biệt trong CTTP gồm ba nhóm:
Con người thực tế – kẻ phạm tội;
1
Cái mà hành vi của bị cáo hướng tới – khách thể hoặc là đối tượng của sự xâm hại có tính
chất tội phạm;
Chính sự xâm hại có tính chất tội phạm, được xem xét từ mặt bên trong và bên ngoài.
- Giáo sư Kixchiakôvxki A.O gọi CTTP là những dấu hiệu cần thiết chủ yếu mà thiếu


chúng hoặc là thiếu một trong số chúng thì không thể có tội phạm và đó là bốn dấu hiệu:
Chủ thể,
Khách thể,
Hoạt động bên trong, hoạt động bên ngoài của chủ thể
Kết quả của hoạt động đó.
- Nghiên cứu cổ luật Việt Nam ta thấy, các nhà luật học thời này đã xác nhận có ba yếu tố
của cấu thành tội phạm, đó là:
Yếu tố pháp luật
Yếu tố tâm lý
Yếu tố thực tế
- Theo luật hình sự Việt Nam hiện hành thì cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu
hiệu có tính chất đặc trưng chung cho một loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật
hình sự. Có hai nhóm dấu hiệu CTTP là:
+ Nhóm các dấu hiệu không bắt buộc của CTTP: chỉ có ở những tội phạm cụ thể được
quy định trông luật hính sự chứ không bắt buột có ở mọi tội phạm. bao gồm:
v Hậu quả của tội phạm;
v Động cơ, mục đích của tội phạm;
v Dấu hiệu đặc biệt của chủ thể đặc biệt.
2
+ Nhóm các dấu hiệu bắt buộc của CTTP: gồm có:
v Khách thể của tội phạm
v Mặt khách quan của tội phạm
v Mặt chủ quan của tội phạm
v Chủ thể của hành vi tội phạm
@ Các dấu hiệu bắt buộc CTTP là một nội dung quan trọng nhất trong việc xác định tội
phạm, nó tổng hợp những yếu tố cấu thành nên một tội phạm mà nếu thiếu một trong
những yếu tố này thì hành vi sẽ không cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, việc quy định về
cấu thành tội phạm cũng như các yếu tố cấu thành tội phạm mới chỉ là bước đầu tiên có ý
nghĩa xác định tội phạm, mục đích xa hơn nữa của pháp luật hình sự là phải quy định
biện pháp xử lý đối với tội phạm đó. Nói cách khác, đó là hậu quả pháp lý của việc thực

hiện tội phạm.
Để góp phần xác định tội phạm và áp dụng hình phạt trong tình hình hiện nay, đứng ở
góc độ là một người nghiên cứu pháp luật, người viết sẽ trình bày một số nội dung liên
quan đến việc xác định các dấu hiệu bắc buộc để cấu thành nên một tôi phạm và biện
pháp chế tài tương ứng với tội phạm đó.
B. CÁC DẤU HIỆU BẮT BUỘC CỦA CẤU THÀNH TỘI PHẠM
I. Khái niệm của các dấu hiệu CTTP bắt buộc:
CTTP bắt buộc là Những yếu tố đặc trưng của các loại tội phạm cụ thể được quy định
trong Bộ luật hình sự. Chỉ khi nào có đầy đủ các dấu hiệu bắt buột này thì hành vi vi
phạm pháp luật mới được coi là hành vi phạm tội. Những dấu hiệu bắt buộc bao gồm:
khách thể, chủ thể, khách quan, chủ quan.
II. Đặc điểm của các dấu hiệu CTTP bắt buộc:
1. Khách thể của tội phạm:
3
a. Khái niệm: Khách thể của tội phạm là hệ thống các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm
hại như: “độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ
chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do,
tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác
của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa (khoản 1 điều 8 BLHS)”, trực tiếp hoặc gián tiếp
ảnh hưởng đến lợi ích và sự tồn tại của giai cấp thống trị được nhà nước (đại diện cho
giai cấp thống trị) bảo vệ bằng các quy phạm pháp luật hình sự.
b. Các loại khách thể tội phạm:
Khao học luật hình sự dựa trên mức độ khái quát của quan hệ xã hội chia khách thể tội
phạm thành ba loại:
- Khách thể chung của tội phạm: là tổng hợp các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ
khỏi sự xâm hại của tội phạm. các quan hệ xã hội đó là “chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền
làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa” nghĩa (Điều 1 BLHS) và “độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh

thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công
dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa” (khoản 1 điều
8 BLHS).
- Khách thể loại của tội phạm: là nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất, được nhóm các
quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của nhóm tội phạm như an ninh 1
nhóm, con người 1 nhóm, trật tự XH 1 nhóm … có 14 nhóm trong phần các tội phạm của
BLHS hiện hành. Vì dụ: tội phản bội Tổ Quốc (điều 78 BLHS) và tội bạo loạn (điều 82
BLHS) tuy hai tội khác nhau nhưng có chung tính chất là xâm hại đến an ninh quốc gia
nên được xếp chung nhóm “các tội xâm phạm an ninh quốc gia”
4
- Khách thể trực tiếp: của tội phạm: là một hoặc một số quan hệ xã hội cụ thể bị hành vi
phạm tội cụ thể xâm hại.
Ví dụ: A trộm cắp tài sản của B. A đã xâm hại đến khách thể trực tiếp là quyền sở hữu tài
sản của B và gây hại đến khách thể chung và khách thể loại là quyền sở hữu của công
dân. Vậy nên 1 tội phạm phải có it nhất 1 khách thể trực tiếp.
c. Đối tượng tác động của tội phạm: là 1 bộ phận của khách thể, bị hành vi phạm tội tác
động đến, để gây thiệt hại cho khách thể. Ví dụ: Khách thể quyền được tôn trọng và bảo
vệ tính mạng của con người (đang sống) là đối tượng tác động của tội giết người mà tội
phạm gây ra. Tội phạm thông thường tác động đến các đối tượng sau:
v Chủ thể của quan hệ xã hội (con người)
v Nội dung của các quan hệ xã hội (quyền và nghĩa vụ của chủ thể)
v Đối tượng tác động của các quan hệ xã hội ( vật thể)
@ Khách thể có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về cả mặt lý luận lẩn thực tiển lập pháp và áp
dụng pháp luật hình sự.
2. Mặt khách quan của tội phạm:
a. khái niệm: Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm bao gồm
những dâu hiệu cũa TP, diễn ra và tồn tại bên ngoài thê giới khách quan.
b. Dấu hiệu: Mặt khách quan của tội phạm có các dấu hiệu sau: hành vi, hậu quả, mối

quan hệ giữa hành vi và hậu quả, các điều kiện bên ngoài.
b.1. Hành vi khách quan của tội phạm: là tất cả những xử sự của con người được biểu
hiện ra thế giới khách quan dưới những hình thức nhất định (hành động hoặc không hành
động) gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự
bảo vệ. Để trở thành hành vi khách quan của tội phạm thì hành vi đó phải có các đặc
điểm sau:
5
v Hành vi khách quan của tội phạm phải có tính nguy hiểm cho xã hội ( thuộc tính
hiển nhiên)
v Hành vi khách quan của tội phạm trái pháp luật hình sự.
v Hành vi khách quan của tội phạm phải có sự kiểm soát của ý thức và phải có sự điều
khiển của ý chí
- Các hình thức biểu hiện của hành vi khách quan gồm hành động và không hành động:
+ Hành động phạm tội: là làm 1 việc mà pháp luật hình sự cấm. vị dụ: giết người bằng
cách bóp cổ, dùng súng bắn, dao đâm…, trộm xe đạp bằng cách dùng tay bẻ khoá, dẫn
đi…
+ Không hành động phạm tội là hình thức của hành vi phạm tội làm biến đổi tình trạng
bình thường của đối tượng tác động, gây thiệt hại cho khách thể của nó bằng việc chủ thể
không thực hiện một việc mà pháp luật yêu cầu hoặc làm không đến mức yêu cầu dù có
đủ khả năng và điều kiện để thực hiện. Đó là các trường hợp chủ thể có nghĩa vụ phải
hành động, phải làm những việc cụ thể nhất định để đảm bảo sự an toàn về tính mạng của
người khác nhưng chủ thể đã không hành động và là nguyên nhân gây ra cái chết của nạn
nhân. Chẳng hạng người mẹ cố ý không cho con bú dẫn đến đứa trẻ bị chết là một trường
hợp của không hành động. Hành vi giết người còn có thể thực hiện thông qua hành động
của người không có năng lực trách nhiệm hình sự, trường hợp khác: một người đã thành
niên xúi giục một cậu bé dưới 14 tuổi thực hiện hành vi giết người, thì hành vi xúi giục
đó được coi là hành vi giết người và người có hành vi xúi giục là người thực hành trong
tội giết người…
b.2. Hậu quả khách quan của tội phạm: Là hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là
thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho các quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật

hình sự.
Phân loại hậu quả:
6
+ Hậu quả vật chất là những thiệt hại mà con người trực tiếp hoặc thông qua các phương
tiện kỹ thuật có thể xác định được một cách chính xác mức độ của nó. Thiệt hại loại này
có thể là thiệt hại về vật chất hoặc thể chất.
Thiệt hại về vật chất thường được thể hiện thông qua sự biến đổi tình trạng bình thường
của các đối tượng vật chất là khách thể của quan hệ xã hội. Ví dụ, tài sản bị phá huỷ, bị
chiếm giữ, bị sử dụng trái phép…
Thiệt hại về thể chất biểu hiện qua sự biến đổi tình trạng bình thường của thực thể tự
nhiên con người. Nó có thể là tính mạng, sức khoẻ
+ Hậu quả phi vật chất là những thiệt hại không thể tính toán một cách chính xác bằng
các phương tiện đo lường. Sự thiệt hại này chỉ được đánh giá thông qua hoạt động tư duy
của con người. Thiệt hại loại này có thể kể đến như danh dự, nhân phẩm, quyền tự do của
con người, chính trị, xã hội, đạo đức…
b.3. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả:
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm là mối quan hệ giữa các hiện
tượng trong đó một hiện tượng được gọi là nguyên nhân (là hành vi khách quan) làm phát
sinh một hiện tượng khác là kết quả (là hậu quả của tội phạm).Dùng để chỉ hành vi khách
quan đóng vai trò là nguyên nhân, hậu quả nguy hiểm cho xã hội đóng vai trò là hậu quả.
Ví dụ A bị B đánh tuần trước, tuần sau A chết, nếu kết luận giám định của pháp y xác
định nguyên nhân cái chết của A liên quan đến bị B đánh thì A sẽ bị truy cứu, còn không
liên quan thì không bị truy cứu. Một ví dụ khác A thù B, A đến nhà B đâm B, nhưng đến
nhà thì B đã chết trước, A đâm thêm vài nhát tuy không có mối quan hệ nhân quả tuy
nhiên vẫn có tội. Để xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả chúng ta cần
dựa vào các cơ sở có tính nguyên tắc sau:
+ Hành vi được coi là nguyên nhân phải là hành vi trái pháp luật hình sự và xảy ra trước
hậu quả về mặt thời gian. Ví dụ: A bị phát hiện là chết đuối. Tuy nhiên, qua khám
nghiệm tử thi không cho thấy các dấu hiệu của chết đuối ( như:dạ dầy có nước, ngạt
7

thở…). Mặt khác, trong dạ dày A có một loại chất độc và theo kết luận, A chết do loại
chất độc đó. Như vậy, hành vi rơi xuống sông xảy ra sau hậu quả chết người vì vậy nố
không có mối quan hệ nhân quả với hậu quả này.
+ Giữa nguyên nhân và hậu quả phải có mối quan hệ nội tại và tất yếu. Một nguyên nhân
bao giờ cũng chứa đựng mầm mống nội tại nhằm phát sinh kết quả nhất định. Đối với
hành vi (với tư cách là nguyên nhân) cũng thế.Ví dụ, A lái xe tông vào B gây trọng
thương B và được đưa đi cấp cứu nhưng do bệnh viện chậm trễ nên dẫn đến B chết vì vết
thương đó. Hành vi của A có mối quan hệ nhân quả với cái chết của B.
Trong thực tế, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm và hậu quả của tội phạm
tồn tại dưới các dạng sau đây:
+ Dạng quan hệ nhân quả đơn trực tiếp là quan hệ nhân quả mà chỉ có một hành vi trái
pháp luật đóng vai trò là nguyên nhân của hậu quả tội phạm. Bản thân sự vận động nội tại
của hành vi trái pháp luật này độc lập đã có khả năng trực tiếp đưa đến hậu quả. Ví dụ,
hành vi A lén lút vào nhà B trộm tài sản…
+ Dạng quan hệ nhân quả kép trực tiếp là quan hệ nhân quả trong đó nhiều hành vi trái
pháp luật cùng đóng vai trò là nguyên nhân của hậu quả của tội phạm. Trong thực tế,
chúng ta rất khó xác định dạng quan hệ nhân quả thuộc loại này. Ví dụ, A bắn nhằm một
người (người này núp trong bụi cây, A tưởng là thú) thủng dạ dày, đầu đạn đã được lấy ra
coi như an toàn, thoát chết. Không may, người nhà không biết nên cho ăn cơm, dạ dày bị
nhiễm trùng mà chết. Hậu quả chết người do hai nguyên nhân là bắn nhằm và cho ăn cơm
(A phạm tội “vô ý gây thương tích nặng” , người nhà không có tội).
b.4. Những biểu hiện khác của mặt khách quan của tội phạm:
Bên cạnh các mặt biểu hiện đã nêu, mặt khách quan của tội phạm còn được biểu hiện qua
các nội dung khác như phương pháp, phương tiện, công cụ phạm tội, thời gian, địa điểm,
hoàn cảnh phạm tội…Phương tiện phạm tội như phương tiện giao thông, thông tin liên
lạc, tiền…Công cụ phạm tội như gậy gộc, súng, chất độc… là những đối tượng được chủ
8
thể sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Phương tiện phạm tội trong một số trường
hợp là dấu hiệu định tội và định khung hình phạt. Ví dụ, tội phạm tại khoản 2 Điều 133,
Điều 202…

@ Mặt khách quan của tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tội phạm và
áp dụng hình phạt.
3. Chủ thể của tội phạm
a. Khái niệm: chủ thể của tội phạm là một cá nhân có khả năng nhận thức và điều khiển
hành vi của mình và có độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo điều 12 của BLHS 1999
quy định:” khoãn1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm; khoãn2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”
Vi dụ: Lê Văn Luyện sinh ngày 18/10/1993 thực hiện hành vi giết 3 người một cách dã
man vào ngày 24/8/2011 tại tiệm vàng Ngoc Bích (Bắc Giang) để chiếm đoạt tài sản
nhưng do chưa đủ 18 tuổi nên căn cứ vào điều 74 BLHS thì mức hình phạt cao nhất được
áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội là không quá mười tám năm tù nên luyện
không bị tử hình, ở đây có thể thấy Luyện có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi
nhưng với độ tuổi chưa đủ 18 thì luyện chưa nhận thức được một cách đầy đủ về hành vi
của mình nên áp dụng hình phạt 18 năm tù đối với luyện là hoàn toàn thích đáng. Tuy
nhiên bản án này một số người không đồng tình họ đề nghị phải sửa lại luật tử hình
Luyện để pháp luật có tính răn đe và ngăn chặn tội ác. Tuy nhiên muốn xây dựng được
một nhà nước pháp quyền thì cần phải tôn trọng pháp luật hiện hành. Do đó chỉ có thể xét
xử Luyện theo pháp luật hiện hành mà không thể nâng cao hình phạt lên được.
@ Pháp luật hình sự Việt Nam chưa thừa nhận chủ thể của tội phạm là pháp nhân đều
này về nguyên tắc là hợp lý nhưng trên thực tế có nhiều vấn đề mà xã hội bức xúc về
nguyên tắc này. Ví dụ công ty bột ngọt Vedan thường xuyên gây ô nhiểm nguồn nước, về
mặc lý thuyết công ty này mang tính có lỗi và đáng phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng
vì đây là pháp nhân,còn luật hình sự Việc Nam hình phạt chỉ hướng tới cá nhân, nên
9
không thể áp dụng hình phạt tù cho pháp nhân được, nếu cần thì thay đổi lý thuyết, xử lý
hành chính pháp nhân tối đa 500 triệu, một công ty lớn như Vedan thì sồ tiền đó là không
lớn họ không ngại đóng phạt và thế là tình trạng cứ tiếp diển. Tuy nhiên một cá nhân thực
hiện hành vi phạm tội vì lợi ích của pháp nhân (trốn thuế), cá nhân đó phải chịu trách
nhiệm hình sự.

4. Mặt chủ quan của tội phạm:
a. khái niệm
Tội phạm là sự thống nhất giữa hai mặt khách quan và chủ quan. Vì vậy, Luật hình sự
Việt nam không chấp nhận việc quy tội khách quan, nghĩa là truy cứu trách nhiệm hình
sự chỉ căn cứ vào những biểu hiện của hành vi nguy hiểm cho xã hội không kể hành vi đó
bắt nguồn từ đâu, diễn biến tâm lý của người thực hiện hành vi ra sao. Hoạt động định tội
phải là sự kết hợp giữa mặt khách quan và chủ quan, giữa hành vi biểu hiện và thái độ
bên trong của người thực hiện hành vi. Mặt chủ quan của tội phạm biểu hiện thông qua
ba yếu tố: lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội. Mỗi yếu tố có ý nghĩa khác nhau
trong việc chủ thể thực hiện hành vi phạm tội.
- Lỗi là thái độ tâm lý bên trong của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã
hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của mình cũng như khả năng gây ra hậu quả từ hành
vi đó.
- Mục đích phạm tội là kết quả cuối cùng mà người phạm tội muốn đạt được khi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Nó xác định khuynh hướng ý chí và khuynh hướng
hành động của người phạm tội.
- Động cơ phạm tội là động lực thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội
b. nội dung mặt chủ quan của tội phạm
b.1. Lỗi: Lỗi là biểu hiện về mặt tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm
cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình
10
thức lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý . ví dụ A ghét B nên đạp phá nhà B thì A có lỗi, tuy nhiên đám
cháy xảy ra: buộc phải phá bỏ ngôi nhà để vào hẽm chữa cháy thì không có lỗi. vậy nên
để xem xét một hành vi có lỗi không ta xem xét trên hai phương diện:
+ Xã hội: Một hành vi của bị xem là có lỗi khi hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn
của họ trong khi có đủ điều kiện khách quan để lựa chọn và thực hiện những xử sự khác
phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
+ Tâm lý (cơ sở để pháp lý quy định): là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành
vi của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý
hoặc vô ý: lý trí và ý chí, tình cảm (không được tính, do ko chi phối thường xuyên

thường trực).
Phân loại lỗi
- Cố ý trực tiếp: được quy định tại Khoản 1, Điều 9 BLHS “Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của
một người khi thực hiện hành vi phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm
cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả xảy ra”.
+ Dấu hiệu pháp lý:
Lý trí:
Đối với hành vi: người phạm nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội.
Đối với hậu quả: người phạm tội nhận thức hậu quả là tất yếu xảy ra.
Ý chí: mong muốn cho hậu quả xảy ra.
Ví dụ, A thù B đã từ lâu , nên một ngày kia A cầm lựu đạn đến nhà B để giết B. Khi đến
nhà B thì thấy B đang ngồi nhậu, thấy vậy nhưng mà A vẫn ném lựu đạn vào khiến B
chết tại chổ. Như vậy trong tình huống trên thì A do thù B đã lâu và đã chuẩn bị sẵn công
cụ để thực hiện hành vi giết B. Về hành vi của A thì rõ ràng A nhận thức rõ hành vi của
mình là nguy hiểm và có thể gây nên cái chết cho B nhưng vẫn ném, vậy rõ ràng hành vi
11
của A là cố ý, mặc khác A mong muốn hậu quả sẽ xảy ra.Như vậy hành vi của A là cố ý
trực tiếp.
- Lỗi cố ý gián tiếp: được quy định tại Khoản 2, Điều 9 BLHS: “Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi
của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của mình
là nguy hiểm cho xã hội thấy trước hậu quả của hành vi đó (lý trí) có thể xảy ra tuy không
mong muốn nhưng có ý thức để mặc hậu quả xảy ra (y chí)”. Từ quy định chung trên có
thể thấy cố ý gián tiếp trong tội giết người là trường hợp người có hành vi phạm tội thấy
rõ hành vi của mình có khả năng làm chết người khác, mặc dù họ không mong muốn cho
hậu quả xảy ra nhưng vẫn thực hiện hành vi đó và để mặc cho hậu quả xảy ra. Điều đó có
nghĩa là trong ý thức chủ quan của mình, người phạm tội hoàn toàn không có ý định tước
đoạt tính mạng của người khác, mà họ chỉ thực hiện hành vi phạm tội với thái độ bỏ mặc
cho hậu quả muốn đến đâu thì đến. Vậy thì hậu quả xảy ra đến đâu thì họ chỉ phải chịu
trách nhiệm đến đó thôi. Ví dụ, như trong lúc ngồi nhậu, A và B có xích mích dẫn đến cãi
nhau. Bạn bè đã can ngăn nhưng B vẫn chửi A. A tức mình nên cầm một chai bia phang

mạnh vào đầu B làm B chết trên đường đi cấp cứu. Trường hợp này phải xác định hành vi
của A là hành vi giết người với lỗi cố ý gián tiếp. Vì, tuy A thực hiện hành vi trong lúc có
nóng giận, nhưng với nhận thức của một người bình thường thì A hoàn toàn có khả năng
nhận thức được cú đánh mạnh của mình có khả năng làm B bị chết, nhưng A vẫn thực
hiện. Mặc dù không mong muốn cho hậu quả xảy ra nhưng A đã để mặc cho hậu quả xảy
ra. Nếu người phạm tội không thấy được hành vi của mình có khả năng làm chết người
thì đó là hành vi cố ý gây thương tích,Ví dụ, như cũng trường hợp trên, nhưng A không
dùng chai bia đánh B mà chỉ dùng tay đấm vào mặt B làm cho B bị ngã ra phía sau đập
đầu vào vật cứng dẫn đến tử vong. Trong trường hợp này, A chỉ mong muốn làm cho B
bị đau và không thấy được cú đấm của mình có khả năng làm cho B bị chết. Do đó A
phạm tội cố ý gây thương tích (trong trường hợp dẫn đến trết người)
- Lỗi vô ý vì quá tự tin (khoản 1 Điều 10 Bộ luật hình sự): Lỗi vô ý vì quá tự tin là lỗi
trong trường hợp người phạm tội tuy thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy
hiểm cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được
12
nên vẫn thực hiện và đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Ví dụ, một người bán thức
ăn đã quá hạn sử dụng có thể nguy hiểm đến tính mạng cho người dùng nhưng vẫn tin
vào kinh nghiệm của mình rằng dù thức ăn quá hạn nhưng vẫn không ảnh hưởng đến sức
khoẻ người tiêu dùng, do đó người bán hàng đã bán thức ăn cho khách hàng và người tiêu
dùng đã bị ngộ độc.
@ Xét ở phương diện ý chí, trường hợp lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi cố ý gián tiếp có sự
khác nhau. Ở lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội tuy không mong muốn hậu quả xảy ra
nhưng có ý thức để mặc cho nó xảy ra và chấp nhận hậu quả đó. Ở lỗi vô ý vì quá tự tin,
người phạm tội đã loại trừ khả năng hậu quả sẽ xảy ra nên đã thực hiện hành vi, nếu họ ý
thức được hậu quả thực tế có thể xảy ra thì họ không thực hiện hành vi. Đó là yếu tố
khiến lỗi cố ý gián tiếp có tính nguy hiểm cao hơn lỗi vô ý vì quá tự tin.
- Lỗi vô ý do cẩu thả (khoản 2 Điều 10 Bộ luật hình sự): Lỗi vô ý do cẩu thả là lỗi trong
trường hợp người phạm tội đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng do cẩu thả nên
không thấy trước được khả năng gây ra hậu quả đó mặc dù điều kiện khách quan buộc họ
phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.Ví dụ: Anh A ở tầng năm khu trung cư

ném cục đá to ra cửa sổ mà không quan sát phía dưới không may B đi ngang nên bị trúng
làm B chết. ở đây A đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội (làm B chết) nhưng do cẩu
thả nên không thấy trước được khả năng gây ra hậu quả đó mặc dù điều kiện khách quan
buộc A phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
- Ngoài ra còn có các trường hợp đặc biệt về lỗi như:
+ Trường hợp hỗn hợp lỗi:Trường hợp hỗn hợp lỗi là trường hợp trong cùng một cấu
thành tội phạm có hai loại lỗi (cố ý và vô ý) đối với những tình tiết khách quan khác
nhau. Vậy, lỗi hỗn hợp Trường hợp một người cố ý thực hiện hành vi tội phạm nhưng vô
ý gây ra hậu quả của tội phạm.Trường hợp rõ ràng nhất là trường hợp vi phạm các qui
định về an toàn giao thông vận tải, trong trường hợp này, người điều khiển phương tiện
giao thông vận tải cố tình vi phạm các qui định về an toàn như đi quá tốc độ, không đúng
tuyến đường, không có bằng lái, lái xe trong tình trạng say rượu, nhưng cho rằng mình có
13
thể làm chủ được và hoàn toàn không mong muốn hậu quả xảy ra. Trên thực tế hậu quả
do tai nạn giao thông gây ra hoàn toàn nằm ngoài ý nghĩ chủ quan ( vô ý) của người điều
khiển phương tiện. Khái niệm “ lỗi hỗn hợp” không được sử dụng trong BLHS nhưng
vẫn được các nhà hình sự học dùng đến khi nghiên cứu yếu tố “ lỗi” trong hành vi phạm
tội nhằm phân biệt một cách chính xác yếu tố lỗi trong các trường hợp phạm tội.
+ Sự kiện bất ngờ: Theo quy định của Điều 11 Bộ luật hình sự thì, “Người thực hiện hành
vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ, tức là trong trường hợp không thể
thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu
trách nhiệm hình sự”. Ví dụ, Một người đi bằng xe môtô ( có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ ) chạy xe trên đoạn đường làng, khúc đường đang mùa gặt lúa. Đường trống trải
nhưng lờ mờ do khối đốt đồng nên Anh ta chạy xe với tốc độ vừa phải . Có một đám trẻ
đang chơi đùa ở phía trước bên cạnh có một đống rơm ( rạ) nằm ngay bên đường, tới
khúc đường trên anh ta bóp kèn mà mấy đứa nhỏ chằng chịu tránh đường. Anh ta liền
chạy thằng qua đống rơm đó. Xui cho anh ta là trong đồng rơm có một đứa trẻ đang ở
trong đó. Xe Anh ta cán qua ngang người làm chết đứa trẻ ngay tại chỗ. ví dụ nêu trên
thì nó là sự kiện bất ngờ thuộc trường hợp không thể thấy trước hậu quả của hành vi. Tức
là khi thực hiện hành vi cho xe chạy qua đống rơm, anh ta không nhận thức được hành vi

của mình sẽ gây ra hậu quả chết người. Bởi xét về mặt khách quan trong hoàn cảnh cụ thể
đó, pháp luật không buộc anh ta hay bất cứ người nào phải kiểm tra để biết được trong
đống rơm có người hay không. Do đó mà anh ta hay bất cứ người nào cũng không thể
thấy trước được hành vi của mình sẽ gây ra hậu quả nguy hiểm. Tuy nhiên, trên thực tế
có nhiều trường hợp do lỗi do sự kiện bất ngờ nhưng vẩn bị truy cứu trách nhiệm hình sự
nhất là trong vụ việc tai nạn giao thông.
@ Như vậy, để xác định người phạm tội thuộc hình thức lỗi nào chúng ta phải căn cứ vào
hai mặt đó là ý chí và lý trí.
b.2. Động cơ phạm tội:
14
Động cơ phạm tội được hiểu là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện
hành vi phạm tội (có thể hiểu là nguyên nhân tinh thần của tội phạm). Ví dụ, tội phạm
trộm cắp tài sản có thể vì nghèo, thù ghét người bị hại hoặc để chia cho người nghèo
khác…
@ Trong Luật hình sự Việt nam, động cơ phạm tội rất ít được phản ánh trong cấu thành
tội phạm với ý nghĩa định tội. Ví dụ, tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 142 Bộ luật hình
sự) đòi hỏi dấu hiệu động cơ “vụ lợi” là dấu hiệu bắt buộc. Động cơ phạm tội có thể được
phản ánh trong cấu thành tăng nặng hoặc giảm nhẹ là dấu hiệu định khung. Chẳng hạn,
“động cơ đê hèn” là dấu hiệu định khung tăng nặng của tội giết người (Điều 93). Mặt
khác, động cơ phạm tội cũng có thể được xem là tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách
nhiệm hình sự được quy định tại Điều 46, 48 Bộ luật hình sự
b.3. mục đích phạm tội:
Mục đích phạm tội là điểm cuối cùng mà người phạm tội đặt ra cho hành vi phạm tội phải
đạt tới (kết quả mà kẻ phạm tội mong muốn đạt được).
@ Trong Luật hình sự, mục đích phạm tội không được thể hiện trong cấu thành tội phạm
ở tất cả các tội phạm. Tuy nhiên, ở một số tội phạm, dấu hiệu mục đích là bắt buộc trong
cấu thành tội phạm. Ví dụ, các tội xâm phạm an ninh quốc gia bắt buộc phải có mục đích
“chống chính quyền nhân dân”. Khi đó, để chứng minh tội phạm xâm phạn an ninh quốc
gia, chúng ta cần chứng minh khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội phải có
mục đích đó.

ĐÁNH GIÁ ĐỀ TÀI
Nhà nước sẽ không tồn tại nếu không có pháp luật, pháp luật chính là công cụ, phương
tiện để Nhà nước quản lý xã hội và duy trì chế độ chính trị. Nếu không có sự can thiệt
của pháp luật thì xã hội sẽ không ổn định. Trong tình hình hiện nay, tội phạm đang ngày
càng gia tăng về số lượng cũng như tính đa dạng và phức tạp, điều này đã gây nên sự
hoang mang lo ngại cho toàn xã hội. Vì vậy, công tác xác định một hành vi nào đó có
15
phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật hình sự hay không là vấn đề được các nhà áp dụng
pháp luật nói riêng và mọi người trong xã hội nói chung đặc biệt quan tâm.
Các dấu hiệu bắt buộc của CTTP với vai trò là cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự và
là cơ sở để định tội, bởi một hành vi chỉ chịu trách nhiệm hình sự và hình phạt tương ứng
khi hành vi đó hội đủ tất cã các dấu hiệu bắc buột của CTTP đó, và ngược lại , một hành
vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng không thoả mãn một trong số các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm sẽ được xem là không có tội phạm xảy ra và trách nhiệm hình sự không
được đặt ra. Điều này phù hợp với nguyên tắc “không có luật, không có tội” theo điều 2
của BLHS “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu
trách nhiệm hình sự”
Tuy nhiên, trên thực tế sự hạn chế về công tác xác định các dấu hiệu bắt buộc của CTTP
đang là vấn đề bắt cập, vướng mắc mà các nhà áp dụng pháp luật gặp phải. Hạn chế lớn
nhất của việc áp dụng pháp luật trong điều kiện hiện nay là giữa luật và thực tiển có một
“khoãng cách” nhất định. Có những trường hợp vụ việc xãy ra trong thực tế mà không
thể áp dụng pháp luật được hoặc luật quy định như thế này nhưng trong quá trình áp dụng
thì lại như thế khác. Từ đó, dẫn đến sự lúng túng trong quá trình áp dụng luật của các cơ
quan tư pháp. Vì vậy nhu cầu đặt ra trong tình hình hiện nay là:
+ Đối với các nhà áp dụng luật: Trong việc điều tra, truy tố, xét xử phải tuân theo đúng
và đầy đủ các thủ tục luật định nhằm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không
để loạt tội phạm, không để oan người vô tội.
+ Đối với các nhà làm luật: Cần quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân, vì hiện nay
nhiều vụ pháp nhân vi phạm không xử lý được, nhất là nhóm tội phạm về kinh tế. Đã đến
lúc phải chấm dứt tình trạng “một chủ trương được cả tập thể quyết định rồi dẫn đến làm

sai, nhưng chỉ có một cá nhân chịu trách nhiệm”. Nếu quy định pháp nhân phải chịu trách
nhiệm hình sự trong tương lai được thể hiện tại BLHS thì nguyên tắc mọi hành vi phạm
tội không thoát khỏi sự trừng trị của pháp luật sẽ được củng cố. Đây sẽ là điều kiện quan
trọng bảo đảm hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta hiện nay.
16
Phải nhanh chống hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, bộ luật hình sự nói riêng, việc
sửa đổi, bổ sung, quy định tội phạm mới hay xoá bỏ một tội phạm phải được tiến hành
một cách hợp pháp và công khai, theo đúng thủ tục luật định. Ngoài ra, việc xây dựng
pháp luật hình sự phải dựa trên những cơ sở khoa học, và xây dựng một cách hoàn thiện,
đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. mặc khác, các quy định của
Luật hình sự phải được xây dựng một cách cụ thể, chính xác với các dấu hiệu của từng
hành vi phạm tội và hậu quả pháp lý của nó để các nhà áp dụng luật dể dàng xác định tội
danh và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội.
+ Đối với nhân dân: đòi hỏi mỗi người dân đều phải tuân thủ pháp luật một cách triệt để,
không ngừng tăng cường cảnh giác cao độ, nâng cao ý thức pháp luật, tích cực đấu tranh
phòng và chống tội phạm.
@ Làm được điều đó sẽ góp phần thu hẹp dần “khoãng cách” giữa luật và thực tiễn, giúp
cho việc áp dụng pháp luật trong quá trình quản lý xã hội được dễ dàng và mang lại hiệu
quả cao. Đồng thời cũng góp phần làm cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và
trật tự an toàn xã hội chặt chẽ hơn. Đó là điều kiện, nền tảng tiên quyết cho quá trình xây
dựng và bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ luật hình sự 1999;
TS.Phạm Văn Beo, Luật hình sự Việt nam – quyển 1 ( phần chung), NXB Chính Trị Quốc
Gia, Hà Nội 2009;
Nguyễn Ngọc Hoà, Tội phạm và Cấu thành tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
2006;
Taganxev N.X. “Luật hình sự Nga” Các bài giảng. Phần chung. Tập 1, Nxb. Khoa học.
Maxcơva, 1994;
Lý luận cấu thành tội phạm trong khoa học luật hình sự

17
1. Vài nét về lịch sử xuất hiện và phát triển lí luận cấu thành tội phạm
Nghiên cứu lịch sử ra đời cho thấy lí luận cấu thành tội phạm (CTTP) xuất hiện từ thế kỉ
thứ XVI, đầu tiên là ở các tòa án của nước Đức thời kì phong kiến, sau đó vào các thế kỉ
XVIII-XIX vấn đề này được soạn thảo về mặt lí luận trong trường phái cổ điển của khoa
học luật hình sự. Khái niệm CTTP (theo tiếng Latinh cổ là “corpus delicti”) đã đóng vai
trò tố tụng như là căn cứ đầy đủ cho việc xét xử vụ án hình sự tại tòa án để chứng minh
sự hiện diện trong các hành vi của phạm nhân một CTTP. (1) Lí luận CTTP được phát
triển trong khoa học luật hình sự Nga trước cách mạng vào cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ
XX mà đặc biệt là CTTP đã được nghiên cứu rộng rãi và phát triển nhất trong khoa học
luật hình sự Xô viết từ những năm 50 của thế kỉ XX và tiếp tục cho đến tận ngày nay.
2. Khái niệm cấu thành tội phạm
Việc nghiên cứu các quan điểm khác nhau về khái niệm CTTP cho thấy hiện nay trong
khoa học luật hình sự, khái niệm CTTP vẫn còn được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
Chẳng hạn như:
- Nhà hình sự học người Nga nổi tiếng trước Cách mạng tháng Mười – giáo sư viện sĩ
Taganxev N.X phân biệt trong CTTP ba nhóm: a) Con người thực tế – kẻ phạm tội; b)
Cái mà hành vi của bị cáo hướng tới – khách thể hoặc là đối tượng của sự xâm hại có tính
chất tội phạm; c) Chính sự xâm hại có tính chất tội phạm, được xem xét từ mặt bên trong
và bên ngoài. (2)
- Giáo sư Kixchiakôvxki A.O gọi CTTP là những dấu hiệu cần thiết chủ yếu mà thiếu
chúng hoặc là thiếu một trong số chúng thì không thể có tội phạm và đó là bốn dấu hiệu:
Chủ thể, khách thể, hoạt động bên trong, hoạt động bên ngoài của chủ thể và kết quả của
hoạt động đó. (3)
- Vào đầu thế kỉ XX, viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Liên Xô Piôntkôvxki A.A đã coi
khái niệm CTTP là các yếu tố cơ bản của tội phạm mà chúng đều có trong mỗi một tội
18
phạm mà nếu như thiếu một trong số chúng thì dẫn đến sự thừa nhận là không có CTTP
và các yếu tố này là: a) Chủ thể nhất định của tội phạm; b) Khách thể nhất định của tội
phạm; c) Bản chất nhất định của mặt chủ quan trong cách xử sự; d) Bản chất nhất định

của mặt khách quan trong cách xử sự của chủ thể của tội phạm. (4) Sau đó, vào những
năm 70 của thế kỉ XX, viện sĩ này đã viết: Lí luận luật hình sự Xô viết coi CTTP là tổng
hợp các dấu hiệu thể hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội nhất định là tội phạm theo
pháp luật hình sự Liên Xô. (5)
- Giáo sư Trainhin A.N quan niệm CTTP là tổng hợp tất cả những dấu hiệu (yếu tố)
khách quan và chủ quan mà theo luật hình sự khẳng định một hành vi cụ thể nguy hiểm
cho xã hội (bằng hành động hoặc không hành động) đối với nhà nước là tội phạm. (6)
- Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Liên Xô (LB Nga hiện nay) Kuđriavtxôv V.N coi CTTP
là tổng hợp những dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội xác định nó, theo luật hình
sự là tội phạm và bị xử phạt về hình sự. (7)
- Gần đây nhất, giáo sư Kuznhetxôva N.F đưa ra định nghĩa: “CTTP là hệ thống các yếu
tố khách quan và chủ quan bắt buộc của hành vi tạo nên tính nguy hiểm cho xã hội của
nó và được cấu trúc theo bốn tiểu hệ thống mà những dấu hiệu của chúng được ghi nhận
trong các phần quy định của các quy phạm pháp luật hình sự của Phần chung và Phần
riêng BLHS”. (8)
- Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, về cơ bản, quan điểm được thừa nhận rộng rãi
về khái niệm của CTTP là tổng hợp những dấu hiệu đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể
được quy định trong pháp luật hình sự. (9)
Như vậy, trên cơ sở khái niệm tội phạm và phân tích khoa học lí luận CTTP đồng thời
nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự về định tội danh, theo quan
điểm của chúng tôi, có thể đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm CTTP như sau:
CTTP là tổng hợp các dấu hiệu pháp lí (khách quan và chủ quan) do luật hình sự quy
định thể hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể là tội phạm, tức là căn cứ vào các
dấu hiệu đó một hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm. Hay nói cách khác, một
19
CTTP cụ thể là tổng hợp các dấu hiệu khách quan và chủ quan bắt buộc, mà bằng các dấu
hiệu đó nhà làm luật quy định tại quy phạm của Phần các tội phạm BLHS tính chất tội
phạm và tính chất bị xử phạt (hay còn gọi là tính chất bị xử lí về hình sự) của hành vi
nguy hiểm cho xã hội tương ứng bị luật hình sự cấm đồng thời chỉ ra loại hình phạt nào
và trong giới hạn nào nó có thể được toà án áp dụng đối với người có lỗi trong việc thực

hiện tội phạm ấy.
3. Các đặc điểm của cấu thành tội phạm
Từ định nghĩa của khái niệm CTTP trên đây cho thấy bất kì CTTP nào cũng phải có các
đặc điểm cần và đủ như sau: 1) Trước hết, CTTP là một hệ thống các dấu hiệu pháp lí
khách quan và chủ quan có tính chất bắt buộc; 2) Các dấu hiệu pháp lí này của CTTP
nhất thiết phải được quy định trong pháp luật hình sự thực định; 3) Chỉ có trên cơ sở tổng
hợp đầy đủ các dấu hiệu pháp lí này của CTTP thì mới có căn cứ để khẳng định hành vi
nguy hiểm cho xã hội nào đó bị luật hình sự cấm và đã được thực hiện trong thực tế chính
là một tội phạm; 4) Cuối cùng, CTTP chính là mô hình pháp lí của tội phạm.
4. Yếu tố của cấu thành tội phạm
Yếu tố của CTTP có thể được định nghĩa là bộ phận hợp thành của cấu trúc trong cấu
thành ấy và bao gồm một nhóm các dấu hiệu tương ứng với các phương diện (các mặt)
của hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm (tức là hành vi bị nhà làm luật coi
là tội phạm). Quan điểm truyền thống được thừa nhận chung trong khoa học luật hình sự
đương đại là: CTTP có bốn yếu tố: Khách thể (1), mặt khách quan (2), chủ thể (3) và mặt
chủ quan (4) của tội phạm. Để nhận thấy rõ bản chất của mỗi yếu tố CTTP, dưới đây
chúng ta cần phải đưa ra định nghĩa về khái niệm của từng yếu tố như sau:
1) Khách thể của tội phạm: Là quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ tránh khỏi
sự xâm hại có tính chất tội phạm nhưng bị tội phạm xâm hại đến và gây nên (hoặc có thể
gây nên) thiệt hại đáng kể nhất định.
20
2) Mặt khách quan của tội phạm: Là mặt bên ngoài của sự xâm hại nguy hiểm đáng kể
cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự, tức là sự thể hiện cách xử
sự có tính chất tội phạm trong thực tế khách quan.
3) Chủ thể của tội phạm: Là người đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS theo
luật định (ngoài ra, trong một số trường hợp cụ thể còn có một số dấu hiệu bổ sung đặc
biệt do quy phạm pháp luật hình sự tương ứng quy định).
4) Mặt chủ quan của tội phạm: Là mặt bên trong của sự xâm hại nguy hiểm đáng kể cho
xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự lỗi, tức là thái độ tâm lí của chủ

thể được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội bị
do mình thực hiện và đối với hậu quả của hành vi đó (lỗi).
5. Dấu hiệu của cấu thành tội phạm
Có thể định nghĩa dấu hiệu của CTTP là đặc điểm chung về mặt lập pháp của các thuộc
tính điển hình và chủ yếu hơn cả, đặc trưng cho tội phạm đó. Nghiên cứu các quy định
trong Phần riêng BLHS có thể nhận thấy rằng các dấu hiệu của CTTP có thể được phân
chia thành hai nhóm: 1) Nhóm các dấu hiệu bắt buộc (là các dấu hiệu chung, đặc trưng
cho tất cả các CTTP cụ thể); 2) Các dấu hiệu tùy nghi hay còn gọi là các dấu hiệu không
bắt buộc (là các dấu hiệu riêng, đặc trưng không phải cho tất cả mà chỉ cho một số CTTP
nhất định nào đó).
Như vậy, mỗi yếu tố trên đây của CTTP đều được thể hiện bằng các dấu hiệu bắt buộc và
các dấu hiệu tuỳ nghi (không bắt buộc) do pháp luật hình sự quy định. Việc xem xét đầy
đủ để có sự nhận thức khoa học thống nhất và đúng đắn các dấu hiệu này của CTTP cụ
thể trong hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện chính là một trong những đảm
bảo cho việc định tội danh đúng đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội tương ứng. Và
chính vì thế, chúng ta cũng cần phải phân tích để xác định rõ các dấu hiệu bắt buộc và
các dấu hiệu tuỳ nghi tương ứng với từng yếu tố của CTTP.
21
1) Khách thể của tội phạm có ba dấu hiệu: Một dấu hiệu bắt buộc là khách thể và hai dấu
hiệu tuỳ nghi là đối tượng của tội phạm và người bị hại của tội phạm.
2) Mặt khách quan của tội phạm có chín dấu hiệu: Một dấu hiệu bắt buộc là hành vi nguy
hiểm cho xã hội và tám dấu hiệu tuỳ nghi là hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả phạm tội, thời gian, không gian, địa điểm, hoàn cảnh
(điều kiện), phương pháp (thủ đoạn), công cụ và phương tiện phạm tội.
3) Chủ thể của tội phạm có bốn dấu hiệu: Ba dấu hiệu bắt buộc là con người cụ thể, có
năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS và một dấu hiệu tuỳ nghi là các dấu hiệu bổ sung
tương ứng đối với riêng chủ thể đặc biệt của tội phạm (như chức vụ, loại nghề nghiệp,
giới tính…).
4) Mặt chủ quan của tội phạm có một dấu hiệu bắt buộc là lỗi và hai dấu hiệu tuỳ nghi là
động cơ và mục đích phạm tội.

6. Phân loại các cấu thành tội phạm
Có thể hiểu phân loại các CTTP là việc chia các CTTP thành những dạng khác nhau dựa
trên các tiêu chí nhất định nhằm đảm bảo cho việc định tội danh và quyết định hình phạt
được chính xác cũng như hỗ trợ cho việc cá thể hóa TNHS và hình phạt được công minh,
có căn cứ và đúng pháp luật. Về cơ bản, trên cơ sở lí luận về CTTP và nghiên cứu thực
tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự liên quan đến việc định tội danh, theo quan
điểm của chúng tôi có thể căn cứ vào bốn tiêu chí cơ bản dưới đây để phân loại các CTTP
thành các dạng như sau:
1) Căn cứ vào tính chất và mức độ của sự nguy hiểm cho xã hội của các tội phạm có thể
phân chia các CTTP thành ba (bốn hoặc năm) loại sau: a) CTTP cơ bản là cấu thành có
các dấu hiệu đặc trưng và bắt buộc chỉ của một tội phạm tương ứng mà sự phân biệt tội
phạm đó với tội phạm khác được dựa trên các dấu hiệu ấy (các dấu hiệu định tội); b)
CTTP giảm nhẹ là cấu thành mà ngoài các dấu hiệu của CTTP cơ bản ra còn có các dấu
hiệu khác phản ánh tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp (không đáng kể) của
22
tội phạm nên có ý nghĩa làm giảm đi đáng kể mức độ TNHS của chủ thể; c) CTTP tăng
nặng (đặc biệt tăng nặng) là cấu thành mà ngoài các dấu hiệu của CTTP cơ bản ra còn có
các dấu hiệu khác phản ánh tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cao (rất cao) của
tội phạm nên có ý nghĩa làm tăng lên đáng kể (rất đáng kể) mức độ TNHS của chủ thể.
2) Căn cứ vào cấu trúc của mặt khách quan của tội phạm có thể phân chia các CTTP
thành hai loại sau: a) CTTP vật chất là cấu thành mà mặt khách quan của nó được pháp
luật hình sự quy định bằng các dấu hiệu của hành vi phạm tội cũng như cả các dấu hiệu
của hậu quả phạm tội nữa (tức là hậu quả nguy hiểm cho xã hội trong trường hợp này
được nhà làm luật coi là dấu hiệu bắt buộc của CTTP); b) CTTP hình thức là cấu thành
mà mặt khách quan của nó được pháp luật hình sự quy định chỉ bằng các dấu hiệu của
hành vi phạm tội.
3) Căn cứ vào cấu trúc của các yếu tố CTTP có thể phân chia các CTTP thành hai loại
sau: a) CTTP đơn giản là cấu thành mà trong đó luật quy định chỉ một khách thể bị xâm
hại, một loại hành vi (hậu quả) phạm tội và một hình thức lỗi; b) CTTP ghép (phức tạp)
là cấu thành mà trong đó luật quy định nhiều khách thể bị xâm hại, nhiều hành vi (hậu

quả) phạm tội và hai hình thức lỗi trong cùng một CTTP (ví dụ: Tội cố ý gây thương tích
mà dẫn đến hậu quả chết người hoặc tội cướp tài sản mà dẫn đến hậu quả chết người…).
4) Căn cứ vào sự mô tả của các CTTP được quy định trong luật có thể phân chia các
CTTP thành hai loại sau: a) CTTP với các dấu hiệu cụ thể (định lượng) là cấu thành mà
trong phần quy định của quy phạm pháp luật hình sự tương ứng, các mức thiệt hại do tội
phạm gây ra được xác định cụ thể (như một loạt các CTTP tại các điều 137-145, 153
-154, 156, 161, 165-166 BLHS năm 1999); b) CTTP với các dấu hiệu có tính chất đánh
giá (định tính) là cấu thành mà trong phần quy định của quy phạm pháp luật hình sự
tương ứng, các mức thiệt hại do tội phạm gây ra không được xác định cụ thể mà chỉ bằng
các phạm trù có tính chất đánh giá.
7. Chức năng của cấu thành tội phạm
23
Có thể hiểu chức năng của CTTP là nhiệm vụ của từng CTTP cụ thể được quy định trong
luật hình sự mà thông qua việc thực hiện nó (nhiệm vụ ấy), vai trò của CTTP tương ứng
được thể hiện trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Từ trước đến nay chưa có công
trình nghiên cứu nào trong khoa học luật hình sự Việt Nam đề cập việc phân tích các
chức năng của CTTP. Còn trong khoa học luật hình sự Liên Xô, theo quan điểm hoàn
toàn đúng đắn và đảm bảo sức thuyết phục của GS.TSKH. Tkeseliađze G.T – trưởng bộ
môn luật hình sự và tội phạm học Trường đại học tổng hợp quốc gia Tbilisi (nước Cộng
hòa Gruzia thuộc Liên Xô – SNG hiện nay) thì CTTP có ba chức năng chính như sau:
(10)
1) Chức năng nền tảng: Khi các cơ quan tư pháp hình sự coi căn cứ cần và đủ để truy cứu
TNHS một người chính là sự hiện diện trong hành vi nguy hiểm cho xã hội mà người đó
thực hiện có chứa tất cả các dấu hiệu của một CTTP cụ thể do pháp luật hình sự quy
định;
2) Chức năng phân biệt: Việc mô tả một cách chính xác trong phần quy định của các quy
phạm tại Phần riêng BLHS các dấu hiệu của CTTP sẽ đảm bảo cho sự phân biệt đúng tội
phạm này với tội phạm kia cũng như khung hình phạt này với khung hình phạt kia và từ
đó sẽ giúp cho tòa án lựa chọn các biện pháp pháp lí hình sự phù hợp với người phạm tội;
3) Chức năng đảm bảo: Nếu trong hành vi của một người không có đủ tất các các dấu

hiệu của một CTTP tương ứng do luật hình sự quy định thì người đó không phải chịu
TNHS và hình phạt.
8. Vai trò của cấu thành tội phạm
Từ việc nghiên cứu các đặc điểm, yếu tố, dấu hiệu, phân loại CTTP và chức năng của
CTTP đồng thời trên cơ sở phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự có liên quan đến
quá trình định tội danh và quyết định hình phạt, theo chúng tôi vai trò của CTTP thể hiện
rõ ở năm bình diện dưới đây:
24
1) CTTP là một trong những điều kiện chung và quan trọng nhất để định tội danh chính
xác. Nếu như trong hành vi nguy hiểm cho xã hội không có đầy đủ các dấu hiệu của một
CTTP nào đó được quy định trong pháp luật hình sự thực định thì không thể đặt ra việc
định tội danh.
2) CTTP là một khái niệm khoa học và là sự trừu tượng về mặt pháp lí, vì một loạt các
thuật ngữ và phạm trù được sử dụng có liên quan đến CTTP (như: “khách thể”, “chủ
thể”, “mặt chủ quan”, “mặt chủ quan”…) đều được các nhà lí luận soạn thảo trong khoa
học luật hình sự, còn nếu như chúng có được quy định trong luật thực định đi chăng nữa
thì cũng là dưới dạng các quy phạm pháp luật hình sự trừu trượng.
3) CTTP là cơ sở pháp lí cần và đủ để truy cứu TNHS người phạm tội, vì nguyên tắc là:
“Nullum crimen sine lege” nhưng khi hành vi nguy hiểm cho xã hội của chủ thể có đầy
đủ các dấu hiệu của một CTTP tương ứng nào đó được quy định trong BLHS thì có nghĩa
là đã có tội phạm được thực hiện và các cơ quan tư pháp hình sự đã có đầy đủ cơ sở pháp
lí để truy cứu TNHS người phạm tội.
4) CTTP là căn cứ để tòa án lựa chọn đúng loại và mức hình phạt đối với người bị kết án,
vì nếu hành vi nguy hiểm cho xã hội không có đầy đủ các dấu hiệu của một CTTP cụ thể
(như: CTTP cơ bản, CTTP tăng nặng, CTTP đặc biệt tăng nặng hoặc CTTP giảm nhẹ) mà
trong đó ghi nhận khung hình phạt tương ứng (với loại và mức cụ thể) tại một điều (hoặc
khoản của một điều) trong Phần các tội phạm BLHS thì tòa án cũng không thể có căn cứ
để lựa chọn loại và mức hình phạt để áp dụng đối với người bị kết án.
5) CTTP là yếu tố để đảm bảo các quyền và tự do của công dân trong lĩnh vực tư pháp
hình sự đồng thời hỗ trợ cho việc tuân thủ nghiêm chỉnh pháp chế và củng cố trật tự pháp

luật trong NNPQ, vì với tất cả sự thể hiện ở bốn bình diện trên đây đã cho phép khẳng
định vai trò có tính chất tổng hợp này của CTTP.
9. Cấu thành tội phạm – cơ sở khoa học của việc định tội danh
25

×