Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

công nghiệp việt nam trong xu thế toàn cầu hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.46 KB, 37 trang )

a. Lời nói đầu
Toàn cầu hoá trong những năm gần đây đã trở thành đề tài được đông đảo
các nhà chính trị, các học giả, các nhà kinh doanh và dân chúng quan tâm đặc
biệt. Có nhiều ý kiến khác nhau khi đánh giá quá trình này. Có người chỉ nói tới
các lợi của toàn cầu hoá, xem nó như là một giải pháp cứu cánh của một quốc
gia. Ngược lại, có người chỉ nói tới cái hại của toàn cầu hoá, xem nó là một nguy
cơ đe doạ các quốc gia, các dân téc nhất là các quốc gia đang và chậm phát triển.
Ngay cả các nước phát triển nh Mỹ và Châu Âu cũng có hai cách nhìn nhận
ngược nhau. Hiện nay trên thế giới, toàn cầu hoá đang diễn ra nh mét tất yếu
khách quan. Với đầy đủ những đặc trưng của nó, xu thế toàn cầu hoá đang chứng
tỏ mặt tích cực và những thành quả to lớn mà nó đem lại cho tất cả các nước
trong cộng đồng quốc tế.
Việt Nam ta đang ở trong giai đoạn chuyển mình, tập trung phát triển kinh
tế với nội dung Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Muốn Công nghiệp hoá
- Hiện đại hoá thì không thể đóng cửa nền kinh tế đó là lẽ tất nhiên trong bối cảnh
quốc tế hiện nay. Có thể thấy rằng ở trình độ phát triển hiện nay thì xu thế toàn
cầu hoá vừa là môi trường vừa là chiến trường trên mặt trân kinh tế Việt Nam.
Trong giai đoạn này, mục tiêu chiến lược của Việt Nam là Công nghiệp
hoá - Hiện đại hoá đất nước. Với những tác động của toàn cầu hoá và hội nhập
quốc tế. Trong chuyên đề thực tập tốt nghiệp em chọn đề tài Công nghiệpViệt
Nam trong xu thế toàn cầu hoá (nghành Điện lực ). Trên cơ sở nguồn tài liệu và
các tạp chí để nhìn nhận và đánh giá về Công nghiệp Việt Nam (nghành Điện
lực ) trong xu thế của toàn cầu hoá và công nghiệp hoá - Hiện đại hoá , Từ đó cho
chóng ta thấy được vai trò to lớn của Công nghiệp và đặc biệtlà nghành điện
trong quá trình Công nghiệp hoá và Hiện đại hoá đất nước.
Em tin rằng chuyên đề vẫn còn rất nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được
sự sửa chữa và bổ xung . Em xin chân thành cảm ơn.
1
B. Nội dung
Chương I
TOÀN CẦU HOÁ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN GIẢI QUYẾT


I. Quá trình vận động của toàn cầu hoá.
Tuỳ theo cách nội dung toàn cầu hoá nh thế nào mà người ta xác định thời
điểm toàn cầu hoá xuất hiện và cái đích mà nó hướng tới cùng với những hình
thức đa dạng của nó. Nếu hiểu toàn cầu hoá là những mối quan hệ kinh tế vượt ra
ngoài biên giới quốc gia, thì toàn cầu hoá đã bắt đầu từ rất xa xưa như có người
cho là từ thời Alexandre Đại đế, bốn thế kỷ trước Công nguyên. Nếu hiểu đó là
những quan hệ kinh tế quốc tế phát triển tới quy mô toàn cầu thì toàn cầu hoá lại
có thể bắt đầu từ khoảng đầu thể kỷ 20 khi CNTB chuyển từ CNTB tù do cạnh
tranh sang chủ nghĩa đế quốc. Nhưng nếu hiểu toàn cầu hoá là một quá trình quốc
tế kinh tế đã phát triển trên quy mô toàn cầu hoá gồm trong hai quá trình quốc tế
đã phát triển song song - tù do hoá kinh tế và hội nhập quốc tế - nghĩa là các quan
hệ kinh tế không những được tự do phát triển trên phạm vi toàn cầu, mà còn phải
tuân theo những cam kết toàn cầu đa dạng, thì quá trình này mới thực sự bắt đầu
từ thập kỷ 90, vì trước đó thế giới còn bị chia làm hai hệ thống đối lập, chưa có
các cam kết toàn cầu.
Cái đích cuối cùng mà quá trình toàn cầu hoá hướng tới là một nền kinh tế
toàn cầu thống nhất không còn biên giới quốc gia về kinh tế. Nhưng điều quan
trọng ở đây là lé trình và thời hạn có thể tới cái đích Êy. Nếu một nền kinh tế toàn
cầu thống nhất sẽ xuất hiện trong tới thế kỷ tới, thì chính nền kinh tế đó sẽ chi
phối, sẽ quy định toàn bộ sự vận động của các quan hệ kinh tế từ nay cho tới đó.
Vấn đề là hiện nay một nền kinh tế toàn cầu thống nhất có trở thành hiện thực
không, hay đó chỉ là một ước mơ hão huyền của một nhà tiên tri nào đó? Hiện đã
có những căn cứ thực tế để quá trình toàn cầu hoá đi tới cái đích Êy, vì như sự
hình thành và phát triển của nền công nghệ mang tính toàn cầo, nền công nghệ cơ
2
khí về cơ bản vẫn là một nền công nghệ có tính quốc gia, vì nó luôn phải lấy thị
trường trong nước làm chính, một khi chi phí vận chuyển liên lạc còn quá đắt đỏ,
thì việc sản xuất, vận chuyển, tiêu thụ các hàng hoá ở thị trường bên ngoài luôn
có nhiều rủi ro bất trắc và có lợi thế so sánh hạn chế. Giải pháp để giảm bớt
những rủi ro bất trắc này và đảm bảo có lợi thế so sánh cao là những nước sản

xuất hàng hoá phải xâm chiếm và phân chia thị trường thế giới, thị trường của ai
kẻ đó độc quyền bán hàng. Sự xâm chiếm thị trường này dẫn tới những xung đột
giữa các nước thuộc địa nơi bán hàng và các nước chính quốc, kẻ xâm chiếm.
Các nước đế quốc xuất hiện sau không có thị trường, đòi hỏi chia lại thị
trường, chiến tranh bùng nổ. Trong tình trạng xung đột như vậy, thị trường thế
giới đã bị xé nhỏ và chia cắt.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống thuộc địa đã tan rã, các nước đế
quốc không thể xâm chiếm và chia nhau thị trường bằng chiến tranh nh trước nữa
do sức mạnh của hệ thống XHCN và phong trào giải phóng dân téc. Nhưng thị
trường thế giới lại bị chia cắt theo hướng khác: thị trường của các nước XHCN
đối lập với thị trường của các nước TBCN. Các quốc gia mới được độc lập hầu
nh thi hành chính sách bảo hộ mậu dịch chặt chẽ, các nước phát triển vừa thi
hành chính sách bảo hộ mậu dịch, vừa mở cửa theo các hiệp địng song phương và
khu vực (Châu Âu). Hiệu năng của nền công nghiệp cơ khí chưa cho phép các
quan hệ kinh tế quốc tế có thể phát triển xa hơn xét về mặt hiệu quả kinh tế.
Nhưng trong những thập kỷ gần đây công nghệ thông tin và vận tải đã có
những tiến bộ vượt bậc, đã làm giảm chi phí vận tải quốc tế xuống cả chục lần và
giảm chi phí liên lạc viễn thông xuống cả trăm lần (năm 1930 một cuộc điện
thoại từ Luân Đôn đến Niu Ước trong 3 phót mất 300USD, nay chỉ còn không
đáng kể). Tiến bộ công nghệ này đã có tác động cực kỳ quan trọng đến toàn bộ
các quan hệ kinh tế quốc tế, nó đã biến các công nghệ có tính quốc gia thành
công nghệ toàn cầu. Ta có thể nêu ra một ví dụ về công nghệ may mặc. Một cái
máy may dù có hiện đại đến máy cũng chỉ có thể làm ra quần áo bán trong một
địa phương hay một quốc gia, và có thể vương tới một vài nước gần gũi. Chúng
3
không thể được bán ở các thị trường xa xôi, vì chi phí vận tải và liên lạc cao đã
làm mất hết lợi thế so sánh. Nhưng nhờ có tiến bộ công nghệ liên lạc và vận tải,
nên Công ty NIKE chỉ nắm hai khâu: sáng tạo thiết kế mẫu mã và phân phối toàn
cầu (còn sản xuất do các công ty của nhiều nước làm), những đã làm cho công
nghệ may mặc có tính toàn cầu. Các công nghệ sản xuất xe máy, ô tô, máy tính

điện tử, máy bay đã này càng có tính toàn cầu sâu rộng. Tính toàn cầu này đã
thể hiện ngay từ khâu sản xuất (được phân công chuyên môn hoá ở nhiều nước)
đến khâu phân phối (tiêu thụ trên toàn cầu). Những công nghệ ngay khi ra đời đã
có tính toàn cầu như công nghệ vệ tinh viễn thông đã bắt đầu xuất hiện.
Chính công nghệ toàn cầu này là cơ sở quan trọng đầu tiên, đặt nền móng
cho sự đẩy mạnh quá trình toàn cầu hoá.
Nhờ có công nghệ toàn cầu phát triển, sự hợp tác giữa các quốc gia, các tập
đoàn kinh doanh có thể mở rộng từ sản xuất đến phân phối trên phạm vi toàn cầu,
những quan hệ này tuỳ thuộc lẫn nhau, cùng có lợi phát triển. Đó là cơ sở đầu
tiên của nền kinh tế toàn cầu thống nhất.
II. Các quan hệ kinh tế toàn cầu ngày càng phát triển.
Một nền công nghệ toàn cầu xuất hiện đã là cơ sở cho các quan hệ kinh tế
toàn cầu phát triển. Đầu tiên là các quan hệ thương mại, chi phí vận tải liên lạc
càng giảm đi, thì khả năng bán hàng đi các thị trường xa càng tăng lên, thương
mại toàn cầu càng có khả năng phát triển. Đồng thời quá trình phân công lao
động quốc tế, chuyên môn hoá sản xuất càng có thể diễn ra sâu sắc giữa các quốc
gia và châu lục. Các linh kiện mát bay Boing, của ô tô, của máy tính đã có thể
sản xuất ở hàng chục nước khác nhau. Các quan hệ sản xuất, thương mại có tính
toàn cầu, đã kéo theo các dòng tiền tệ, vốn, dịch vụ vận động trên phạm vi toàn
cầu. Công nghệ thông tin đã làm cho các dòng vận động này thêm náo nhiệt và
nhanh nhậy hơn. Ngày nay lượng buôn bán tiền tệ toàn cầu đã vượt quá con sè
1.500 tỷ USD một ngày. Thương mại điện tử xuất hiện với kim ngạch ngày càng
tăng và đang trở thành một loại hình buôn bán toàn cầu đầy triển vọng.
4
Sự phát triển của công nghệ toàn cầu và các quan hệ kinh tế toàn cầu đang
ngày càng cung đột với các thể chế quốc gia, với các rào cản quốc gia. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất và các quan hệ kinh tế toàn cầu đang công phá các
bức tường quốc thành quốc gia. Bước vào thập kỷ 90 các bức tường thành quốc
gia này đã bị phá vỡ ở các quốc gia trong Liên minh Châu Âu, ở các quốc gia Bắc
Mỹ với mức độ thấp hơn. Các quốc gia ASEAN đã cam kết giảm bớt rào cản

quốc gia. Các nước thành viên của Tổ chức thương mại thế giới cũng cam kết
một lé trình giảm bớt hàng rào này
Nhưng phải thừa nhận là những bức tường thành quốc gia này vẫn còn rất
chắc ở nhiều nước và ở ngay cả Liên minh Châu Âu hay bắc Mỹ với những hình
thực biến tướng đa dạng. Chính chúng đang cản trở quá trình toàn cầu hoá.
III. Những vấn đề kinh tế toàn cầu ngày càng xuất hiện nhiều, bức xúc đòi
hỏi phải có sự phối hợp quản lý trên phạm vi toàn cầu của các quốc gia.
Người ta có thể kể ra ngày càng nhìeu các vấn đề toàn cầu như: thương
mại đầu tư, tiền tệ, dân số, lương thực, năng lượng, môi trường Môi trường toàn
cầu ngày càng bị phá hoại; các tài nguyên thiên nhiên ngày càng bị cạn kiệt, dân
số thế giới đang gia tăng nhanh chóng trở thành một thách thức toàn cầu; các
dòng vốn toàn cầu vận động tự do không có sự phối hợp điều tiết đã làm nảy sinh
các cuộc khủng hoảng kinh tế liên tiấp ở Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Á trong thập
kỷ 90 Cần có sự phối hợp toàn cầu để đối phó với các thách thức đó.
"Bàn tay hữu hình" của các chính phủ đã chỉ hữu hiệu ở các quốc gia, còn
trên phạm vi toàn cầu hiện đang có quá nhiều "Bàn tay hữu hình" va đập vào
nhau, chứ chưa có một "bàn tay hữu hình" chung làm chức năng điều tiết toàn
cầu.
Với những căn cứ trên đây, toàn cầu hoá đang phát triển như là một xu
hướng tất yếu khách quan với những đặc trưng chủ yếu là:
- Các hàng rào thuế quan và phi thuế quan đang giảm dần và sẽ bị xoá bỏ
trong một tương lai gần theo các cam kết quốc tế đa phương và toàn cầu, nghĩa là
5
các biên giới quốc gia về tm dt đang tiêu vong. Đấy là một tiền đề quan trọng
trước hết cho sự hình thành một nền kinh tế thế giới không còn biên giới quốc
gia.
- Các công ty của các quốc gia ngày càng có quyền kinh doanh tù do ở mọi
quốc gia, trên các lĩnh vực được cam kết, không có phân biệt đối xử.
Đặc trưng thứ hai này rất quan trọng, vì dù như không có các biên giới
quốc gia về thuế quan, nhưng các công ty không được quyền kinh doanh tù do

trên phạm vi toàn cầu, thì nền kinh tế thế giới khó có thể hình thành được. Đặc
trưng thứ hai này thực chất là sự xoá bỏ các biên giới về dt, dịch vụ và các lĩnh
vực kinh tế khác.
Giai đoạn hiện nay của toàn cầu hoá mới chỉ đạt tới, đang đạt tới hai đặc
trưng này. nhưng nếu nó dừng lại ở hai đặc trưng này, thì quá trình toàn cầu hoá
sẽ bị đẩy tới những mâu thuẫn và bế tắc mới. Nếu các quan hệ thương mại và đầu
tư phát triển vượt ra ngoài biên giới quốc gia, các dòng hàng hoá, tiền tệ, vốn
lưu thông tự do trên toàn cầu, thì sẽ nảy sinh không Ýt những vấn đề phức tạp
mới: liệu thị trường thế giới không biên giới phát triển có vấp phải sự trãi buộc
của một hệ thống tiền tệ quốc gia với hàng trăm đồng tiền khác nhau, trao đổi với
nhau theo tỷ giá thả nổi bếp bênh? Liệu một thị trường thế giới không thống nhất
toàn cầu phát triển có dung hợp được với các luật pháp quộc gia thủ cựu không?
Liệu một nền kinh tế toàn cầu phát triển có đòi hỏi một hệ thống chính trị, văn
hoá, an ninh xã hội toàn cầu phát triển theo không
Có nhiều vấn đề đang được đặt ra mà không lời giải đáp đến nay có thể
xem như là chưa có.
6
Chương II
CÔNG NGHIỆP VIỆT Nam TRONG XU THẾ TOÀN CẦU HOÁ
I. Quan điểm phát triển ngành công nghiệp nước ta.
Phát triển công nghiệp nằm trong bối cảnh phát triển kinh tế xã hội nói
chung. Nó phải dùa trên một nền kinh tế mở và hội nhập vào phân công lao động
khu vực và quốc tế. Để có hiệu quả, phát triển công nghiệp phải tập trung vào
những lợi thế cạnh tranh, được bảo hộ nhưng ở mức độ thấp. Bằng cách tạo dựng
một nền kinh tế mở, công nghiệp có thể phản ứng nhanh chóng và có hiệu quả
khi sù thay đổi nhu cầu dãn tới thay đổi trong cấu trúc công nghệp. Trong chõng
mực sự tăng trưởng kinh tế tập trung ở những vùng đông dân do sự phát triển hạ
tầng ở đó thích ứng, thì cũng có thể đưa ra những chiến lược đảm bảo là các khu
vực nông thôn cũng được lợi Ých từ thị trường thế giới, và cũng có thể đưa ra
những khuyến khích đối với ngành công nghiệp có thể tạo ra tính hấp dẫn hơn

cho khu vực nông thôn và khi nông thôn trở nên hấp dẫn ngay cả đầu tư nước
ngoài cũng có thể đổ vào. Rõ ràng những điều này phải được nhìn nhận trong
khuôn khổ phát triển, bao gồm những mục tiêu phi kinh tế như các vấn đề quốc
phòng, bảo tồn di sản văn hoá - lịch sử và những mục tiêu sinh thái.
Trong báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. Nêu trong phương hướng, nhiệm vụ kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2001 - 2005 định hướng phát triển công
nghiệp:
Phát triển với nhịp độ cao, có hiệu quả, coi trọng đầu tư chiều sâu, đối với
thiết bị công nghệ tiên tiến và tiến tới hiện đại hoá từng phần các ngành sản xuất
công nghiệp.
Phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, chú trọng công
nghiệp chế biến và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu; các ngành công nghiệp
phục vụ nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
7
Xây dựng có lùa chọn, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, và hiệu
quả một số cơ sở công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất: dầu khí, luyện kim (thép,
alumin, nhôm, kim loại quý ), cơ khí, điện tử, hoá chất cơ bản
Phát triển mạnh công nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin
viễn thông, điện tử. Phát triển một số cơ sở công nghiệp quốc phòng cần thiết.
Kết hợp hài hoà phát triển công nghiệp đáp ứng yêu cầu trong nước và xuất
khẩu; có những biện pháp bảo hộ hợp lý, bảo đảm công nghiệp phát triển với khả
năng cạnh tranh cao, thúc đẩy công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư sản xuất công
nghiệp với nhiều quy mô, nhiều trình độ; chú trọng các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
phù hợp định hướng chung và lợi thế từng vùng, từng địa phương; trước hết phải
tập trung cho công nghiệp chế biến, công nghiệp sử dụng nhiều lao động và công
nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, phát triển mạnh mẽ tiểu thủ công nghiệp.
II. Các mục tiêu chiến lược phát triển công nghiệp.
Mục tiêu chủ đạo của Việt Nam là trở thành một nước công nghiệp hoá.

Thông qua những thay đổi cơ bản trong lĩnh vực công nghiệp và thông qua sự hội
nhập và nền kinh tế thế giới, có thể giúp tăng trưởng kinh tế cũng như tăng tỷ
trọng đóng góp của lĩnh vực công nghiệp và GDP từ 34 - 35% năm 2000 lên đến
37 - 38% năm 2010, tức 40 - 41% năm 2020. Điều này đòi hỏi phải có được tốc
độ tăng trưởng kinh tế ở mức 11 - 12% trong giai đoạn 1996 - 2000 và 7 - 9%
trong giai đoạn 2001 - 2010.
Đứng sau những chuyển đổi đó là sự thay đổi về giá trị tăng trong công
nghiệp, khai khoáng và thủ công mỹ nghệ. Tương tự như vậy, tính cạnh tranh
tăng lên của các ngành công nghiệp trong nước cho phép các nhà sản xuất trong
nước khai thác. những sự phát triển này sẽ đem đến sự bùng nổ các ngành công
nghiệp tương lai trong lĩnh vực điện, xuất khẩu và chế biến dầu khó, gạo, cơ khí,
công nghệ thông tin, hoá chất và luyện kim.
8
III. Định hướng phát triển tới năm 2010.
Phân đấu đến năm 2010 - 2020, Việt Nam đạt trình độ một nước công
nghiệp hoá XHCN trên cơ sở một nền công nghiệp hiện đại, toàn diện và đồng bộ
làm nền tảng cho các ngành kinh tế phát triển ngang tầm các nước phát triển
trong khu vực và trên thế giới.
Giữ vững liên tục để trong vòng 15 - 20 năm tới tốc độ tăng trưởng cao,
đảm bảo nhu cầu cơ bản về công nghiệp chế tạo phục vụ các ngành chế biến.
Thoả mãn phần lớn nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, nhu cầu sản xuất của các
ngành kinh tế quan trọng, tạo ra nhiều giá trị gia tăng trong công nghiệp và xuất
khẩu.
Đổi mới công nghệ của phần lớn doanh nghiệp, phát triển nhanh một số
ngành và một số lĩnh vực có lợi thế, hình thành một số ngành công nghiệp chủ
lực như: công nghiệp dệt - may xuất khẩu, chế biến thực phẩm, khai thác và chế
biến dầu khí, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, công nghiệp thép, công
nghiệp chế tạo máy vừa và nhỏ.
Hình thành các khu công nghiệp tập trung (bao gồm khu chế chế xuất và
khu công nghệ cao), tạo địa bàn thuận lợi cho công việc xây dựng các cơ sở công

nghiệp mới. Phát triển mạnh công nghiệp nông thôn và ven đô. Ở các thành phố,
thị xã nâng cấp các cơ sở công nghiệp hiện có, hạn chế việc xây dựng các cơ sở
công nghiệp mới xen lẫn với khu dân cư. Sản phẩm lùa chọn phù hợp với năng
lực sản xuất, khả năng đầu tư và phương pháp tổ chức lại sản xuất của từng
ngành, từng giai đoạn nhất định.
Loại bỏ tư tưởng tự cấp tự túc trước đây, không sản xuất riêng lẻ đơn
chiếc, chọn các sản phẩm thị trường có nhu cầu lớn, giá trị cao. Tập trung đầu tư
kỹ thuật, công nghệ tiên tiến bảo đảm sản lượng và chất lượng cho yêu cầu trong
nước và xuất khẩu. Mạnh dạn đầu tư một số công nghệ cao và rất cao đối với các
ngành công nghiệp mòi nhọn như khai thác và chế biến dầu khí, công nghiệp điện
tử và công nghệ thông tin.
9
Liên kết sản xuất trong nước, phối hợp giữa nhập khẩu các chi tiết, bộ phận
để đồng bộ sản xuất, đồng bộ dây chuyền thiết bị.
Phấn đấu đến năm 2010 sản phẩm của công nghiệp Việt Nam có khả năng
đáp ứng được yêu cầu của kinh tế quốc gia và có đủ sức cạnh tranh với các nước
trong khu vực.
Quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp
Đơn vị: %
Ngành
Đơn
vị
2000 - 2005 2000 - 2010
Sản lượng năm 2005
(quy đổi)
Điện % 70 170
Dầu khí (khí đốt) % 50 90 27-28 triệu tấn quy đổi
Than sạch % 50 80 15-16 triệu tấn
Xi măng % 83 170 Tổng công suất 24,5 triệu tấn
Thép % 92 185 1-1,4 triệu tấn phôi và 2,7

triệu tấn thép cán
Phân lân % 74 110 Lân các loại: 2,2 triệu tấn
Phân đạm 12 lần 36 lần Urê: 80-90 vạn tấn
Giấy % 66 200 500.000 tấn
Vải % 87 140 750 triệu mét
Cơ khí chế tạo đáp ứng
nhu cầu trong nước
% 25 40
Tỷ lệ nội địa hoá trong
sản phẩm cơ khí lắp ráp
% 50 60
Nguồn: Chiến lược phát triển công nghiệp của Bộ Công nghiệp
IV. Những chỉ tiêu phát triển chủ yếu.
Phát triển sản xuất công nghiệp là nền tảng của sản xuất công nghiệp hoá,
là một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá sự tiến bộ của một quốc gia. Vì vậy chủ
trương của Đảng ta là lấy mục tiêu phát triển công nghiệp trong giai đoạn chiến
lược sắp tới để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Nền công nghiệp nước ta từ sau khi giành được độc lạp đã từng bước trải
qua các giai đoạn phát triển theo chiều hướng công nghiệp hoá, đến nay đã đạt
được những thành tựu đáng kể, tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu làm nền
10
tảng cho việc phát triển đồng bộ nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng ngày càng cao
trong phạm vi cả nước.
Tuy vậy, nền công nghiệp của nước ta vẫn còn nhiều điểm yếu, chưa thoả
mãn nhu cầu về số lượng sản phẩm, chưa đạt trình độ công nghệ khá trong khu
vực, còn thiếu cán bộ và tri thức, tất cả các điều kiện hạ tầng cho công nghiệp hoá
còn kém xa các nước trong khu vực.
Dưới đây, chúng ta sẽ xem xét lại một cách tổng quan về công nghiệp hoá
Việt Nam trong giai đoạn mở cửa theo xu hướng toàn cầu hoá.
IV.1. Sản xuất tăng trưởng và giá trị sản lượng.

Trong quá trình chuyển dịch sang một nền kinh tế theo định hướng thị
trường kể cả qua đó thực hiện những thay đổi trong vai trò của Nhà nước và
doanh nghiệp do Nhà nước quản lý, Chính phủ đã đề ra một số chính sách và
hướng dẫn nhằm mở đường cho phát triển công nghiệp. Những chuyển đổi này
đã khiến mỗi doanh nghiệp phải thực hiện những biện pháp riêng của mình để
nâng cao hiệu suất và tổ chức sản xuất cho phù hợp, đổi mới công nghệ và từng
bước giảm bớt các trở ngại với sản xuất kinh doanh. Sản phẩm của các doanh
nghiệp bắt đầu giành lại sức cạnh tranh và dần dần chiếm lại thị phần trong nước,
đồng thời tăng cường xuất khẩu.
Trong giai đoạn 1991 - 1998, tỷ lệ tăng trưởng hàng năm của toàn bộ khu
vực công nghiệp đạt 13%. Theo đó giữa những năm 1991 - 1995, tỷ lệ này đạt
mức 13,7% (đây là mức tăng trưởng cao nhất cho tới năm 1998; thời kỳ 1976 -
1980 là 0,6%; 1981 - 1985 là 9,5; 1986 - 1990 là 6,1%). Sau năm 1995 tỷ lệ tăng
trưởng có xu hướng chậm lại.
Nguyên nhân của sự suy giảm này là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
tài chính Châu Á. Sù bất ổn định về tài chính dẫn tới nhu cầu giảm, nguồn đầu tư
nước ngoài giảm, chi tiêu cho đầu tư vốn thấp hơn. Sự suy giảm vốn ngày càng
đặc biệt đúng với các doanh nghiệp nhà nước, đều gặp khó khăn hơn. Khu vực
công nghiệp chỉ đạt tỷ lệ tăng trưởng khoảng 10% (96-98) giảm so với mức
11
14,5% (91-95). Khu vực ngoài quốc doanh con số tương ứng là 7,7% và 10,6%,
trong khi ở khu vực đầu tư nước ngoài những con số này là 20,1% so với 24,2%.
Nhiều khu vực khác chỉ đạt tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn. Khu vực tập thể đạt tỷ lệ
tăng trưởng thấp nhất. Mức bình quân của các ngành công nghiệp địa phương xấp
xỉ 10%/năm, trừ thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng và Quảng Ninh.
Những tiến triển trong thời kỳ này dẫn đến việc cơ cấu lại công nghiệp hoá
và hiện đại hoá trong nhiều khu vực khác nhau. Tỷ phần công nghiệp trong tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) tăng từ 18,8% năm 1990 lên 23% năm 1995 (ngành
xây dựng góp 22,6% năm 1990 và 30,2% năm 1995). Thực tế hiển nhiên là việc
mở rộng ngành công nghiệp cũng đã tác động to lớn đến sự phát triển của các

ngành khác. Về căn bản có thể chắc chắn rằng khu vực công nghiệp đã khai thác
được những lợi thế so sánh của Việt Nam, trong đó có cả nguồn tài nguyên thiên
nhiên và đang ngày càng có khả năng tự điều chỉnh thích ưngs với nhu cầu đang
thay đổi của thị trường. Không cần phải nói, chúng đã đóng góp đáng kể vào
nguồn thu của Nhà nước.
Dưới đây là tỷ lệ tăng trưởng hàng năm của một số ngành và loại sản phẩm
đã đạt được trong giai đoạn 1990 - 1998:
Sản lượng dầu thô : 21,1% Thiết bị điện tử : 17,7%
Than đá : 11,0% Máy biến thế : 11,9%
Giấy : 18,2% Ắc quy và pin : 30%
Quần áo may sẵn : 8,0% Điện : 12,0%
Phần bón : 13,5% Thép cuộn : 13,5%
Thuốc trừ sâu : 6,5% Xi măng : 16,1%
Nguồn báo cáocông nghiệp (1998) bộ công nghiệp.
IV.2. Cơ cấu công nghiệp:
• Cơ cấu ngành và cơ cấu vùng:
Trong giai đoạn 1991 - 1998 Chính phủ Việt Nam đã liên tục quan tâm tới
những chuyển đổi giữa các ngành và khu vực công nghiệp. Chính phủ tập trung
12
đẩy mạnh các ngành chủ lực như dầu mỏ, khí đốt, dệt may, giầy dép, điện, thép
bằng các chính sách ưu đãi, cho phép thành lập các tổng công ty theo quyết định
số 9o và 91 của Thủ tướng Chính phủ, cấp vốn cho các tổng công ty đó với lãi
suất đặc biệt, duy trì hàng rào chống lại sự cạnh tranh của nước ngoài, huy động
vốn trong và ngoài nước. Hơn nữa, các ngành sản xuất hàng tiêu dùng đã được
ưu tiên, vì thế các ngành này có thể đáp ứng được nhu cầu trong nước và mục
tiêu xuất khẩu. Ngành công nghệ cao bước đầu được hình thành thông qua những
biện pháp xúc tiến trong cấp phép đầu tư, khuôn khổ pháp lý bảo vệ sản xuất
trong nước (Luật đầu tư nước ngoài, Luật doanh nghiệp ). Thực tế cho thấy,
trong quá trình này dường như đã có sự phát triển tương đối cân bằng giữa các
ngành công nghiệp.

Bảng 1: Tỷ phần (%) các ngành chủ chốt trong GDP công nghiệp
Ngành 1990 1995 2000
Nhiên liệu 11,0 18,8 19,0
Điện 7,5 6,3 6,3
Chế biến thực phẩm 32,6 31,0 31,2
Vật liệu xây dùng 7,1 10,2 10,3
Các ngành khác 41,8 33,7 33,2
Nguồn: Báo cáo công nghiệp (1998) của Bộ Công nghiệp
Thêm vào đó, Chính phủ đã quan tâm tới thúc đẩy sự tăng trưởng đồng đều
giữa các vùng. Nhiều khu công nghiệp và khu chế xuất được xây dựng. Chính
phủ ban hành các chính sách khuyến khích phát triển ở những vùng sâu vùng xa.
Rất nhiều tỉnh xây dựng các khu chế xuất và khu công nghiệp nhằm thu hót đầu
tư nước ngoài. Trong khi nhiều tỉnh thành được hội tụ nhiều ưu đãi kinh tế có thể
hấp dẫn được đầu tư trực tiếp nước ngoài thì những vùng hẻo lánh - đặc biệt là
những vùng đồi núi, hầu như không nhận được nguồn FDI nào.
• Mức tăng trưởng và tỷ lệ các cơ sở công nghiệp.
Quá trình cả tổ làm thay đổi bộ mặt cho các cơ sở công nghiệp thuộc
sở hữu Nhà nước và phi sở hữu Nhà nước. Luật doanh nghiệp và Luật thương
mại đã mở đường cho phép các doanh nghiệp tư nhân phát triển. Năm 1989 các
13
doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 4,3% sản lượng công nghiệp, năm 1991
lên tới 7,5% và tới năm 1995 tăng 16,99%. Trong khi toàn bộ mức tăng sản
lượng hàng năm cho tới năm 1991 đạt 28,8% riêng khu vực tư nhân và công
nghiệp tăng tương ứng 47,8% và 12,1%. Giai đoạn 1991 - 1998, các ngành công
nghiệp ngoài quốc tăng ở mức 9%/năm, trong khi các doanh nghiệp quốc doanh
tăng 11,8%. Còng trong cùng thời kỳ, khu vực đầu tư nước ngoài tăng
22,3%/năm. Năm 1998 tỷ trọng đóng góp của khu vực này 31,8% so với năm
12,7% năm 1991.
Bảng 2: Đóng góp ngành trong giá trị gia tăng công nghiệp
Các thành phần kinh tế 1991 1998 1999

Khu vực quốc doanh 55,58% 46,18% 43,48%
Khu vực ngoài quốc doanh 31,55% 22,0% 21,77%
Đầu tư nước ngoài 12,7% 31,82% 34,75%
Nguồn: Báo cáo nghiên cứu Chiến lược công nghiệp Việt Nam nhìn nhận
trong tiến trình gia nhập WTO(1999)
IV.3. Hàng xuất khẩu.
Thời kỳ 1990 - 1991, các mặt hàng xuất khẩu hàng đầu là dệt may, giầy
dép và dầu thô đạt trị giá 750 triệu USD. Cùng với sự gia tăng nền tảng công
nghiệp từ năm 1995, hàng điện tử, máy móc, than đá và các mặt hàng thủ công
cũng được xuất khẩu. Năm 1998, tổng xuất khẩu lên tới 4,5 tỷ USD, tức là gấp 6
lần so với năm 1991.
Nếu chỉ tính riên hàng xuất khẩu của các khu vực đầu tư nước ngoài thì
cho đến nay kim ngạch của những mặt hàng này đã tăng với tốc độ cao nhất, từ
52 triệu USD năm 1991 lên 440 triệu USD năm 1995 và 2 tỷ USD năm 1999.
Vào cuối thời kỳ này, xuất khẩu của khu vực này đã chiếm 21% trong doanh thu
xuất khẩu.
Bảng 3: Hàng hoá chế biến xuất khẩu 1991 - 1998
Đơn vị: Triệu USD
Mặt hàng 1991 1995 1996 1997 1998 1999
14
Dệt may 158 347 1.150 1.349 1.350 1.682
Giầy dép 10,5 280 530 965 960 1.406
Điện tử 0 20 100 450 480 590
Than đá 0 89 114 110 100 96
Dầu thô 581 1.033 1.346 1.432 1.250 2.017
Nguồn: Báo cáo công nghiệp của Bộ Công nghiệp
IV.4. Đầu tư giai đoạn 1991 - 1998.
Tổng số vốn đầu tư vào công nghiệp giai đoạn 1991 - 1998 khoảng 52.000
tỷ đồng, chiếm 45% tổng đầu tư trong nước. Trong đó 54% thuộc khu vực nhà
nước, 31% thuộc khu vực đầu tư nước ngoài, 3,5% của các doanh nghiệp nhà

nước và 11,5% từ các thành phần ngoài quốc doanh. Đầu tư được tập trung vào
các ngành sau: Điện lực 71%; xi măng 20%; than đá 3,4%; thép 1,6%; các ngành
còn lại (bao gồm cả dầu khí) 4%.
Các năm 1990 - 1998, các khoản vay ưu đãi thuộc chương trình của Chính
phủ lên tới 32.000 tỷ đồng, trong đó đã sử dụng 25.000 tỷ đồng (78%).
Viện trợ Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) có nguồn chủ yếu từ Nhật,
Ngân hàng thế giới (WB) và Ngân hàng phát triển Châu á (ADB). Trị giá ODA
giai đoạn 1991 - 1998 xấp xỉ 9 ngàn tỷ đồng, đưa tổng số tiền viện trợ lên tới 41
ngàn tỷ đồng.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong khu vực công nghiệp tăng mạnh
mẽ trong giai đoạn 1991 - 1995, nhưng sau đó giảm dần. Cho tới 10/1998, đã có
1.017 dự án trị giá 11,3 tỷ USD đầu tư vào công nghiệp. FDI chiếm toàn bộ
lượng đầu tư trong lĩnh vực dầu khí. Tỷ lệ FDI ở các khu vực khác là: sản xuất
thép 70%; théo cuộn 53,8%; xi măng 24%; điện tử 50%; rượu 78%.
Kể từ 1991 - 1997, các doanh nghiệp quốc doanh đã đầu tư 49.340 tỷ đồng
từ các quỹ đầu tư của doanh nghiệp; đầu tư cho hé gia đình và tư nhân chiếm
11.900 tỷ đồng (tổng đầu tư là 385.729 tỷ đồng ở mức chỉ số giá cả ổn định năm
(1995).
15
V. Những nguyên nhân tồn tại.
V.1. Công nghệ lạc hậu, quy mô nhỏ và năng suất thấp.
Ở Việt Nam, các đơn vị công nghiệp thường có quy mô nhỏ, trình độ kỹ
thuật thấp, thiết bị lạc hậu, sản phẩm đơn điệu, chất lượng kém, giá cao, không có
sức cạnh tranh Chính phủ đã nỗ lực đưa các hình thức tổng công ty mới theo
Quyết định số 90 và 91 trong các khu vực công nghiệp mòi nhọn nhằm mở rộng
năng lực sản xuất. Tuy nhiên, khi quyết định được ban hành, các hình thức hoạt
động mới này tỏ ra kém hiệu quả do công nghệ, vốn, cơ cấu công nghiệp phân tán
và chia cắt Nămg suất thấp, tỷ phần của lao động công nghiệp chỉ gấp 3 lần lao
động thông thường. Giá trị gia tăng được coi như một phần cấu thành giá thành
sản phẩm lại thấp (xấp xỉ 20%). Thiết bị hiện đại chưa đến 10%, hệ số doanh thu

đầu tư dưới 7%.
V.2. Khó khăn về tài chính.
Nói chung, chỉ 40 - 50% nhu cầu tìm vốn đầu tư tìm và có được nguồn.
Điều này có nghĩa là không thực hiện đầu tư được như các kế hoạch đề ra. Đầu tư
dài hạn chỉ tập trung vào một vài ngành, trong khi các ngành còn lại phải tự huy
động vốn đầu tư nhưng không lo được đủ vốn bổ sung để mở rôngj quy mô vốn.
V.3. Thiếu đầu vào trung gian.
Hiện nay, Việt Nam chưa tạo được nhiều đầu vào cần thiết phục vụ cho
công nghiệp. Kết quả là phải nhập khẩu nhiều sản phẩm sơ chế, hoặc bán thành
phẩm làm đầu vào, nhưng ở đây lại gặp khó khăn về tài chính. Hiện tại đang cố
gắng xây dựng các ngành công nghiệp phụ trợ, nhằm hạ giá thành sản phẩm, tăng
cường khả năng công nghiệp và giảm thiểu sự phụ thuộc vào nhập khẩu. Phải
thừa nhận rằng nguồn nội lùa chưa được khai thác một các hiệu quả.
16
V.4. Thiếu chuyên môn quản lý và kinh doanh.
Trong khi Việt Nam có thể có đủ một đội ngò các nhà quản lý và các nhà
doanh nghiệp thì trình độ của nguồn nhân lực lại chưa phù hợp với sự phát triển
và những nhu cầu đa dạng ngày càng cao của nền kinh tế. Bản thân chính phủ
cũng chưa có chương trình nào về vấn đề này hay những chính sách cụ thể
khuyến khích các hoạt động của đội ngò lao động có tay nghề cao. Cụ thể là,
không có hạ tầng mang ý nghĩa hỗ trợ đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
(SMEs) công nghệ sản xuất, tổ chức tiếp thị và tổ chức xuất khẩu.
V.5. Các chính sách nhà nước thiếu tính phối hợp.
Nhiều chính sách Chính phủ đưa ra không ăn khớp với nhau và vì thế
không đáp ứng được các nhu cầu phát triển, dẫn đến việc sử dụng kém hiệu quả
vốn, nhân công và công nghệ.
Đây là sự thiếu hụt cơ bản trong phối hợp các cơ quan cấp bộ, ngành và địa
phương. Trong cả nước mức tuân thủ các chính sách và hướng dẫn của Chính
phủ khác nhau. Các đơn vị công nghiệp không có khả năng nâng cấp công nghệ
và do vậy đã đánh mất thị phần. Phản ứng ban đầu của họ là quay lại yêu cầu

Chính phủ duy trì việc bảo hộ chống cạnh tranh nước ngoài.
Chương III
ĐIỆN LỰC VIỆT NAM TRONG XU THẾ TOÀN CẦU HOÁ
I. TỔNG QUAN NGÀNH CÔNG NGHIỆP NƯỚC TA.
Năm 2001, trong tình hình có nhiều khó khăn hơn dự kiến, nền kinh tế Việt
Nam vẫn tiếp tục phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng cao 6,8%, đứng thứ
hai thế giớ chỉ sau Trung Quốc. Cơ cấu kinh tế theo GDP đang chuyển dịch theo
chiều hướng tích cực: giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp trong
GDP. Xét về sự đóng góp của các ngành trong việc thực hiện tốc độ tăng trưởng
17
GDO 6,8% thì khu vực công nghệp đóng góp quan trọng chiếm 3,7%, dịch vụ
đóng góp 2,5%, khu vực nông lâm thuỷ sản đóng góp 0,6%. Có thể khẳng định,
sự đóng góp nổi bật của ngành công nghiệp vào tốc độ tăng trưởng và cơ cấu
kinh tế trong năm đầu tiên của thế kỷ 21.
Bảng cơ cấu nền kinh tế quốc dân
Khu vực Năm 2000 Năm 2001
Công nghiệp (%) 36,6 38
Dịch vô (%) 39,1 39
Nông lâm thuỷ sản (%) 24,3 23
Nguồn: TCCV sè 2 + 3 năm 2002
Giá trị sản xuất công nghiệp cả năm 2001 tăng 14,5% so với năm 2000.
Khu vực kinh tế nhà nước đạt tóc độ tăng trưởng 12%; khu vực ngoài quốc doanh
tăng 19,5% so với 18,3% của năm 200. Sau hai năm thực hiện Luật doanh
nghiệp, kinh tế ngoài quốc doanh đã có bước phát triển khởi sắc. Các sản phẩm
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của khu vực này tăng nhanh, chủ yếu là thuỷ
sản chế biến, chè, rau quả xuất khẩu, đồ gỗ, thủ công mỹ nghệ, dệt may, cơ kim
khí. Công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục phát triển và tăng trưởng ổn
định với tốc độ 13,8%.
Tuy nhiên hạn chế nổi bật của nền kinh tế nước ta nói chung và sản xuất
công nghiệp nói riêng là chất lượng tăng trưởng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các

sản phẩm, các doanh nghiệp và của nền kinh tế còn thấp. Mặc dù có bước tiến
quan trọng, song theo đánh giá của Tổ chức diễn đàn thế giới WEF, xếp hạng về
năng lực cạnh tranh của Việt Nam vẫn còn hạn chế và thấp kém: Năm 2000 là
53/59 nước và năm 2001 là 62/75 nước, theo cách đánh giá mới nhất của tổ chức
này.
Tình trạng phổ biến là sản phẩm làm ra có chất lượng thấp, giá thành cao,
khả năng tiêu thụ sản phẩm khó khăn. Trang thiết bị công nghệ của nhiều doanh
nghiệp còn yếu kém, lạc hậu so với thế giới từ 10 - 30 năm, thiếu vốn, nợ nần kéo
dài.
18
Theo Bộ Thương mại, bốn mặt hàng không hoàn thành kế hoạch xuất khẩu
năm 2001 là: dệt may bị hụt 210 triệu USD, điện tử và linh kiện máy tính bị hụt
390 triệu USD, hàng thủ công mỹ nghệ bị hụt 100 triệu USD và giầy da các loại.
Hàng thô và sơ chế chiếm tới 60% tổng kim ngạch xuất khẩu. Chi phí đầu
vào sản xuất của các doanh nghiệp còn lớn, bình quân tăng 32,43% từ năm 1996
tới nay, trong đó xăn dầu chiếm 42,8%; nước là 130%; điện tăng 37,5% nhưng
giá đầu ra chỉ tăng 22%.
Hàng nhập khẩu, ngoài việc phải chịu thuế nhập khẩu thì phải chịu thuế
VAT dù chưa hề có giá trị gia tăng.
Theo điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, 16%
doanh nghiệp được điều tra chưa có hiểu biết về quá trình hội nhập. Trong ngành
công nghiệp chỉ có 23,8% doanh nghiệp có hàng hoá xuất khẩu.
Môi trường kinh tế và đầu tư ở Việt Nam mặc dù đang được cải thiện, song
nhìn chung còn chưa thuận lợi như: khuôn khổ pháp lý chưa đảm bảo cho cạnh
tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, sự độc quyền trong một số lĩnh vực
của một số tổng công ty nhà nước, hệ thống tài chính ngân hàng yếu kém, sự
thiếu minh bạch về cơ chế chính sách, chế độ thương mại còn nặng về bảo hộ, thủ
tục hành chính còn rườm rà, chưa thông thoáng
Do vậy, còn rất nhiều những vấn đề trong phát triển ngành công nghiệp
cần đưa ra để nghiên cứu.

Trong giới hạn về nội dung của chuyên đề, chương III này sẽ đi sâu vào
lĩnh vực phát triển ngành điện lực trong xu thế toàn cầu hoá.
II. TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM.
1. Lợi thế, cơ hội và tiềm năng phát triển công nghiệp Việt Nam.
1.1. Lợi thế phát triển.
An ninh và ổn định về chính trị là hai yếu tố quan trọng để định vị lợi thế
của Việt Nam. Điểm mấu chốt là ở chỗ, chúng phải được cơ cấu sao cho thu hót
được đầu tư của nước ngoài.
19
Tài nguyên thiên nhiên đem lại cho Việt Nam nhiều lợi thế hơn hẳn các
nước khác trong khu vực. Tuy nguồn tài nguyên này không dồi dào, nhưng phong
phú, gồm cả khoáng sản lẫn năng lượng. Việt Nam có khí hậu thuận lợi, đất đai
màu mỡ, mặc dù tỷ lệ đất canh tác so với đất không có khả năng canh tác tương
đối thấp. Tài nguyên rừng và biển dồi dào, đủ đáp ứng nhu cầu trong nước và
xuất khẩu. Việt Nam là quốc gia đông dân, nhân công tương đối rẻ. Tất cả những
yếu tố trên đã là một nền tảng cho tiềm năng phát triển lớn của Việt Nam.
1.2. Cơ hội phát triển.
Với tư cách là thành viên chính thức của ASEAN, và đang trong quá trình
đàm phán để trở thành thành viên của WTO, Việt Nam giữ một vị trí thuận lợi để
khai thác tiềm năng phát triển. Để thực hiện được điều đó, công nghiệp cần phải
được cơ cấu lại cho phù hợp với những lợi thế so sánh toàn cầu của Việt Nam.
1.3. Tiềm năng phát triển.
Mô hình kinh tế vĩ mô cho hấy sẽ kém ổn định hơn khi Việt Nam phải mở
rộng tiềm năng kinh tế từ mức rất thấp như hiện nay. Những bức bách về tài
chính và tiền tệ sẽ đặt ra nhiều ràng buộc, thường dẫn đến thâm hụt ngân sách,
nguồn vốn huy động trong nước càng thấp thì sự phụ thuộc vào nguồn vốn nước
ngoài càng tăng thêm. Khuôn khổ pháp lý yếu kém không hiệu quả và môi trường
pháp lý không phù hợp với việc thu hót đầu tư và vốn, hoặc triển khai các hoạt
động sản xuất và dịch vụ. Những rào cản quan liêu làm méo mó hay đình trệ các
quyết định sản xuất. Thêm vào đó là những thách thức khi Việt Nam tham gia

vào APEC.
2. Đặc điểm của ngành điện lực Việt Nam.
Ngành Điện lực Việt Nam ra đời từ năm 1954, khi ta tiếp quản miền Bắc.
Trải qua hơn 47 năm xây dựng và phát triển, ngành Điện đã từng bước trưởng
thành, đã góp phần tích cực vàp sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ tổ
20
quốc, phục vụ ngày càng có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị - xã hội của đất
nước.
Năm 1954, ngành Điện mới chỉ có 3 nhà máy nhiệt điện cũ nát, tổng công
suất khoảng 30MW, sản lượng không quá 50 triệu KWh và vài trăm km đường
dây tải 30,5KV. Trong suốt 20 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vật lộn với
lửa đạn miền Bắc để xây dựng một số cơ sở phát điện đáng tự hào: Nhiệt điện
Uông Bí 155MW, Nhiệt điện Ninh Bình 100MW, Thuỷ điện Thác Bà 108MW
Năm 1975, cả nước có công suất 1300MW, điện lượng 2,98 tỷKWh. Hầu hết các
cơ sở phát điện bị chiến tranh tàn phá hư háng, cần đầu tư phục hồi lại.
Thoát ra khỏi chiến tranh không lâu, chúng ta lại đối mặt với chiến tranh
biên giới năm 1979, nhiều cơ sở điện lực lại bị phá hoại. Khó khăn chồng chất
khó khăn.
Trong hoàn cảnh đó, Đảng và Chính phủ đã sáng suốt đề ra chủ trương
đúng: "Điện phải đi trước một bước". Năm 1980, Chính phủ đã tập trung đầu tư
cho phát triển ngành Điện, thực hiện kế hoạch 5 năm, có mục tiêu rõ ràng, có
bước đi mạnh mẽ và vững chắc.
Ngành Điện đã thực hiện tổng sơ đồ phát triển điện (TSĐPTĐ) giai đoạn I
(1981 - 1985): Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại 440MW ra đời; giai đoạn II (1986 -
1990): đưa vào sản xuất nhà máy Thuỷ điện Trị An 400MW, nhà máy Thủy điện
Hoà Bình với hai tổ máy đầu 480MW.
Trong hoàn cảnh kinh tế cực kỳ khó khăn trong thập kỷ 80, trong điều kiện
vô cùng phức tạp về các mặt kỹ thuật, nhờ sự giúp đỡ vô tư và to lớn của Liên
Xô, nhân dân ta đã có quyết tâm cao để làm nên một công trình lịch sử "Thuỷ
điện Hoà Bình" nhà máy chủ lực của hệ thống điện, đóng góp 30 - 50% sản lượng

điện hàng năm.
Tình hình đất nước ta sau giai đoạn II của tổng sơ đồ phát triển điện là Đại
hội VII của Đang năm 1991 đã đề ra: "tiếp tục đường lối đổi mới", xoá bỏ cơ chế
tập trung quan liên bao cấp, chuyển hẳn sang cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước; Công nghiệp hoá đất nước theo hướng điện đại, gắn liền với phát triển
21
nông nghiệp toàn diện, nâng cao đời sống nhân dân; Có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhân dân ta bắt đầu
hực hiện kế hoạch 1991 - 1995.
3. Quan điểm phát triển ngành Điện trong xu thế toàn cầu.
- Ngành Điện phải đáp ứng nhu cầu điện của: các ngành kinh tế quốc dân
và cả các ngành khác nh quốc phòng, văn hoá ; tiêu dùng của nhân dân; tiến tới
xuất khẩu điện.
Muốn vậy, phải đảm bảo giá bán điện ngang hoặc thấp hơn giá bán điện
trên thị trường quốc tế và nâng cao chất lượng điện. Bởi vì hai nhân tố này ảnh
hưởng trực tiếp đến giá bán sản phẩm của các ngành kinh tế quốc dân và của
chính ngành Điện cho dù sản phẩm đó là để xuất khẩu hay tiêu dùng trong nước
trong xu thế hoàn cầu hoá hiện nay.
- Phải ra sức phát triển nguồn điện, lưới điện, chất lượng điện theo nhu cầu
tiêu thụ điện của từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế quốc dân, yêu cầu nâng
cao đời sống của toàn dân và hội nhập tiểu vùng, khu vực; Đa dạng phương thức
đầu tư, có sự tham gia kể cả của tư nhân lẫn các nhà đầu tư trong nước.
- Khai thác triệt để mọi nguồn điện năng trong nước và nước ngoài.
- Nâng cao dân trí, nâng cao đời sống nhân dân để thúc đẩy nhanh sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, mau chóng tiến tới 100% hộ dân
trong cả nước có điện sinh hoạt và sản xuất.
4. Mục tiêu cụ thể.
- Năm 1995, khai thác triệt để các nhà máy điện đã có và xây dựng xong,
đưa vào vận hành đường dây tải điêzen Bắc - Nam 500KV.

- Năm 2000, sản lượng điện đạt 44 tỷ KWh, tổng công suất nguồn điện
khoảng 11.400MW; Đầu tư xây dựng đồng bộ hệ thống tải điện; Có đủ điều kiện
22
để khởi công xây dựng công trình thuỷ điện Sơn La; Hầu hết hộ dân đều có điện;
Giá bán 1KWh là 7 cents.
- Năm 2010, sản lượng điện là 78 tỷ KWh.
- Năm 2020, sản lượng điện là 173 tỷ KWh.
(Theo số liệu thống kê của Bộ Công nghiệp)
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÀNH ĐIỆN TRONG XU THẾ TOÀN CẦU
HOÁ.
1. Khai thác tiềm năng.
Khai thác triệt để tiềm năng của các nhà máy điện đã có. Khai thác triệt để
các nguồn năng lượng tiềm tàng của đất nước để tạo nên các nguồn điện mới nh
thuỷ điện, nhiệt điện, điện khí, điện điêzen, pin mặt trời. Để đáp ứng nhu cầu điện
vào năm 2010 thực hiện dự án quy hoạch tổng thể phát triển năng lương nguyên
tử (nguồn thuỷ điện hiện có là 50 tỷ KWh, nguồn điện khí khoảng 40 tỷ KWh,
than khoảng 20 tỷ KWh, tổng ba nguồn trên là 110 tỷ KWh, như vậy đến năm
2020 Việt Nam vẫn còn thiếu 63 tỷ KWh. Đưa được điện nguyên tử vào Việt
Nam, cơ cấu nguồn điện sẽ hợp lý, giúp cho tính an toàn năng lượng cao).
2. Đẩy mạnh đầu tư xây dựng nguồn điện.
Đẩy mạnh đầu tư xây dựng nguồn điện để đưa điện lưới về 100% tỉnh lỵ,
100% huyện lỵ, 80% xã và 60% hộ nông dân vào năm 2000, 100% xã và hầu hết
các hộ nông dân nông thôn vào năm 2005. nhu cầu đầu tư trung bình hàng năm
để đáp ứng sự phát triển của ngành Điện trong thời gian 2001- 2010 lên tới 1,6 tỷ
USD.
3. Đa dạng phương thức đầu tư.
Đầu tư theo phương thức xây dùng - vận hành - chuyển giao (BOT) và nhà
máy độc lập của doanh nghiệp và tư nhân, kể cả của các nhà đầu tư trong nước.
23
Dự kiến tổng công suất đầu tư bằng các hình thức này đạt 2.400MW vào năm

2005, chiếm khoảng 20% công suất của hệ thống.
4. Đồng bộ các nguồn điện.
Đầu tư xây dựng lưới điện truyền tải 500KV, 220KV và 110KV, xây dựng
mới và cải tạo nâng cấp các trạm biến thế 500KV, 220KV và 110KV kể cả các
trạm kín đặt sâu vào trung tâm các thành phố lớn.
Tăng số đường dây và trạm 100KV bao khắp các vùng đông dân cư và có
nhu cầu phụ tải, loại bỏ cấp điện áp trung gian 66KV.
5. Cải tạo các mạng lưới điện.
Tích cực cải tạo các mạng lưới điện phân phối ở các thành phố và thị xã,
từng bước thay các cấp điện áp trung gian 15KV, 10KV và 6KV bằng cấp điện áp
22KV nhằm giảm tối đa tổn thất kỹ thuật về năng lượng.
6. Giảm tỷ lệ tổn thất điện năng.
Bằng tất cả các biện pháp quản lý và kỹ thuật, giảm tỷ lệ tổn thất điện năng
truyền tải và phân phối xuống 12% vào năm 2000 (đạt mức trung bình của nhiêu
nước trong khu vực).
7. Thực hiện phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng là".
Tăng cường trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương các cấp mở
rộng mạng lưới điện nông thoon, xây dựng nguồn điện tại chỗ (thủy điện nhỏ,
điêzen, pin mặt trời ) ở vùng sâu, vùng xa và hải đảo, nơi không thể kéo lưới
điện quốc gia tới. Ngành Điện quản lý trực tiếp lưới điện nông thôn.
8. Cân đối tài chính để phát triển.
Cùng với Ban vật giá Chính phủ và các ngành liên quan, xây dựng và trình
duyệt kế hoạch tăng từng bước hợp lý giá điện tới mức chi phí bình quân (khoảng
7 cents USD/KWh).
24
9. Tham gia dự án hệ thống năng lượng ASEAN (APG) và hệ thống điện tiểu
vùng Mêkông.
Để giảm tỷ lệ công suất điện dự phòng của nước ta, nghĩa là giảm đầu tư
xây dựng các công trình điện. Tham gia vào các dự án cấp vùng và khu vực còn
để tăng hiệu quả vận hành về kỹ thuật của hệ thống điện quốc gia do san bằng

chế độ vận hành của các nhà máy điện trên cơ sở sự không đồng thời về nhu cầu
công suất và điện năng của hệ thống điện mỗi nước, tăng hiệu quả kinh tế do tận
dụng giá thành sản phẩm điện rẻ ở những thời điểm thuận lợi. Ngoài ra còn để
tăng cường sự buôn bán thương mại năng lượng do tiềm năng tài nguyên khác
nhau của mỗi nước, tăng cường hợp tác giữa các nước ASEAN trong lĩnh vực
điện (hoạch định chính sách, đào tạo, nghiên cứu quản lý năng lượng).
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
Bắt đầu từ năm 1991, Việt Nam đi vào chuyển đổi và thực hiện chiến lược
phát triển kinh tế mới của mình. Mở rộng cửa một cách toàn diện để hội nhập với
nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới.
Bước đầu, Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định. Nó đánh dấu
sự chuyển mình của một nền kinh tế nghèo nàn, nay đang từng bước xây dựng vị
thế và đón góp những tác động đáng kể vào nền kinh tế của khu vực, trong đó
phải nói tới ngành công nghiệp nói chung và ngành Điện nói riêng của Việt Nam.
Sau đây là những đánh dấu về quá trình thực hiện những mục tiêu và chủ
trương đã đề ra của ngành Điện lực trong giai đoạn 1991 - 2005.
1. Tổng sơ đồ phát triển điện giai đoạn III (1991 - 2005).
Sơ đồ phát triển điện giai đoạn III này là: Đưa toàn bộ công suất nhà máy
Thuỷ điện Hoà Bình vào vận hành 1.920MW (1994). Đóng điện đường dây tải
điện 500KV Bắc - Nam dài 1.487km (1994), hoàn thành trung tâm điều độ quốc
gia, thực hiện thống nhất hai mạng lưới điện Bắc - Nam, khởi động nhà máy điện
25

×