Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

Mối quan hệ giữa trách nhiệm hình sự và hình phạt theo luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.91 KB, 73 trang )

Mối quan hệ giữa trách nhiệm hình sự và miễn trách
nhiệm hình sự trong luật hình sự VN.
1. Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự với tư cách là hai chế định cơ
bản của luật hình sự
Trách nhiệm hình sự (TNHS) là biện pháp cưàng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước
được áp dụng đối với người nào đã thực hiện Hành vi phạm tội do pháp luật hình sự
(PLHS) quy định, đồng thời là một trong những chế định cơ bản và quan trọng nhất của
Luật hình sự Việt Nam và được ghi nhận tại các Điều 2, 8-16 Bộ luật hình sự (BLHS)
năm 1999.
Có thể khẳng định rằng cùng với ba chế định khác – tội phạm (1), hình phạt (2), đạo luật
hình sự (3), thì TNHS là một chế định trung tâm và chủ yếu, đồng thời là “sợi chỉ đỏ”
xuyên suốt toàn bộ các quy phạm của Phần chung và Phần các tội phạm của luật hình sự.
Mặt khác, tính chất và mức độ thể hiện của các nguyên tắc pháp lý tiến bộ được thừa
nhận chung của nền văn minh nhân loại và của luật hình sự Việt Nam như: pháp chế,
nhân đạo, tôn trọng và bảo vệ các quyền con người, v.v… phụ thuộc rất lớn vào việc giải
quyết vấn đề TNHS của người phạm tội.
Theo quy định của PLHS, một người chỉ có thể phải chịu TNHS (hay phải chịu TNHS)
khi có đầy đủ cơ sở vànhững điều kiện của TNHS đối với tội phạm được thực hiện. Tuy
nhiên, để công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm đạt hiệu quả cao, cùng với việc
phân loại tội phạm, luật hình sự Việt Nam cũng đồng thời phân hóa các trường hợp phạm
tội, các đối tượng phạm tội khác nhau để có đường lối xử lý phù hợp, nhanh chóng, chính
xác và công bằng. Đặc biệt, sự phân hóa các trường hợp phạm tội và người phạm tội còn
thể hiện ở chỗ không phải tất cả các trường hợp phạm tội hay tất cả những người phạm
tội đều bị truy cứu TNHS. Đó là một số trường hợp mà khi có đầy đủ căn cứ pháp lý và
những điều kiện nhất định hoặc (và) nếu xét thấy không cần thiết phải truy cứu TNHS,
1
thì một người đã thực hiện Hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự cấm vẫn có thể
không phải chịu TNHS hoặc cũng có thể được miễn TNHS.
Nếu TNHS chỉ xuất hiện khi có sự việc phạm tội và nó chỉ được thực hiện trong phạm vi
của quan hệ PLHS giữa một bên là Nhà nước còn bên kia là người phạm tội, thì trong
trường hợp người phạm tội được miễn TNHS, theo logic của vấn đề, TNHS cũng coi như


chấm dứt. Do đó, cũng giống như chế định TNHS, miễn TNHS cũng là một trong những
chế định độc lập và cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong PLHS Việt Nam, thể hiện chính
sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội và Hành vi
do họ thực hiện, đồng thời qua đó nhằm động viên, khuyến khích người phạm tội lập
công chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng
và giúp họ trở thành người có ích cho xã hội. Theo các quy định của BLHS năm 1999 thì
trong PLHS Việt Nam hiện Hành của nước ta có chín trường hợp (dạng) miễn TNHS bao
gồm: 1) năm trường hợp trong Phần chung (Điều 19, khoản 1ư 3 Điều 25, khoản 2 Điều
69) và, 2) bốn trường hợp trong Phần các tội phạm (khoản 3 Điều 80, đoạn 2 khoản 6
Điều 289, khoản 6 Điều 290 và khoản 3 Điều 314). Trên cơ sở này, trong BLHS năm
1999 cũng đã phân rõ những trường hợp miễn TNHS thành hai loại có tính chất bắt
buộc và có tính chất tuỳ nghi (lựa chọn) [7].
Như vậy, từ các quy phạm của chế định này trong BLHS năm 1999 cho thấy, sở dĩ trước
đây trong BLHS năm 1985 có ghi nhận miễn TNHS với tính chất là một chế định độc lập
là xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước nói chung và
luật hình sự Việt Nam nói riêng, từ quan điểm cho rằng việc truy cứu TNHS và xử phạt
về hình sự mặc dù là rất quan trọng trong việc bảo vệ pháp chế, củng cố trật tự pháp luật
song “không phải là biện pháp duy nhất mà đòi hỏi ngày càng mở rộng các biện pháp tác
động xã hội khác để đấu tranh phòng và chống tội phạm” [5; tr.21]. Như vậy, việc quy
định trong PLHS Việt Nam chế định này thể hiện phương châm đúng đắn của đường lối
xử lý về hình sự, đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa các biện pháp cưàng chế hình sự
nghiêm khắc nhất của Nhà nước với các biện pháp tác động xã hội khác để cải tạo và
2
giáo dục người phạm tội, bằng cách đó hạn chế áp dụng các biện pháp mang tính trấn áp
(trừng trị) về mặt hình sự.
Tóm lại, xuất phát từ những phân tích chế định trách nhiệm hình sự và chế định miễn
trách nhiệm hình sự cho thấy, chế định thứ nhất nhằm giải quyết chính xác vấn đề TNHS
và hình phạt của người phạm tội, thể hiện sự trừng trị (lên án) của Nhà nước đối với
người đã thực hiện Hành vi phạm tội là luật hình sự quy định là tội phạm, đồng thời bảo
vệ pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của

xã hội và của công dân. Còn chế định sau lại thể hiện tính nhân đạo sâu sắc với nội dung
thực hiện chính sách “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”, “trừng trị kết hợp với giáo dục
cải tạo” trong đường lối xử lý của Nhà nước ta, cũng như yêu cầu không cần thiết phải
truy cứu TNHS người đã thực hiện Hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm, mà
vẫn đảm bảo yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm, yêu cầu phòng ngừa chung và
phòng ngừa riêng.
2. Tính thống nhất, logic và hữu cơ trong mối liên hệ giữa TNHS và miễn TNHS
Về nguyên tắc, bất kỳ người nào thực hiện Hành vi nguy hiểm cho xã hội có đầy đủ dấu
hiệu của tội phạm được quy định trong BLHS thì đều phải chịu TNHS. Hay nói cách
khác, TNHS là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng
việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưàng chế của Nhà nước do luật hình sự quy định
đối với người phạm tội. Tuy nhiên, như đã nêu trên một người thực hiện Hành vi nguy
hiểm cho xã hội chỉ phải chịu TNHS khi có đầy đủ cơ sở và những điều kiện của TNHS.
Bởi lẽ, đây là những nội dung mà việc làm rõ chúng có ý nghĩa quan trọng trong việc
đảm bảo nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, cũng như loại trừ việc áp dụng TNHS theo nguyên tắc tương tự đã từng được
áp dụng trong thực tiễn tư pháp hình sự ở nước ta trước đây. Hơn nữa, nó còn tạo cơ sở
vững chắc cho nhận thức về nội dung và cơ sở của miễn TNHS.
Điều 2 BLHS năm 1999 ghi nhận cơ sở của TNHS là “Chỉ người nào phạm một tội đã
được luật hình sự quy định mới phải chịu TNHS”. Tuy nhiên, nếu chỉ nói đến cơ sở của
3
TNHS thì chưa đủ để buộc một người phải chịu TNHS. Bởi lẽ, cơ sở của TNHS mới chỉ
là căn cứ chung, có tính chất bắt buộc và do luật hình sự quy định để các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền đặt ra vấn đề TNHS của người đã thực hiện Hành vi nguy hiểm cho
xã hội. Vì để một người phải chịu TNHS thì ngoài cơ sở của TNHS ra còn phải có tổng
hợp đầy đủ những điều kiện của TNHS mà những điều kiện này phải tương ứng với các
đặc điểm (dấu hiệu) của tội phạm theo công thức đã được thừa nhận chung “Không có tội
phạm thì không có TNHS”. Theo đó, một người phải chịu TNHS khi thỏa mãn những
điều kiện sau: 1) Người đó phải là người có năng lực TNHS; 2) Người đó phải đủ tuổi
chịu TNHS; 3) Người đó phải thực hiện Hành vi nguy hiểm cho xã hội; 4) Hành vi do

người đó thực hiện phải bị luật hình sự cấm và; 5) Người đó phải có lỗi trong việc thực
hiện Hành vi đó [2; tr.136-140].
Như vậy, một người chỉ phải chịu TNHS khi người đó có đầy đủ cơ sở và những điều
kiện của TNHS về tội phạm đã được thực hiện và trường hợp khi có căn cứ pháp lý và
những điều kiện nhất định hoặc (và) xét thấy không cần thiết phải truy cứu TNHS, thì
người đó có thể được miễn TNHS. Do đó, mối quan hệ thống nhất và hữu cơ, lôgíc và
biện chứng giữa chế định TNHS và chế định miễn TNHS có thể nhận thấy trên một số
bình diện sau đây.
2.1. Về bản chất pháp lý
TNHS và miễn TNHS là những chế định độc lập trong PLHS Việt Nam có liên hệ và
quan hệ chặt chẽ với nhau. Theo đó, nếu TNHS là hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm
tội phải chịu do đã thực hiện Hành vi phạm tội và được thể hiện bằng việc áp dụng đối
với họ một hoặc nhiều biện pháp cưàng chế nghiêm khắc của Nhà nước do luật hình sự
quy định, thì miễn TNHS có nghĩa không buộc người phạm tội phải chịu hậu quả pháp lý
bất lợi của việc phạm tội đó mà lẽ ra nếu không có căn cứ pháp lý và những điều kiện do
luật định để được miễn TNHS, thì người đó phải chịu TNHS theo quy định của pháp luật
hình sự trên những cơ sở chung.
4
Ngoài ra, nếu cơ sở của TNHS là việc thực hiện Hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật
hình sự quy định là tội phạm, thì cơ sở của miễn TNHS là việc có căn cứ pháp lý và
những điều kiện do PLHS quy định để không buộc một người phải chịu TNHS, mặc dù
về mặt hình thức Hành vi nguy hiểm cho xã hội đã có các dấu hiệu của Hành vi nào đó bị
luật hình sự cấm và lẽ ra họ phải chịu TNHS (nếu không có đầy đủ căn cứ và những điều
kiện được quy định trong PLHS). Nói một cách khác, người phạm tội được hưởng chế
định nhân đạo của PLHS Việt Nam – miễn TNHS – khi có căn cứ pháp lý và những điều
kiện do PLHS quy định, tức là được huỷ bỏ hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện
Hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm. Vì vậy, chúng tôi
đồng nhất với quan điểm của Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội (Bộ Tư
pháp), TS Lê Thị Sơn rằng: “TNHS là trách nhiệm pháp lý đặt ra đối với người phạm tội
thì miễn TNHS, miễn hậu quả pháp lý của việc phạm tội cũng chỉ có thể đặt ra đối với

người phạm tội. Không thể áp dụng miễn TNHS đối với người không có Hành vi thỏa
mãn dấu hiệu pháp lý của một cấu thành tội phạm được quy định trong luật hình sự” [5;
tr.19].
2.2. Về chủ thể bị áp dụng chế định TNHS và được áp dụng chế định miễn TNHS
Theo đó, cả hai chủ thể này đều là người phạm tội, tức là đã thực hiện Hành vi nguy hiểm
cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm. Nói một cách khác, chủ thể trong cả hai
trường hợp này đều là người phạm tội, cho dù người đó phải chịu TNHS hay được miễn
TNHS. Điều đó có nghĩa, họ là chủ thể đã thực hiện Hành vi phạm tội và Hành vi đó có
lỗi, trái PLHS và người này có đủ năng lực TNHS và đạt độ tuổi theo luật định.
2.3. Về hậu quả pháp lý của hai chế định TNHS và miễn TNHS
Trường hợp người phạm tội là người phải chịu TNHS, thì có nghĩa người này phải gánh
chịu hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm (bị áp dụng một hoặc nhiều biện
pháp cưàng chế nghiêm khắc về mặt hình sự của Nhà nước) và đặc biệt người phạm tội
phải chịu mang án tích (nếu bị áp dụng hình phạt). Trong khi đó, người được miễn TNHS
cũng là người phạm tội nhưng trường hợp phạm tội của họ lại có đầy đủ căn cứ pháp lý
5
và những điều kiện để được miễn TNHS theo quy định của PLHS. Đối với trường hợp
này, họ đương nhiên không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm
tội do mình thực hiện như: không bị truy cứu TNHS, không phải chịu hình phạt hoặc biện
pháp cưàng chế về hình sự khác và đặc biệt không bị coi là có án tích. Tuy nhiên, thực
tiễn xét xử cho thấy người được miễn TNHS vẫn có thể phải chịu một hoặc nhiều biện
pháp tác động về mặt pháp lý thuộc các ngành luật tương ứng khác. Cụ thể là: các biện
pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự (TTHS); buộc phải phục hồi
lại tình trạng ban đầu, buộc bồi thường thiệt hại… theo quy định của pháp luật dân sự;
phạt tiền, cảnh cáo hoặc buộc thôi việc theo quy định của pháp luật Hành chính; đình chỉ
hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật lao động) hoặc biện pháp kỷ luật… Để
minh chứng điều này có thể dẫn ra văn bản hướng dẫn thống nhất có tính chất chỉ đạo của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày
05/01/1986 về việc Hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS: “Khi đã miễn TNHS
thì Tòa án không được quyết định bất kỳ loại hình phạt nào nhưng vẫn có thể quyết định

việc bồi thường cho người bị hại và giải quyết tang vật”.
2.4. Vấn đề thời điểm bắt đầu và kết thúc của TNHS
Như chúng ta đã biết, TNHS chỉ phát sinh (xuất hiện) khi có sự việc phạm tội và chỉ được
thực hiện trong phạm vi của quan hệ PLHS giữa hai bên với tính chất là hai chủ thể có
các quyền và nghĩa vụ nhất định – một bên là Nhà nước, còn bên kia là người phạm tội.
Thời điểm bắt đầu thực hiện TNHS là từ khi Tòa án tuyên một bản án có hiệu lực pháp
luật mà trong đó khẳng định lỗi của bị cáo trong việc thực hiện tội phạm và kết thúc khi
người bị kết án được xóa án tích theo quy định của PLHS. Tuy nhiên, trong quá trình
thực hiện TNHS, có những trường hợp TNHS cũng có thể được chấm dứt ngay – không
tiếp tục được thực hiện nữa, nếu như tại phiên tòa Tòa án tìm thấy căn cứ để miễn
TNHS cho người phạm tội (Điều 181 và Điều 249 Bộ luật TTHS năm 2003).
3. Vấn đề áp dụng chế định TNHS và chế định miễn TNHS
6
Như đã phân tích, TNHS và miễn TNHS có quan hệ mật thiết và chặt chẽ với nhau. Cho
nên, giải quyết tốt vấn đề TNHS và áp dụng đúng đắn chế định miễn TNHS trong thực
tiễn sẽ tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho các cơ quan áp dụng pháp luật đấu tranh phòng,
chống tội phạm, bảo vệ có hiệu quả các lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức và của công dân. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các quy định của PLHS
liên quan đến hai chế định – TNHS và miễn TNHS, cũng như thực tiễn áp dụng chúng,
chúng tôi rút ra một số nhận xét sau:
3.1. Hiện nay, để áp dụng TNHS đối với người đã thực hiện Hành vi nguy hiểm cho xã
hội mà luật hình sự quy định là tội phạm, thì căn cứ vào nguyên tắc hiến định về suy
đoán vô tội đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 (đoạn 1 Điều 72) và Bộ luật
TTHS năm 2003 (Điều 9) của nước ta: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt
khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”, thì TNHS chỉ được chính
thức thực hiện khi bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Có nghĩa, từ thời
điểm Tòa án tuyên một bản án kết tội có hiệu lực pháp luật, thì mới có việc áp dụng trên
thực tế sự hạn chế hoặc sự tước bỏ quyền, tự do (thậm chí sinh mạng) của người bị kết
án. Nói một cách khác, theo các quy định của Hiến pháp, PLHS và pháp luật TTHS hiện
Hành của nước ta, việc áp dụng TNHS chỉ có thể và là duy nhất một cơ quan có thẩm

quyền áp dụng – Tòa án.
3.2. Từ luận điểm trên đây, dẫn đến một lôgíc đương nhiên rằng: cũng chỉ có Tòa án mới
được áp dụng chế định miễn TNHS. Các cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát không thể là
các cơ quan có thẩm quyền áp dụng miễn TNHS, mà điều này lại mâu thuẫn với chính
các quy định của pháp luật TTHS hiện hành. Bởi lẽ, theo quy định của pháp luật thì phụ
thuộc vào giai đoạn TTHS tương ứng cụ thể, miễn TNHS có thể được áp dụng bằng văn
bản đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án bởi các cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án
(các điều 164, 169, 181 và Điều 249 Bộ luật TTHS năm 2003) khi có đầy đủ căn cứ pháp
lý và những điều kiện do luật định. Theo đó, ở đây không chỉ có cơ quan Tòa án có quyền
áp dụng miễn TNHS, mà còn cả các cơ quan Điều tra vàViện kiểm sát. Như vậy, giữa các
quy định của Hiến pháp Việt Nam năm 1992 (đoạn 1 Điều 72) và của Bộ luật TTHS năm
7
2003 (các Điều 9, 164, 169, 181 và 249) còn thiếu sự nhất quán về mặt lôgic pháp lý và
chưa chặt chẽ về mặt kỹ thuật lập pháp.
3.3. Vì vậy, theo quan điểm của chúng tôi trong thời gian tới nên chăng Nhà làm luật
nước ta cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định về hai chế định TNHS và miễn
TNHS theo hướng việc áp dụng chúng nên giao cho duy nhất một cơ quan – Tòa án. Bởi
lẽ, có như vậy mới phù hợp với phù hợp và thống nhất với quy định Hiến pháp, vì Hiến
pháp mới chính là đạo luật cơ bản và có hiệu lực pháp lý cao nhất của Nhà nước, mọi văn
bản bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp (Điều 146 Hiến pháp năm 1992).
Tuy nhiên, đây là vấn đề lớn và phức tạp cần tiếp tục nghiên cứu trong một bài viết khác,
còn trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ xem xét mối liên hệ giữa TNHS và miễn
TNHS.
4. Kết luận
Từ việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận về mối liên hệ giữa TNHS và miễn TNHS, cho
phép đưa ra một số kết luận chung dưới đây.
4.1. Một là, TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng
việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc nhiều biện pháp cưàng chế của Nhà nước
do luật hình sự quy định. Nó (TNHS) được bắt đầu thực hiện từ khi Tòa án tuyên một bản
án có hiệu lực pháp luật mà trong đó khẳng định lỗi của bị cáo trong việc thực hiện tội

phạm và kết thúc khi người bị kết án được xóa án tích theo quy định của PLHS.
4.2. Hai là, miễn TNHS là sự huỷ bỏ hậu quả pháp lý của việc thực hiện Hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện
hành vi đó, do cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền tùy thuộc vào giai đoạn TTHS
tương ứng áp dụng khi có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện được quy định trong
PLHS.
4.3. Ba là, TNHS và miễn TNHS là những chế định độc lập và có ý nghĩa rất quan trọng
của PLHS Việt Nam trong việc giải quyết chính xác vấn đề TNHS và hình phạt của
8
người phạm tội, bảo vệ pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của Nhà nước, của xã hội và của công dân, cũng như thể hiện tính nhân đạo sâu sắc
với nội dung thực hiện chính sách “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng“, “trừng trị kết
hợp với giáo dục cải tạo” trong đường lối xử lý của Nhà nước ta.
4.4. Bốn là, giữa TNHS và miễn TNHS thể hiện mối liên hệ thống nhất và hữu cơ, lôgíc
và biện chứng. Cho nên, việc nhận thức – khoa học đúng đắn về TNHS sẽ tạo cơ sở vững
chắc cho nhận thức về miễn TNHS và qua đó, góp phần để việc áp dụng các quy phạm
của hai chế định này trong thực tiễn được chính xác và đúng đắn.
4.5. Và cuối cùng, năm là, TNHS và miễn TNHS là hai chế định quan trọng của luật
hình sự Việt Nam, có ý nghĩa to lớn trong việc giải quyết vấn đề TNHS và hình phạt của
người phạm tội, nhưng hiện nay trong khoa học luật hình sự xung quanh hai chế định này
còn nhiều vấn đề đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu để làm sáng tỏ một loạt vấn đề (như:
khái niệm, bản chất pháp lý, các đặc điểm cơ bản, cơ sở và những điều kiện của TNHS,
vấn đề TNHS của pháp nhân, khái niệm, bản chất pháp lý, các đặc điểm cơ bản của miễn
TNHS, những hậu quả pháp lý khi người phạm tội được miễn TNHS, phân biệt miễn
trách nhiệm với một số chế định khác có liên quan, v.v…). Mặt khác, cho đến nay trong
khoa học luật hình sự Việt Nam vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên khảo nào
đề cập một cách đồng bộ, toàn diện và có hệ thống cùng một lúc đến hai chế định –
TNHS và miễn TNHS, mặc dù giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ và mật thiết với nhau
như đã phân tích trên. Chính vì vậy, việc làm sáng tỏ về mặt lý luận các quy định của
PLHS Việt Nam hiện hành về chế định TNHS và chế định miễn TNHS và vấn đề áp

dụng chúng trong thực tiễn, đồng thời đưa ra mô hình lý luận của các quy phạm về hai
chế định này [2]; [4]; [6]; [7] để hoàn thiện chúng dưới góc độ kỹ thuật lập pháp và góc
độ nhận thức – khoa học không những có ý nghĩa lý luận – thực tiễn và pháp lý quan
trọng, mà còn là một trong những nhiệm vụ và là hướng nghiên cứu cơ bản của khoa học
luật hình sự nước ta.

9
Tài liệu tham khảo :
1. Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999.
2. Lê Cảm, Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung Luật hình sự (Tập III), NXB
Công an nhân dân, Hà Nội, 2000.
3. Lê Cảm (chủ biên), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2003 (tái bản lần thứ nhất).
4. Lê Cảm, Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999, Trong
sách: Nhà nước và Pháp luật Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI, Tập thể tác giả do TSKH
Lê Cảm chủ biên, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2002.
5. Lê Thị Sơn, Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự, Tạp chí Luật học, số
5/1997.
6. Trịnh Tiến Việt, Về một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về miễn
trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 2
(1)/2005.
7. Trịnh Tiến Việt, Những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 1999, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội, 2004.
Lê Cảm – Trịnh Tiến Việt
Theo : Tạp chí khoa học Đại học quốc gia Hà Nội số 02 (2005)
10
Một số vấn đề về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và cách tính thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp cụ thể
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật hình sự quy định mà khi
hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 23 Bộ luật hình sự thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự được quy định như sau:
- Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng.
Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù (khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình
sự). Ví dụ: Tội giết con mới đẻ (Điều 94); tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 95; tội xuất cảnh, nhập cảnh trái
phép; tội ở lại nước ngoài hoặc ở Việt Nam trái phép (Điều 274)…
- Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng;
Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù (khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự). Ví
dụ: Tội lây truyền HIV cho người khác thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 117;
tội cưỡng dâm thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 113.v.v…
- Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng;
Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù (khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình
sự). Ví dụ: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản
3 Điều 156; tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới thuộc trường hợp quy
định tại khoản 3 Điều 154.v.v…
11
- Hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây y nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà
mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân
hoặc tử hình (khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự). Ví dụ: Tội phản bội tổ quốc thuộc trường
hợp quy định tại khoản 1 Điều 78; tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân thuộc
trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 79; tội giết người thuộc trường hợp quy định tại
khoản 1 Điều 93; tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma
tuý thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 194; tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ
thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 221.v.v…
Việc xác định tội phạm nào là tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng

và đặc biệt nghiêm trọng không phức tạp, chỉ cần căn cứ vào mức cao nhất của khung
hình phạt đối với tội ấy. Nếu mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba
năm tù là tội phạm ít nghiêm trọng; đến bảy năm tù là tội phạm nghiêm trọng; đến mười
lăm năm tù là tội phạm rất nghiêm trọng; đến chung thân hoặc tử hình là tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, trong Bộ luật hình sự không phải tội phạm nào nhà làm
luật cũng quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 3 năm, 7 năm, 15 năm, chung
thân hoặc tử hình, mà trong nhiều trường hợp nhà làm luật quy định mức cao nhất của
khung hình phạt là một năm, hai năm, bốn năm, năm năm, sáu năm, tám năm, mười năm,
mười hai năm và hai mươi năm. Mặc dù Bộ luật hình sự đã có hiệu lực pháp luật gần 10
năm nhưng đến nay vẫn còn quan điểm cho rằng, nếu mức cao nhất của khung hình phạt
không phải là 7 năm thì chưa phải là tội phạm nghiêm trọng, không phải là 15 năm thì
chưa phải là tội phạm rất nghiêm trọng, không phải là chung thân hoặc tử hình thì chưa
phải là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Ví dụ: khoản 2 Điều 1 Điều 133 (tội cướp tài sản)
có khung hình phạt từ ba năm đến mười năm chưa phải là tội phạm rất nghiêm trọng mà
chỉ là tội phạm nghiêm trọng. Quan điểm này theo chúng tôi là không đúng với quy định
của Bộ luật hình sự, vì nhà làm luật chỉ quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối
với tội ấy “đến” ba năm, bảy năm, mười lăm năm, chung thân hoặc tử hình chứ không
12
quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy “là” ba năm, bảy năm, mười
lăm năm, chung thân hoặc tử hình.
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Ví
dụ: Ngày 15-01-2000 Bùi Quốc D mượn chiếc xe máy của chị Vũ Thị H để đưa mẹ vào
bệnh viện khám bệnh, nhưng sau đó D không trả lại chiếc xe cho chị H mà bán được 10
triệu đồng đánh bạc bị thua hết. Do bị thua bạc và không còn xe để trả cho chị H nên D
đã bỏ trốn vào Tây Nguyên ở với chị gái; ngày 15-10-2003 Bùi Quốc D về gia đình. Sau
khi về nhà, D hứa với chị H sẽ bồi thường chiếc xe máy cho chị, nên chị H không tố cáo
hành vi phạm tội của D với Cơ quan điều tra. Chờ mãi không thấy D bồi thường chiếc xe
máy cho mình, nên ngày 20-2-2005 chị H đã làm đơn tố cáo hành vi phạm tội của Bùi
Quốc D với Cơ quan điều tra. Sau khi xác định hành vi phạm tội của Buì Quốc D là hành
vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại khoản 1 Điều 140 Bộ luật

hình sự và là tội phạm ít nghiêm trọng nên đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với Bùi Quốc D.
Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội lại phạm tội mới mà Bộ luật hình sự quy
định hình phạt từ một năm tù trở lên thì thời gian đã qua không được tính và thời hiệu đối
với tội cũ tính lại kể từ ngày phạm tội mới. Ví dụ: Ngày 1-1-2000 Trần Văn H phạm tội
gây rối trật tự công cộng theo khoản 1 Điều 245 Bộ luật hình sự nhưng chưa bị khởi tố
điều tra, đến ngày 10-12-2004, H lại phạm tội trộm cắp tài sản và đến ngày 30-6-2005 cơ
quan điều tra mới phát hiện hành vi phạm tội trộm cắp. Nếu căn cứ vào thời hiệu truy
trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng thì sau ngày 1-1-2005 là đã hết,
nhưng trước đó (10-12-2004) H lại phạm tội mới nên thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự đối vơí tội gây rối trật tự nơi công cộng lại được tính từ ngày 10-12-2005 chứ không
phải từ ngày 1-1-2000. Vì vậy H phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về cả hai tội: tội
trộm cắp tài sản và tội gây rối trật tự công cộng.
Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có lệnh truy nã thì
thời gian trốn tránh không được tính; thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra tự thú hoặc
13
bị bắt giữ. Ví dụ: Ngày 15-2-1990 Phạm Quốc B cùng đồng bọn phạm tội giết người
cướp tài sản, sau khi phạm tội Bình bỏ trốn, cơ quan điều tra đã ra lệnh truy nã nhưng vẫn
không bắt được Bình vì B đã trốn ra nước ngoài định cư và nhập quốc tịch nước ngoài.
Ngày 20-4-2005, nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam thống
nhất đất nước, Phạm Quốc B với tư cách là Việt kiều về thăm quê hương thì bị nhân dân
phát hiện báo cho cơ quan điều tra bắt giữ. Nếu tính thời hạn truy cứu trách nhiệm hình
sự thì trường hợp đối với Phạm Quốc B đã hết (quá 15 năm), nhưng trong thời hạn đó, B
đã bỏ trốn ra nước ngoài và có lệnh truy nã nên thời gian bỏ trốn của B không được tính
vào thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, nếu trong thời gian người phạm tội
bỏ trốn nhưng cơ quan điều tra không ra lệnh truy nã thì thời gian trốn tránh lại được tính
vào thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự. Ví dụ: Ngày 25-1-2000 Bùi Văn Đ lấy trộm
con dấu của cơ quan rồi bỏ trốn vào Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng sinh sống, cơ quan của Đ đã
báo cho cơ quan công an, nhưng vì Đ đã bỏ trốn nên cơ quan điều tra không khởi tố vụ án
và cũng không ra lệnh truy nã đối với Đ. Ngày 30-2-2005, nhân dịp vào Đà Lạt công tác,

thủ trưởng cơ quan của Đ phát hiện Đ đang đi chơi trong thành phố Đà Lạt nên đã báo
cho công an bắt giữ Đ. Sau khi Đ bị bắt cơ quan điều tra đã xác định hành vi phạm tội
của Đ thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 268 Bộ luật hình sự có mức hình phạt
cao nhất là hai năm tù, thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự là 5 năm, tuy Đ bỏ trốn
nhưng cơ quan điều tra không ra lệnh truy nã nên thơì hạn truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với Đ đã hết, do đó cơ quan điều tra không khởi tố bị can đối với Bùi Văn Đ.
Thực tiễn giải quyết các vụ án có liên quan đến việc xác định thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự không phải bao giờ cũng đơn giản như quy định tại Điều 23 Bộ luật hình
sự, vì Điều 23 Bộ luật hình sự mới quy định đối với một người phạm một tội, còn đối với
các trường hợp khác như: một người phạm tội nhiều tội hoặc nhiều người phạm một tội,
thì khi áp dụng Điều 23 Bộ luật hình sự để xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự lại phải căn cứ vào các quy định khác của Bộ luật hình sự cũng như khoa học luật hình
sự mới có thể xác định đúng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Qua thực tiễn giải
quyết các vụ án hình sự có liên quan đến thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự có một
14
số trường hợp vướng mắc và còn ý kiến khác nhau về việc xác định thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự, chúng tôi nêu và phân tích, đồng thời nêu quan điểm cá nhân để bạn
đọc tham khảo và cùng trao đổi.
1. Trường hợp người phạm tội bị khởi tố bị can về một tội và bị truy nã theo quyết định
của Cơ quan điều tra, sau một thời gian thì bị bắt. Khi bị bắt Cơ quan điều tra còn phát
hiện trước khi bị truy nã người bị truy nã còn thực hiện một tội phạm khác ngoài tội bi
truy nã thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội mà người phạm tội tự khai
ra được tính như thế nào. Ví dụ: A phạm tội giết người, do bị cáo bỏ trốn nên Cơ quan
điều tra đã ra lệnh truy nã đối với A về tội giết người. Sau 16 năm Cơ quan điều tra bắt
được A. Trong qúa trình điều tra về tội giết người đối với A, Cơ quan điều tra còn phát
hiện, trước khi phạm tội giết người A còn có hành vi lừa đảo chiếm đoạt của Công ty H
260.000.000 đồng, thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự là tội
phạm rất nghiêm trọng. Vậy hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của A còn thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự không ?
Quan điểm thứ nhất cho rằng, mặc dù A chỉ bị truy nã về tội giết người chứ không bị truy

nã về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nhưng người bị truy nã là A thì mọi hành vi phạm
tội của A coi như cũng đang bị truy nã. Giả thiết trong thời gian A đang bị truy nã và
chưa bắt được A, Cơ quan điều tra phát hiện được hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản của A thì cũng phải tạm đình chỉ chứ không thể ra một quyết định truy nã bổ sung
đối với A về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì A đã có lệnh truy nã rồi. Do đó đối với thời
hiệu truy cứ trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của A vẫn còn, thời
gian A bỏ trốn và có lệnh truy nã đối với tội giết người coi như đó là thời gian bỏ trốn và
có lệnh truy nã đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Quan điểm thứ hai cho rằng, theo quy định tại Điều 23 Bộ luật hình sự thì thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc trường hợp quy định
tại khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự là mười lăm năm được tính từ ngày tội phạm được
thực hiện, nhưng sau khi phạm tội lừa đảo, A lại phạm tội giết người nên thời hiệu truy
15
cứu trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của A được tính từ ngày A
phạm tội giết người; A chỉ bị truy nã về tội giết người chứ không bị truy nã về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, mà tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản sau 16 năm mới phát hiện. Do đó đã
hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với A, vì thời gian truy nã chỉ áp dụng đối
với tội giết người chứ không áp dụng đối với tội lửa đảo chiếm đoạt tài sản. Chúng tôi
đồng ý với ý kiến này và phân tích thêm một số vấn đề như sau:
Theo quy định tại Điều 161 Bộ luật tố tụng hình sự thì quyết định truy nã phải ghi rõ
ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm ra quyết định truy nã; họ tên, chức vụ người ra quyết
định; họ tên, tuổi, nơi cư trú của bị can; đặc điểm để nhận dạng bị can, dán ảnh kèm theo,
nếu có; tội phạm mà bị can đã bị khởi tố. Nếu Điều 161 Bộ luật tố tụng hình sự không
quy định phải ghi rõ “tội phạm mà bị can đã bị khởi tố” thì quan điểm thứ nhất có thể
chấp nhận được, dù sao thì A cũng đã bị truy nã. Những Bộ luật tố tụng hình sự quy định
rất chặt chẽ không chỉ đối với lệnh truy nã mà đối với các quyết định khác của cơ quan
tiến hành tố tụng cũng phải rất cụ thể như: quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị
can, quyết định tạm giam, lệnh bắt giam. v.v…đều phải ghi rõ “tội phạm mà bị can đã bị
khởi tố”. Trong trường hợp đối với A nêu trên, nếu trong quá trình điều tra, Cơ quan điều
tra phát hiện A còn phạm tội khác thì trước hết phải khởi tố bổ sung (thay đổi quyết định

khởi tố bị can) đồng thời phải thay đổi quyết định truy nã thì khi bắt được A, thời gian bỏ
trốn của A sẽ không được tính vào thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc nhà làm
luật quy định chặt chẽ như vậy là để đề cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và
bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự.
2. Trường hợp người phạm tội thực hiện nhiều tội phạm khác nhau ở các thời điểm khác
nhau nhưng Cơ quan điều tra chỉ khởi tố một tội và ra lệnh truy nã về tội đó, nhưng sau
khi người phạm tội bị bắt, Cơ quan điều tra còn phát hiện ngoài tội phạm bị khởi tố,
người phạm tội còn phạm tội khác nhưng không khởi tố vì xác định tội phạm mới phát
hiện đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Vậy thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với tội phạm đã khởi tố trước đó được tính như thế nào ? Ví dụ: Ngày 18-12-
2001, Cơ quan Cảnh sát điều tra khởi tố vụ án đối với Nguyễn Văn T trong vụ án Năm
16
Cam. Do Nguyễn Văn T bỏ trốn nên 18-3-2002, Cơ quan cảnh sát điều tra quyết định
truy nã Nguyễn Văn T; ngày 27-11-2007 Nguyễn Văn T ra đầu thú. Cơ quan Cảnh sát
điều tra đã xác định Nguyễn Văn T đã phạm tội tổ chức đánh bạc từ năm 1994 đến 1995
thuộc trường hợp quy định tại Điều 220 Bộ luật hình sự năm 1985. Trong quá trình điều
tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra còn xác định vào năm 1995 và 1999, T còn phạm tội đánh
bạc nhưng hành vi đánh bạc của T đến năm 2008 mới phát hiện nên đã hết thời hiêu truy
cứu trách nhiệm hình sự do đó không khởi tố T về tội đánh bạc. Việc xác định thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với T về tội tổ chức đánh bạc có ý kiến khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, vì hành vi đánh bạc mà T thực hiện năm 1995 và 1999
không bị khởi tố nên tội tổ chức đánh bạc mà T thực hiện năm 1994 đến năm 1995 tính
đến 2001 cũng hết thời hiệu.
Quan điểm thứ hai cho rằng, mặc dù tội đánh bạc mà T thực hiện vào năm 1995 và năm
1999 không bị khởi tố vì đến năm 2008 Cơ quan điều tra mới phát hiện nên đã hết thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng không vì thế mà cho rằng, T không phạm tội
đánh bạc vào năm 1995 và năm 1999. Do đó tội tổ chức đánh bạc mà T thực hiện vào
năm 1994 và năm 1995 tính đến năm T phạm tội đánh bạc vẫn còn thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự. Chúng tôi đồng ý với quan điểm này, vì khoản 3 Điều 23 Bộ luật
hình sự chỉ quy định: “nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 23 người phạm tội

lại phạm tội mới mà Bộ luật quy định mức cao nhất đối với tội ấy trên một năm tù, thì
thời hiệu đã qua không được tính và thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày
phạm tội mới”. Chứ không quy định “người phạm tội lại phạm tội mới và bị khởi
tố”. Như vậy, việc người phạm tội mới có bị khởi tố hay không khởi tố, thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự còn hay hết không liên quan gì đến thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với tội cũ. Trở lại trường hợp đối với Nguyễn Văn T, nếu năm 1995 và
năm 1999 T không phạm tội đánh bạc thì đúng là thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với T về tội tổ chức đánh bạc đã hết, nhưng vì năm 1999 T đã phạm tội đánh bạc, nên
thời hiệu đối với tội tổ chức đánh bạc của T phải tính lại từ năm 1999; năm 2001 Cơ quan
Cảnh sát điều tra khởi tố về tội phạm này là vẫn còn thời hiệu.
17
3. Trường hợp trong vụ án có nhiều người tham gia, khi vụ án xảy ra có người phạm tội
bị bắt ngay, có người phạm tội bỏ trốn. Do không tách được hành vi phạm tội của người
bỏ trốn để xử lý riêng nên cơ quan điều tra đã tạm đình chỉ điều tra cả vụ án; đến khi bắt
được người bỏ trốn thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người không bỏ
trốn đã hết. Vậy vấn đề xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
không bỏ trốn như thế nào. Ví dụ: Ngày 10-4-2000 Hoàng Văn H, Đinh Văn M và Bùi
Quốc T phạm tội tộm cắp tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật
hình sự. Ngày 15-4-2000 Cơ quan điều tra khởi tố vụ án và khởi tố bị can đối với Hoàng
Văn H, Đinh Văn M và Bùi Quốc T về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 Bộ
luật hình sự. Do Hoàng Văn H bỏ trốn nên ngày 20-4-2000 Cơ quan điều tra ra lệnh truy
nã đối với Hoàng Văn H và tạm đình chỉ vụ án đối với Đinh Văn M và Bùi Quốc T; ngày
23-4-2008, Hoàng Văn H bị bắt theo lệnh truy nã nên Cơ quan điều tra phục hồi điều tra
vụ án; này 15-8-2008 Cơ quan điều tra kết thúc vụ án và đề nghị Viện kiểm sát nhân dân
huyện Q truy tố các bị can Hoàng Văn H, Đinh Văn M và Bùi Quốc T về tội trộm cắp tài
sản theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự. Khi xem xét đề nghị truy tố của Cơ quan điều
tra Viện kiểm sát nhân dân huyện Q thấy: Nếu Hoàng Văn H không bỏ trốn hoặc tuy H
bỏ trốn nhưng Cơ quan điều tra không ra lệnh truy nã thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự hình sự đối với Hoàng Văn H, Đinh Văn M và Bùi Quốc T đã hết (quá năm
năm), do H bỏ trốn và có lệnh truy nã nên thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với

H vẫn còn nhưng đối với Đinh Văn M và Bùi Quốc T thì có hai quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, việc Hoàng Văn H bỏ trốn không thể bắt Đinh Văn M và
Bùi Quốc T phải chịu về việc bỏ trốn của H. Do đó trong trường hợp này, chỉ có thể truy
tố đối với Hoàng Văn H còn đối với Đinh Văn M và Bùi Quốc T đã hết thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự. Bởi lẽ, một trong những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự nước ta
là trách nhiệm cá nhân. Trong một vụ án có đồng phạm hoặc nhiều người tham gia thì
trách nhiệm hình sự bao giờ cũng là trách nhiệm cá nhân, việc Hoàng Văn H bỏ trốn
không thể bắt Đinh Văn M và Bùi Quốc T phải chịu về việc bỏ trốn của H. Trong thời
hạn truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu các cơ quan tiến hành tố tụng không truy cứu trách
18
nhiệm hình sự đối với một ngươì không trốn tránh và không có lệnh truy nã thì hết thời
hạn đó không được truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ nữa, ngay cả trường hợp họ
trốn tránh mà cơ quan điều tra “quên” không ra lệnh truy nã mà đã hết thời hiệu thì cũng
không được truy cứu trách nhiệm hình sự đối họ.
Quan điểm thứ hai cho rằng, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Hoàng Văn
H, Đinh Văn M và Bùi Quốc T là 5 năm kể từ ngày 10-4-2000 nhưng vì H bỏ trốn, Cơ
quan điều tra phải tạm đình chỉ điều tra nên thời gian tạm đình chỉ điều tra không được
tính vào thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự. Chúng tôi đồng tình với quan điểm này,
vì mặc dù Đinh Văn M và Bùi Quốc T không bỏ trốn nhưng Cơ quan điều tra đã khởi tố
bị can đối với M và T, tức là từ khi khởi tố bị can trở đi thời hạn điều tra, truy tố, xét xử
có bị kéo dài vì lý do khác nhau thì cũng không được trừ vào thời hạn truy cứu trách
nhiệm hình sự. Về nguyên tắc, sau khi Hoàng Văn H bị bắt theo lệnh truy nã, Cơ quan
điều tra phục hồi điều tra vụ án là phục hồi điều tra đối với cả Hoàng Văn H, Đinh Văn
M và Bùi Quốc T chứ không chỉ có Hoàng Văn H, Nếu xét về đạo lý thì việc Đinh Văn
M và Bùi Quốc T không bỏ trốn cũng phải “chờ” bắt được Hoàng Văn H mới “được” xử
lý là gây bất lợi cho Đinh Văn M và Bùi Quốc T, thời gian bỏ trốn của Hoàng Văn H có
thể kéo dài 5 năm, 10 năm hoặc lâu hơn, cuộc sống của Đinh Văn M và Bùi Quốc T đã
ổn định, bản thân Đinh Văn M và Bùi Quốc T không còn nguy hiểm cho xã hội nữa mà
khi bắt được Hoàng Văn H họ vẫn bị xử lý là không công bằng. Tuy nhiên, trong phạm vi
xem xét thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì đối với Đinh Văn M và Bùi Quốc T

phải xác định là không phải là trường hợp
4. Trường hợp Cơ quan điều tra khởi tố về một tội, sau đó lại thay đổi tội danh sang tội
khác hoặc Viện kiểm sát truy tố tội danh khác thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
sẽ được xác định như thế nào ? Trường hợp này có thể chia ra hai trường hợp.
- Trường hợp Cơ quan điều tra khởi tố về tội nặng hơn tội mà Viện kiểm sát truy tố hoặc
Toà án kết án. Ví dụ: A bị khởi tố về tội giết người theo khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự,
19
nhưng Viện kiểm sát chỉ truy tố A về tội cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều 104 Bộ
luật hình sự.
- Trường hợp Cơ quan điều tra khởi tố về tội nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát truy tố hoặc
Toà án kết án. Ví dụ: B bị khởi tố về tội cướp giật tài sản theo khoản 1 Điều 136 Bộ luật
hình sự nhưng Viện kiểm sát chỉ truy tố B về tội cướp tài sản quy định tại khoản 1 Điều
133 Bộ luật hình sự.
Về hai trường hợp phạm tội trên thực tiễn giải quyết còn có ý kiến khác nhau về việc xác
định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là căn cứ vào tội
danh mà người phạm tội bị khởi tố chứ không căn cứ vào tội danh mà người phạm tội bị
truy tố hay bị Toà án kết án, bởi vì tội danh mà Cơ quan điều tra khởi tố còn là căn cứ để
áp dụng các chế định khác của Bộ luật tố tụng hình sự như: thời hạn điều tra, thời hạn
tạm giam, ra lệnh truy nã nếu người phạm tội bỏ trốn…Nếu căn cứ vào tội danh Viện
kiểm sát truy tố hoặc Toà án kết án để xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì
hậu quả pháp lý của các hành vi tố tụng và quyết định trước đó của cơ quan tiến hành tố
tụng mà gây bất lợi cho người phạm tội thì giải quyết thế nào như: thời hạn điều tra, thời
hạn tạm giam, thời hạn xét xử quá thời hạn quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. v.v…
Quan điểm thứ hai cho rằng, không thể căn cứ vào tội danh do cơ quan điều tra khởi tố để
làm căn cứ tính thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội mà phải
căn cứ vào tội danh thật (tội danh mà theo quy định của Bộ luật hình sự mà họ đã phạm)
để làm căn cứ tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, ngay
cả trong trường hợp tội danh mà bản án có hiệu lực đã kết án đối với người phạm tội và
bản án đó bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì tội danh làm căn cứ

tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là tội danh mà Hội đồng giám đốc thẩm đã kết
án người phạm tội. Chúng tôi đồng ý với quan điểm này, vì trong quá trình điều tra, truy
tố và xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng có thể chưa xác định đúng tội danh mà người
phạm tội thực hiện nên có thể khởi tố, truy tố hoặc kết án sai; những sai lầm này của cơ
20
quan tiến hành tố tụng đã gây bất lợi cho người phạm tội khi phải áp dụng các quy định
khác của Bộ luật tố tụng hình sự như: về thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam… Nếu lại
căn cứ vào tội danh mà người phạm tội bị khởi tố, bị truy tố hoặc bị kết án sai để xác
định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội thì người phạm tội
phải gánh chịu bất lợi hai lần. Ví dụ: A bị khởi tố về tội giết người theo khoản 2 Điều 93
Bộ luật hình sự, Viện kiểm sát nhân dân truy tố A về tội cố ý gây thương tích theo khoản
3 Điều 104 Bộ luật hình sự, Toà án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về tội vô ý làm chết người
theo khoản 1 Điều 98 Bộ luật hình sự, Toà án cấp phúc thẩm kết án bị cáo về tội giết
người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo khoản 1 Điều 96 Bộ luật hình sự,
thì tội danh để xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với A là tội danh theo
khoản 1 Điều 96 Bộ luật hình sự.
Trường hợp Cơ quan điều tra khởi tố về tội nhẹ hơn, nhưng Viện kiểm sát truy tố người
phạm tội về tội nặng hơn hoặc Toà án kết án người phạm tội về tội nặng hơn thì thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội cũng căn cứ vào tội danh mà Viện
kiểm sát truy tố hoặc Toà án kết án đối với người phạm tội chứ không phải căn cứ vào tội
danh mà Cơ quan điều tra khởi tố. Cách tính này, mới nghe có vẻ bất lợi cho người phạm
tội nhưng không phải như vậy, vì lúc đầu Cơ quan điều tra chưa xác định chính xác tội
danh mà người phạm tội là tội danh nào quy định trong Bộ luật hình sự nên khởi tố tội
danh nhẹ hơn và áp dụng các biện pháp tố tụng theo tội danh nhẹ hơn, nhưng trong quá
trình tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng sau đó (Viện kiểm sát và Toà án) xác định lại
tội danh mà người phạm tội thực hiện là tội danh nặng hơn tội danh Cơ quan điều tra
khởi tố thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự phải tính đối với tội danh mà phạm tội
tực hiện; không có gì là gây bất lợi cho người phạm tội cả, ngược lại người phạm tội còn
được lợi do việc xác định sai tội danh của Cơ quan điều tra nên chỉ áp dụng các biện pháp
tố tụng theo tội danh nhẹ hơn mà lẽ ra họ phải bị áp dụng các biện pháp tố tụng theo tội

danh nặng hơn.
5. Trường hợp đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can nhưng vì nhiều nguyên nhân khác nhau
(trong đó có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan) nên vụ án phải kéo dài như: Vụ án
21
bị huỷ đi huỷ lại nhiều lần để xét xử lại hoặc để điều tra lại, bị trả hồ sơ vụ án để điều tra
lại nhiều lần, bị tạm đình chỉ, thậm chí bị bỏ quên.v.v… Vậy thời gian “kéo dài” vụ án có
tính vào thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự hay không ? Ví dụ: Ngày 14-2-2001
Trương Việt D bị khởi tố và truy tố về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều
139 Bộ luật hình sự; tại bản án hình sự sơ thẩm (lần 1) ngày 25-8-2002 Toà án nhân dân
huyện K đã áp dụng khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự phạt Trương Việt D hai năm sau
tháng tù (2 năm 6 tháng) về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; sau khi xét xử sơ thẩm
Trương Việt D kháng cao kêu oan và tại bản án hình sự phúc thẩm (lần 1) ngày 30-11-
2002 Toà án nhân dân tỉnh B đã huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại. Sau khi điều tra lại,
tại cáo trạng (lần 2) ngày 20-6-2004 Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố Trương Việt
D về tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình; tại
bản án hình sự sơ thẩm (lần 2) ngày 12-8-2004 Toà án nhân dân huyện K đã áp dụng
khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự phạt Trương Việt D một năm sau tháng tù (1 năm 6
tháng) về tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; sau khi xét xử sơ thẩm Trương
Việt D vẫn kháng cáo kêu oan cho rằng việc D còn nợ tiền của các người bị hại chỉ là
quan hệ dân sự; tại bản án hình sự phúc thẩm (lần 2) ngày 10-01-2005 Toà án nhân dân
tỉnh B lại huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại. Sau khi điều tra lại lần thứ ba, Cơ quan điều
tra chỉ kết luận Trương Việt D chiếm đoạt của 2 người bị hại với tổng số tiền là
10.500.000 đồng chứ không phải của 5 người bị hại với tổng số tiền là 45.500.000 đồng
như kết luận điều tra lần thứ hai; tại cáo trạng (lần 3) ngày 25-6-2006, Viện kiểm sát nhân
dân huyện K truy tố Trương Việt D về tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo
khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự với số tiền chiếm đoạt là 8.500.000 đồng (it hơn
2.000.000 đồng) so với kết luận của Cơ quan điều tra; tại bản án hình sự sơ thẩm (lần 3)
ngày 20-9-2006 Toà án nhân dân huyện K đã áp dụng khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự
phạt Trương Việt D sáu tháng (6 tháng) tù về tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản”; sau khi xét xử sơ thẩm lần 3, Trương Việt D vẫn kháng cáo kêu oan và tại bản án

hình sự phúc thẩm (lần 3) ngày 15-11- 2006 Toà án nhân dân tỉnh B lại huỷ bản án sơ
thẩm để điều tra lại.
22
Khi thụ lý vụ án để điều tra lại, có ý kiến khác nhau về việc tính thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với Trương Việt D:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, việc để kéo dài thời hạn tố tụng là do lỗi của cơ quan tiến
hành tố tụng, không thể bắt người phạm tội phải gánh chịu. Nếu tính từ khi Trương Việt
D bị khởi tố đến khi Cơ quan điều tra thụ lý lại vụ án để điều tra lại lần thứ 4 thì đã hơn 5
năm và thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự là 5 năm kể từ ngày người phạm tội
thực hiện tội phạm, nên thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Trương Việt D đã
hết, Cơ quan điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều tra đối với Trương Việt D.
Quan điểm thứ hai cho rằng, truy cứu trách nhiệm hình sự là bao gồm: quyết định khởi tố
bị can, quyết định truy tố (bản cáo trạng), bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm, quyết định
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Như vậy, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ tính
đến ngày khởi tố bị can; sau khi đã khởi tố bị can (trừ trường hợp người phạm tội bỏ trốn
và có lệnh truy nã, vụ án phải tạm đình chỉ), còn vì lý do khác mà vụ án kéo dài thì thời
gian kéo dài đó không được tính vào thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự. Chúng tôi
đồng tình với quan điểm này, vì theo khoản 3 Điều 23 Bộ luật hình sự thì trong thời hạn
định tại khoản 2 người phạm tội lại phạm tội mới mà Bộ luật quy định mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy trên một năm tù, thì thời gian đã qua không được tính và
thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày phạm tội mới hoặc người phạm tội cố
tình trốn tránh và đã có lệnh truy nã, thì thời gian trốn tránh không được tính và thời hiệu
tính lại kể từ khi người đó ra tự thú hoặc bị bắt giữ. Không có quy định nào “thời gian
tiến hành tố tụng được trừ vào thời hạn để tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự”.
Thời hạn tố tụng và thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là hai vấn đề hoàn toàn khác
nhau; do đó, không thể cho rằng, do thời gian tiến hành tố tụng kéo dài rồi tính cho người
phạm tội được hưởng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu thời gian tố tụng kéo
dài do lỗi của người tiến hành tố tụng thì tuỳ trường hợp mà họ bị xử lý kỷ luật hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự.

23
Về chế định miễn trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự (TNHS) là hậu quả pháp lý mà bản thân người phạm tội phải gánh
chịu trước Nhà nước do việc thực hiện hành vi phạm tội. Nhà nước có quyền áp dụng chế
tài hình sự đối với người phạm tội. Hậu quả là người phạm tội bị áp dụng biện pháp
cưỡng chế (hình phạt, biện pháp tư pháp) của luật hình sự.
Miễn TNHS là chấm dứt TNHS đối với người phạm tội, là Nhà nước không buộc người
phạm tội phải gánh chịu hậu quả pháp lý hình sự do việc thực hiện hành vi phạm tội.
Miễn TNHS khác với trường hợp không có TNHS hoặc không phải chịu TNHS (vì đây là
trường hợp không phạm tội). Miễn TNHS cũng khác với miễn hình phạt về căn cứ và
thẩm quyền áp dụng.
Miễn TNHS là chế định nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam. Thực hiện những quy
định này là nhằm tiết kiệm việc áp dụng chế tài của luật hình sự nhưng vẫn đảm bảo được
yêu cầu giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội. Áp dụng đúng chế
định này có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đáp ứng
mục tiêu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy vậy, không ít cán bộ tư pháp
hiện nay chưa nhận thức đúng về chế định này, chưa phân biệt chính xác, đầy đủ về
những trường hợp “được” miễn TNHS và những trường hợp “có thể được” miễn TNHS,
dẫn đến sự lúng túng khi áp dụng vào quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Trước năm 1985, chế định miễn TNHS được ghi nhận trong các văn bản pháp quy hình
sự đơn hành (Sắc lệnh, Pháp lệnh, Thông tư) với nhiều tên gọi khác nhau như “tha miễn
TNHS”, “miễn tố”, “miễn hết cả tội”… Trong Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1985, chế
định miễn TNHS được quy định tại các Điều 16, 48, 74, 227 và 247. Qua thực tiễn áp
dụng, chế định miễn TNHS đã được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hơn. Trong BLHS
năm 1999, chế định miễn TNHS được ghi nhận tại các Điều 19, 25, 69, 80, 289, 290 và
24
314. Theo đó, các quy định về miễn TNHS bao gồm hai loại: quy định có tính chất bắt
buộc, tức là dứt khoát “được miễn TNHS” và quy định có tính chất tuỳ nghi, tức là “có
thể được miễn TNHS”. Với quy định có tính chất bắt buộc thì khi gặp những trường hợp

phù hợp với nội dung của điều luật, cơ quan có thẩm quyền phải miễn TNHS cho người
phạm tội. Với quy định có tính chất tuỳ nghi thì cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào từng
trường hợp cụ thể mà đánh giá tính chất, mức độ của sự việc và đi đến quyết định miễn
TNHS hoặc không miễn TNHS cho người phạm tội.
Các trường hợp được miễn TNHS
Theo quy định của BLHS hiện hành, trong các trường hợp sau đây, người phạm tội “được
miễn TNHS”:
+ Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn TNHS về tội định
phạm (đoạn 2 Điều 19 BLHS).
+ Người phạm tội được miễn TNHS, nếu khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do
chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy
hiểm cho xã hội nữa(khoản 1 Điều 25 BLHS).
+ Người phạm tội được miễn TNHS khi có quyết định đại xá (khoản 3 Điều 25 BLHS).
+ Người đã nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú,
thành khẩn khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì được miễn TNHS (khoản 3
Điều 80 BLHS).
Khi có đầy đủ các tài liệu, chứng cứ để xác định rằng người phạm tội thuộc một trong
bốn trường hợp này thì cơ quan có thẩm quyền phải miễn TNHS cho họ.
Khoản 1 Điều 23 BLHS quy định: “Thời hiệu truy cứu TNHS là thời hạn do Bộ luật này
quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu TNHS”. Những
trường hợp “không bị truy cứu TNHS” do đã hết thời hiệu được quy định tại khoản 2
Điều 23 BLHS là những trường hợp mà lẽ ra người phạm tội phải chịu TNHS (vì có cơ
25

×