Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

ĐỀ TÀI NÔNG THÔNG TRONG PHÓNG SỰ VĂN HỌC VIỆT NAM 1930-1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------------




Nguyễn Thị Bích Hòa









Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 34




LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN HOÀI THANH





Thành phố Hồ Chí Minh - 2008




LỜI CẢM ƠN

Với tình cảm trân trọng, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến quí
thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc TS. Nguyễn
Hoài Thanh - người hướng dẫn khoa học đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cám ơn gia đình, đồng nghiệp, bạn bè đã động viên, giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình học tập và hoà
n thành đề tài.

Nguyễn Thị Bích Hòa


MỞ ÐẦU

1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
Văn học Việt Nam 1930 – 1945 tuy diễn ra trong thời gian ngắn nhưng có vị trí quan trọng
trong quá trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc. Ở giai đoạn này, quá trình hiện đại hoá văn học
được đã diễn ra với nhiều cuộc cách tân sâu sắc trên các thể loại. Trong xu thế đó, phóng sự là một thể
tân văn cũng ra đời ngay từ những năm
30, khi văn học nước nhà đang tăng tốc lao vào quĩ đạo hiện

đại hoá. Là một thể loại trung gian giữa báo chí và văn học, có tính tư liệu nhằm điều tra sự thực về
một thực trạng xã hội nào đó nên chỉ trong thời gian ngắn, phóng sự đã đạt được nhiều thành tựu rực
rỡ, trở thành một thể loại “ăn khách”, tạo một lực hấp dẫn mạnh mẽ đối với độc g
iả.
Những vấn đề mà ống kính phóng sự hướng tới để phản ánh là những vùng hiện thực nóng
bỏng, nhức nhối của xã hội thực dân nửa phong kiến ở cả thành thị lẫn nông thôn, thậm chí cả mảng
hiện thực ở các nhà tù vốn bị thực dân bưng bít. Là xã hội cơ bản là nông nghiệp, nông thôn chiếm đại
đa số nên mảng phóng sự về nông thôn đã trở thành một đề tài thu hút nhiều cây bút tài năng và đã thu
đư
ợc những bức tranh đầy ấn tượng. Vì lẽ đó, khi nghiên cứu di sản phóng sự của giai đoạn 1930 –
1945, cần đi sâu hơn nữa vào mảng phóng sự viết về nông thôn để tìm hiểu, đánh giá đầy đủ hơn, đúng
đắn hơn về những đóng góp của những cây phóng sự ở đề tài quan trọng này.
Với những lý do đó, trên cơ sở tiếp thu những thà
nh tựu của các nhà nghiên cứu, luận văn tiến
hành khảo sát một cách có hệ thống đề tài: “Đề tài nông thôn trong phóng sự Văn học Việt Nam
1930 – 1945” nhằm mục đích tìm ra những đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật, thấy được
những giá trị đặc sắc, khả năng sáng tạo độc đáo cũng như những hạn chế của những phóng sự về
nông thôn giai đoạn 1930 –1945.
2. Đối tượng và phạm vi nghiê
n cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Phóng sự là một thể loại mới xuất hiện trong cuộc cách tân văn học, nhưng chỉ trong thời gian rất
ngắn, nó đã khẳng định được vị trí của mình. Trong vô số vấn đề nóng hổi của cuộc sống cần thể hiện,

đề tài về nông thôn đã thu hút mạnh mẽ những cây bút phóng sự đương thời, một loạt phóng sự có giá
trị xuất hiện tạo nên một bức tranh hoàn chỉnh về bộ mặt nông thôn Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu
của đề tài là những phóng sự viết về nông thôn Việt Nam giai đoạn 1930-1945.
Số lượng phóng sự đã xuất bản và in trên báo chí là khá nhiều. Song do điều kiện bị lưỡi kéo kiểm
duyệt đương thời cắt bỏ hoặc do khả năng lưu giữ, thu thập đầy đủ các phóng sự về nông t
hôn Việt

Nam 1930-1945 là rất khó khăn. Vì thế, luận văn chỉ tiến hành khảo sát những phóng sự chính yếu, có
giá trị tiêu biểu, chọn lọc và trong khả năng còn sưu tầm được, những đoạn phóng sự được trích dẫn

trong các từ điển, tuyển tập…cho phép việc tìm tòi, nghiên cứu những đặc điểm của phóng sự nông
thôn Việt Nam 1930 -1945 như các phóng sự sau:
-Đồng quê, Phi Vân, NXB Bốn Phương 1951.
- Túp lều nát, Nguyễn Đổng Chi, NXB Văn học (in lần thứ 2), 1999.
- Cơm thầy cơm cô, Vũ Trọng Phụng, NXB Văn học, 2004.
- Một huyện ăn Tết, Tuyển tập Vũ Trọng Phụng (tập 1). NXB Văn học, Hà Nội, 2005.
- Việc làng và Tập án cái đình, N
gô Tất Tố, Việc làng-tác phẩm và dư luận, NXB Văn học, 2002.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở xác định đối tượng và mục đích nghiên cứu như trên, luận văn tiến hành khảo sát
trong giới hạn sau:
Thứ nhất, từ những kiến thức lí luận về phóng sự, khảo sát những bức tranh hiện thực về nôn
g
thôn Việt Nam ở hai khía cạnh : xã hội và con người. Qua đó thấy được những hiện thực đen tối và cả
những bức tranh tươi đẹp của nông thôn Việt Nam.
Thứ hai, khảo sát những giá trị và những hạn chế của những phóng sự về nông thôn Việt Nam
1930-1945 để thấy được những tư tưởng nhân đạo, nhân văn và những cách nhìn phiến diện, sai lầm về
xã hội và con người nông thôn.
Thứ ba, khảo sát về phương diện nghệ thuật: nghệ thuật khám phá hiện t
hực và khai thác tư
liệu, nghệ thuật trần thuật, phong cách ngôn ngữ, giọng điệu để tìm thấy tài năng độc đáo của những
phóng sự bậc thầy.
Phạm vi nghiên cứu bao gồm hệ thống những vấn đề như trên nhằm đem lại một cái nhìn bao quát
về những giá trị độc đáo, nổi bật của mảng phóng sự về nông thôn Việt Nam
1930-1945.
3. Lịch sử vấn đề
Ngược dòng văn mạch của dân tộc, người đọc chứng kiến những văn tài trên thể văn phóng sự

như Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Đổng Chi, Phi Vân… những cây bút “tiền chiến” viết về
đề tài nông thôn này đã để lại những kiệt tác bất hủ cho nền văn học Việt Nam.
Thà
nh tựu của phóng sự nói chung và đề tài nông thôn trong phóng sự nói riêng đã góp phần
quan trọng hình thành nên chân dung của văn học Việt Nam. Căn cứ vào mốc lịch sử lớn có ý nghĩa
đối với đời sống xã hội và văn học, chúng tôi chia lịch sử vấn đề phóng sự về nông thôn 1930 – 1945
thành 3 giai đoạn:

- Giai đoạn 1930 – 1945
- Giai đoạn 1945 – 1985
- Giai đoạn 1985 đến nay
3.1. Giai đoạn 1930 – 1945

Sau khi “dậy tiếng” với hàng loạt phóng sự về nông thôn, dư luận xôn xao trước sự bừng sáng
của những cây phóng sự tài hoa. Nhiều luồng ý kiến ngợi ca, tôn vinh hoặc phản bác, phủ định bắt đầu
xuất hiện.
Đối với những tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, có vô số ý kiến khác nhau. Nhưng tiêu biểu là ý
kiến của Trương Tửu trên báo Tao đàn (số đặc biệt), tháng 12 – 1939, ông đánh giá Cơm thầy cơm cô
cùng với một số phóng sự khác của Vũ Trọng Phụng là “nền m
óng đầu tiên của nghệ thuật phóng sự
trong văn giới Việt Nam hiện đại (….) Trong các trang giấy đó, không có sự khinh bỉ, không có lòng
thương hại, không có ác ý mỉa mai. Ngòi bút ông thật khách quan và vô tư.” [78, tr.144]. Ý kiến
này dẫu còn mang nặng cảm tính nhưng bước đầu đã khẳng định vị trí hết sức quan trọng của phóng sự
Cơm t
hầy cơm cô đối với nghệ thuật phóng sự Việt Nam.
Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại (1938-1940) thì cho rằng Cơm thầy cơm cô là “một tập
phóng sự hay nhất của Vũ Trọng Phụng. Ngòi bút tả chân của ông thật là tuyệt xảo khi ông tả những
cảnh nghèo khổ.” Ông đánh giá cao chương VII (Bi hài kịch) và cho rằng “đây là chương tuyệt hay.
Vui buồn, đủ cả, linh hoạt vô
cùng và cũng thảm thiết vô cùng (…) chỉ mười một trang giấy mà biết

bao tình nhân loại, biết bao nỗi thương tâm”. [55, tr.14]. Đặc biệt, Vũ Ngọc Phan nhận ra vai trò của
“tố chất”, cái “giọng” phóng sự, con đường nghệ thuật của nhà văn Vũ Trọng Phụng.
Ngược lại với những ý kiến ngợi ca hết lời là thái độ xổ toẹt một cách thẳng thừng của Nhất Chi
Mai trong bài :Ý kiến một người đọc: dâm hay không dâm? Đăng trên báo Ích hữu số 66, ngày
25/
5/1937, vị chủ tướng của Tự lực văn đoàn này tỏ vẻ “phẫn uất, khó chịu, tức tối” khi nhắc tới
những cảnh “con sen vạch quần để hở đùi non cho con chủ nhà trông thấy” và phản đối gay gắt là cần
phải “vạch ra những cái bẩn thỉu, nhơ nhớp, dơ dáy của văn ông ta”. Năm 1944, trong “Cuốn sổ văn
học”
, Lê Thanh nhắc lại: “Khoảng những năm 1936, mấy tờ báo ở Hà Nội đua nhau trình bày những
thể văn khiêu tình, gợi dục (…) những lời tự tình của bọn Cơm thầy cơm cô, những cử chỉ trơ trẽn của
gái giang hồ…” [69, tr.162]. Nhất Linh tỏ ra lợi hại khi đưa ra ý kiến này giữa lúc phong hoá đang
suy đồi vì phong trào Âu hoá. Nhưng Nhất Linh lại chỉ tìm những dấu hiệu m
à ông cho là “dâm uế” rồi
trích dẫn theo kiểu “vạch lá tìm sâu” rồi qui kết toàn bộ giá trị của tác phẩm. Cách nhìn này là phiến
diện một chiều, qui chụp cực đoan, không khoa học, và vì thế không có khả năng thuyết phục.
Cũng như Cơm thầy cơm cô, Việc làng và Tập án cái đình vừa ra đời cũng đã gây được tiếng
vang và được giới bình luận chú ý nhiều.
Tiêu biểu là công trình nghiên cứu “Nhà văn hiện đại”
(1938-1940) của Vũ Ngọc Phan. Trong tác phẩm này Vũ Ngọc Phan giới thiệu Việc làng với thái độ
hết sức trân trọng và khẳng định. Ông gọi Ngô Tất Tố là “một tay kì cựu trong làng văn, làng báo Việt
Nam”. Ông đánh giá cao Việc làng: “lời văn trong Việc làng đều bình dị như thế cả. Tập phóng sự về
dân quê này thật là một tập phóng sự rất đầy đủ về lệ làng” [55, tr.202]

Không ồn ào, sôi động như Cơm thầy cơm cô, Việc làng và Tập án cái đình ở đất Bắc, nhưng ở
phương Nam, dư luận bắt đầu chú ý đến phóng sự Đồng quê của Phi Vân. Trong buổi lễ phát thưởng
văn chương thủ khoa Nghĩa năm 1943, GS Nguyễn Văn Khiết đã dành những lời có cánh ca ngợi
phóng sự Đồng quê của Phi Vân – tác phẩm được giải nhất cuộc thi văn chương của Hội Khuyến học
Cần Thơ. Ông đá
nh giá cao nội dung và nghệ thuật của tác phẩm này: “một ngọn bút tỉ mỉ mà linh

hoạt, một giọng văn thành thật mà hữu duyên, không rườm rà mà đầy đủ”. Liền sau đó là liên tiếp các
bài báo đăng tin, bình luận với thái độ trân trọng và khẳng định như tờ Ánh sáng văn chương, Nhật báo
Việt Thanh, Hương hoa đất nước, Nhật báo thời cuộc, Nhật báo Tiếng dội….
Ở giai đoạn nà
y, giới nghiên cứu, bình luận chỉ mới chú ý đến tác phẩm phóng sự của những
kiện tướng chủ nghĩa hiện thực mà chưa chú ý nhiều đến một số phóng sự khác. Có nhiều bài viết khác
nhau, nhiều nhận xét khá tinh tế nhưng tất cả chỉ dừng lại ở những phóng sự viết về nông thôn một
cách đơn lẻ mà chưa có cái nhìn tổng thể ở cấp độ một đề tài của một giai đoạn văn học. Thời kì này
cũng chưa có nhiều công trình nghiên cứu r
iêng mà chủ yếu dừng lại một số ý kiến đăng tải trên các
báo mà thôi.
3.2. Giai đoạn 1945 – 1985
Năm 1950, trong khi giảng về thể phóng sự cho các khoá đào tạo đội ngũ văn nghệ kháng
chiến, Nguyễn Đình Lạp đề cao Vũ Trọng Phụng “l
à nhà phóng sự phong phú nhất, sâu sắc nhất” và
đánh giá Cơm thầy cơm cô cùng với một số phóng sự khác “đã làm cho độc giả say mê” [32, tr.302].
Cũng với cảm hứng ngợi ca, Nguyên Hồng cho rằng: “Với hai thiên phóng sự đặc biệt Cơm
thầy cơm cô và Lục xì và hai tiểu thuyết Số Đỏ và Giông tố, Vũ Trọng Phụng đã làm chuyển động cả
dư luận văn học bấy giờ, giơ cao thêm ngọn cờ hiện t
hực, góp thêm một phần đấu tranh quyết liệt cho
một nền văn học tiến bộ” [25, tr.175-176]. Phan Khôi khi đánh giá Cơm thầy cơm cô cùng các phóng
sự khác cũng cho rằng họ Vũ là nhà văn “thông cảm và tố khổ cho hạng người Việt Nam bị coi là cặn
bã” [23, tr.11].
Trong Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập III, các tác giả cuốn sách này tỏ ra khách quan
hơn khi
đánh giá Vũ Trọng Phụng có sở trường về phóng sự, các nhân vật trong Cơm thầy cơm cô là
hạng người “vì đồng tiền mà trở thành lưu manh” [37, tr.342], và cũng phê phán việc họ Vũ “chú trọng
tả cảnh dâm đãng của con người”, không tán thành với những “biện bác” của chính nhà văn.
Không chỉ Cơm thầy cơm cô, Việc làng cũng tiếp tục lọt vào tầm n
gắm của các nhà phê bình

trong giai đoạn này. Trên tạp chí Văn nghệ số 54 năm 1954, Nguyên Hồng thừa nhận những đóng góp
tích cực của Ngô Tất Tố trong việc phản ánh chân thật đời sống nông dân sau luỹ tre xanh: “Người
nông dân giãy lên trên những dòng chữ của Ngô Tất Tố, chưa ánh lên cái sức đấu tranh nhưng sự
thống khổ của họ đem phơi bày ra đã được một phần nào thật, thật trên cái đen
tối của chế độ tàn bạo
và ruỗng nát lúc bấy giờ”. [21, tr.44]

Cũng trên Tạp chí Văn Nghệ, số 8 năm 1958, Bùi Huy Phồn cũng khẳng định đóng góp lớn nhất
của Việc làng là phản ánh chân thực đời sống người dân quê, những thống khổ về tinh thần, gánh nặng
của hủ tục mà trước đây khó có ai thấy được. Bùi Huy Phồn cũng rất khách quan khi phân tích một số
hạn chế của Việc làng là do lập trường giai cấp của Ngô Tất Tố còn mơ hồ. N
hưng tác giả này cũng
rộng lượng khi chỉ ra hạn chế này cũng không lấy gì làm lạ, bởi Ngô Tất Tố vốn xuất thân từ nhà nho,
“Những tư tưởng Văn Thân, Đông Du lúc bấy giờ - tuy đã tan rã vì gặp nhiều thất bại - không tránh
khỏi dư rớt lại trong ông. Rồi tiếp đến tư tưởng cải lương là con đường tất nhiên của lớp người trí thức
đương t
hời khi họ chưa tìm được lối thoát”. [53, tr.205]
Năm 1961, trên tạp chí văn Nghiên cứu văn học số 3, Nguyễn Đức Đàn – Phan Cự Đệ cũng
nhận xét khá tinh tường: “Cái thành công của Ngô Tất Tố và cũng là biểu hiện cái nhìn đúng đắn của
ông chính là ở chỗ thông qua việc miêu tả các hủ tục, nhà văn đã vẽ lên được cuộc sống khổ cực của
nông dân và âm mưu của bọn cường hào địa chủ lợi dụng hủ tục để áp bức, bóc lột quần chúng”. Tác
giả cũng chỉ r
a cái nhìn hạn chế, đồng thời chỉ rõ ý nghĩa của tác phẩm trong hoàn cảnh chính trị và
văn học lúc bấy giờ. Về nghệ thuật, tác giả nhận xét: “ngòi bút của ông khi nào cũng vững vàng, chắc
chắn, lời văn bao giờ cũng bình dị, sáng sủa và cô đúc” [53, tr.227]
Năm 1973, biên khảo về phóng sự được mở rộng hơn trong cuốn Lịch sử văn học Việt Nam
1930-1945. Cơm thầy cơm cô cùng với một số phóng sự khác được đánh giá “đã đưa Vũ Trọng Phụng
lên hàng ông v
ua phóng sự đất Bắc”. Cũng trong tác phẩm này, Việc làng cũng được Nguyễn Đăng
Mạnh ghi nhận những đóng góp về nội dung và nghệ thuật. Ông cảm nhận “lòng cảm t

hương sâu sắc
đối với người nông dân” của Ngô Tất Tố. “Càng thông cảm với người nông dân bao nhiêu, Ngô Tất
Tố lại càng căm ghét bọn cường hào địa chủ bấy nhiêu”. Nguyễn Đăng Mạnh cũng thừa nhận tài năng
nghệ thuật của Ngô Tất Tố qua Việc làng, tuy quanh quẩn chủ yếu viết về nạn xôi thịt, nhưng với lối kể
chuyện linh hoạt, người đọc không thấy đơn điệu. Ô
ng đánh giá cao phóng sự này: “Việc làng là một
tập án đanh thép về hủ tục và nạn cường hào ở nông thôn Việt Nam”.
Vẫn tiếp tục luồng ý kiến thời “tiền chiến” với lối phê bình trực cảm, ấn tượng và ngợi ca một
chiều, nhưng giai đoạn này đã có một bước tiến hơn giai đoạn trước: tiếp thu c
ó phê phán trên quan
điểm mĩ học duy vật, xuất hiện một số ý kiến với tinh thần khách quan hơn, không thiên lệch một
chiều. Nhưng, cũng như giai đoạn trước, các ý kiến cũng chỉ tập trung ở các phóng sự của hai “kiện
tướng” Vũ Trọng Phụng và Ngô Tất Tố về nông thôn Bắc Bộ là chủ yếu. Phóng sự viết về nông thôn
Trung và Nam Bộ của Nguyễn Đổng Chi và Phi Vân vẫn chưa được đi sâu nghi
ên cứu.
3.3. Giai đoạn 1986 đến nay
Năm 1986, cuộc đổi mới văn học đã tạo một bước đột phá cho việc tiếp nhận di sản văn học quá
khứ. Phóng sự của Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố được nhìn nhận ở một góc độ mới, các phóng sự của

Nguyễn Trần Ai, Phi Vân nay đã được phát hiện để khám phá và bổ sung cho bức tranh nông thôn Việt
Nam 1930 – 1945 được hoàn chỉnh.
Sau một thời gian dài vắng bóng, Túp lều nát của Nguyễn Trần Ai và Đồng quê của Phi Vân lại
được dư luận chú ý. Ngày 7-1-1996, GS Lê Phong viết bài “Thêm một cuốn sách góp vào di sản văn
học hiện thực Việt Nam: Túp lều nát của Nguyễn Trần Ai” đăng trong lời Bạt của cuốn phóng sự này.
Như một phát hiện mới, tác giả bày tỏ th
ái độ ngạc nhiên, thán phục và lấy làm tiếc cho sự biết đến tác
phẩm này khá muộn màng: “84 trang Túp lều nát, ở thể loại phóng sự của Nguyễn Trần Ai, ngót 60
năm sau ngày sách ra đời, vẫn có thể đem lại đôi điều mới mẻ đối với tôi.(…) Sưu thuế và cường hào,
nạn phù thu và lạm bổ, những oan khốc và bất công…hiện diện khá dày đặc trong Túp lều nát khiến
cho không trang nào không gây nên sự thương tâm, phẫn nộ”[4

, tr.129]. GS Phong Lê thừa nhận giá
trị hiện thực và sức tố cáo mạnh mẽ của thiên phóng sự này đồng thời đánh giá cao sự ra đời của nó
trong một bối cảnh đặc biệt này như là sự hưởng ứng cho những bức xúc của dân cày.
Năm 1950, phóng sự Đồng quê của Phi Vân được một nhà văn Trung Quốc dịch ra tiếng bạch
thoại tựa là Nguyên da năm 1950. Năm
2007, trên trang vannghesongcuulong.org.com, tác giả Trần
Hữu Dũng viết bài “Phi Vân – nhà văn đồng quê rặt ròng Nam bộ” đã nhận xét tác phẩm này “đầy
sức gợi tả sinh động, chắt lọc phương ngữ làm cho ngôn ngữ mang dáng dấp hiện đại hơn (…) miêu tả
bức tranh nông thôn sông nước nghèo nàn, lạc hậu, bức bối với những tập tục mê tín, dị đoan, cảnh
đời bị bóc lột bởi các hương chức lộng hành, đặt ra vấn nạn lớn phải gấp rút
giải quyết cho nông thôn
miền Nam”
Cùng cảm hứng ngợi ca và khẳng định, tác giả Huỳnh Công Tín (ĐH Cần Thơ) cũng có bài
Đồng quê, dân quê, tình quê trong sáng tác của Phi Vân trên trang vienvanhoc.org.vn cũng ghi nhận
những đóng góp về mặt ngôn ngữ, khả năng miêu tả hiện thực của Phi Vân trong phóng sự này.
Phóng sự Việc làng và Tập án cái đình tiếp tục được các nhà nghiên cứu giới th
iệu trong công
trình “Văn học Việt Nam 1900 – 1945” NXB Giáo dục Hà Nội 1997. Trong công trình này, Phan Cự
Đệ khẳng định giá trị hiện thực và tính chiến đấu của hai phóng sự viết về nông thôn của Ngô Tất Tố:
“Trong hai phóng sự “Tập án cái đình” và “Việc làng”, Ngô Tất Tố tìm cách phơi trần những sự thật
xấu xa về các hủ tục ở nông thôn, xem đó là một cái gì vô lý “quái gở”, “mọi rợ” và đặt chính quyền
thực dân trước nhiệm vụ phải giải quyết” [9
, tr.490]. Với bài viết này, Phan Cự Đệ chỉ ra những thành
công và hạn chế một cách khách quan về nội dung và nghệ thuật của hai phóng sự này.
Cơm thầy cơm cô lại được chuyển thể thành phim Ánh sáng kinh thành cùng với Kỹ nghệ lấy
Tây. Phóng sự này cũng tiếp tục chú ý, đáng kể là trong hội thảo kỉ niệm Vũ Trọng Phụng ngày 13-10-
1989 ở Hà Nội, Phó
GS Nguyễn Hoành Khung khẳng định: “Chưa có phóng sự nào trước và sau Cách
mạng có thể vượt được Cơm thầy cơm cô và Kỹ nghệ lấy Tây. Đọc thấy sợ và sướng lắm, viết phóng sự
như thế thì thật tuyệt vời”.


Đáng kể đến nhất trong giai đoạn này là công trình Văn học Việt Nam thế kỷ XX do Phan cự Đệ
chủ biên xuất bản năm 2000. Ở công trình này, các phóng sự viết về nông thôn lần đầu tiên được nhìn
nhận ở cấp độ dưới phạm vi một đề tài. Nhóm tác giả của công trình này chia phóng sự 1930-1945
thành hai đề tài chính: phóng sự viết về đời sống sinh hoạt ở thành thị và phóng sự viết về đời sống
sinh hoạt ở nông thôn. Cuốn sách cũng chỉ ra một số tác phẩm
tiêu biểu viết về đề tài này như Làm
dân, Xôi thịt (Trọng Lang), Việc làng, Tập án cái đình (Ngô Tất Tố), Cường hào (Nguyễn Đình Lạp),
Cơm thầy cơm cô và Một huyện ăn Tết (Vũ Trọng Phụng), Bùn lầy nước đọng (Hoàng Đạo), Túp lều
nát (Nguyễn Trần Ai), Đồng quê của Phi Vân…Tác phẩm đi vào phâ
n tích một số phóng sự để thấy
những đóng góp về nội dung và nghệ thuật. Tác phẩm cũng ghi nhận những đóng góp tích cực của các
phóng sự trong việc phản ánh đúng sự thật đời sống của người nông dân sau luỹ tre xanh. Tuy nhiên,
những đánh giá này vẫn còn sơ lược, đi theo từng tác phẩm, mà vẫn chưa có những nhận định mang
tính khái quát.
Năm 2004, Từ điển t
ác phẩm văn xuôi Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến 1945, NXB Văn học do
Tuấn Anh-Bích Thu chủ biên cũng đã tóm tắt sơ lược các phóng sự về nông thôn. Tuy nhiên, do phạm
vi yêu cầu của một từ điển, do nhu cầu hệ thống hoá, nhu cầu kiểm duyệt lại các giá trị đang đặt ra vào
thời điểm vừa kết thúc thế kỷ XX, các ý kiến cũng chỉ dừng lại ở việc liệt kê tóm tắt và có đánh giá sơ
lược nội dung và nghệ thuật.
Do mai một của nhiều tờ báo, sự thất lạc của nhiều tác phẩm
, do những cách nhìn nhận đánh giá
khác nhau, đặc biệt là đối với những tác phẩm viết về mặt trái của xã hội … nên việc công bố, tái bản
khá dè dặt. Vì thế, thành tựu của phóng sự chưa được bạn đọc biết đến đầy đủ. Nhiều l
uận văn Cao
học, luận án Tiến si thực chất cũng chỉ dừng lại ở những tác giả, tác phẩm tiêu biểu nhất. Vẫn chưa có
cái nhìn tổng quát về diện mạo của phóng sự và giá trị nhiều mặt của nó. Phóng sự viết về nông thôn
cũng cùng chung số phận. Không ít những phóng sự hay bị bỏ sót, nhiều giá trị ưu tú của phóng sự viết
về nông thôn bị bỏ qua.


Tìm hiểu lịch sử nghiên cứu vấn đề, ta nhận thấy:
Thứ nhất, chưa có một công trình nghiên cứu riêng, sâu về đề tài nông thôn của phóng sự Văn
học Việt Nam 1930-1945. Phần lớn là các sách sưu tầm, biên tập lại những tác phẩm phóng sự hoặc
những bài viết trên báo, tạp chí hay những công trình, bài viết nghiên cứu về từng tác giả.
Thứ hai, thành tựu của phóng sự 1930-1945 về đề tài nông thôn tính đến na
y đã khá phong phú
và có những thành tựu xuất sắc. Nhưng việc in ấn các tác phẩm, các công trình nghiên cứu về các
phóng sự này trước thời kỳ đổi mới không tiến triển được nhiều đã làm hạn chế các công trình nghiên
cứu ở cấp độ một đề tài.
Thực tế đó cho thấy việc nghiên cứu về phóng sự viết về nông thôn 1930-1945 là một việc làm
hết sức cần thiết và có ý nghĩa.

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Do khảo sát ở phạm vi khá rộng của cả một giai đoạn, ở một đề tài theo hướng tìm ra những giá trị
độc đáo của phóng sự về nông thôn Việt Nam nên luận văn có những ý nghĩa khoa học và thực tiễn:
- Tìm hiểu những bức tranh độc đáo về xã hội và con người nông thôn để thấy tài năng trong nhận
thức và phản ánh hiện thực của những nhà phóng sự đương t
hời.
- Phân tích, đánh giá những thành công và hạn chế về tư tưởng, cũng như những bất cập, sai lầm
trong cách nhìn nhận về xã hội và con người nông thôn. Từ đó thấy được sự tìm tòi cũng như những
thiếu sót về mặt tư tưởng của những nhà phóng sự.
- Trình bày một số đặc điểm cơ bản về phương diện nghệ th
uật để có cái nhìn đầy đủ hơn về tài
năng làm phóng sự của một lớp nhà văn lớn.
- Phóng sự là một bộ phận hợp thành quan trọng của di sản văn chương, vì thế việc tìm hiểu nông
thôn trong phóng sự Văn học Việt Nam 1930-1945 không chỉ có ý nghĩa đối với nền phóng sự đương
thời mà còn có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu di sản văn chương. N
hững phóng sự tiêu biểu về nông
thôn sẽ góp cái nhìn đầy đủ về nông thôn Việt Nam trong những tháng ngày đầy biến động của lịch sử

đồng thời góp phần soi sáng những mảng sáng tác khác của những cây bút tài năng.
- Sự bùng nổ trở lại của thể phóng sự trong những năm gần đây sau một thời gian dài gần như vắng
bóng đã gây xôn xao dư luận, và lập tức kéo công chúng quay trở lại với văn học. Thực tế này cũng đòi

hỏi sự tiếp sức kinh nghiệm của quá khứ. Luận văn sẽ gợi lại cách làm phóng sự của một lớp nhà văn
lớn để những nhà phóng sự hôm nay tìm tòi, học hỏi, gợi mở sự sáng tạo cho nghề làm phóng sự.
Chính trong thời điểm mà thể phóng sự đang sôi động trở lại, đang đóng vai trò xung kích trên lĩnh
vực báo chí và văn học, góp phần không nhỏ trong công cuộc cải tạo xây dựng xã hội mới, v
iệc nghiên
cứu đề tài nông thôn trong phóng sự Văn học Việt Nam 1930 –1945 càng có ý nghĩa khoa học và thực
tiễn.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được tổ chức thành ba chương:
Chương 1:
Một số vấn đề về thể văn phóng sự. Chương này tìm hiểu sự xuất hiện và phát triển
của thể phóng sự, phân biệt sự khác nhau giữa phóng sự văn học và phóng sự báo chí đồng thời tìm
hiểu sơ lược mảng phóng sự viết về nông thôn. Từ đó có cái nhìn khái quát về thể phóng sự và mảng
phóng sự về nông thôn 1930 – 1945.
Chương 2:
Nội dung hiện thực và cảm hứng, tư tưởng trong các phóng sự về nông thôn. Để có
cái nhìn toàn cảnh, chương này đi sâu tìm hiểu những nội dung hiện thực của nông thôn Việt Nam
1930 – 1945: phong cảnh, phong tục, xã hội, con người. Tìm hiểu những thành công và những hạn chế
về cảm hứng tư tưởng trong các phóng sự.



Chương
3: Nghệ thuật của các phóng sự về nông thôn. Chương này khẳng định những đóng góp
trên bình diện nghệ thuật viết phóng sự của các nhà văn như: nghệ thuật khám phá hiện thực và khai
thác tư liệu, nghệ thuật trần thuật và phong cách ngôn ngữ, giọng điệu.





Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỂ VĂN PHÓNG SỰ

Sự phát triển mạnh mẽ của của báo chí Phương Tây thế kỷ XIX đã tạo một môi trường hết sức
thuận lợi cho việc nảy sinh nhiều thể văn - báo, trong đó có phóng sự. Là thể loại trẻ trung nhưng rất
đắc dụng, phóng sự đã nhanh chóng mở rộng lãnh thổ và bắt nhịp vào đời sống báo chí và văn học của
nhiều quốc gia.
Phóng sự được nhìn dưới nhiều góc độ khác nhau. Mặc dù
vậy, các quan điểm đó vẫn gặp nhau ở
điểm cơ bản chung nhất về chức năng thể loại. Phóng sự là một thể loại đứng giữa văn học và báo chí,
phản ánh những vấn đề điển hình, có thật, có tính thời sự trong một quá trình phát sinh, phát triển,
bằng bút pháp văn học và những biện pháp nghiệp vụ của báo chí.
Không chỉ phản ánh sâu sắc những nội dung, tư tưởng, phóng sự c
òn tỏ ra khá công hiệu khi đưa ra
những kiến nghị và giải pháp để mở ra hướng giải quyết những vấn đề bức xúc mà xã hội quan tâm.
1.1. Sự xuất hiện và phát triển của thể phóng sự
1.1.1. Bối cảnh xã hội
Xã hội Việt Nam những năm 30 của thế kỷ XIX đầy những biến động về các mặt kinh tế, chính
trị, văn hoá
. Đó là thời kỳ đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp gay gắt báo hiệu sự tan rã của xã hội
phong kiến và sự lung lay của chế độ thực dân. Trong khi thực dân Pháp ra sức củng cố chế độ thuộc
địa thì phát xít Nhật lại nhòm ngó Đông Dương để âm mưu bá chủ cả Châu Á Thái Bình Dương. Nhiều
cuộc khởi nghĩa của nông dân và bãi công của công nhân liên tiếp nổ ra. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất
bại đã chấm dứt vai trò chính trị và đư
ờng lối cách mạng của giai cấp tư sản. Năm 1930, Đảng Cộng

sản Việt Nam thành lập, giai cấp vô sản lần đầu tiên bước lên vũ đài chính trị đảm nhiệm sứ mạng lịch
sử của mình là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Sự quật khởi của phong trào Xô Viết Nghệ
Tĩnh, khí thế sôi nổi của mặt trận dân c
hủ Đông Dương (1936 -1939) đã làm rung động chế độ thuộc
địa.
Thực dân Pháp không chịu bó tay, ngoài việc thực hiện các chính sách đàn áp, chuyên chế,
chúng còn dùng những thủ đoạn mị dân, tuyên truyền phong trào Âu hoá, chủ trương “Pháp Việt đề
huề”, hội Ánh sáng, hội Hướng đạo…ra đời nhằm lừa bịp, đánh lạc hướng công luận. Nền kinh tế rơi
vào vòng quay của kinh tế tư bản chủ nghĩa. Các vùng đô thị ra đời kéo t
heo những lối sống đồi bại mà
thực dân Pháp dựng lên để làm truỵ lạc thanh niên…..Xã hội thực dân nửa phong kiến nước ta càng lao
nhanh trên con đường băng hoại, bộc lộ hết tính chất xấu xa, tàn bạo.
Những sự kiện chính trị, kinh tế, văn hoá đầy kịch tính với những nét bi hài đang diễn ra kế tiếp
nhau, chồng chéo nhau, đan xen nhau hết sức sôi sục và nóng bỏng đã làm nảy sinh nhu cầu cấp bách
là phải cập nhật nhanh chóng lượng thông tin phong phú và sốt dẻo ấy. Mặt khác, người dân lại hoa
ng

mang trước những điều thật giả lẫn lộn, họ cần lắm một điểm tựa để biết mọi sự thật,“quốc dân chỉ
muốn biết sự thật diễn ra quanh mình”.(Trương Tửu :Tam Lang – nhà văn tả chân, báo Loa, số 86,
ngày 10-10-1935) [56, tr.94]. Nhu cầu bức thiết muốn biết sự thật xã hội của công chúng đòi hỏi phải
có một lực lượng sáng tác năng động, nha
nh nhạy nắm bắt các chuyển biến của thời cuộc và đưa ra
cách nhìn nhận đáng tin cậy. Thiếu Sơn cho rằng: “Dưới một chế độ mục nát, trong một thời đại suy
đồi, đầy những giả dối, đầy những mâu thuẫn (…) Cái tình trạng ẩn khuất đó phải có con mắt tò mò
chú ý tới, phải có cây viết linh hoạt tô vẽ ra” (Nhà phỏng sự trong xã hội Việt N
am, đăng ở tr.3, báo
Phóng sự, số Xuân 1939).
Trước nhu cầu bức thiết đó, các thể tài tiểu thuyết, thơ, kịch không đảm nhận nổi thì phóng sự
lại tỏ ra có hiệu quả đắc lực. Thể văn tư liệu này có khả năng đi sâu vào hiện thực để điều tra những vụ
bê bối, các tệ nạn xã hội một cách kịp thời và có hiệu quả. “Để tìm bộ mặt thật của xã hội Việt Nam lúc

bấy giờ, thị yếu đại chúng như t
hay đổi hoàn toàn, chỉ ưa tìm đọc những văn, những chuyện, những
loại tả chân và lãng quyên dần loại văn lãng mạn mà người ta cho là không thích hợp” [56, tr.67]. Như
vậy, xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là mảnh đất màu mỡ ươm mầm cho hạt giống phóng sự sinh sôi.
1.1.2. Những tiền đề báo chí và văn học
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, một loạt tác phẩm
ký ra đời như “Chuyến đi thăm Bắc kỳ năm
Ất Hợi” của Trương Vĩnh Ký, “Hương Sơn hành trình ký” của Nguyễn Văn Vĩnh, “Hạn mạn du ký”
của Nguyễn Bá Trác…Những tác phẩm này cố gắng cách tân thể loại truyền thống để hình thành một
thể văn kết hợp m
ô tả, ghi chép sự thực với ký thác tâm sự. Bước đi mới mẻ này của văn học chưa có
gì nổi bật song đã có định hướng làm tiền đề cho phóng sự xuất hiện sau này.
Sự xuất hiện của phóng sự còn được lý giải từ một căn nguyên khác. Đó là sự phát triển với tốc
độ khác thường của một nền báo chí còn non trẻ đã tạo nên những “kỳ biến” trong đời sống tinh t
hần
lúc bấy giờ, và đã hình thành nên một môi trường rộng lớn, một nhịp cầu đưa phóng sự đến với bạn
đọc, đáp ứng nhu cầu bức thiết của xã hội. Có thể nói, bằng báo chí, phóng sự đã tìm được con đường
nhanh nhất để đến với công chúng, vừa tạo được môi trường dư luận rộng rãi và kịp thời mà không thể
loại nào có đư
ợc.
Báo chí nước ta dần thoát khỏi ảnh hưởng nặng nề của thực dân, là thứ công cụ phục vụ cho
chính sách cai trị để trở thành những tờ báo đứng trên lập trường dân tộc chống lại ách nô dịch của
chúng như Tiếng dân, Thần chung…Những năm 30, đặc biệt từ 1937 trở đi, Việt Nam có đến 128-150
tờ nhật báo, 179 kỷ yếu và tạp chí, các ấn phẩm được in thành sách ở các nhà xuất bản mọc lên khắp cả
nước. Viết văn,
viết báo trở thành một nghề kiếm sống, với lực lượng chính là những người Tây học và
những nhà nho ném “bút lông” và dùng “bút sắt”, Tam Lang phải “thay đổi cả ngòi bút lẫn bình mực”
để không muốn mình là người viết báo lỗi thời [56, tr.67-68]. Hiện tượng văn báo bất phân nảy sinh.
Cả một thế hệ vừa cầm bút viết báo, vừa viết văn. Các
báo cạnh tranh nhau, không ngừng cải tiến cả


nội dung lẫn hình thức. Cái nhịp hối thúc của báo này, sự giục giã đặt hàng của báo kia khiến nhà văn,
nhà báo cứ viết, cứ săn lùng tin tức và đẻ ra hàng loạt thiên phóng sự nhiều kỳ trên các báo gây xôn
xao dư luận.
Bên cạnh sự sôi động của các phóng sự trên các báo trong nước là sự ảnh hưởng của một số
phóng sự nước ngoài. Thể văn rất trẻ này chỉ thực sự phát triển ở một số quốc gia Âu - Mỹ từ thế ch
iến
thứ 2 (1914 - 1918). Những thiên phóng sự nổi tiếng như Trên những nẻo đường Liên bang xô viết của
Gorki, Mười ngày rung chuyển thế giới (1917) của Giôn Rít…đã được nhiều trí thức Tây học tìm đọc.
Nhưng ảnh hưởng sâu sắc nhất tới độc giả và những người cầm bút nước ta là tập phóng sự nổi tiếng
dày 227 trang của bà Ăngđơrê Viôlix với Đông Dương cấp cứu (Indôchine S.O.S). Đâ
y là kho tư liệu
quý báu, chân thực về Đông Dương những năm 1930-1932, vạch rõ chân tướng của bọn phát xít đồng
thời là những bài học quý báu về cách tiếp cận và thể hiện hiện thực. Ngoài ra, các phóng sự “Le
chemin de Buenos- Aires” (Đường đi Buenos-Aires) của Albert Londres, Stan conduit le bal (Quỷ
Xatăng cầm đầu cuộc khiêu vũ)...cũng gây chấn động dư luận và có ảnh hưởng lớn đối với người đọc.
Những phóng sự sinh động trên du nhập vào nước ta và
ngay lập tức những cây phóng sự tiên
phong như Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Vũ Bằng…học hỏi và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, đưa
phóng sự trở thành một thể loại mới lạ, hấp dẫn đáp ứng nhu cầu bức xúc về thông tin sự thật của độc
giả. Tam
Lang bắt chước Maryse Choisi khoác áo phu xe đi làm phóng sự, Vũ Trọng Phụng nhắc đến
thiên phóng sự “Carnet d une pemme de chambre” của Maryse Choisi trong “Cơm thầy cơm cô”, ông
cũng đánh giá cao Indôchine S.O.S của bà Ăngđơrê Viôlix…
Hơn bất cứ thể loại nào khác, chỉ có phóng sự mới có thể nhanh nhạy, sắc bén chiếm lĩnh những
vấn đề chính trị, xã hội nóng bỏng, bề bộn và hết sức sôi sục lúc bấy giờ. Không chỉ cu
ng cấp những
tập ảnh, những số liệu, phóng sự còn dựng một bức tranh toàn cảnh về xã hội một cách xác thực. Đến
với phóng sự, người đọc không chỉ thấy những cái mà họ chưa từng thấy mà thông qua những sự thật
đã được kiểm chứng ấy, họ còn được bừng tỉnh, vỡ lẽ về một thực trạng bất công phi lý. Vì thế nó có

sức hấp dẫn lôi cuốn người đọc đến lạ kỳ. Cùng với tiểu thuyết hiện thực, phóng sự nhanh chóng trở
thành thể loại ăn khách, tạo ra một lực hú
t hấp dẫn đối với hàng loạt cây bút. Tất nhiên, để có những
trang hiện thực giàu ý nghĩa nhân sinh ấy, đòi hỏi nhà phóng sự phải trải qua những chặng đường lao
động nghệ thuật đặc biệt và hết sức gian truân. Không hiếm trường hợp, lương tâm
và trách nhiệm
nghề nghiệp của người cầm bút đã vấp phải sự kiểm duyệt gắt gao của nhà chức trách. Tuy nhiên, các
nhà phóng sự vẫn dũng cảm đưa lên mặt báo thực trạng nhếch nhác, bệnh hoạn của xã hội Việt Nam
dưới chế độ thực dân nửa phong kiến.
Như vậy, bối cảnh xã hội đầy biến động, nhu cầu phản ánh sự thật của xã hội một cách trực tiếp,
sự trưởng thành của báo chí trong nước đã xâm
nhập vào văn chương tạo nên sự “giao duyên” kì diệu
giữa văn học và báo chí, ảnh hưởng phóng sự nước ngoài, cộng với tài năng sáng tạo, tâm huyết của

người cầm bút là sự hội tụ đầy đủ những yếu tố nội sinh và ngoại nhập cho sự xuất hiện của thể phóng
sự.

1.1.3. Sơ lược quá trình phát triển của thể phóng sự
1.1.3.1. Giai đoạn 1930 – 1945
So với thế giới – chủ yếu là ở Âu Mỹ, phóng sự ở Việt Nam ra đời muộn. Dù cuối thế kỷ XIX,
Sài Gòn đã có báo, nhưng mãi đến đầu những năm 30
của thế kỷ XX, phóng sự mới xuất hiện. Trước
năm 1932, sự cách tân của thể ký truyền thống đã xác lập một thể văn kết hợp mô tả, ghi chép sự thực
với ký thác tâm sự. Tuy thành tựu này chưa có gì thật sự nổi bật, song định hướng này là tiền đề cho
thể ký có những bước nhảy vọt ở giai đoạn tiếp theo. Sự phát triển của thể ký chủ yếu thể hiện dưới hại
dạng: phóng sự và tuỳ bút. Tr
ong đó phóng sự chiếm vị trí nổi bật và trở thành thể loại chính.
Bước đột phá ngoạn mục hiếm có của phóng sự phải tính từ cái mốc năm 1932, với phóng sự
Tôi kéo xe của Tam Lang đăng liên tiếp 20 kì trên tờ Ngọ Báo viết về đời sống của những kiếp “người
ngựa”. Phóng sự từ nay mới chính thức “đăng đàn

” như một thể loại độc lập. Vũ Đình Chí – bút hiệu
Tam Lang (1900 – 1986) thực sự là người có công mở đầu cho sự ra đời của thể phóng sự ở nước ta.
Ngoài Tôi kéo xe, ông liên tiếp cho ra đời lần lượt 8 thiên phóng sự ngắn như Trên dòng Tiêu Kim
Thuỷ, Đêm sông Hương, Lạc trong Sơn Đinh Quách, Người ngợm…Theo tập hợp chưa đầy đủ của các
tác giả Phan Trọng Thưởng, N
guyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn qua 3 tập sách Phóng sự Việt Nam 1932 –
1945 xuất bản năm 2000 thì chỉ riêng thời kỳ này đã có sự góp mặt của 63 tác giả và hơn 120 tác phẩm
phóng sự. Thể loại này xuất hiện không chỉ thu hút sự chú ý của độc giả bởi số lượng mà còn ở chất
lượng nghệ thuật. Khả năng nhạy cảm trước những vấn đề xã hội của nhà báo và năng khiếu của nhà
văn đã sản sinh ra các thiên phóng sự không chỉ đáp
ứng nhu cầu trước mắt mà còn có giá trị nghệ
thuật lâu dài. Sự mở đầu khá ấn tượng của ba chàng họ Vũ: Vũ Đình Chí với Tôi kéo xe, Vũ Bằng với
Một đêm trắng với năm bông hoa tàn, Vũ Trọng Phụng với Cạm bẫy người chấn động dư luận đã kéo
theo một đội quân những nhà văn, nhà báo đến với thể phóng sự: Ngô Tất Tố, Trọng Lang, Thạch
Lam
, Hoàng Đạo, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Lạp, Phi Vân….
Thoát thai từ một hiện thực chín muồi, phóng sự 1930 – 1945 tất nhiên là “người thư ký trung
thành của thời đại” phản ánh thực trạng nhiều mặt của xã hội đương thời. Đó là những mảng hiện thực
vốn bị thực
dân bưng bít nơi các nhà lao, những tù nhân bị lưu đày nơi rừng thiêng nước độc, nhất là
hiện thực đời sống sinh hoạt ở nông thôn và ở đô thị.
Phóng sự về sinh hoạt đô thị chiếm số lượng khá lớn: Tôi kéo xe, Đêm sông Hương (Tam Lang);
Cạm bẫy người, Cơm thầy cơm cô, Lục xì (Vũ Trọng Phụng); Dao cầu thuyền tán của Ngô Tất Tố; Hà
Nội lầm tha
n, Làm tiền, Trong làng chạy (Trọng Lang); Thanh niên truỵ lạc, Từ ái tình đến hôn nhân,
Ngoại o (Nguyễn Đình Lạp), Tàn đèn dầu lạc (Nguyễn Tuân), Hà Nội ban đêm ( Thạch Lam)…Trong

đời sống xã hội có biết bao vấn nạn nổi cộm tại các đô thị. Nạn cờ bạc (Cạm bẫy người của Vũ Trọng
Phụng), nghề “đạo chích” (Trong làng chạy của Trọng Lang), thế giới nhơ nhớp của bọn mại dâm
(Đêm sông Hương của Tam Lang…), tệ tham nhũng trong Một huyện ăn Tết của Vũ Trọng

Phụng…đều được các nhà phóng sự phơi bày, lật tẩy.
Bên cạnh đề tài thành thị, nông thôn là mảng đề tài thu hút các cây bút phóng sự. Tuy các tác
phẩm để lại không nhiều nhưng thực sự là những tác phẩm có
giá trị. Đó là Làm dân, Xôi thịt (Trọng
Lang), Việc làng, Tập án cái đình (Ngô Tất Tố), Cường hào (Nguyễn Đình Lạp), Một huyện ăn Tết
(Vũ Trọng Phụng), Bùn lầy nước đọng ( Hoàng Đạo), Tú
p lều nát (Nguyễn Trần Ai), Đồng quê của Phi
Vân…
Ở các phóng sự viết về nhà tù thực dân, Ngục Kontum (1938) là phóng sự có sức tố cáo lớn là
xúc động lòng người. Lê Văn Hiến – tác giả của thiên phóng sự này chính là người trong cuộc đã miêu
tả tường tận các thủ đoạn độc ác của thực dân Pháp với các tù chính trị và các cuộc đấu tranh lưu
huyết, tuyệt thực công khai của các chiến sỹ cách mạng. Mảng hiện thực bị thực dân che đậy nà
y đã
dược các nhà phóng sự đưa ra ánh sáng. Đó là Tết của tù đàn bà, Tù trẻ con của Nguyên Hồng, Khám
lớn Sài gòn của Phan Văn Hùm, Đảo Côn Lôn của Nguyễn Đức Chính….
Đứng từ góc độ báo chí, phóng sự vừa mô tả những sự thật nhức nhối còn khuất lấp vừa khai
sáng, thức tỉnh nhận thức cho công chúng đồng thời đem đến cho bạn đọc một kênh gia
o tiếp tiện lợi.
Đứng từ góc độ văn học, phóng sự không chỉ nhằm mục đích mưu sinh mà nhà văn còn giải toả những
bức xúc cho độc giả đồng thời tích luỹ vốn sống để thai nghén cho bước sáng tạo nghệ thuật về sau.
Điều đáng nói là phóng sự 1930 – 1945 đã biết chưng cất cái hiện thực ngổn ngang bằng nhãn quan
văn học để có những t
ác phẩm gây ấn tượng, đáp ứng yêu cầu nhiều mặt mà xã hội trông đợi và vì thế
phóng sự có được tầm vóc bề thế của một thời đại hoàng kim là điều hiển nhiên.
1.1.3.2. Phóng sự giai đoạn 1945 - 1975
Hiện thực cuộc sống của ba mươi năm chiến tranh (1945 – 1975) không tiềm chứa những sắc
thái cảm ứng thích ứng với thể phóng sự. Là một thể loại dâ
n chủ, phóng sự có khả năng đặc biệt trong
việc phanh phui mổ xẻ những thực tại nhức nhối nay đã không còn cơ hội phát triển. Thể chế chính trị,
nhiệm vụ chính trị của lịch sử thời kỳ này được phản ánh, lý giải và cắt nghĩa với những quan niệm

cách thức khác nhau. Phóng sự không dễ thăng hoa nở rộ mà tạm thời lắng xuống hoặc hoá thân vào
trong thể loại khác. Nhà nghiên cứu N
guyễn Văn Long từng khẳng định: “Trong hai cuộc kháng chiến
thiếu vắng thể loại phóng sự vốn rất phát triển trong giai đoạn 1930 – 1945” [36, tr.183], nhà nghiên
cứu Lã Nguyên cũng cùng chung nhận định: “Phóng sự – thể loại từng phát triển mạnh mẽ trước cách
mạng, nay bỗng thiếu vắng trên văn đàn”[51, tr.208]. Tất nhiên, nói thiếu vắng ở đây không có nghĩa
là sự triệt tiêu, mất hú
t của thể loại này mà là sự thiếu vắng những tác gia tác phẩm có tầm vóc. Vào

thời khắc con người cần định hướng đúng cho tư tưởng và hành động này, phóng sự vẫn chứng tỏ được
vai trò xung kích, tiên phong của nó.
Phóng sự đã nhập cuộc vào hiện thực chiến tranh cách mạng bằng hai phóng sự dài Cảnh
Dương chiến đấu và Thôn Lệ Sơn của Nguyễn Đình Lạp. Nguyễn Đình Lạp cũng từng viết trong tập
bài giảng Muốn làm phóng sự của ông rằng: “Chúng ta có bổn phận phải ch
ép lại, ghi chép đầy đủ,
nóng hổi sự sống và chí quật cường. Thể phóng sự có thể giúp chúng ta là được nhiệm vụ ấy”. Để
phụng sự nhiệm vụ chính trị lớn lao, phóng sự đã có sắc diện riêng biệt, và đã có những đóng góp tích
cực vào việc ghi lại những sự kiện đáng nhớ về một thời vàng son của dân tộc. Phóng sự viết về chiến
tranh giải phóng dân tộc xuất hiện là một hình t
hức mới làm phong phú thêm cho thể phóng sự ở nước
ta. Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức đã mô tả lại hoạt động của phóng sự thời kỳ này:
Trong những năm kháng chiến, nhiều thiên phóng sự từ mặt trận gửi về còn nóng hổi hơi lửa
thời sự. Phóng sự mặt trân theo sát diễn biến của chiến dịch qua từng bước thắng lợi, từng mũi
tiến quân, kịp thời thông báo những tin tức, câu chuyện v
à những tấm gương trong chiến đấu
[13, tr.73].
Đến đầu những năm 50, phóng sự có một bước rẽ khác. Khi số phận dân tộc đang “ngàn cân
treo sợi tóc”, phóng sự phải gọt bỏ cái tư chất phản tỉnh thực tại mạnh mẽ để hoá thân vào thể ký (bút
ký và ký sự) trong định hướng một chiều rất cần phải có
của thời đại lúc bấy giờ. Sự sống của phóng

sự được hoá thân vào các tác phẩm ký của Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Nam
Cao…rồi chìm dần, rồi vắng bóng, gây một sự hụt hẫng trong đời sống văn học. Đến năm 1962, cuộc
vận động thi viết bút ký, phóng sự trên tạp chí Văn Nghệ và báo Văn học đã hâm nóng lại bầu không
khí bàn bạc về phóng sự, nhưng cũng không đủ sức làm
cho phóng sự hồi sinh.
1.1.3.3. Phóng sự từ 1980 đến nay
Phóng sự có dấu hiệu hồi sinh sau 40 năm chìm vào quên lãng kể từ phóng sự Cây cói ở Hải
Tân của Trần Huy Quang. Nhưng thực sự nhập cuộc một cách mạnh dạn, thẳng thắn là sau năm 1986.
Khi những tư tưởng đổi mới về văn hoá văn nghệ của Đảng đã “cởi trói” cho chiều hướng phát triển
của văn học nói chung thì phóng sự xuất hiện đúng lúc và kịp thời. Phương châm
nhìn thẳng vào sự
thật, nói rõ sự thật mà cuộc đổi mới đề ra như mở ra cánh cửa để cơn gió phóng sự ùa vào một cách
mạnh mẽ. Với tinh thần can đảm vốn có của thể loại này, phóng sự đã có đất để dụng võ. Công cuộc
đổi mới không chỉ khôi phục lại địa vị xứng đáng của phóng sự tr
ong báo chí và văn học mà còn tạo
nên một cuộc bức phá ngoạn mục lần thứ hai cho phóng sự. Đó là Vua lốp của Trần Huy Quang
(1987), Cái đêm hôm ấy đêm gì của Phùng Gia Lộc (1988), Mọi linh hồn đều được đưa tiễn (1991),
Vẫn phải tin vào những giọt nước mắt (1996) của Xuân Ba; Phóng sự (Tuyển 1995) của Trần Huy
Quang; Hành trình tới chân ly của Trần Đình Bá (1995)...

Nét đặc sắc nổi bật của phóng sự giai đoạn này là sự mở rộng phạm vi đề tài trên cả tầm vĩ mô
và vi mô. Đề tài chiến tranh vẫn tiếp tục được Nam Hà, Đỗ Quảng khai thác. Đó là sự tái hiện lại hai
cuộc chiến bảo vệ biên cương Tây Nam và biên giới phía Bắc. Đề tài kinh tế xã hội được Hữu Thọ, Đỗ
Quảng, Trần Huy Quang…phanh phui, mổ xẻ. Đó là cuộc đấu tranh chống lại thói bảo thủ trì trệ của
cơ chế qua
n liêu, bao cấp, chống thói buôn gian bán lận, làm ăn bất chính…Đề tài an ninh chính trị
cũng được khám phá qua những phóng sự về người tản cư ra nước ngoài, các lực lượng thù địch chống
phá cách mạng….Phóng sự thời kỳ này đã can đảm phơi bày những tiêu cực. Sự đa dạng về đề tài này
một lần nữa minh chứng cho cái nhìn phiến diện về thể phóng sự ở giai đoạn trước. Nhìn chung hai chủ
đề lớn được các cây bút phóng sự tập trung chú ý: biểu dương, ca ngợi những điển hình t

iên tiến trong
mọi hoạt động của xã hội và phê phán những mặt trái tiêu cực của cuộc sống như tệ nạn trì trệ quan
liêu, tham nhũng, buôn lậu, đĩ điếm, sự hành hành trắng trợn của bọn xã hội đen…
Bối cảnh hiện thực mới cũng l
àm cho phóng sự có những cách tân về hình thức. Hiếm có
những phóng sự dài, thường là những phóng sự ngắn, đăng trọn trong một, hai kỳ báo, số lượng nhiều
nhưng thành tựu vẫn chưa đáng kể, chỉ mới phản ánh hiện tượng mà ít khi tìm ra bản chất quy luật của
cuộc sống để lý giải. Nếu phóng sự 1930 – 1945 có ranh giới giữa phóng sự văn học và phóng sự báo
chí là khá rõ ràng thì ở giai đoạn này là khá mờ nhạt. Có thể nói, thể loại phóng sự ngày càng phát huy
tác dụng tích cực, góp phần đá
ng kể vào việc lành mạnh hoá cuộc sống, xây dựng một xã hội dân chủ,
công bằng văn minh. Nhưng về phương diện nghệ thuật, vẫn chưa có nhiều nhà văn phóng sự có phong
cách nổi bật như giai đoạn 1932-1945.
Với chặng đường dài gần một thế kỷ hình thành và phát triển, phóng sự đã tạo nê
n những biến
thái bất ngờ. Sau sự xuất hiện một cách đột khởi đầy viên mãn, phóng sự như dòng chảy ngầm bền bỉ
và dai dẳng trôi qua hai cuộc chiến tranh có lúc tưởng như chìm hẳn và mất hút. Nhưng rồi phóng sự
lại phục sinh một cách mạnh mẽ, kỳ diệu trong thời kỳ lịch sử sang trang. Sự thăng hoa hoặc chìm lắng
đó đều mang những dấu ấn đặc thù của thể loại văn – bá
o quan trọng này.
1.2. Phóng sự bao chí và phóng sự văn học
Ngay từ khi mới ra đời, phóng sự 1930-1945 đã có sự phân biệt khá rõ phóng sự văn học và
phóng sự báo chí. Theo Bùi Huy Phồn:
Phóng sự tân văn là loại làm cho người đọc thấy người thật, việc thật ở một thời gian, không
gian nhật định với những tài liệu, số liệu cụ thể. Đọc nó quả có phần khô khan, vì nó chỉ nhằm
thuyết phục độc giả về mặt lý và nhẹ về mặt tình (…) Phóng sự văn học có những điểm khác
phóng sự tân văn, tất
nhiên về căn bản vẫn giống nhau (…) Mặt khác, thể phóng sự văn học,
ngoài tính phản ánh người thật, việc thật còn thêm phần tả người, tả cảnh bằng hình tượng
nghệ thuật, và có xen kẽ những cảm nghĩ chủ quan của tác giả nên nó c

ó sức thuyết phục về mặt
lý trí, cả về mặt tình cảm của con người” [57, tr.8].

Như vậy, Bùi Huy Phồn khẳng định phóng sự văn học và phóng sự báo chí cơ bản là giống
nhau, điểm mà tác giả chỉ ra sự khác biệt đó là phóng sự báo chí nặng về “lý”, nhẹ về “tình”, còn
phóng sự văn học thuyết phục người đọc cả về lý trí cả về tình cảm.
Cũng như Bùi Huy Phồn, Nguyễn Đình Lạp đã chia phóng sự thành hai loại: loại “có tính chất
báo, thông tin, tường thuật, bá
o cáo” và loại có “tính chất văn chương: điều tra, phỏng vấn, mẩu
chuyện phóng sự” [32, tr.310]. Rõ ràng, Nguyễn Đình Lạp bước đầu cũng có sự khu biệt khá rõ phóng
sự văn học và phóng sự báo chí.
Trên báo Văn Nghệ Hà Nội số 21 ngày 26/5/1990, tại trang11, N. Đuytơne khi “Bàn về phóng
sự” cũng đã phân biệt khá rõ phóng sự văn học và phóng sự báo chí “Các nhà lý luận văn học xác
định một sự phân biệt rõ rệt giữa phóng sự báo c
hí – tường thuật các sự việc một cách trần trụi, không
“văn hoa” – với văn học phóng sự – cũng như phóng sự báo chí, vốn cũng dựa trên cơ sở các sự kiện
và nhân vật có thật nhưng khía cạnh văn học rất trau chuốt”. Mặc dầu chưa rõ nét, nhưng ý kiến này
bước đầu đã chú ý đến chất văn học – một điểm cơ bản để phân biệt phóng sự văn học và phóng sự báo
chí.
Như vậy, những ý kiến trên đều khẳng định sự giống nha
u cơ bản giữa phóng sự văn học và
phóng sự báo chí là ở tính chân thật và tính thời sự của đối tượng phản ánh. Cái làm nên sự khác biệt
của hai thể phóng sự này là ở chức năng của thể loại: nếu phóng sự báo chí có chức năng phản ánh -
thông tin thì phóng sự văn học có chức năng phản ánh – thông tin – thẩm mỹ. Chí
nh thông tin – thẩm
mỹ này tạo nên chất văn học cho phóng sự văn học.
1.2.1. Phóng sự báo chí
Do đảm nhận chức năng riêng biệt là phản ánh – thông tin nên phóng sự báo chí có những đặc
trưng riêng biệt về tính xác thực, tính thời sự và phương thức phản ánh.
Thứ nhất, tính xác thực và là một đòi hỏi có tính tuyệt đối của phóng sự báo chí. Nhà văn có thể

khé
p kín, không giao lưu xã hội vẫn có thể cho ra đời tác phẩm, kiểu như Đichkensơn (Mỹ) sau những
thất vọng về tình cảm đã tự khép mình trong ngôi nhà riêng và không giao tiếp với xã hội vẫn có vần
thơ hay. Báo chí thì khác, nhà báo không thể không lăn lộn vào xã hội mà vẫn có bài viết được. Báo
chí ở giữa cuộc đời, và cuộc sống có thể tràn vào báo chí với độ sâu rộng nhất, sinh động và thới sự
nhất. Chủ thể phản á
nh là nhà báo phải trực tiếp chứng kiến những điều “mắt thấy, tai nghe”, những sự
kiện đang tồn tại, đang trôi chảy. Nội dung phản ánh phải chính xác nhất, chi tiết nhất, cụ thể nhất.
Không phải nhẫu nhiên mà người ta quen nhắc đến những tiêu chí xác định về không gian, thời gian,
nội dung sự việc của tác phẩm báo chí qua năm W: What? Who? Where? When? Why? Đây là những

tiêu chí nhằm đảm bảo tính xác thực của tác phẩm báo chí, tạo niềm tin tuyệt đối và có giá trị thuyết
phục độc giả cao.

Với phóng sự văn học, yếu tố xác thực không phải bao giờ cũng cần thiết. Phóng sự báo chí thì
khác, chính báo chí là tấm phiên bản trung thực nhất của đời sống, hay chính là đời sống trong dạng
được ghi chép, mô tả trực tiếp. Nhà báo không tái tạo cuộc sống như một số ngành nghệ thuật khác mà
giữ nguyên vẹn bức tranh cụ thể, chính xác đến từng chi tiết của đời sống xã hội. Báo chí có nhiệm vụ
chọn lọc, phân tích, đá
nh giá những hiện tượng của đời sống – những hiện tượng không bao giờ tồn tại
ở thế ổn định – bằng những nhận định đúng đắn, có giá trị. Vi phạm tính chính xác này, phóng viên có
khi phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Thứ hai, tính thời sự là một trong những yêu cầu hàng đầu, là đòi hỏi vô cùng bức thiết mà
phóng sự báo chí phải đạt được. Những thông tin mà báo chí cập nhật trong mỗi thiên phóng sự phải
luôn nóng hổi, mới mẻ, đáp ứng yêu cầu đa
ng hối thúc từng giờ, từng phút của dư luận. Phóng viên
phải tốc tả, khẩn trương, tức thời đưa lên mặt báo vấn đề dư luận đang quan tâm. Tránh tình trạng
“vuốt đuôi” khi sự việc đã xảy ra mới thông tin, bàn luận.
Thứ ba, phương thức phản ánh của phóng sự báo chí mang những đặc trưng riêng biệt. Điểm
giống nha

u giữa phóng sự văn học và phóng sự báo chí là đều thể hiện tính sinh động của ngòi bút
người kể chuyện, nghĩa là phải tìm tòi những hình thức diễn đạt sáng tạo, các bút pháp phải đa dạng,
kết cấu linh hoạt…để hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Tuy nhiên, điểm làm nên sự khác biệt của phóng sự
báo chí với phóng sự văn học là phóng sự báo chí không chấp nhận mọi hình thức hư cấu. Không cần
đến những hì
nh thức diễn đạt quanh co, gián tiếp, những ẩn dụ, phóng dụ, những thách đố về chữ
nghĩa, những trò chơi ngôn từ… Ngôn ngữ báo chí đòi hỏi tính chính xác cao, cô đúc, chọn lọc, mẫu
mực, đơn nghĩa. Cái Tôi tường thuật ở phóng sự báo chí phải là cái tôi nhân chứng khách quan. Nghĩa
là nhà báo phải có thái độ khách quan khi miêu tả hiện tượng và đánh giá bản chất. Tất nhiên, khách
qua
n chứ không phải là thờ ơ, lãnh đạm. Nghĩa là có cái tôi cảm xúc trước sự thật, nhưng đó không
phải là cảm xúc thẩm mỹ như ở phóng sự văn học. Cảm xúc nhưng phải tỉnh táo khi phản ánh, sắc sảo
khi lập luận.
1.2.2. Phóng sự văn học
Cũng như phóng sự báo chí, tính xác thực và thời sự cũng là nguyên tắc mà phóng sự văn học
cũng phải tôn trọng. Nhưng nếu như ở phóng sự báo chí,
yêu cầu này đòi hỏi một cách tuyệt đối thì ở
phóng sự văn học, yêu cầu này không đặt ra một cách bức thiết. Bởi lẽ, phóng sự văn học không chịu
áp lực cấp bách của dư luận như phóng sự báo chí.
Là hoạt động sáng tạo nghệ thuật, phóng sự văn học sáng tác những mảng khác nhau của đời
sống một cách khái quát thông qua nhân vật điển hình.
Sự kiện, con người, tình huống mà phóng sự
văn học phản ánh không chỉ tiêu biểu mà còn chứa đựng yếu tố thẩm mỹ. Đây là đặc trưng khu biệt của
phóng sự văn học và phóng sự báo chí. Trong vô số cái bình thường, người viết phải biết phát hiện nét

điển hình. Phóng sự văn học không chỉ dừng lại ở việc tái hiện sự kiện mà còn phát hiện “vấn đề”,
thậm chí vấn đề mang tầm thời đại.
Cũng như phóng sự báo chí, phóng sự văn học cũng lựa chọn những phưng thức phản ánh thích
hợp để đạt hiệu quả. Phương thức làm nên sự độc đáo của phóng sự văn học là sự hư cấu. Hiện thực
không bao giờ đứng yên m

à luôn vận động, biến đổi, nhà phóng sự văn học khó mà tường tận hết thảy
mọi việc. Vì thế, phải dựa vào năng lực phán đoán, tưởng tượng một cách khoa học, logic. Hay nói
đúng hơn là hư cấu. Tuy nhiên, hư cấu phải tăng ý nghĩa xã hội và giá trị nghệ thuật mà không ảnh
hưởng đến tính xác thực của hiện thực phản ánh “không được sử dụng một cách tuỳ tiện, ảnh hưởng
đến sự xác thực của nội dung, mà phải làm tăng thêm ý nghĩa xã hội và giá trị nghệ thuật cho tác
phẩm” [12,
tr.221].

Như vậy, sự hư cấu trong phóng sự văn học diễn ra ở một “ngưỡng” cho phép:
Sự hư cấu trong phóng sự văn học chỉ diện ra ở phạm vi và mức độ nhất định. T
hứ nhất,
phần nhiều chỉ ở mức độ hư cấu kĩ thuật: lựa chọn những hiện tượng có thực trong cuộc
sống, tổ chức. Sắp xếp, tô đậm, xoá mờ…để kết cấu tác phẩm một cách tối ưu, theo logic của
khách thể. Thứ hai, có thể dùng trí tưởng hợp logic để hư cấu nâng cấp những hiện tượng
ghi chép sự thật. Sự nâng cấp này
không chỉ dừng ở việc hư cấu ở những thành phần không
xác định (như thế giới nội tâm của nhân vật…) mà trong một chừng mực nào đó, có thể sáng
tạo thêm những chi tiết, những dữ kiện mới, nhằm mục đích trình bày hiện thực cho đúng
bản chất của nó. Đấy là sự phản ánh và sáng tạo” [81, tr.47].
Cái tôi trong phóng sự văn học là cái tôi – nhân vật trần thuật. Cái tôi này thể hiện t
hái độ thẩm
mỹ trong việc thông tin sự thật. Từ sự dẫn dắt, thuyết phục, cái tôi này bộc lộ những tình cảm để bàn
luận, thuyết phục một cách chân thành tạo ra những văn bản thẩm mỹ đa nghĩa.
Về ngôn ngữ, phóng sự văn học không sử dụng ngôn ngữ tường minh, một tầng nghĩa như
phóng sự báo chí. Phóng sự văn học thuộc phạm trù ngôn ngữ văn chương nên nó có tí
nh đa nghĩa:
không chỉ nói cái xảy ra mà còn gợi nhiều tầng nghĩa suy ra từ chính cái xảy ra đó. Nói như L.
Tônxtôi: “có thể gợi ra một tập hợp không sao kể xiết những ý tưởng, những tình cảm, những sự giải
thích”.
Phóng sự văn học có đặc điểm nổi bật là:

… không chỉ làm tròn chức năng thông tin mà còn đậm sắc thái trữ tình. Người đọc không
chỉ thấy sự kiện (
thông qua vô số tình tiết, số liệu, thống kê…) mà còn thấy vấn đề; không
chỉ thấy những phiến đoạn khác nhau của đời sống mà còn đến được với thế giới nội tâm,
hiểu được hoàn cảnh và tính cách, thấm thía với số phận của một số nhân vật. Rất tự nhiên,
phóng sự trở thành cầu nối vững chắc cho hai vùng đất báo chí và văn c
hương. Nó làm cho

báo chí thêm sức hấp dẫn và làm cho văn chương thêm giàu có, gần với đời thường.[19,
tr.1422].
1.3. Mảng phóng sự viết về đề tài nông thôn
Trong khi các nhà phóng sự hướng ống kính về thành thị để phản ánh cuộc sống muôn mặt đầy
những bi hài của xã hội thì mảng hiện thực về nông thôn cũng có những lực hút mãnh liệt đối với các
cây bút phóng sự đương thời. Hiện thực nóng hổi đang còn khuất lấp sau những luỹ tr
e xanh đã hấp
dẫn các nhà phóng sự. Phóng sự về những miền quê đã có được những bức tranh đầy ấn tượng, mặc dù
số lượng tác phẩm không nhiều, nhưng đó thực sự là những tác phẩm có giá trị.
Nông thôn Việt Nam 1930-1945 qua các phóng sự không còn là những miền quê yên ả thanh bình
nữa mà là một hiện thực đau lòng. Đó là một nông thôn của “nước ao tù, phân người và rác”, một
nông thôn với hàng trăm thứ hủ tục, lệ làng lạc hậu đã nhấn chìm người dân và
o cảnh khốn cùng,
những áp bức bất công đè lưng cưỡi cổ những kiếp người vô tội. Dọc theo chiều dài của đất nước,
nông thôn Việt Nam 1930 -1945 lần lượt hiện lên một cách sinh động, rõ nét qua những thiên phóng
sự xuất sắc: nông thôn miền Bắc được tái hiện qua Việc làng, Tập án cái đình của Ngô Tất Tố, Làm
dân, Xôi thịt của Trọng La
ng, Bùn lầy nước đọng của Hoàng Đạo, Cơm thầy cơm co của Vũ Trọng
Phụng…, nông thôn miền Trung nổi bật bởi Túp lều nát của Nguyễn Đổng Chi, tại vùng sông nước
Nam Bộ, những miền quê lại được hiện lên trên bức tranh Đồng quê của Phi Vân. Tất cả là những
mảng màu sinh động tập hợp lại tạo nên bức tranh toàn cảnh của nông thôn Việt Nam 1930 – 1945 đầy
những bề bộn, thối nát, đói rách và lạc hậu.

Trong số những cây phóng sự về nông thôn Việt Nam, Ngô Tất Tố nổi lên như một tác gia tiêu biểu
nhất. Trình làng với hai tập phóng sự Việc làng, Tập án c
ái đình, Ngô Tất Tố trở thành “nhà văn của
hạng dân quê nghèo và dốt” (Vũ Ngọc Phan). Ông đã phơi bày ra ánh sáng hàng trăm hủ tục, lệ làng
quái lạ đè nặng lên bao kiếp người từ đời này sa
ng đời khác như một định mệnh. Những cảnh ngộ
thương tâm, nực cười ở chốn thôn quê cứ phơi bày ra trước mắt như những bằng chứng sống cho bản
cáo trạng đanh thép về tội ác của bọn thực dân phong kiến. Một cổ hai tròng, người dân không thể
ngóc đầu lên được, họ cứ mãi mu muội trong kiếp nô lệ mà không đường thoát. Tiếp nối dòng cảm
hứng của N
gô Tất Tố, Trọng Lang cũng thêm một nét vẽ nữa về những khốn khổ của người dân trước
những hủ tục vô nhân đạo: “lùi lại một bước là Hà Nội với tất cả những tráng lệ và trưởng giả của một
đế đô. Nhưng chỉ tiến một bước thôi, lại là một làng có hơn trăm suất đinh, vẫn nhất định, s
au luỹ tre,
khư khư ôm những hủ tục, những nhân vật mà lẽ sống, trước ngày 9 -3 là xôi thịt, và sau ngày 9, lẽ
sống vẫn lại là xôi thịt như thường”. Và tất nhiên, số phận của người dân “suốt đời nghèo xơ, nghèo
xác, ăn không đủ, mặc không đủ” là điều hiển nhiên. Ông vua phóng sự đất Bắc Vũ Trọng Phụng tỏ ra
xuất sắc khi cho ra đời Cơm thầy cơm cô – một phóng sự tiêu biểu hội tụ tài năng của một ngòi bút
huyền thoại. Phóng sự miêu
tả cảnh những người dân quê mùa, khốn khó bỏ thôn quê nghèo lên thành

phố kiếm sống. Ở “miền đất hứa” này, họ phải chịu cảnh chết đói lần thứ hai, phải chứng kiến cảnh
“giá con người ngang hàng với giá loài vật”.
Không chỉ tập trung mô tả những hủ tục, các nhà phóng sự còn hướng ống kính về những tai hoạ
khác đổ ập vào đầu người dân. Đó là những thủ đoạn bẩn thỉu của đám cường hào trong Túp lều nát mà
Nguyễn Đổng C
hi nói ngay trong lời tựa: “sau hơn năm tháng trời dụng công để nhìn, để nghe những
cảnh tượng mà tôi không thể tin được là có xảy ra – và xảy ra luôn – ở trên đất có đến hai chính phủ
trị vì núp dưới bóng cờ ba sắc”, dưới ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Trần Ai, bức tranh quê vùng nông
thôn xứ Nghệ hiện ra vô cùng ảm đạm, trong đó người nông dân như một “loài động vất ngắn cổ”

phải chịu cảnh sưu ca
o, thuế nặng và những kiểu bóc lột trá hình khác. Tác giả Túp lều nát đã bóc trần
bộ mặt hiện thực của bọn hào lý với những thủ đoạn nham hiểm, táng tận lương tâm đã làm cho túp lều
che chở cho người nông dân ngày càng trở nên mục nát. Tác giả đã gióng lên một hồi chuông báo
động: “rằng có một túp lều sắp đổ!”
Xuôi về miền quê Nam Bộ, mảnh đất hiền hoà nà
y cũng thấm đẫm nước mắt và đầy rẫy tiếng rên
oán hờn của người nông dân trước những áp bức bất công của đám chủ điền độc ác, dâm ô. Đau lòng
trước hiện thực ấy, năm 1943, Phi Vân cho ra đời tập phóng sự Đồng quê – một tác phẩm xuất sắc,
miêu tả chi tiết sinh động những cảnh sinh hoạt, tập tục ở vùng quê Nam Bộ. Tác phẩm được giải nhất
- giải thưởng Văn chương do Hội Khuyến học Cần Thơ tổ chức. Tiếp tục đề tài que
n thuộc, Phi Vân
viết tiếp Tình quê, Dân quê, tiếp tục vạch mặt chỉ tên những viên chức làng xã độc ác, tham lam dốt nát
do thực dân Pháp lập nên. Bằng thái độ tích cực, tác giả đặt ra yêu cầu cấp thiết, đúng đắn, có giá trị
thức tỉnh mạnh mẽ: “Cần phải phá nát chế độ mà ta đang sống,
cần phải dựng một cái gì mới mẻ hơn”
(Dân quê).
Ngoài ra, đời sống nông dân miền biển cũng được L.P phản ánh sinh động trong phóng sự Một cuộc
điều tra muối (Tin tức, số 22- 27, tháng 7, 1938). Cảnh thiên tai đói kém của nông dân Kinh Bắc và sự
ăn chặn đồ cứu tế của đám cường hào lại được Đ.K phản ánh khá sinh động trong Câu chuyện Bắc
Giang (T
in tức, số 10 – 18, tháng 6, 1938)...
Bức tranh hiện thực đầy u tối, xám xịt, đói rách và lạc hậu của nông thôn Việt Nam 1930 – 1945
đều lọt vào tầm ngắm của các nhà phóng sự. Muốn phá bỏ những gì là dã man, vô nhân đạo, muốn
hướng tới một xã hội công bằng, tươi sáng hơn, các nhà phóng sự đã thể hiện ý tưởng và niềm tin của
mình trong những thiên phóng sự. Điều đáng ghi nhận là, không chỉ phản ánh hiện thực
mà phóng sự
nông thôn còn là những bản cáo trạng đanh thép tội ác của bọn thực dân phong kiến đồng thời gióng
lên những hồi chuông cảnh tỉnh xã hội vô cùng sâu sắc.



Chương 2
NỘI DUNG HIỆN THỰC VÀ CẢM HỨNG TƯ TƯỞNG TRONG CÁC PHÓNG
SỰ VỀ NÔNG THÔN

2.1. Hiện thực nông thôn Việt Nam trong các phóng sự
2.1.1. Bức tranh phong cảnh và phong tục
2.1.1.1. Những cảnh vật nông thôn.
Đề tài nông thôn không hề mới lạ, tuy nhiên, để khắc hoạ được một bức tranh quê với đủ các
diện mạo, màu sắc của nó không phải là dễ. Phóng sự 1930 - 1945 đã làm được điều đó. Đọc những
phóng sự này, ta có thể nhận diện được bối cảnh nông thôn Việt Nam một cách toàn diện với những
đặc trưng vùng miền khó lẫn.
Cảnh vật nông thôn Bắc Bộ trong phóng sự Xôi thịt của Trọng La
ng chỉ hiện lên thấp thoáng, mờ
nhạt nhưng cũng đủ để toát lên một bức tranh tiêu điều, xơ xác và tàn lụi.“Ở đây chỉ có nước, ao tù,
phân người và rác (…) vẫn phân, vẫn rác. Vẫn thế. Vẫn bẩn ghê người” (Xôi thịt).
Bên cạnh Xôi thịt của Trọng Lang là những thiên phóng sự của Ngô Tất Tố. Sức nặng của
những phóng sự này không phải là miêu tả những cảnh vật nông thôn, trong khi chuyển tải những “vỉa
quặng sự thật” vốn bị chìm lấp, ta cũng nhận ra đôi nét sơ lược về một nông thôn Bắc Bộ đang
quằn
quại trong sự khắc nghiệt của tiết trời nơi đây. Có khi là hạn hán, là cái nắng gay gắt, chói chang của

a hè: “ánh nắng như thiêu đốt càng dữ, trên đường thỉnh thoảng lại thấy khét lửa cháy.”[53, tr.22].
Có khi là cơn báo thù tàn nhẫn của thời tiết: “Hôm nay ông thần Hạn đã báo thù trần gian một cách
tàn nhẫn. Mới già nửa ngày thiêu đốt, lá cây đều héo rũ như ngọn cờ tang, mặt đất tuy không chảy mỡ
nhưng hơi khét bốc lên ngào ngạt” (53, tr109). Có khi lại là cơn giận dữ bất ngờ của trời đất đem giá
lạnh đến cho con người, những cảnh phong vũ bất tình: “Gió bấc”, “những luồng chớp”, “những tiếng
sét vỡ trời”[53, tr.96]. Có khi lại là cảnh điêu linh c
ùng khổ của người dân khi phải chống chọi với lũ
lụt...

Cảnh sắc nông thôn Bắc Bộ hiện lên với tiết trời khắc nghiệt, nắng như thiêu như đốt, lạnh thấu
xương, tang thương vì mưa gió bão lụt, dơ bẩn vì lạc hậu, đói nghèo. Nếu như các nhà văn lãng mạn
chủ nghĩa thường phản ánh sai lệch, hoặc thi vị hoá cuộc sống nông thôn với thế giới của những đêm

trăng, những ngày hội, những cô thôn nữ xinh đẹp, ngây thơ, những mối tình đậm đà, chất phác…thì
với các nhà văn hiện thực, cảnh vật ở nông thôn mới được phản ánh một cách chân thực như vốn c
ó.
Đối lập với những cảnh vật đang bị quay cuồng trong giông bão, gió rét, hạn hán, lụt lội ở nông
thôn Bắc Bộ, những cảnh vật ngày ngày ngày đang rỉ máu nhầy nhụa do tội ác của thực dân ở nông

thôn Trung Bộ là bức tranh đồng quê tươi tắn đến lạ thường trong phóng sự của Phi Vân. Phi Vân đem
đem đến một hơi gió mát trong bức tranh vốn ngột ngạt những vấn đề xã hội quyết liệt.
Người đọc có thể nhận thấy một bối cảnh nông thôn miền Nam toàn diện trong ba tác phẩm quí giá
của ông: Đồng quê, Dân quê và Tình quê. Trong đó, Đồng que được nhiều người biết hơn cả không chỉ
vì phóng sự nà
y đoạt giải nhất cuộc thi văn chương của Hội khuyến học Cần Thơ mà bởi lẽ nó để lại
một ấn tượng sâu sắc về hình ảnh một vùng quê sông nước Nam Bộ với những đặc trưng khó lẫn.
Truyện mở ra trước mắt chúng ta những cảnh đẹp êm đềm sông nước với những hàng dừa nước âm u,
bên những con sông, kênh, rạch vùng Bạc Liêu, Cà Mau, văng vẳng giọng hò trầm bổng.
Chỗ hứng thú của thiên phóng sự là ta thấy m
ình len lỏi chốn đồng quê, đang mục kích những cuộc
tụ họp chơi bời, những cảnh cần lao rộn rịp. Thỉnh thoảng như đưa lại giọng hò trầm bổng trong đám
gặt, như phất lại mùi hương thanh đạm của lúa vàng.
Ta còn đi quanh co những con sông rạch ở vùng Bạc Liêu, Cà Mau, được nhìn thấy những cảnh sắc
êm đềm:
Làng Thới bình nép m
ình trong chòm dừa xanh rậm. Vài xóm nhà lá leo heo ở dọc theo bờ
kinh nhỏ yên tĩnh với tháng ngày. Cứ mỗi buổi sáng là đàn ông, đàn bà lẫn cả con nít vác cuốc
ra đồng, quanh năm làm bạn với mấy mẫu ruộng nhà, vài công rẫy khóm. Ở đầu kinh trông ra
dòng sông Trẹm, một cái chợ nho nhỏ nổi lên.(…) Dòng sông Trẹm lững lờ trôi ngang và ban

chiều, trong chòm dừa xanh ấy, mấy làn khói trắng bốc lên…Người đàn bà xong việc bếp núc,
ẵm c
on ra đợi chồng về, lâu lâu đuổi bay gà đang bươi trên giồng rau cải. [89, tr.64-65].
Cảnh vật thật trữ tình! bên bờ sông Trẹm, lững lờ mấy làn khói trắng bốc lên và dưới hàng dừa
xanh tươi, một thiếu phụ ẵm con đứng đợi chồng về, lâu lâu đuổi bầy gà đang bới trên những giồng rau
cải; giữa đêm trường vắng vẻ, chiếc thuyền xuôi m
ái theo rạch Bần, trông lên bờ sau hàng dừa nước
âm u, một vài ánh đèn le lói, nghe từ xa đưa lại tiếng chày giã gạo, tiếng chó sủa đêm, bầu trời đầy sao,
cảnh đêm ảo huyền thơ mộng:
Đêm ấy không trăng. Muôn ngàn con mắt long lanh in trên nền trời đen thẫm. Cánh đồng lặng
ngủ trong ánh sáng mờ mờ. Gío thoảng từng hồi, từng hồi, ngọn lúa cựa mình xào xạc. Tiếng
vạc sành vang lên trong im lặng, xa xa. Tôi cảm thấy bồi hồi tưởng nhớ đâu đâu, rối nhẹ
nhàng, rồi khoan khoái, tôi rung đùi ca.[89, tr.108]
Cảnh làm cho tâm hồn con người gắn bó với quê hương, thiết tha với non sông đất nước. Những
giây phút kỳ diệu, thả hồn m
ình đắm chìm trong thiên nhiên đất trời, để nghe thấy tiếng gió thoảng
từng hồi, tiếng vạc sành văng vẳng từ xa, rồi khoan khoái rung đùi mà buông lời ca tiếng hát như vậy
thật không có gì bằng!
Bên vàm, hàng dừa nước âm u, lâu lâu t
hấy le lói một ánh đèn, bên bờ kia thình thoảng nghe
tiếng chày giã gạo, tiếng chó sủa đêm. Đêm nay, chỉ có vành trăng hai mươi bốn, nhưng sao

×