Tải bản đầy đủ (.pdf) (148 trang)

KHUYNH HƯỚNG PHÊ BÌNH MÁC XÍT Ở VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.91 KB, 148 trang )


1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

*********



HỒ VI THƯỜNG


KHUYNH HƯỚNG
PHÊ BÌNH MÁC-XÍT
Ở VIỆT NAM
NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX
(1900 - 1945)


Chuyên ngành : VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số : 62.22.34.01




LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS: NGUYỄN THỊ THANH XUÂN







THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2005

2

LỜI CẢM ƠN



Để hoàn thành luận văn Khuynh hướng phê bình Mác-xít ở Việt
Nam nửa đầu thế kỉ XX, ngoài nỗ lực của bản thân, tôi còn có sự giúp đỡ
chân tình của q thầy cô, gia đình và bè bạn gần xa; đặc biệt là công lao
hướng dẫn tận t, tinh thần trách nhiệm cùng với phong cách làm việc
khoa học, nghiêm túc của cô NGUYỄN THỊ THANH XUÂN.
Tôi vô cùng biết ơn tất cả q thầy cô của trường Đại học Sư phạm
TPHCM và trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TPHCM đã
nhiệt tình dạy dỗ cho tôi suốt mấy năm qua.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè gần xa đã hỗ trợ cho
tôi về vật chất lẫn tinh thần trong thời gian học tập cho đến ngày hôm nay.
Cuối cùng, tôi mong được gửi lời cảm ơn trân trọng nhất đến cô
NGUYỄN THỊ THANH XUÂN – Người đã cho tôi nhiều bài học q từ
quá trình học tập và làm việc với cô: về phương pháp làm việc khoa học,
về tinh thần trách nhiệm và nhất là tấm lòng cao cả của một nhà giáo.

HỒ VI THƯỜNG




3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa ........................................................................................................ 1
Lời cảm ơn ........................................................................................................ 2
Mục lục ........................................................................................................ 3
DẪN LUẬN ........................................................................................................ 5
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ PHÊ BÌNH MÁC-XÍT VÀ PHÊ BÌNH
MÁC-XÍT Ở VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX
1.1. Tổng quan về phê bình Mác-xít ................................................................. 18
1.1.1. Khái niệm phê bình Mác-xít ............................................................. 18
1.1.2. Những nguyên tắc cơ bản................................................................... 20
1.1.2.1. Về nguồn gốc và bản chất của văn học..................................... 20
1.1.2.2. Về chức năng của văn học và vai trò của văn nghệ só ............. 25
1.1.2.3. Về thế giới quan và phương pháp sáng tác ............................... 28
1.1.3. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của phê bình
Mác-xít trên thế giới ..................................................................... 36
1.2. Khái quát về phê bình Mác-xít ở Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX ............... 51
1.2.1. Cơ sở xã hội - lòch sử ......................................................................... 51
1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển ..................................................... 54
Chương 2. CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA KHUYNH HƯỚNG PHÊ BÌNH
MÁC-XÍT Ở VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX
2.1. Các đặc điểm về nguyên tắc thẩm mỹ....................................................... 66
2.1.1. Khái niệm văn học ............................................................................. 67
2.1.2. Mối quan hệ nhà văn - tác phẩm - người đọc .................................... 70
2.1.3. Trách nhiệm của nhà văn, phương pháp sáng tác và tự do
trong nghệ thuật ............................................................................. 78
2.1.4. Nội dung và hình thức ........................................................................ 88

2.1.5. Giá trò văn học.................................................................................... 99
2.2. Các đặc điểm về phương pháp phê bình .................................................. 107
2.2.1. Phương pháp lập luận....................................................................... 108
2.2.1.1. Phương pháp xây dựng hệ thống mở ....................................... 108

4
2.2.1.2. Phương pháp so sánh – đối chứng khách quan ........................ 111
2.2.1.3. Phương pháp giải thích xây dựng khái niệm............................ 113
2.2.2. Ngôn ngữ phê bình........................................................................... 114
2.2.2.1. Ngôn ngữ đối thoại................................................................... 115
2.2.2.2. Ngôn ngữ nhiều giọng điệu ..................................................... 116
Chương 3. ĐÓNG GÓP CỦA PHÊ BÌNH MÁC-XÍT NỬA ĐẦU
THẾ KỈ XX
3.1. Những đóng góp chung ............................................................................ 120
3.1.1. Xây dựng thành công nền tảng lí luận văn học hiện
đại đầu tiên ở Việt Nam .............................................................. 120
3.1.2. Khơi nguồn sáng tạo, đưa văn học trở về phục vụ đời
sống nhân dân và thực tiễn cách mạng ....................................... 121
3.1.3. Kiến tạo cơ sở phương pháp khoa học cho phê bình hiện đại ......... 123
3.1.4. Một nền phê bình giàu tính văn hóa, dân chủ và “nhiệt
tình trí tuệ” không ngừng tự vận động điều chỉnh........................ 124
3.2. Các nhà phê bình Mác-xít tiêu biểu nửa đầu thế kỉ XX .......................... 125
3.2.1. Hải Triều (1908 - 1954) ................................................................... 125
3.2.2. Đặng Thai Mai (1902 - 1984) .......................................................... 131
3.3. Những hạn chế trong phê bình Mác-xít nửa đầu thế kỉ XX ................... 137
3.3.1. Đơn giản hoá phản ánh luận và nhận thức luận Mác-xít ................ 137
3.3.2. Hình thức nghệ thuật, giá trò thẩm mỹ và văn bản ngôn
từ tác phẩm chưa được quan tâm đúng mức ................................ 139
3.3.3. Vấn đề vai trò của chủ thể sáng tạo còn bỏ ngỏ ............................. 141
3.3.4. Tính thẩm mỹ trong ngôn ngữ phê bình còn hạn chế ..................... 142

KẾT LUẬN .................................................................................................... 144
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 149
PHỤ LỤC .................................................................................................... 159


5
DẪN LUẬN

1. Lí do chọn đề tài
Trong nền văn học truyền thống của dân tộc, phê bình từ lâu đã gắn bó với các
sinh hoạt văn chương dưới hình thức bình văn, bình thơ như một thú chơi tao nhã của
các bậc văn nhân tài tử. Nhưng phê bình văn học theo nghóa hiện đại thì phải đến
những năm ba mươi của thế kỉ XX mới thực sự có mặt trên văn đàn khi xã hội Việt
nam đã hội đủ những điều kiện cần thiết về kinh tế, xã hội, văn hóa, học thuật…
Nếu như sự phát triển văn học thời kì này được đánh giá bằng tốc độ “một năm
bằng ba mươi năm” thì nền phê bình văn học tương ứng với nó cũng đã bước đi bằng
“đôi hia bảy dặm”. Với khoảng thời gian ngắn ngủi từ ngày tập Phê bình và cảo
luận của Thiếu Sơn “thậm thụt như một nàng dâu mới” xuất hiện (năm 1933) cho
đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, phê bình nước ta đã thực sự trưởng thành và
làm tròn sứ mệnh của mình trên từng bước đi của văn học dân tộc giai đoạn này,
trong đó phải kể đến vai trò của Khuynh hướng phê bình Mác-xít ở Việt Nam nửa
đầu thế kỉ XX . Thành tựu của phê bình văn học thời kì này bao quát nhiều lónh
vực: phê bình tác giả, tác phẩm, thể loại, giai đoạn văn học… trong đó có nhiều tác
phẩm đến nay vẫn giữ nguyên sức sống. Nhiều vấn đề lí luận mà phê bình văn học
giai đoạn này đặt ra vẫn đang là những vấn đề thời sự văn học hôm nay.
Một đặc điểm nổi bật của phê bình văn học Việt nam nửa đầu thế kỉ XX là sự
phong phú, đa dạng về nội dung, đề tài và khuynh hướng tư tưởng… Điều đó đã dẫn
đến sự bùng nổ các cuộc tranh luận sôi nổi, kéo dài trên báo chí. Nhìn chung, các
cuộc tranh luận – cuộc đấu tranh giữa các khuynh hướng tư tưởng – đã góp phần
xây dựng và củng cố các khuynh hướng tư tưởng và lí luận khoa học, tiến bộ, góp

phần đưa nền văn hóa, văn học dân tộc phát triển theo con đường đúng đắn, phù
hợp với yêu cầu của thời đại, đất nước và dân tộc. Giữ vò trí nổi bật nhất trong vai

6
trò này là khuynh hướng phê bình Mác-xít. Thông qua các cuộc tranh luận văn học,
đặc biệt là cuộc tranh luận “nghệ thuật vò nghệ thuật hay nghệ thuật vò nhân sinh”,
xu hướng phê bình Mác-xít đã thể hiện tiếng nói dõng dạc của mình ngay từ khi mới
ra đời, tạo sự thu hút rộng rãi từ phía công chúng, tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến
tình hình văn học và tư tưởng đương thời và trở thành bộ phận có tính chất mũi nhọn,
dọn đường cho văn học dân tộc tiến lên khi trào lưu văn học lãng mạn đã đi vào ngõ
cụt, bế tắc và suy thoái. Bỏ qua những mặt nào đó còn hạn chế, khuynh hướng phê
bình văn học Mác-xít nửa đầu thế kỉ XX đã có những đóng góp vô cùng quan trọng
cho nền văn học nước ta.
Tuy nhiên, trong suốt một thời gian khá dài, phê bình Mác-xít nửa đầu thế kỉ
XX chỉ được quan tâm như một vấn đề đấu tranh tư tưởng để khẳng đònh cái đúng –
cái sai, nhìn nhận và phủ nhận. Việc nhận đònh, đánh giá xu hướng này với tư cách
một thể loại, dưới góc độ khoa học vẫn chưa được xem xét đúng mức. Trong các
sách giáo khoa hiện hành xu hướng phê bình Mác-xít vẫn chưa được coi như một thể
loại thuộc bộ phận văn học Cách mạng giai đoạn 1930-1945.
Từ những năm 90 trở lại đây, độ lùi thời gian nửa thế kỉ đã cho phép có một
cách nhìn toàn diện và khoa học hơn về những thành tựu của phê bình nói chung
cũng như xu hướng phê bình Mác-xít giai đoạn trước Cách mạng nói riêng. Ngày
càng xuất hiện nhiều bài nghiên cứu công phu và nghiêm túc về vấn đề này. Điều
đó đã cho thấy đây là một vấn đề khoa học đang đặt ra cho giới nghiên cứu văn học
ngày nay.
Trong xu thế giao lưu khoa học quốc tế sôi động hiện nay, cùng với quá trình
học tập, tiếp thu và ứng dụng thi pháp học vào việc nghiên cứu văn học, khuynh
hướng phê bình Mác-xít ở nước ta cũng từ giã ngôi vò thống lónh của mình. Nhưng
phê bình thi pháp học cũng đang có nguy cơ rơi vào độc tôn. Trong khi đó, đối với
lónh vực khoa học nhân văn, về nguyên tắc, không có khuynh hướng hay phương

pháp nào là chìa khóa vạn năng cho mọi hiện tượng văn học; các phương pháp,

7
khuynh hướng khác biệt đều có khả năng bổ sung, hoàn thiện cho nhau và việc vận
dụng, phối hợp phương pháp nào là tùy thuộc vào đối tượng nghiên cứu cụ thể. Do
đó, nghiên cứu, phân tích và đánh giá khách quan, khoa học các phương pháp phê
bình nói chung và khuynh hướng phê bình Mác-xít nói riêng là công việc rất cần
thiết để góp phần xây dựng và thúc đẩy sự phát triển khoa nghiên cứu văn học ở
nước ta trong tình hình thực tiễn hiện nay. Mặt khác, phê bình Mác-xít ở nước ta
cũng như trên thế giới đang đứng trước yêu cầu đổi mới. Việc xem xét, nhận đònh
lại khuynh hướng phê bình Mác-xít nửa đầu thế kỉ XX thể hiện ý thức phản tỉnh có
ý nghóa đònh hướng và tự hoàn thiện những mặt còn hạn chế của bản thân phương
pháp này nhằm đáp ứng kòp thời yêu cầu phát triển của khoa học.
2. Lòch sử vấn đề:
Trước năm 1945, ngay ở trong giai đoạn mới hình thành, phê bình Mác-xít đã
trở thành đối tượng của phê bình đương thời. Hầu như tất cả các vấn đề, luận điểm
của phê bình Mác-xít đều được đưa ra bàn bạc, đối thoại giữa những người ủng hộ
lập trường tư tưởng Mác-xít và những người chưa bò thuyết phục bởi quan điểm này.
Về phía những người tán đồng và ủng hộ, có thể kể đến Phan Văn Hùm với bài đề
tựa quyển Duy tâm hay duy vật của Hải Triều (năm 1935), Hồ Xanh và bài Phê bình
Cuốn Duy tâm hay duy vật Hải Triều (năm 1936), Hải Thanh và Lời tựa viết cho
cuốn sách Văn só và xã hội của Hải Triều (năm 1937) cùng nhiều ý kiến rải rác trên
các bài báo của các tác giả: Lâm Mộng Quang, Hoả Sơn, Sơn Trà, v.v.. Đứng về
phía quan điểm không tán đồng tính chất qui phạm, giáo điều của phê bình Mác-xít
và đấu tranh cho tự do nghệ thuật, có thể kể đến Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Lê Tràng
Kiều, Lưu Trọng Lư… Nhưng nhìn chung, các bài viết về phê bình Mác-xít giai đoạn
này có tính chất đấu tranh tư tưởng và quan điểm nghệ thuật hơn là mục tiêu nghiên
cứu khoa học. Những người tán đồng lập trường tư tưởng Mác-xít lúc này bò thuyết
phục chủ yếu bởi cơ sở lí luận Mác-xít và sự nhạy cảm về yêu cầu của thực tiễn lòch
sử hơn là xuất phát từ hiểu biết thực tiễn và bản chất văn chương. Ngược lại, phía


8
không hoàn toàn tán đồng quan điểm Mác-xít do dựa vào vốn kinh nghiệm, tri thức
văn chương và cảm thụ của bản thân. Do vậy, hai thái độ đối với phê bình Mác-xít
giai đoạn này thực chất do xuất phát từ hai cơ sở khác nhau, không đối lập mà hoàn
toàn có thể bổ sung cho nhau.
Từ năm 1945 đến năm 1975, phê bình Mác-xít giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX với
vai trò của Hải Triều và Đặng Thai Mai cũng trở thành đối tượng nghiên cứu ở cả
hai miền Nam – Bắc.
Ở miền Bắc, có thể kể đến các công trình tiêu biểu: Vũ Đức Phúc, Nguyễn
Đức Đàn – Sơ thảo lòch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945 – Nxb Văn học, Hà Nội,
1964; Vũ Đức Phúc – Bàn về những cuộc đấu tranh tư tưởng trong lòch sử văn học
Việt Nam hiện đại 1930 - 1954 – Nxb KHXH, Hà Nội, 1971; Hồng Chương - Hải
Triều, Về văn học nghệ thuật, Nxb Văn học, Hà Nội, 1969. Trong đó, công trình của
Vũ Đức Phúc (Bàn về…) đã hệ thống hoá vấn đề phê bình đầu thế kỉ một cách tương
đối đầy đủ nhưng việc đánh giá của tác giả chủ yếu dựa trên lập trường tư tưởng với
thái độ cứng rắn nên những nhận đònh của công trình đưa ra có phần chưa thật sự
thoả đáng. Công trình Sơ thảo lòch sử… của tác giả trước đó cũng chỉ đề cập đến vấn
đề một cách sơ lược và nhiều thiếu sót. Ngoài ra còn có các công trình của Hồng
Chương: Mấy vấn đề lí luận và Phê bình văn nghệ, Nxb Văn học, Hà Nội.
Ở miền Nam, việc nghiên cứu phê bình Mác-xít nói riêng và phê bình đầu thế
kỉ nói chung phải kể đến công lao của GS. Thanh Lãng thuộc Đại học Văn khoa Sài
Gòn. Giá trò lớn nhất trong các công trình nghiên cứu của ông là cung cấp cho người
đọc bức tranh toàn cảnh về phê bình đầu thế kỉ bằng việc tập hợp các bài phê bình
của giai đoạn này thành một bộ sưu tập đồ sộ trong Tuyển tập mười ba năm tranh
luận văn học - Văn học Việt Nam 1932 - 1945 (13 tập), (Nxb Phong trào văn hóa, Sài
Gòn, 1972,1975). Ông cũng hệ thống hoá các khuynh hướng phê bình giai đoạn này
căn cứ vào tính chất báo chí và nội dung của nó qua Bảng lược đồ văn học Việt Nam
1862 – 1945 (Nxb Trình bày, Sài Gòn, 1967) trong đó Hải Triều - Đặng Thai Mai –


9
Bùi Công Trừng được xếp vào khuynh hướng phê bình duy vật Mác-xít. Ngoài ra
còn có thể kể đến Phạm Thế Ngũ với Việt Nam văn học sử giản ước tân biên 1962 -
1945 (Nxb Quốc học tùng thư, Sài Gòn, 1965) và Lược khảo văn học của Nguyễn
Văn Trung (Nxb Nam Sơn, Sài Gòn, 1968, T.3) với hai quan điểm đánh giá và nhìn
nhận khác biệt. Phạm Thế Ngũ nhìn nhận vấn đề theo quan điểm kế thừa tinh thần
khoa học và lí luận học tập từ phương Tây còn Nguyễn Văn Trung thì xuất phát từ
quan điểm của ông về bản chất, nền tảng và khả năng của phê bình. Tuy nhiên, cả
hai công trình này đều dành cho phê bình 1930 - 1945 một số trang rất khiêm tốn.
Cũng thuộc về khuynh hướng nghiên cứu văn học sử, còn có Văn học sử thời kháng
Pháp 1858 – 1945 của Lê Văn Siêu (Nxb Trí Đăng, Sài Gòn, 1972), trong đó tác giả
có điểm qua các tác giả phê bình tiêu biểu giai đoạn này và Đặng Thai Mai là một
trong số đó.
Từ năm 1975 đến nay, các công trình nghiên cứu về phê bình Mác-xít nửa đầu
thế kỉ XX tăng lên nhanh chóng cả về số lượng lẫn chất lượng và có xu hướng tiến
dần đến mục tiêu khoa học với sự nhìn nhận thấu tình đạt lí hơn. Vấn đề được
nghiên cứu trên nhiều phương diện với cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu được
vận dụng cũng ngày càng phong phú, đa dạng. Trong Nhà văn Việt Nam, Tập 1 (Nxb
Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1979), tác giả Phan Cự Đệ đã dành
nhiều công phu cho việc giới thiệu tác giả Đặng Thai Mai. Tháng 11-1982, qua Bài
nói tại cuộc họp triển khai công tác phê bình văn học (trích trong Về lí luận và phê
bình văn học nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983), tác giả Hoàng Tùng khẳng
đònh lại phương pháp phê bình trên cơ sở chủ nghóa Marx - Lenin nhưng tác giả cũng
chỉ dừng lại ở nhận đònh trên lập trường chính trò: “Về phương pháp chung, người ta
nói tới hàng chục phương pháp nhưng thực chất có thể nói ngày nay có hai phương
pháp phê bình đối lập nhau: phương pháp phê bình trên cơ sở chủ nghóa Marx –
Lenin phương pháp phê bình trên cơ sở các lí thuyết tư sản… Phê bình là đấu tranh tư
tưởng nên không có sự “chung sống” giữa quan điểm vô sản và phương pháp tư sản

10

trong phương pháp phê bình” [50, tr.32]. Đến Từ điển văn học (Nxb KHXH, Hà Nội,
1983), Nguyễn Hoành Khung, Trần Hữu Tá đã đưa ra những nhận đònh xác đáng
hơn về Hải Triều, Đặng Thai Mai, về Văn học khái luận… ở mức độ khái quát và cơ
bản. Năm 1986, GS. Nguyễn Huệ Chi đã giới thiệu khá đầy đủ , toàn diện và hệ
thống về toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp – những đóng góp to lớn của GS. Đặng Thai
Mai đối với nền văn học dân tộc trong Tác gia lí luận phê bình nghiên cứu văn học
Việt Nam 1945 – 1975 (Nxb KHXH, Hà Nội, 1986). Về cuộc tranh luận Nghệ thuật
vò nghệ thuật và nghệ thuật vò nhân sinh, Trường Chinh cũng nhìn nhận hợp lí công
lao của Hải Triều trong Về văn hóa nghệ thuật (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986).
Từ năm 1994 trở đi, nhân kỉ niệm 40 năm ngày mất của Hải Triều, nhiều công
trình nghiên cứu có giá trò về Hải Triều và cuộc tranh luận nghệ thuật 1935 - 1939
lần lượt xuất hiện. Nhớ kiện tướng trong bút chiến vì một nền văn học vò nhân sinh,
khuynh hướng tả thực xã hội của Nguyễn Ngọc Thiện (Văn nghệ Quân đội, (8), 1994,
tr.102-106) thể hiện lòng tưởng niệm và khẳng đònh công lao Hải Triều trên cơ sở
điểm nhìn khách quan lòch sử. Giảng văn văn học Việt Nam 1930 – 1945, T.III – Văn
học Cách mạng của các tác giả Hà Minh Đức, Trần Khánh Thành, Đoàn Đức
Phương (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995) đã có cách nhìn khái quát và sắc sảo về ý
nghóa lòch sử và giá trò khoa học lí luận của phê bình Mác-xít nửa đầu thế kỉ qua
công lao của Hải Triều và Đặng Thai Mai. Vấn đề phương pháp phê bình, phong
cách phê bình cũng được lưu ý. Ngoài Hải Triều và Đặng Thai Mai, tác phẩm còn
nhắc đến công lao đóng góp cho phê bình Mác-xít giai đoạn này của nhiều cây bút
khác. Năm 1996, Nxb Chính trò Quốc gia xuất bản công trình tập hợp các bài nghiên
cứu bàn bạc của nhiều tác giả về Hải Triều: Hải Triều – nhà lí luận tiên phong (Nxb
Chính trò Quốc gia, Hà Nội, 1996). Cũng trong năm này, Nguyễn Ngọc Thiện xuất
bản Nhìn lại cuộc tranh luận nghệ thuật 1935 - 1939 (Nxb KHXH, Hà Nội, 1996) tập
hợp một số bài viết và tư liệu về cuộc tranh luận trong đó đáng lưu ý là bài viết
cùng tên của chính tác giả và bài Ý nghóa của cuộc tranh luận luận nghệ thuật 1935 -

11
1939 – Những vấn đề của lí luận văn học hôm qua và hôm nay (Bài viết đã được in

trên TCVH (7), 1994, tr.7). Những bài viết này đã cung cấp cho người đọc bức tranh
lòch sử về quá trình hình thành - phát triển – kết thúc của cuộc tranh luận đồng thời
đưa ra những đánh giá về đóng góp và những điều còn hạn hẹp của phong trào theo
cách nhìn của tư duy lí luận hiện đại. Cùng năm này còn có bài Bản lónh ngòi bút
của Hải Triều (TCVH, (8), tr 20) của Lộc Phương Thuỷ với những vấn đề về phong
cách phê bình. Cũng về đề tài Hải Triều và cuộc tranh luận nghệ thuật này, sau đó
không lâu đã có công trình biên khảo rất công phu và có giá trò của Vu Gia: Hải
Triều – Nghệ thuật vò nhân sinh (Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 1998). Ngay sau
đó, trong Tổng tập VHVN, T. 37 (Nxb KHXH, Hà Nội, 2000), tác giả Bùi Ngọc Trác
cũng dành hơn bốn mươi trang để giới thiệu và đánh giá lại toàn bộ quá trình hình
thành phát triển phê bình Mác-xít ở Việt Nam trước 1945 từ Hải Triều đến Đặng
Thai Mai, Nguyễn Đình Thi, Trường Chinh v.v.. và cung cấp hơn sáu trăm trang tư
liệu gồm các văn kiện của Đảng và các bài viết thuộc khuynh hướng phê bình Mác-
xít giai đoạn này.
Những năm đầu của thiên niên kỉ mới, không ít những công trình nghiên cứu có
giá trò về đề tài xuất hiện với phương pháp nghiên cứu đổi mới rõ rệt. Trên điểm
nhìn phong cách học, Hà Minh Đức đưa ra những nhận đònh về Phong cách và bút
pháp văn chương Đặng Thai Mai (TCVH, (1), 2003, tr.10-14). Văn học khái luận
cũng được Trần Đình Sử nhìn nhận lại theo tư duy lí luận văn học hiện đại qua bài
viết Văn học khái luận của Đặng Thai Mai - Công trình lí luận văn học hiện đại đầu
tiên (TCVH, (2), 2003, tr.11-14). Nguyễn Ngọc Thiện cũng có bài nghiên cứu về
Đặng Thai Mai từ quan điểm lòch sử trong Đặng Thai Mai và cuộc tranh luận nghệ
thuật vò nghệ thuật hay nghệ thuật vò nhân sinh (TCVH, (7), 2003, tr.37-41). Trong
năm 2004, đáng lưu ý là công trình Phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX
(1900 - 1945) của tác giả Nguyễn Thò Thanh Xuân (Nxb Đại học Quốc gia TPHCM,
2004). Bằng một khối lượng tri thức phong phú, công trình đã hệ thống hoá, so sánh

12
và phân tích để phác hoạ một bức tranh toàn cảnh về hoạt động phê bình nửa đầu
thế kỉ theo diễn tiến lòch sử, đồng thời phân tích những đặc điểm, thành tựu của nó

trong mối quan hệ với những điều kiện xã hội đương thời. Với sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa phương pháp khoa học và thái độ lao động nghiêm túc, có thể nói đây
là công trình nghiên cứu hiện đại đầu tiên về diện mạo của phê bình Việt Nam nửa
đầu thế kỉ trước trên bình diện tổng thể. Công trình cũng đã cung cấp cho người đọc
một cái nhìn khái quát về lòch sử phát sinh cũng như những đặc điểm cơ bản của phê
bình Mác-xít trong hệ thống các xu hướng phê bình đương thời, nhưng do phạm vi đề
tài quá rộng, tác giả chưa có dòp đi sâu phân tích cặn kẽ khuynh hướng phê bình
Mác-xít của giai đoạn này. Cùng đối tượng nghiên cứu với tác giả Nguyễn Thò
Thanh Xuân, trong năm 2004, còn có bài Các hình thái tư duy phê bình đầu thế kỉ XX
của tác giả Trònh Bá Đónh (Tạp chí Hồn Việt II, Trung tâm nghiên cứu Quốc học,
Nxb Văn học, Hà Nội, 2004). Vận dụng mô hình giao tiếp ngôn ngữ cùng với
phương pháp hệ thống – cấu trúc, tác giả nỗ lực xây dựng các cơ sở phương pháp tư
duy theo mô hình như là nền tảng thể hiện bản chất riêng của mỗi khuynh hướng
phê bình đầu thế kỉ trước, trong đó phê bình Mác-xít được xếp vào loại hình thái
phê bình luận học. Giá trò tiêu biểu của công trình này là đưa ra một điểm nhìn mới
về đề tài và gợi ý cho việc vận dụng sáng tạo những phương pháp khoa học vào
nghiên cứu và phê bình nói chung. Ngoài ra còn có thể kể đến bài viết Hải Triều
(1908 -1954) của Nguyễn Ngọc Thiện (Tạp chí Nhà văn (2), 2004, tr.66-76) thể hiện
sự tổng kết, nhìn nhận lại toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp của Hải Triều và bài Ý nghóa
triết học của phê bình văn học của Hồ Só Vònh (Tạp chí Cửa Việt, (120), 2004, tr.68-
71), trong đó vấn đề cuộc tranh luận nghệ thuật 1935 -1939 được soi sáng lại ở góc
độ văn hóa.
Tóm lại, do ý nghóa và vai trò lòch sử đặc biệt của phê bình Mác-xít nửa đầu
thế kỉ XX, đề tài đã trở thành đối tượng nghiên cứu qua nhiều thế hệ từ nhiều
phương pháp tiếp cận khác nhau. Thật khó có thể nào thống kê đầy đủ về toàn bộ

13
lòch sử nghiên cứu của đề tài nhưng nhìn chung vấn đề đã được làm sáng tỏ trên
nhiều khía cạnh. Tuy vậy, phê bình Mác-xít nửa đầu thế kỉ XX vẫn còn là một đề
tài đòi hỏi sự nghiên cứu thực sự có hệ thống, khoa học và sự đánh giá đầy đủ, thỏa

đáng hơn nữa.
3. Phạm vi đề tài
Để phản ánh đúng tính chất của phê bình Mác-xít nửa đầu thế kỉ XX với hiện
tượng hợp nhất và giao thoa giữa các lónh vực: lí luận, phê bình tác giả - tác phẩm
và nghiên cứu lòch sử văn học, chúng tôi chọn khái niệm phê bình theo nghóa rộng.
Do đó, đối tượng nghiên cứu và khảo sát sẽ là các tác phẩm và tác giả phê bình
đồng thời là các bài viết, các công trình lí luận văn học và liên hệ với vấn đề lòch sử
văn học, gọi chung là phê bình văn học; trong đó đối tượng chính là các tác phẩm lí
luận bởi vì đây là thành tựu tiêu biểu của phê bình Mác-xít giai đoạn này.
Về mặt tư liệu, các sách phê bình, các bài phê bình thuộc xu hướng Mác-xít
trên các báo và tạp chí xuất bản trong thời kì 1900 -1945 sẽ là tư liệu chính để khảo
sát và nghiên cứu. Ngoài ra, để có cơ sở đối chiếu và so sánh, chúng tôi còn sử dụng
tài liệu phê bình của các khuynh hướng phê bình khác trong cùng thời kì, các công
trình, bài viết có liên quan thuộc thời kì trước và sau nó. Đồng thời, chúng tôi cũng
tham khảo các công trình nghiên cứu về lí thuyết văn học, về lí thuyết và thực tiễn
phê bình Mác-xít trong và ngoài nước để tạo cơ sở lí luận cho việc nhận đònh, phân
tích đối tượng.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
:
Nghiên cứu đề tài Khuynh hướng phê bình Mác-xít ở Việt nam nửa đầu thế
kỉ XX, chúng tôi hướng đến mục tiêu đưa ra một cách nhìn tương đối toàn diện về
khuynh hướng phê bình Mác-xít ở Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX với tư cách một thể
loại thuộc bộ phận văn học Cách mạng có hệ thống quan điểm thẩm mỹ dựa trên cơ
sở phương pháp luận của chủ nghóa Marx – Lenin từ quan điểm đồng đại và lòch đại:

14

Tái hiện
quá trình hình thành và phát triển của khuynh hướng phê bình
Mác-xít Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX trong mối quan hệ tác động với

các khuynh hướng phê bình khác và điều kiện xã hội lòch sử Việt Nam
trước 1945.
• Phân tích những đặc điểm của khuynh hướng phê bình Mác-xít Việt
Nam nửa đầu thế kỉ XX trong mối quan hệ so sánh với phê bình Mác-xít
giai đoạn nửa sau thế kỉ XX và phê bình Mác-xít ở một số nước trên thế
giới.
• Nhận đònh những đóng góp và những vấn đề hạn chế của khuynh hướng
phê bình Mác-xít Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX đối với lòch sử văn học
dân tộc.
5. Phương pháp nghiên cứu
:
Dựa trên đặc điểm của đối tïng nghiên cứu (xu hướng phê bình Mác-xít trong
một giai đoạn cụ thể) và mục tiêu của đề tài, chúng tôi thực hiện quá trình nghiên
cứu theo các phương pháp sau:
Sự hình thành và phát triển của khuynh hướng phê bình Mác-xít Việt Nam giai
đoạn nửa đầu thế kỉ XX nằm trong tiến trình lòch sử của phê bình hiện đại Việt Nam
đồng thời chòu tác động, ảnh hưởng bởi những điều kiện xã hội – thời đại cùng với
qui luật vận động nội tại của bản thân đời sống văn học. Do đó, để xác đònh và tái
hiện được quá trình hình thành và phát triển của phê bình Mác-xít nửa đầu thế kỉ
XX cần phải vận dụng phương pháp lòch sử – phát sinh. Việc phản ánh trung thực
đối tượng và yêu cầu đưa ra nhận đònh, đánh giá thoả đáng, thấu tình đạt lí về vai
trò lòch sử, ý nghóa - giá trò của phê bình Mác-xít nửa đầu thế kỉ XX đòi hỏi phải
miêu tả đối tượng trong bối cảnh của nó đồng thời phải đặt đối tượng vào quá trình
vận động lòch sử trước và sau nó. Vì vậy, phương pháp miêu tả theo quan điểm
lòch sử cũng rất cần thiết cho việc nghiên cứu đề tài này.

15
Bản thân khuynh hướng phê bình Mác-xít nửa đầu thế kỉ XX cũng là một hệ
thống bao gồm nhiều yếu tố cấu tạo, nhiều khía cạnh với mối liên hệ phức tạp với
nhau. Phân tích đặc điểm của phê bình Mác-xít giai đoạn này không thể không vận

dụng phương pháp hệ thống – cấu trúc để có thể phản ánh đầy đủ toàn diện các
yếu tố, phương diện của đối tượng theo mối liên hệ logic của lòch sử đồng thời soi
rọi lại vấn đề theo quan điểm hiện đại.
Tính chất, yêu cầu về giá trò khách quan, khoa học của công trình nghiên cứu
cũng đòi hỏi phương pháp so sánh. Chúng tôi cũng lưu ý đến phương pháp này
trong công trình để đối chiếu giữa các giai đoạn, các tác gia, các quan điểm v.v.. từ
đó rút ra những nét đặc trưng của vấn đề, sự khác biệt và quá trình chuyển biến, vận
động của đối tượng.
Ngoài ra, phê bình cũng thuộc về một phương diện của hoạt động tiếp nhận. Ở
đây là vấn đề tiếp nhận lí luận Mác-xít với nguồn gốc là nguyên lí triết học của chủ
nghóa duy vật biện chứng (DVBC). Việc vận dụng phê bình Mác-xít đưa đến những
hệ quả như thế nào đối với đời sống văn học, đồng thời việc tiếp nhận phản ánh như
thế nào về nguồn gốc của nó cũng như phản ánh như thế nào về phương pháp tiếp
cận phê bình Mác-xít ở Việt Nam? Đây là những vấn đề cần được giải quyết bằng
phương pháp lòch sử - chức năng. Do đó, chúng tôi cũng vận dụng phương pháp
này trong quá trình thực hiện đề tài.
6. Những đóng góp mới của luận văn:
Chọn đề tài Khuynh hướng phê bình Mác-xít ở Việt Nam nửa đầu thế kỉ
XX, chúng tôi mong muốn đưa ra một cách nhìn hệ thống và toàn diện về một
khuynh hướng phê bình ở giai đoạn hình thành và xác lập chỗ đứng của nó trong
bối cảnh phức tạp và sôi động của đời sống văn học và phê bình nửa đầu thế kỉ
trước.
Phê bình Mác-xít trong suốt một thời gian dài đã giữ vai trò lòch sử quan trọng
trong đời sống văn hóa dân tộc. Do đó, nghiên cứu đề tài trong giai đoạn hình thành,

16
chúng tôi cũng kì vọng có thể làm sáng tỏ những đặc điểm cơ bản của nó; đánh
giá, nhìn nhận lại các vấn đề có liên quan đến đề tài mà trước đây do điều kiện lòch
sử - xã hội, các công trình đi trước chưa có điều kiện giải quyết thật thấu đáo và
thuyết phục.

Từ điểm nhìn tổng thể và chi tiết, chúng tôi nỗ lực đưa ra những nhận đònh
thực sự khách quan và trung thực về phê bình Mác-xít nửa đầu thế kỉ XX với ý
nguyện tạo lập một nấc thang cho các công trình nghiên cứu cao hơn hướng đến con
đường đổi mới phê bình Mác-xít ở Việt Nam, tạo điều kiện cho phê bình Mác-xít có
thể phát huy những nhân tố tích cực của nó vào việc thúc đẩy đời sống phê bình văn
học nói riêng và đời sống văn hóa dân tộc nói chung nhanh chóng trưởng thành và
hoà nhập vào nền văn hóa và phê bình nhân loại.
7. Cấu trúc của luận văn
:
Dẫn luận (13 trang)
Chương 1. Tổng quan về phê bình Mác-xít và phê bình Mác-xít ở Việt Nam
nửa đầu thế kỉ XX (47 trang)
1.1. Tổng quan về phê bình Mác-xít
1.2. Khái quát về phê bình Mác-xít ở Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX
Chương 2. Các đặc điểm của khuynh hướng phê bình Mác-xít ở Việt Nam nửa
đầu thế kỉ XX (54 trang)
2.1. Các đặc điểm về nguyên tắc thẩm mỹ
2.2. Các đặc điểm về phương pháp phê bình
Chương 3. Đóng góp trong phê bình Mác-xít nửa đầu thế kỉ XX (24 trang)
3.1. Những đóng góp chung
3.2. Các nhà phê bình Mác-xít tiêu biểu nửa đầu thế kỉ XX
3.3. Những hạn chế của phê bình Mác-xít nửa đầu thế kỉ XX
Kết luận (5 trang)


17

Chương 1:

TỔNG QUAN VỀ PHÊ BÌNH MÁC-XÍT VÀ PHÊ

BÌNH MÁC-XÍT Ở VIỆT NAM NỬA ĐẦU
THẾ KỈ XX



1.1. Tổng quan về phê bình Mác-xít:

1.1.1. Khái niệm phê bình Mác-xít
Phê bình Mác-xít là khuynh hướng phê bình văn học dựa trên cơ sở triết học có
tính qui phạm với những lập trường tư tưởng rõ ràng, dứt khoát của chủ nghóa duy
vật biện chứng (CNDVBC) do Marx đề xuất được Engels và Lenin tiếp tục hoàn
thiện. Theo quan điểm này, văn học được cắt nghóa như là sản phẩm của một quá
trình nhận thức con người, một hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: văn học
là một hình thái ý thức thuộc thượng tầng kiến trúc chòu ảnh hưởng và có quan hệ
qua lại với cơ sở hạ tầng kinh tế. Từ đó, phê bình Mác-xít giải quyết những vấn đề
về văn học bằng mối quan hệ biện chứng giữa văn học và đời sống xã hội.
Phê bình Mác-xít vốn có nền móng từ phê bình hiện thực chủ nghóa của thế kỉ
XIX nhưng thực sự trở thành một cơ sở lí luận có hệ thống thì phải đến thập niên
cuối cùng của thế kỉ này. Franz Mering (1846 -1916) – người Đức và Georgi
Plekhanov (1856 -1818) – người Nga là những nhà phê bình Mác-xít đầu tiên đưa
hệ thống lí thuyết này vào thực tiễn nhưng cả hai đều bò coi là những nhà phê bình
Mác-xít không chính thống theo quan điểm chính thống của Xô viết sau đó. Mering
và Plekhanov có quan điểm chung là đều thừa nhận tính tự trò nhất đònh của nghệ
thuật và quan niệm phê bình Mác-xít như một khoa học khách quan về các nhân

18
tố xã hội trong tác phẩm văn học hơn là một học thuyết giáo điều về những vấn
đề nghệ thuật, vấn đề chủ thể hay phong cách tác giả.
Phê bình Mác-xít phát triển các nguyên tắc của nó sớm nhất là ở Nga – Xô
viết. Và chỉ khoảng từ năm 1932 trở đi, phê bình Mác-xít mới được gọi là “chủ

nghóa hiện thực xã hội chủ nghóa”. Thuật ngữ này bao hàm hai ý nghóa: một mặt nhà
văn phải tái hiện thực tại khách quan của xã hội một cách trung thực – theo nghóa là
xã hội đương thời với cấu trúc bên trong của nó; và mặt khác là yêu cầu nhà văn lấy
tư tưởng xã hội chủ nghóa (XHCN) làm nguyên tắc tư tưởng chủ đạo của tác phẩm
nghệ thuật, hay cụ thể hơn là truyền bá chủ nghóa cộng sản và đường lối của đảng.
Các nhà lí luận có thẩm quyền của Xô viết lúc bấy giờ tuyên bố rằng văn học Xô
viết phải là công cụ giáo dục ý thức cho giai cấp vô sản đi theo con đường XHCN
tương ứng với lời yêu cầu của Stalin rằng “nhà văn là những kó sư tâm hồn”. Quan
niệm về văn học từ đó cũng trở nên mô phạm và lí tưởng hoá theo nghóa là nó chỉ
cho chúng ta thấy rằng cuộc sống không phải như là chính nó của hiện tại mà nên là
đi theo con đường của học thuyết Mác-xít. Các nhà phê bình Mác-xít tiến bộ cũng
hiểu rằng nghệ thuật chỉ phát huy hiệu quả của nó thông qua nhân vật và hình
tượng; hành động và cảm xúc. Tâm điểm của khái niệm “điển hình” chính là chiếc
cầu nối giữa chủ nghóa hiện thực và chủ nghóa lí tưởng. Điển hình không có nghóa
giản đơn là cái trung bình hay cái đại diện mà gần nghóa với mẫu hình lí tưởng, hoặc
cụ thể là người anh hùng theo tưởng tượng của độc giả từ cuộc sống thực tế. Một
nhà mỹ học của Xô viết cho rằng điển hình là “phạm vi cơ bản của sự biểu hiện tính
đảng trong nghệ thuật. Vấn đề của tính điển hình bao giờ cũng là một vấn đề chính
trò” [Dẫn theo 61, tr.346]. Phê bình Mác-xít ở Nga hầu hết là phê bình nhân vật và
loại hình. Những nhà văn không mô tả xã hội một cách đầy đủ sẽ bò coi là chưa
hoàn thành trách nhiệm đối với đảng hoặc là nhân vật phiến diện. Phê bình Nga Xô
viết sau chiến tranh thế giới thứ hai càng trở nên khép chặt vào chủ nghóa quốc gia
và mang tính cục bộ rõ rệt: những xu hướng chòu ảnh hưởng nước ngoài như văn học

19
so sánh là điều cấm kò. Phê bình Mác-xít lúc này trở thành cơ quan ngôn luận của
nguyên tắc tính đảng không chỉ ở Nga mà còn ở nhiều nước XHCN khác và rõ ràng
nhất là ở Trung Hoa.
Phê bình Mác-xít lan rộng trong thế kỉ XX và giai đoạn phát triển cao nhất là
những thập niên sau chiến tranh thế giới thứ hai dẫn đến việc thành lập đảng phái ở

nhiều quốc gia. Ở Hoa kì, tiêu biểu là Bernard Smith với công trình Forces in
American Critisism (1939). Ở Anh, đại diện tiêu biểu nhất của phê bình Mác-xít là
Christopher Caudwell (1907 -1937) với công trình Illusion ana Reality (1937) tổng
hợp từ học thuyết của chủ nghóa Marx, nhân loại học và tâm lí học. Nhưng cho đến
nay, nhà phê bình Mác-xít được coi là tiêu biểu nhất của thế giới là Georgy Lukacs
(1885 -1971) – nhà mỹ học lớn người Hungary. Các công trình nghiên cứu của ông
thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa CNDVBC với tri thức thực tiễn của nền văn
học Đức, các tác phẩm chính của ông có thể kể đến: Geothe and his age (1947),
Historical Novel (1955) và Die Eigenant des Asthetischen (1965). Điều đáng lưu ý ở
đây là, nhấn mạnh ảnh hưởng của yếu tố xã hội và chính trò, Lukacs vẫn không phủ
nhận yếu tố tình cảm, cảm xúc trong các giá trò của văn học.
1.1.2. Những nguyên tắc cơ bản
1.1.2.1. Về nguồn gốc và bản chất của văn học
:
Văn học là sản phẩm của xã hội. Đời sống con người bắt đầu bằng lao động và
hoạt động ngôn ngữ là điều kiện hình thành của các giác quan mang thuộc tính
người trong đó có giác quan cảm nhận và sáng tạo cái đẹp: “Trước hết là lao động;
sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu
đã ảnh hưởng đến bộ óc con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ
óc của con người” [59, tr.26]. Lao động của con người đặc biệt ở chức năng tác động
kép của nó: vừa làm biến đổi tự nhiên, vừa làm biến đổi chính bản thân con người
và “phát triển những năng khiếu tiềm tàng trong bản thân mình” bởi vì hoạt động
sản xuất của con người khác với hoạt động sản xuất của con vật ở tính chất tự do,

20
chủ quan và có ý thức của nó: “Súc vật chỉ nhào nặn vật chất theo thước đo và nhu
cầu của giống loài của nó, còn con người thì có thể sản xuất theo thước đo của bất kì
giống nào và ở đâu cũng có thể áp dụng thước đo thích dụng cho đối tượng. Do đó,
con người cũng nhào nặn vật chất theo qui luật của cái đẹp” [59, tr.17-18]. Cùng với
quá trình phát triển ngày càng phong phú, tinh vi và phức tạp của các hoạt động lao

động sản xuất, xã hội ngày càng xuất hiện những hình thức hoạt động mang tính
chất trừu tượng và phức tạp hơn mà hình thức cao nhất là khoa học và nghệ thuật:
“Nhờ hoạt động của bàn tay của các khí quan phát âm và của bộ óc chẳng những ở
mỗi cá nhân mà cả trong xã hội nữa, loài người đã có đủ khả năng hoàn thành
những công việc hàng ngày phức tạp hơn (…) lao động cũng ngày càng nhiều vẻ hơn,
hoàn thiện hơn (…) cuối cùng nghệ thuật và khoa học ra đời bên cạnh thương nghiệp
và công nghiệp…” [59, tr.27-28].
Như vậy văn học và nghệ thuật nói chung là sản phẩm của quá trình xã hội hoá
loài người, một trong những thành tựu cao nhất của các hoạt động mang tính loài và
một hình ảnh minh chứng cho sự hoàn thiện của các giác quan mang thuộc tính
người. Văn học, xét cho cùng là sản phẩm của xã hội. Do đó, văn học mang tính xã
hội sâu sắc.
Phê bình Mác-xít quan niệm bất kì nền văn học nào cũng hình thành trên một
cơ sở hiện thực nhất đònh. Hiện thực là mảnh đất nuôi dưỡng đồng thời là chìa khóa
để giải quyết mọi hiện tượng phức tạp trong đời sống văn học. Tất cả những điều
kiện hiện thực tác động vào văn học thông qua vai trò của nhà văn. Nhà văn phản
ánh đời sống hiện thực thông qua lăng kính chủ quan của mình. Mỗi nhà văn có một
cách lựa chọn phương pháp sáng tác khác nhau tuỳ thuộc vào thế giới quan riêng
nhưng xét cho cùng thế giới quan của nhà văn cũng là một sản phẩm của xã hội do
thực tiễn qui đònh. Do đó, tính hiện thực là một thuộc tính bản chất của văn học.
CNDVBC giải quyết mối quan hệ giữa hiện thực xã hội và đời sống văn học
theo nguyên tắc của phép biện chứng. Nếu như Hegel chỉ quan niệm biện chứng như

21
một động lực và phương pháp của tư duy thì những người sáng lập chủ nghóa Marx
cho rằng quan hệ biện chứng tồn tại cả trong tư duy lẫn đời sống vật chất như một
“qui luật chung nhất của sự phát triển tự nhiên, xã hội và tư duy”. Đời sống văn học
– một hình thái ý thức – chính là một hiện tượng thể hiện mối quan hệ này. Văn học
cũng như mọi hình thức đời sống tinh thần, ý thức hệ của xã hội như tôn giáo, chính
trò, đạo đức … đều thuộc về hệ thống kiến trúc thượng tầng do tồn tại xã hội quyết

đònh, vận động theo sự phát triển của mối quan hệ với lực lượng sản xuất:
“Trong sự sản xuất xã hội về đời sống của mình, con người có những quan hệ
với nhau, những quan hệ nhất đònh, tất yếu, độc lập với ý muốn của họ, tức những
quan hệ sản xuất này phù hợp với một trình độ phát triển nhất đònh của các lực
lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành
những cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cơ sở thực tại, trên đấy xây dựng lên một
kiến trúc thượng tầng pháp lí và chính trò, và tương ứng với cơ sở thực tại đó thì có
những hình thái ý thức xã hội nhất đònh. Phương thức sản xuất đời sống vật chất
quyết đònh quá trình sinh hoạt xã hội, chính trò và tinh thần nói chung (…). Cơ sở kinh
tế thay đổi thì tất cả cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bò đảo lộn ít nhiều nhanh
chóng” [59, tr.29-30].
Phê bình Mác-xít quan niệm sáng tạo văn học như là một nỗ lực của con người
nhằm chiếm lónh thế giới khách quan. Do đó, quá trình sáng tạo văn học nghệ thuật
cũng tuân theo cơ chế phản ánh của qui luật nhận thức thông qua phương tiện trung
gian là hoạt động ngôn ngữ . Ngôn ngữ thể hiện những tư tưởng, biểu tượng và ý
thức con người nhưng ngôn ngữ chỉ nảy sinh trong những hoạt động và những quan
hệ giao dòch vật chất của con người, ngôn ngữ là “ngôn ngữ của đời sống thực tế”.
Ngôn ngữ phản ánh toàn bộ những hiện trạng đời sống vật chất trong đó con người
đang hoạt động với những điều kiện nhất đònh của sức sản xuất và mối quan hệ sản
xuất tương ứng.

22
Tuy nhiên, ý thức không hoàn toàn đồng nhất với thế giới khách quan. Thế giới
khách quan chuyển hóa vào ý thức con người thông qua phương tiện ngôn ngữ
có một “độ nhoè” nhất đònh do hai yếu tố: tính tương đối của nhận thức và tính
“không thuần tuý” ý thức của bản thân ngôn ngữ.
Nhận thức là sự phản ánh giới tự nhiên bởi con người. Nhưng “con người không
thể nắm được – phản ánh – miêu tả đúng được giới tự nhiên một cách đầy đủ như là
chỉnh thể”, trong tính “chỉnh thể trực tiếp” của giới tự nhiên”. Do đó, nhận thức là
một quá trình đi dần dần đến “sự phù hợp giữa tư tưởng và khách thể”. Tóm lại,

“phản ánh của giới tự nhiên trong tư tưởng con người phải được hiểu không phải một
cách “chết cứng”, “trừu tượng”, không phải không vận động, không mâu thuẫn mà
là trong quá trình vónh viễn của sự vận động, của sự nảy sinh mâu thuẫn và của sự
giải quyết những mâu thuẫn đó” (giới tự nhiên được hiểu là toàn bộ thế giới khách
quan trong đó có đời sống vật chất xã hội và đời sống tinh thần của con người). Như
vậy, đặc trưng của nhận thức là tính mâu thuẫn và tính vận động, sản phẩm của
một quá trình nhất đònh của nhận thức bao giờ cũng chỉ có giá trò tạm thời và tương
đối. Văn học - sản phẩm của một quá trình nhận thức về con người và toàn bộ đời
sống con người – cũng có giá trò chân lí ở mức độ tương đối. Thế giới nghệ thuật
trong tác phẩm không phải là thế giới khách quan trong tính chỉnh thể trực tiếp của
nó. Con người – đối tượng phản ánh chủ yếu của văn học – cũng không phải là một
phạm trù thuần nhất và một chiều. Điều đó cũng có nghóa là việc đánh giá giá trò
của một tác phẩm văn học không thể căn cứ trên cơ sở đối sánh để tìm ra sự đồng
nhất giữa thế giới nghệ thuật của tác phẩm và thế giới khách quan, đánh giá nội
dung tư tưởng của một tác phẩm văn học không thể dựa trên mức độ thuần phục một
tư tưởng nhất đònh của con người được phản ánh trong tác phẩm. Trong tính thực tại
của nó, bản thân đời sống tư tưởng con người cũng là một quá trình vận động và
mâu thuẫn.

23
Con người tư duy bằng ngôn ngữ hay nói khác hơn, ngôn ngữ là phương tiện vật
chất hoá ý thức. Ngôn ngữ xuất hiện cùng lúc với ý thức và hình thành do nhu cầu
giao tiếp của con người với nhau trong đời sống vật chất. Ngôn ngữ làm mờ đi tính
“thuần tuý” của ý thức “không phải ý thức ngay từ đầu đã là ý thức “thuần tuý”
đâu. Ngay từ buổi đầu, một rủi ro đã đè nặng lên “tinh thần”, là bò “hoen ố” bởi một
thứ vật chất thể hiện ở đây dưới hình thức những lớp không khí bò rung động, tức là
âm thanh, nói tóm lại là ngôn ngữ”, [59, tr.45]. Từ luận điểm này, có thể thấy rằng
trong văn học, giữa ý đồ sáng tác của nhà văn tức là ý thức của nhà văn về tác
phẩm và văn bản tác phẩm – với tư cách hình thức tồn tại bằng ngôn ngữ của nó có
một khoảng cách nhất đònh. Ở một mức độ nào đó, nội hàm ý nghóa tác phẩm do sự

chi phối của tính mơ hồ, đa nghóa của ngôn ngữ nghệ thuật đã vượt ra ngoài tầm
kiểm soát ý thức của nhà văn. Và vì vậy, tác phẩm cũng có tính độc lập tương đối.
Tóm lại, phê bình Mác-xít quan niệm văn học như một hình thái ý thức xã hội
phản ánh hiện thực. Văn học bắt nguồn từ đời sống và mang tính xã hội sâu sắc.
Văn học phản ánh hiện thực nhưng đó không phải là sự phản ánh đơn giản, trực tiếp,
một chiều mà là một quá trình vận động phức tạp đầy mâu thuẫn. Hơn nữa, ngôn
ngữ – phương tiện vật chất hoá của ý thức – “không thuần tuý” là ý thức. Do đó, thế
giới nghệ thuật của tác phẩm văn học không bao giờ hoàn toàn đồng nhất với thế
giới khách quan mà nó phản ánh. Phê bình Mác-xít lí giải mọi hiện tượng trong đời
sống văn học trên cơ sở những điều kiện kinh tế - xã hội và thời đại lòch sử của nó
nhưng không quan niệm hiện thực được phản ánh trong tác phẩm là “chỉnh thể trực
tiếp” của hiện thực đời sống khách quan bên ngoài. Xuất phát từ nền tảng lí luận
này, các nhà phê bình Mác-xít nhiều thế hệ đã xây dựng hệ thống những nguyên tắc
cơ bản của phê bình văn học Mác-xít mà trọng tâm của nó là phản ánh luận nghệ
thuật. Phản ánh luận được coi là cơ sở triết học và mỹ học để giải quyết mối quan
hệ giữa văn học và hiện thực với các phạm trù cơ bản như: vật chất và vận động,
không gian và thời gian, nguyên nhân và kết quả, tự do và tất yếu, tính biện chứng

24
của sự phát triển, chân lí khách quan v.v.. Vận dụng phản ánh luận, các nhà phê
bình Mác-xít xem xét hiện tượng văn học như là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan và lấy tiêu chí tính chân thật làm cơ sở đánh giá thuộc tính hiện thực
của tác phẩm văn học.
1.1.2.2. Về chức năng của văn học và vai trò của văn nghệ só
.
Phê bình Mác-xít đánh giá cao vai trò và chức năng của văn học đối với đời
sống xã hội. Không chỉ nhấn mạnh hiện thực là nguồn gốc cốt yếu, là đối tượng
phản ánh của văn chương, các nhà lí luận kinh điển của chủ nghóa Marx còn coi đời
sống hiện thực là điểm xuất phát cho những mục tiêu kiến thiết xã hội của văn học.
Tác phẩm văn học chỉ có giá trò thực sự khi nó gắn liền với những vấn đề thời sự

của xã hội, phục vụ cho những mục tiêu nhất đònh của xã hội. Đó là mục tiêu cải tạo
hiện thực xã hội thông qua khả năng tác động, giáo dục tư tưởng con người, hướng
con người vào mục tiêu xây dựng một xã hội mới tốt đẹp và tiến bộ hơn. Nhưng con
người và xã hội mới được nói đến ở đây không phải là một khái niệm trừu tượng
chung chung. Phê bình Mác-xít cụ thể hoá đối tượng và mục tiêu của văn học: giai
cấp vô sản và xã hội XHCN.
Triết học Marx lí giải khả năng cảm thụ nghệ thuật của con người bằng quá
trình xã hội hoá – nhân loại hoá các giác quan theo sự phát triển của lòch sử. Quan
niệm lao động là một hoạt động biện chứng đồng thời biến đổi giới tự nhiên và bản
thân con người, triết học Marx coi lòch sử nhân loại như là lòch sử phát triển cơ sở
vật chất của xã hội đồng thời với lòch sử hoàn thiện của con người về thể chất, các
giác quan, khả năng trí tuệ… Tuy nhiên, do trình độ phát triển vật chất không đồng
đều nhau ở mỗi dân tộc, tầng lớp, cá nhân… nên trình độ phát triển các giác quan, trí
tuệ… cũng không giống nhau. Sự tiếp nhận của con người về sự tồn tại của đối tượng
khách quan phụ thuộc vào những đặc điểm “bản chất của đối tượng” có phù hợp hay
không với “bản chất sức mạnh thực thể” ở con người. “Đối với lỗ tai không thính âm
nhạc thì âm nhạc hay nhất cũng không có ý nghóa gì cả, bởi vì đối với nó, âm nhạc

25
không phải là đối tượng, bởi vì đối tượng của tôi chỉ có thể là sự khẳng đònh một
trong những lực lượng bản chất của tôi, nghóa là nó chỉ có thể tồn tại đối với tôi
giống như lực lượng bản chất của tôi tồn tại đối với tôi với tính cách là năng lực chủ
quan, vì cảm giác của tôi đạt đến trình độ nào thì ý nghóa của một đối tượng nào đó
đối với tôi cũng đạt tới đúng trình độ ấy”. Do đó, tính nhân loại của cảm giác là sản
phẩm của một quá trình lòch sử được hình thành bằng sự phù hợp ngày càng cao của
bản chất đối tượng với bản chất của sức mạnh thực thể ở con người. Vào một thời
điểm nhất đònh, ứng với một trình độ nào đó, con người chỉ có khả năng tiếp nhận
đối tượng cụ thể tương ứng. Nhưng sự phù hợp đó chỉ là tạm thời, “có ý nghóa cục
hạn”. Tính nhân loại của cảm giác nảy sinh nhờ sự tồn tại của đối tượng tương ứng
cũng có nghóa là có thể nhân loại hoá cảm giác con người bằng quá trình đối tượng

hoá thực thể khách quan xu hướng ngày càng nâng cao. Marx khẳng đònh đó là một
qui luật tất yếu xét về phương diện lí luận cũng như về phương diện thực tiễn – để
một mặt nhân loại hoá cảm giác con người và mặt khác, sáng tạo cảm giác con
người tương ứng với toàn bộ sự phong phú của bản chất nhân loại và tự nhiên [59,
tr.21].
Xuất phát từ những luận điểm trên đây, khi áp dụng vào thực tiễn của nền văn
học Xô viết, Lenin trao cho các văn nghệ só nhiệm vụ cụ thể là “góp phần đào tạo
những người công nhân Cách mạng để cho họ tiến lên ngang trình độ những người
trí thức Cách mạng về mặt hoạt động của Đảng” [59, tr.120], “phải huấn luyện cho
công nhân (cũng như sinh viên và học sinh trung học), làm sao cho có thể cùng với
họ đề cập đến các vấn đề ấy…” (vấn đề “chính trò” và “tổ chức”). Đưa ra mục tiêu
này, Lenin cũng nhấn mạnh sự khác biệt trong công việc của người nghệ só với nhà
sư phạm. Và, để tác phẩm nghệ thuật có thể thành đối tượng phù hợp với trình độ
của các độc giả công nhân, Lenin yêu cầu các văn - nghệ só và cả các học giả “phải
cố gắng viết giản dò, không có những lời thừa, không có những màu mè bề ngoài
của “học giả” [59, tr.117] đồng thời cũng phải có ý thức sáng tạo, nâng cao trình độ

×