Tải bản đầy đủ (.pdf) (281 trang)

TRUYỀN THUYẾT GẮN VỚI ĐÌNH, CHÙA, ĐỀN MIẾU Ở VĨNH LONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 281 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
________________




Võ Thò Ngọc Giang






TRUYỀN THUYẾT GẮN VỚI
ĐÌNH, CHÙA, ĐỀN, MIẾU Ở VĨNH LONG



Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 34



LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HỒ QUỐC HÙNG







Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tỉnh Vĩnh Long ngày nay là một vùng đất đồng bằng châu thổ sông Cửu
Long bốn mùa sông nước ngọt ngào với những cù lao xanh cây trái, những
cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay bên những mái đình làm xôn xao bến nước…
nhịp sống bình yên, thành quả lao động của những tháng ngày “khai hoang mở
đất”.
Từ xưa, khi đơn vị hành chính đầu tiên ra đời mang tên Long Hồ Dinh cho
đến nay bao thế hệ, cư dân đã khai phá, xây dựng và gìn giữ quê hương. Biết
bao biến cố thăng t
rầm của lịch sử đã để lại dấu ấn trong truyền thuyết địa
danh, truyền thuyết lịch sử hiện diện khắp nơi trên mảnh đất này.
Truyền thuyết bất cứ vùng đất nào cũng gắn với công cuộc lao động sản
xuất và chiến đấu hào hùng bảo vệ quê hương từ buổi “khai sơn phá thạch”.
Truyền thuyết ở Nam Bộ nói chung và Vĩnh Long nói riêng tuy ra đời m
uộn
so với vùng ngoài nhưng để lại ấn tượng khá tiêu biểu. Đặc sắc nhất là nhóm
truyền thuyết nhằm tôn vinh các anh hùng khai phá, anh hùng lịch sử với vẻ
đẹp gần với con người của cuộc sống đời thường. Ký ức dân gian dành cho
những bậc tiền nhân lòng thành kính và biết ơn sâu sắc đã hòa trộn với sinh
hoạt tín ngưỡng thành một tập quán ở đất phương Nam.
Ở vùng đất mới, cư dân phần lớn là nông dân sống chủ yếu bằng phương
thức canh tác trồng l
úa nước. Chính vòng quay tuần tự của thiên nhiên và mùa

vụ tạo trong tâm linh con người những nhu cầu tín ngưỡng, hoạt động lễ hội.
Sự gặp gỡ những truyền thuyết anh hùng khai phá và hoạt động tín ngưỡng
thờ phụng của nhân dân vùng này đã tạo nên một diện mạo khá tiêu biểu cho
sự tồn tại của thể loại.
Tìm hiểu truyền thuyết gắn với đình, chùa, đền, miếu ở Vĩnh Long vì vậy
là một cách tiếp cận thể loại trong lĩnh vực văn hóa tín ngưỡng trên đất Nam
Bộ vốn là nơi hội tụ, đan xen nhiều nền văn hóa tín ngưỡng của các tộc người.
2. Lịch sử vấn đề
Từ trước đến nay, truyền thuyết ở vùng này được chú ý ở nhiều góc độ
khác nhau. Có thể kể đến một số công trì
nh sưu tầm ở dạng tổng hợp các thể
loại như Văn học dân gian đồng bằng sông Cửu Long [50], Nam Kỳ Cố
Sự [48], Văn học dân gian Bạc Liêu [23], Văn học dân gian Sóc Trăng
[24]... Hầu như ở các công trình trên, người ta chỉ chú trọng ghi chép tư liệu
tác phẩm và khảo sát vài giá trị nội dung là chính. Còn truyền thuyết gắn với
đình, chùa, đền, miếu chưa được quan tâm
nghiên cứu với tư cách là một đối
tượng riêng biệt.
Khác với nhóm
tư liệu này, một số công trình sưu tầm, biên soạn, khảo
cứu có những bài viết hoặc một phần nhỏ liên quan đề tài như :Vĩnh Long
xưa và nay [78], Kiến Hòa xưa [77], Địa chí Bến Tre [96], Nghìn năm bia
miệng [115]... đều ít nhiều có giới thiệu đình, chùa, đền, miếu liên quan đến
những truyền thuyết. Những tư liệu này thực ra không chủ định nghiên cứu về
mối quan hệ giữa truyền thuyết dân gian gắn với đình, chùa, đền, miếu. Dù
sao đây cũng là những gợi ý bổ ích cho đề tài m
à luận văn đang thực hiện.
Thực ra hướng nghiên cứu này đã được quan tâm khá lâu. Có những công
trình mang tính chỉ dẫn đáng lưu ý. Chẳng hạn tác giả Vũ Ngọc Khánh trong
tư liệu Lễ hội Việt Nam cho rằng: “Lễ hội là nhu cầu không thể thiếu của con

người Việt Nam
. Lễ hội mang nhiều ý nghĩa và có nét chung và riêng của
từng dân tộc, vùng miền”. Trong phần Lễ hội miền Nam, tác giả ghi lại
những lễ hội như: Lễ Cúng Biển Mỹ Long-Vĩnh Long, Lễ hội Lăng Ông ở
Trà Ôn, Lễ hội Chol-Chnam-Thmey, Lễ hội đua ghe Ngo. Những công trình
này định hướng, cung cấp kiến thức để tác giả luận văn làm cứ liệu nghiên
cứu vấn đề.
Một số công trình nghiên cứu về văn hóa dân gian Nam Bộ đã có những
đóng góp nhất định để chúng tôi thực hiện đề tài. Chẳng hạn, Một số lễ tục
dân gian người khmer đồng bằng sông Cửu Long [16], Văn hóa người
khmer vùng đồng bằng sông Cửu long[72], Tìm hiểu văn hóa tâm linh
Nam Bộ [47]...đã phác họa một số khía cạnh nào đó của văn hóa Nam Bộ
trong đó xuất hiện mối quan hệ giữa truyền thuyết với tín ngưỡng. Công trình
Văn hóa dân gian Nam Bộ những phác thảo đã chỉ rõ: “Mỗi lễ hội n
gười
Khmer đều gắn với một truyện dân gian và truyện dân gian nhằm giải thích lễ
hội ấy”. Ngoài việc cung cấp kiến thức khái quát về lễ hội, một khía cạnh
trong văn hóa dân gian, Nguyễn Chí Bền với Tìm hiểu hiện tượng văn hóa
dân gian Bến Tre nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội hay Trần Văn Bổn
với công t
rình Một số lễ tục người khmer đồng bằng sông Cửu Long nhà
xuất bản Văn Hóa Dân Tộc Hà Nội... đã đề cập đến những truyền thuyết dân
gian dưới hình thức liệt kê, miêu tả như truyền thuyết về Mẫu, Cá Ông ,
truyền thuyết gắn với Lễ Vào Năm Mới, Lễ Cúng Trăng... Từ thực tế trên,

chúng tôi đã rút tỉa được một số truyền thuyết gắn với đình, chùa, đền, miếu
để phục vụ cho đề tài luận văn.
Như vậy, có thể thấy vấn đề tìm hiểu truyền thuyết gắn với đình, chùa,
đền, miếu ở Vĩnh Long cho đến nay dù ở mức độ nào vẫn còn khoảng trống
đáng quan tâm. Nhìn chung mà nói, các công trình nghiên cứu về văn hóa

dân gian Nam Bộ của các tác giả đi trước thường tập trung vào những
phương diện sau:
Thứ nhất là m
ô tả, phân tích kỹ lưỡng các bình diện thuộc về văn hóa để
làm rõ bản sắc vùng miền. Hướng nghiên cứu thứ hai, nhiều nhà khoa học
chú ý khi tiếp cận với văn hóa dân gian ở đồng bằng sông Cửu Long có chú ý
đến khía cạnh tâm linh. Chính đời sống tâm linh tạo nên môi trường cho
truyền thuyết tồn tại và phát triển. Do đó, một cái nhìn hệ thống đối với
truyền thuyết trong quan hệ chứng tích đình, chùa, đền, m
iếu là cần thiết.
Quan trọng hơn, hướng đến lý giải các hiện tượng truyền thuyết trực tiếp hay
gián tiếp trở thành bộ phận của tín ngưỡng, lễ hội để từ đó hiểu rõ hơn sự tồn
tại thực tế của một bộ phận truyền thuyết ở phía Nam đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài “Truyền thuyết gắn với đình, chùa, đền, m
iếu ở Vĩnh Long” nhằm
mục đích hệ thống, phân loại, miêu tả kết cấu của những nhóm truyền thuyết
và tìm hiểu mối quan hệ giữa truyền thuyết với lĩnh vực văn hóa - tín
ngưỡng- lễ hội. Qua đó góp phần làm rõ sức sống và sự vận động của những
truyền thuyết trong đời sống tinh thần của nhân dân Vĩnh Long. Việc tìm
hiểu về bản chất truyền thuyết không phải là mới mẻ nhưng nét mới ở đề tài
này là chúng t
ôi đi sâu vào khảo sát quan hệ giữa truyền thuyết với các hoạt
động tín ngưỡng, nghi lễ gắn với “không gian thiêng” đình, chùa, đền, miếu.
Từ việc định hướng tiếp cận trên, luận văn phải thực hiện ba nhiệm vụ
khoa học cơ bản sau:
- Một là tổng hợp những tư liệu được công bố bằng văn bản, tiến
hành đi điền dã và sưu tầm để bổ s
ung thêm tư liệu; đặc biệt tìm hiểu đời
sống thực tế của truyền thuyết.

- Hai là hệ thống, phân loại và lược đồ kết cấu của các nhóm truyền
thuyết trên.
- Ba là tìm hiểu mối quan hê giữa truyền thuyết với các lĩnh vực Văn
hóa – Tín ngưỡng –Lễ hội.
4. Đối tượng nghiên cứu
Theo định hướng trên, tất cả truyền thuyết có gắn với đình, chùa, đền,
miếu ở Vĩnh Long là
đối tượng nghiên cứu của luận văn. Vì vậy, việc xác lập
tiêu chí để chọn lọc tác phẩm được khảo sát kỹ. Mặt khác, các lĩnh vực đời
sống tâm linh của các cộng đồng cư dân cũng được xem là đối tượng nghiên
cứu trong mối quan hệ với truyền thuyết.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện mục tiêu khoa học của đề tài, chúng tôi sẽ sử
dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp tiếp cận hệ thống: Tiếp cận hệ thống giúp cho việc tìm hiểu,
những quy luật vân động của truyền thuyết và mối quan hệ với văn hóa tín
ngưỡng. Mặt khác, tiếp cận hệ thống truyền thuyết trong môi trường mà thể
loại này sinh thành và phát triển sẽ giúp chúng ta thấy đươc ít nhiều những cơ
sở hình thành nên lễ hội, bản c
hất của lễ hội ở vùng đất mới Vĩnh Long.
- Phương pháp sưu tầm và thẩm định tư liệu: Chúng tôi sưu tầm tác phẩm,
khoanh vùng nguồn tài liệu và trực tiếp khảo sát, nghe, ghi chép những điều
mắt thấy tai nghe. Mỗi truyền thuyết đều được ghi vào hồ sơ riêng để đối
chiếu với tài liệu của người đi trước.
Chúng tôi chú trọng những dị bản,
những cách kể từng tác phẩm trong hệ thống tư liệu khác nhau từ nhiều
người khác nhau để tìm hiểu sự vận động của tác phẩm trong đời sống thực tế.
- Phương pháp khảo sát, điều tra xã hội học: Đây là phương pháp thường
ứng dụng cho các ngành khoa học xã hội, nghĩa là chú trọng tới những yếu tố
thống kê, phân tích các giá trị dựa trên những tỉ lệ điều tra thực tế. Chúng tôi


vận dụng phương pháp khảo sát, điều tra ở mức độ thu thập thông tin, sưu tầm
những tư liệu hiện tồn trong đời sống. Thu thập và trao đổi thông tin, khảo sát
những tư liệu trong không gian sinh tồn của truyền thuyết. Từ đó làm cơ sở
cho việc đánh giá và hệ thống nguồn tư liệu.
- Phương pháp thống kê, miêu
tả: Sử dụng yếu tố thống kê làm cơ sở kết
luận cho phán đoán khoa học về sức sống của truyền thuyết, sự phong phú
của từng nhóm truyện…Miêu tả kết cấu, nội dung chính, yếu tố lặp lại trong
từng tác phẩm và nhóm truyền thuyết…để làm cơ sở kết luận khoa học.
- Phương pháp so sánh, mô hình hóa: So sánh là thao tác nghiên cứu được
sử dụng trong nhiều ngành khoa học khác nhau và trong nghi
ên cứu văn hóa
dân gian. Phương pháp so sánh ở đây được chú trọng đối chiếu giữa truyền
thuyết của người đi trước ghi chép với tư liệu ghi chép điền dã. Từ việc so
sánh đối chiếu ấy, chúng tôi rút ra những kết luận bản kể nào của truyền
thuyết được phổ biến rộng rãi nhất thì được xem là dạng cổ xưa nhất. Ngoài
ra, so sánh để khảo sát kết cấu, mô hình hóa và sự biến đổi của những yếu tố
trong những truyền thuyết dân gian. Từ nhiều cách
kể, chúng tôi khảo sát mô
hình chung, nhận thức tính địa phương, yếu tố lịch sử hóa… trong truyền
thuyết.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn nhằm hệ thống tư liệu có liên quan đến đời sống, tín ngưỡng và
phân loại nhóm truyền thuyết gắn với các lĩnh vực trên ở vùng Vĩnh Long.
Bước đầu có những nhận xét về các mối quan hệ trên.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài
phần mở đầu, phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm ba
chương.

Chương 1: DIỆN MẠO VĂN HÓA VÙNG ĐẤT VĨNH LONG
1.1 Môi trường tự nhiên của vùng đất Vĩnh Long
1.2 Đời sống văn hóa xã hội của vùng đất Vĩnh Long
Trong chương này, chúng tôi tập trung đi sâu vào diện mạo văn hóa đặc
biệt chú trọng đời sống tâm
linh. Đây là môi trường truyền thuyết tồn tại và
phát triển.

Chương 2: TÌNH HÌNH TƯ LIỆU VÀ VẤN ĐỀ PHÂN LOẠI TƯ LIỆU
2.1. Tình hình tư liệu
Tư liệu được công bố
Tư liệu sưu tầm, điền dã
2.2. Phân loại tư liệu
Trong chương này, chúng tôi khảo sát tất cả những tư liệu được công bố
và đối sánh đối chiếu với tư liệu điền dã của bản thân. Việc miêu tả những
dạng tư liệu, so sánh và bước đầu phân loại, lý giải sự khác biệt hay độ vênh
của từng nhóm tư liệu nhằm xác định sự sinh tồn đích
thực của truyền thuyết
trong không gian và thời gian.
Chương 3: TRUYỀN THUYẾT TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA -
TÍN NGƯỠNG- LỄ HỘI
3.1. Mối quan hệ tín ngưỡng với truyền thuyết dân gian
3.2. Truyền thuyết gắn với tín ngưỡng thờ thần Hổ
3.3. Truyền thuyết gắn với tín ngưỡng thờ Nhân Thần
3.4. Truyền thuyết gắn với tín ngưỡng thờ Nữ Thần, Cá Ông, NeakTa
3.5. Truyền thuyết gắn với lễ hội Chol
Chhnam Thmây và lễ hội
Oc-Om-Bok
Trong chương này, chúng tôi miêu tả và lý giải các hiện tượng truyền
thuyết trực tiếp hay gián tiếp trở thành bộ phận của tín ngưỡng, lễ hội. Khảo

sát và miêu tả truyền thuyết gắn với nghi lễ trong tín ngưỡng, lễ hội.




Chương 1: DIỆN MẠO VĂN HÓA VÙNG ĐẤT VĨNH LONG
1.1. Môi trường tự nhiên của vùng đất Vĩnh Long
Nói đến văn hóa của vùng đất Vĩnh Long sẽ là một vấn đề lớn và đòi hỏi
sự nghiên cứu liên ngành của nhiều lĩnh vực. Trong phạm vi phục vụ đề tài
luận văn, chúng tôi chỉ khái quát một số yếu tố văn hóa có tác động đến thể
loại truyền thuyết gắn với đình, chùa, đền, m
iếu. Tác giả Nguyễn Từ Chi,
trong Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người đã có ý kiến xác đáng khi
cho rằng:
“Có hai diện mạo chính quyết định nền văn hóa tộc người. Đó là môi
trường tự nhiên mà tộc người đó định cư. Sống ở khí hậu nhiệt đới ẩm ướt
phù hợp với sự phát triển cây lúa nước và trồng cây lúa làm nghề chính đã
hình thành nền văn m
inh nông nghiệp lúa nước từ rất sớm. Hai là nguồn gốc
văn hóa tộc người. Những dân tộc sống trong môi trường khác nhau sẽ có nền
văn hóa khác nhau. Trong quá trình cư trú, văn hóa đã hình thành để thích
nghi môi trường mới nhưng văn hóa cũ vẫn để lại dấu ấn hết sức quan trọng
trong nền văn hóa mới. Nguồn gốc tộc người có sự giao lưu văn hóa nhưng
điều kiện cho nền văn hóa ra đời m
ôi trường mới là quan trọng nhất” [20, tr.
415].
Những yếu tố có sự tác động đến truyện dân gian nói chung và truyền
thuyết nói riêng là môi trường tự nhiên gồm vị trí, đất đai thổ nhưỡng, sông
ngòi, khí hậu và môi trường xã hội gồm văn hóa tộc người, sinh hoạt văn hóa
tâm linh.

Trước hết, về vị trí địa lý, Vĩnh Long nằm ở trung tâm đồng bằng sông
Cửu Long cách Thành phố Hồ Chí Minh một trăm ba mươi kilômet theo quốc
lộ 53 về hướng Tây Nam
và cách Thành phố Cần Thơ ba mươi kilômet. Được
thành lập vào năm Minh Mạng thứ 13 (năm 1832), ranh giới tỉnh Vĩnh Long
bấy giờ không rộng lớn như trấn Vĩnh Thanh nhưng không hẹp như hiện nay.



Theo ghi chép của Trương Vĩnh Ký thì vào năm 1840 (đời vua Thiệu Trị),
tỉnh Vĩnh Long trải rộng trên toàn bộ ba tỉnh Vĩnh Long – Trà Vinh – Bến Tre
hiện nay. Nhìn xa hơn, “địa hình của Vĩnh Long qua gần ba thế kỷ, nghĩa là
trước khi được triều Minh Mạng ranh định đã có xê dịch do sự lấn dần ra phía
Đông. Sự bồi đắp phù sa xuất hiện các cồn nổi giữa sông Tiền và sông Hậu
hình thành các cù lao văn minh miệt vườn mà có học giả cho rằng đó là văn
m
inh Sông Tiền hay là Văn minh các cù lao” [10, tr.13].
Giống các vùng khác, miền Tây Nam Bộ, đặc điểm nổi bật của điều kiện
địa lý tự nhiên Vĩnh Long là nhiều sông rạch và gần biển cả. Riêng yếu tố
biển đã trở nên gần gũi gắn bó với con người Vĩnh Long về đời sống vật chất
lẫn sinh hoạt tinh thần.
Đất đai thổ nhưỡng và sông ngòi kênh rạch:
Ở Vĩnh Long, sự kiến tạo thổ nhưỡng đã hình t
hành những giồng cát xen
kẽ một số vùng trũng. Chính sự cư trú trên những vùng đất nổi (giồng) đã tạo
nên những môtíp không gian về giồng đất nổi, gò nổi trong truyền thuyết.
Theo các tư liệu, Vĩnh Long xưa là vùng đất có nhiều sông ngòi kênh rạch,
đôi nhánh sông Cửu Long góp phần hình thành nên Vĩnh Long, Trà Vinh
trước đây. Dọc bờ sông Cổ Chiên ra biển có nhiều sông rạch lớn nhỏ, theo số
liệu thống kê năm

1978 thì trung bình cứ 100 mét vuông đất tự nhiên ở Vĩnh
Long có khoảng 09 mét vuông sông rạch. Những dòng sông, con rạch với
thủy triều lên xuống hai lần trong ngày, những cánh đồng mênh mông là
những tác nhân quan trọng đối với sự phát triển văn hóa dân gian nơi đây.
Sông nước chuyển tải văn hóa dân gian đến mọi vùng trong khu vực. Đây là
nét đặc trưng nổi bật so với miền Trung hay miền Bắc nước ta. Nói sông nước
là đặc điểm
quan trọng của địa lý Vĩnh Long quả không sai. Có nơi ở Vĩnh
Long bám vào đất liền nhưng lại có thể hiểu là cù lao vì sông nước bao vây tứ
phía. Chính đất đai, hệ thống sông ngòi kênh rạch nơi đây có ý nghĩa đặc biệt



quan trọng tạo nên cốt cách và đặc trưng con người, con người cởi mở, phóng
khoáng hơn và hình thành nên đặc trưng “Văn minh sông nước” ở vùng đất
Chín Rồng này.
Dọc theo sông Tiền, sông Hậu có nhiều chứng tích văn hóa đình, chùa,
đền, miếu và mỗi chứng tích ấy đều liên quan đến truyền thuyết như : Tiên
Châu Cổ Tự với truyền thuyết Bãi Tiên, những Lăng Ông với truyền thuyết về
Cá Ông… Những dòng sông lớn, những địa danh của một thời dù rất thực
nhưng vẫn ẩn chứa t
âm lý của người dân đi “mở đất” như Kỳ Hà, Đìa Sấu,
Giồng Ông Hổ…
Cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi những truyện kể dân gian truyền
thuyết ở đây bắt đầu với môtíp quen thuộc “Sông này xưa lắm sấu, vùng này
xưa lắm cọp”. Thiên nhiên sông nước khơi nguồn cảm xúc là môi trường giao
lưu, gặp gỡ, là tác nhân quan trọng hình thành và lưu truyền những truyền
thuyết dân gian.
Khí hậu:
Theo tài liệu Tìm hiểu Văn hóa Vĩnh Long (1732 – 2000), khí hậu Vĩnh

Long có nhiều nét đặc thù của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Mùa nắng
trùng với m
ùa khô từ tháng 12 năm trước đến tháng 03 năm sau lượng mưa
không đáng kể[10, tr.18]. Vào lúc tiết trời khô ráo, người dân thường tổ chức
vui chơi, hội hè. Lễ Kỳ yên ở đình làng thường vào rằm
tháng hai âm lịch. Lễ
Chol Chnam Thmây vào tháng tư dương lịch mà mục đích là cầu xin mùa khô
qua mau. Lễ cúng ở các miếu NeakTà vào lúc nắng hạn… Từ đó, cư dân đã
hình thành tín ngưỡng cầu mưa trong mùa khô. Mùa mưa tập trung từ tháng
tư đến tháng mười một hàng năm. Lễ hội Óc – Om – Bok được xem là nghi
thức tống tiễn thần nước, thần của mùa mưa. Chính điều kiện khí hậu, thiên
nhiên đã tạo nên đặc trưng đậm
nét trong văn hóa mà con người phải hòa
mình để tồn tại và phát triển. Những đặc trưng ấy đã góp phần hình thành nên



những sinh hoạt, lễ hội dân gian nhằm cầu mưa, cầu mùa, cầu an.
1.2. Môi trường xã hội của vùng đất Vĩnh Long
1.2.1. Vài nét về văn hóa tộc người
Vĩnh Long xưa là một trong những vùng đồng bằng sông Cửu Long đã
hình thành và phát triển nền văn hóa cổ nổi tiếng: Văn hóa Óc Eo. Do tác
động về địa lý, sinh thái và “biển tiến” vào đầu thế kỷ thứ VII và sau đó nền
văn hóa cổ suy tàn. Sau nhiều t
hế kỷ, Vĩnh Long lại được khai phá bởi những
lưu dân thuộc nhiều tộc người. Thế kỷ thứ XVIII, dân cư tuy còn ít nhưng nơi
đây là sự cộng cư của các dân tộc Việt, Khmer, Hoa, Chăm. Ngay từ buổi đầu
khai phá, các dân tộc cùng sống chung xen kẽ với nhau. Đây là điểm khác biệt
so với bất cứ vùng nào trên đất nước Việt Nam và mỗi dân tộc đều có sắc thái
văn hóa của riêng m

ình. Người Việt với văn hóa người Việt Cổ. Người
Khmer với văn hóa núi và người Chăm văn hóa sông biển… Tất cả hội nhập
làm phong phú văn hóa chung của vùng đất.
Người Việt: là tộc người đông dân nhất, là “chủ nhân của nền văn minh
lúa nước” ở Vĩnh Long. Các tài liệu lịch sử cho thấy các thế hệ người Việt đặt
chân lên vùng đất Vĩnh Long vào khoảng thế kỷ XVII. Đó là những người
trọng nghĩa khinh tài, những người dân mong t
ìm vùng đất mới lập nghiệp…
Dù xuất thân từ tầng lớp nào, người Việt vẫn có cội nguồn là người Việt Cổ
sinh sống chủ yếu trên lưu vực sông Hồng. Trong hành trang di dân mở cõi
của cư dân có đủ các yếu tố văn hóa tinh thần mang tính truyền thống, văn
hóa cội nguồn chi phối đời sống sinh hoạt tinh thần.
Tuy vậy, trên bước đư
ờng khai phá, di dân về phương Nam, người Việt đã
có thời gian tạm dừng chân trên dãy đất miền Trung và có sự giao lưu, tiếp
biến, dung nạp vào hành trang tín ngưỡng của mình nhiều yếu tố văn hóa
Chăm. Điều này làm cho lưu dân người Việt ở Vĩnh Long có ít nhiều sự khác
biệt về sinh hoạt, ứng xử… so với cội nguồn.



Người Khmer:
“Người Khmer là thành viên trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, cư
dân nông nghiệp sinh sống lâu đời ở đồng bằng sông Cửu Long”. Dựa vào
những cứ liệu lịch sử, “Vĩnh Long là vùng cư trú cổ xưa của người Khmer
đồng bằng sông Cửu Long”. Các tư liệu viết về Văn hóa người Khmer đồng
bằng sông Cửu Long đều có sự gặp gỡ khi cho rằng:
“Quan sát diện mạo văn hóa người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long,

chúng ta biết rằng dân tộc này từ xa xưa đã chịu ảnh hưởng sâu nặng nền văn

hóa Ấn Độ, thông qua đạo Bà-La-Môn rồi đạo Phật. Văn hóa Ấn Độ thâm
nhập vào đây không thông qua con đường xâm nhập, cưỡng bức mà qua con
đường truyền đạo của giáo sĩ và thương nhân nên sắc thái văn hóa của nó dần
dần được Khmer hóa, nhuần nhị như chính sự phát triển tự thân của văn hóa

bản địa Khmer… Đời sống tinh thần của người Khmer gắn chặt với tôn giáo,
với ngôi chùa từ lúc lọt lòng đến khi từ giã cuộc đời nên sắc thái văn hóa của
cộng đồng mang đậm dấu ấn tôn giáo” [72, tr.9].
Có thể nói rằng, cùng với cư dân Việt sống với nghề trồng lúa nước, các
tín ngưỡng của người Khmer đã có sự đan xen của nhiều lớp văn hóa như:
Văn hóa Bà La Môn, văn hóa Phật giáo. Người Khmer chấp nhận sự đan xen

vì nó có nhiều điểm tương đồng với đạo đức, thẩm mỹ dân tộc.
Người Hoa:
Theo nguồn sử liệu, “những cư dân người Hoa ở Vĩnh Long hiện nay là
những lớp con cháu của những di dân người Hoa theo Dương Ngạn Địch vào
vùng Mỹ Tho, Sa Đéc, Vĩnh Long năm 1679. Những di dân người Hoa đến
Vĩnh Long và sống hòa thuận với người Việt và người Khmer sở tại, cùng
khai thác vùng đất hoang vu nhưng m
àu mỡ thuộc vùng Châu thổ sông Cửu
Long…” [84, tr.155]. Người Hoa có đời sống văn hóa, tín ngưỡng rất phong
phú, đa dạng. Trong tâm thức lưu dân Trung Hoa, Bà Thiên Hậu là nữ thần



phù hộ người đi biển và họ tin rằng Phật Bà Quan Âm cứu giúp người đi biển
bị nạn. “Chùa Ông được lập nên thờ Quan Vân Trường, Ông Bổn (Bổn Đầu
Công Trịnh Hòa hoặc Châu Đạt Quan tức những người có công đi trước phát
hiện ra vùng đất Đông Nam Á để lưu dân người Hoa đến đây sinh sống)”.
Trong quá trình cộng cư với dân tộc Việt, Khmer, người Hoa dần dần hòa vào

phong tục tập quán của địa phương nhưng vẫn giữ yếu tố văn hóa cội nguồn
của m
ình.
Từ hơn ba thế kỷ nay, cộng đồng các dân tộc Việt, Hoa, Khmer chung
sống hòa bình, thân thiện trên vùng đất Vĩnh Long. Sức mạnh đoàn kết ấy đủ
sức khai phá vùng đất trước thiên nhiên buổi đầu khắc nghiệt, kẻ thù xâm
lược. Xét về nguồn gốc xuất thân, các thế hệ cư dân ban đầu của ba dân tộc có
điểm tương đồng đều là những người nghèo khổ, yêu lao động… giữa vùng
đất mênh m
ông, họ không hề phân biệt dân tộc, tín ngưỡng. Trong văn hóa
cội nguồn, các dân tộc có nét tương đồng lớn là xuất phát từ nền văn minh
nông nghiệp lúa nước.
1.2.2. Các hình thức sinh hoạt văn hóa tâm linh
Thờ cúng tổ tiên:
Trong các hình thức tín ngưỡng dân gian, thờ cúng tổ tiên có vị trí thiêng
liêng trong đời sống tinh thần của con người. Hình thức này phổ biến và tồn
tại lâu bền nhất từ thế hệ này sang t
hế hệ khác. Hình thức thờ cúng này
“Thấm đượm đạo lý uống nước nhớ nguồn, một thứ ứng xử cộng đồng gia
tộc, dòng họ và mở rộng cực đại tới cộng đồng dân tộc, quốc gia, nó trở thành
một chuẩn mực khuôn mẫu của ứng xử của con người Việt Nam. Bởi vậy,
Đạo thờ Tổ tiên vừa tiếp nhận nguồn cỗi xa xưa của tín ngưỡng nguyên thủy
(Tô tem
giáo), vừa có sức sống trường tồn và có sức vươn tới tiếp cận với đời
sống hiện đại” [109, tr.22].



Trong hệ thống thần linh bản địa người Việt cổ có các thần như Thần Cây,
Thần Đá, Thần Sông Nước… được phủ lên chức năng bảo trợ đời sống con

người, được nhân cách hóa và huyền thoại hóa. Từ đó, hệ thống nhân thần
được hình thành. Bên cạnh đó, mối quan tâm của con người là mối quan hệ
con người và thế giới bên kia, mối liên hệ giữa người sống và người chết.
Chính quan niệm
tâm linh là cơ sở hình thành tín ngưỡng dân gian này.
Xã hội cổ truyền của người Việt và hình thức tổ chức xã hội là cơ sở cho
việc hình thành và duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Với cư trú theo đơn vị
làng và nền nông nghiệp lúa nước, hình thức tổ chức xã hội với ý thức về cội
nguồn, duy trì nòi giống, vị trí gia đình trong cộng đồng xã hội. Chính sợi dây
huyết thống nối kết thành viên trong gia đình, dòng họ.
Tư tưởng Nho giáo của nền văn hóa Hán, trong quá
trình du nhập vào Việt
Nam, đã tạo điều kiện thuận lợi cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được tồn tại
và duy trì. Quan niệm đề cao chữ Hiếu và thừa nhận sự tồn tại của linh hồn.
Chính tư tưởng Nho giáo được triều đại phong kiến nước ta thừa nhận, được
thể chế hóa. Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên hình thành, tồn tại và phát

triển trên cơ sở quan niệm tâm linh. Chính đời sống tâm linh phong phú là
môi trường góp phần cho những truyền thuyết tồn tại và phát triển.
Có nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau về thờ cúng tổ tiên, có ý kiến xem
đây là một hình thức tín ngưỡng, phong tục, có ý kiến xem là một tôn giáo…
Trong đề tài này, chúng tôi xem thờ tổ tiên là một hình thức tín ngưỡng dân
gian. Tín ngưỡng này ra đời từ rất sớm. Biểu hiện của tín ngưỡng này là hình
thức thờ vật tổ. “Nếu việc thờ Chi
m làm vật tổ chủ yếu là tín ngưỡng của cư
dân miền núi thì thờ Rắn làm vật tổ lại chủ yếu là tín ngưỡng của cư dân ở
đồng bằng, đầm lầy, sông biển” [50, tr.218]. Điền dã ở Trà Vinh, chúng tôi
nghe truyền tụng Rắn thần Nagar là con vật tượng trưng cho tộc người
Khmer. Theo truyền thuyết nhuốm màu huyền thoại, tộc người Kh
mer là do




sự kết hợp giữa hoàng tử Ấn Độ và con gái Long Vương. Điều chắc chắn rằng
là phong tục tập quán cổ truyền của bất cứ dân tộc nào đều bắt nguồn từ cuộc
sống cộng đồng lâu đời của tộc người ấy. Và biểu hiện của nó là các hình thức
tín ngưỡng dân gian. Các thị tộc mẫu hệ thường tôn sùng biểu tượng như tổ
tiên của m
ình. Theo tư liệu tác giả Trường Lưu ghi chép trong Văn hóa
người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long, tộc người Khmer có tục
nhuộm răng cho cô dâu vừa mang ý nghĩa đẹp theo thẩm mỹ của người xưa
vừa gắn với truyền thuyết tộc người[72, tr.124]. Theo cách hiểu dân gian,
răng rắn có nọc độc nên nhuộm răng cho cô dâu cũng là phép dùng thuốc khử
nọc độc của rắn. Tục nhuộm răng trong ngày cưới của người Khmer là dấu ấn
của sự mo
ng muốn có hình dáng gần gũi với tổ tiên.
Thờ Thành Hoàng:
Trong đời sống và tâm linh của người dân làng quê, tục thờ cúng Thành
Hoàng có vị trí quan trọng. Cuộc sống đầy bất trắc, người dân gởi gắm khát
vọng và ước muốn của mình về cuộc sống bình yên, no đủ ở Thành Hoàng,
mà theo họ, đang ngự trị trên cõi thiêng của làng quê. Từ niềm tin mãnh liệt
ấy, Thành Hoàng làng góp phần tạo nên diện mạo văn hóa dân gian đa dạng
của vùng đất Vĩnh Long.
Theo tác giả Nguyễn Trọng Báu, trong Tru
yện kể về phong tục các dân
tộc Việt Nam, tập 3, Nhà xuất bản Giáo Dục, Thành Hoàng là một vị thần
của làng về mặt tâm linh, bảo vệ, đem lại may mắn hay giáng họa và chủ yếu
thần Thành Hoàng được thờ cúng ở đình. Về lịch sử xuất hiện, theo sử sách,
vào thời Bắc thuộc, Trạm có
thể hiểu là quán để các quan đi thanh sát địa

phương dừng chân tạm nghỉ. Đến thời Lê Thánh Tông, là nơi ra sắc lệnh cho
dân và người ta nghĩ rằng đưa thần vào thờ nơi đình. Triều đình phong kiến
sắc phong thần muốn thâu tóm đời sống tâm linh. Từ đó, thờ cúng thần Thành
Hoàng diễn ra.



Tục thờ cúng Thành Hoàng làng của cư dân Vĩnh Long có cả hai chiều tác
động. Vương triều phong kiến phong thần bắt nhân dân thờ phụng. Người dân
đã thần tích hóa, lịch sử hóa vị thần của làng mình dội ngược trở lên và vương
triều phải công nhận. Tục thờ cúng Thành Hoàng chủ yếu nằm trong giai đoạn
lịch sử của nhà Nguyễn.Quan niệm về Thành Hoàng làng, vị thần này, trong
cõi thiêng với quan niệm của nhà Nguyễn buổi ban đầu hãy còn là một vị thần
của thành quách. Vị thần này t
hay mặt cho Vương triều cai quản không gian
thiêng của làng, trách nhiệm “bảo ngã lê dân”.
Nếu ở Bắc Bộ “miếu là chỗ quỷ thần bằng y, đình là nơi thờ vọng” thì ở
Nam Bộ không có hiện tượng đình – đền liên kết. Người dân thờ Thành
Hoàng Bổn Cảnh, Thần Nông, Ông Hổ… và thờ Lang Lại đại tướng quân
trong khu viên đình ở Vĩnh Long. Thành Hoàng không phải là vị thần độc
nhất được thờ phụng. Thái độ người dân với tục thờ cúng Thành Hoàng ti
n
tưởng rằng Thành Hoàng là một vị thần và sự hiện diện của ông là sắc thần
của vua phong. Tâm thức bình dị của người nông dân tiếp nhận vị thần này
xem như thần bảo trợ cho làng mình, thờ cúng như là một sự trả nghĩa, biết
ơn.
Ngoài Thành Hoàng, người nông dân ở Vĩnh Long còn thờ phụng trong
đình những người có công với nước với d
ân. Sự thờ cúng những nhân vật lịch
sử, những nhân vật lịch sử, những nhân vật khai khẩn chưa được thần tích

hóa, ảo hóa, lớp phù sa văn hóa chưa đọng dày như ở miền Bắc.
Các hình thức sinh hoạt tâm linh gắn với tín ngưỡng nông nghiệp:
Nói như tác giả Chu Xuân Diên trong Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nhà xuất
bản Đại Học Quốc Gia Thành P
hố Hồ Chí Minh năm 2002:
“Tín ngưỡng và nghi lễ nông nghiệp là một hình thái văn hóa có từ rất lâu
đời và có vị trí quan trọng hàng đầu trong đời sống của các cộng đồng cư dân
nông nghiệp. Nguồn gốc của tín ngưỡng và nghi lễ nông nghiệp là sự bất lực



của người làm ruộng nguyên thủy trước sự chi phối của những sức mạnh thiên
nhiên. Mùa màng phụ thuộc vào những điều kiện mà người làm ruộng không
khắc phục nổi do đó phải viện đến sự phù hộ của các sức mạnh siêu nhiên mà
con người tưởng tượng ra”[21, tr.166].
Cư dân Vĩnh Long đa số là nông dân với nghề trồng lúa nước. Để duy trì
và phát triển sự sống, cầu mùa màng tươi tốt và con người sinh sôi nảy nở, tín
ngưỡng nông nghiệp đã hình thành và gắn với hoạt động sản xuất của con

người. Trong phạm vi đề tài, chúng tôi tìm hiểu một số nghi lễ nông nghiệp
tiêu biểu như lễ gọi hồn lúa, cúng sân lúa và lễ thức cầu nước.
Lễ gọi hồn lúa và tục cúng sân lúa:
Tác giả Trường Lưu, trong Văn hóa người khmer vùng đồng bằng sông
Cửu Long, ghi nhận:”người khmer còn có lễ “gọi hồn lúa (bon-hao-proluwng
srau). Có truyện kể về “hồn l
úa : “Người Khmer tin rằng lúa có mười chín
hồn. Do đó, hồn lúa phải được gọi về đầy đủ trước khi gặt. Gặt xong cũng
phải đặt một vật nặng đè lên để hồn lúa khỏi bay đi. Có một dị bản cho rằng:
Trước đây, đến mùa con người không phải cấy trồng, gặt lúa đem về mà lúa
tự mọc ra, trổ, chín, bay vào nhà. Một hôm

lúa đang bay vào nhà trong lúc
nhà chưa chuẩn bị chỗ để nên rất lu bù bê bối thì bị một người phụ nữ nổi cáu
đánh bằng đòn gánh, lúa vỡ văng ra và chui vào một khe núi, không có người
hay vật nào có thể vào lấy được. Cuối cùng có con cá Thác Lác mình dẹp vì
thương con người đang bị chết đói đã cố gắng chen, lách vào hốc núi tìm hồn
lúa, cầu xin về giúp con người đang bị nạn đói đe dọa. Thần lúa chấp nhận
nhưng từ đây lúa sẽ không còn mọc hoang tự về nhà nữa m
à con người phải
gieo, gặt mới có ăn…” [72, tr.48].
Điền dã ở Trà Vinh của vùng Vĩnh Long, chúng tôi nghe kể trực tiếp về
tục “gọi hồn lúa”, câu chuyện về “Cá Thác Lác đi xin lúa” cứu giúp con
người lí giải đến mùa người ta phải ra đồng rước thần hồn lúa về nhà. Tục



cúng sân lúa còn được duy trì ở nhiều gia đình người Khmer với niềm tin vào
các lực lượng siêu nhiên điều hòa mưa thuận gió hòa bên cạnh sức lao động
của con người.
Lễ thức cầu nước:
Trong nghi lễ nông nghiệp, trồng lúa nước, con người với quan niệm rằng
“Họ luôn sống gần gũi với chư thần “Cha trời, mẹ đất” là những vị thần đầy
quyền năng màu nhiệm có
thể ban phước giáng họa, gắn chặt ảnh hưởng với
đời sống trồng lúa. Bao giờ mà việc mưa, nắng, lụt lội, hạn hán… vẫn còn tác
động đến được mùa, mất mùa, đói, no… thì các nghi lễ cúng các thần nông
nghiệp vẫn còn giữ nguyên giá trị quyền năng của nó” [72, tr.41].
Tục đắp núi cát trong lễ Chol Chnam Thmây (Vào Năm Mới) là một biểu
hiện của lễ thức Cầu nước. Đầu tháng tư dương lịch, thời gian đã xong việc
gặt hái, mùa khô đã qua và m
ùa mưa sắp đến, mọi người tìm cát sạch đem về

đổ thành đống chung quanh đền thờ Phật trong chùa, bên ngoài hành lang và
chung quanh sân chánh điện. Sau đó, mọi người đắp thành những ngọn núi
nhỏ ở tám hướng. Có nơi thay núi cát bằng núi lúa. “Dù là núi cát hay núi lúa
thì cũng biểu hiện của ma thuật. Xưa kia, người Khmer tin rằng núi có thể cản
mây và do đó họ đắp núi là để ngăn lại các đám mây cầu cho mưa mau đến để
họ khởi sự làm m
ùa…” [72, tr.41].
Lễ cúng ở các miếu NeakTà vào tháng 4, 5 dương lịch là một dạng của lễ
thức cầu nước. Cuốn Vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ (Nhà xuất bản
Tổng hợp Hậu Giang) có ghi nhận: “Trong vòng một tháng đầu mùa hạ trước
khi làm đồng áng. Vào những ngày này, người Khmer họp nhau làm lễ theo
từng srok để cúng Ông Tà và cũng để xin nước mưa làm ruộng rẫy trong
năm
”[89, tr.126]. Vào lễ, người dân đi vòng quanh miếu NeakTà ba vòng
theo chiều kim đồng hồ tượng trưng cho sự xin nước mưa… có nơi tổ chức
đua ghe trên cạn… trong tâm thức dân gian, đá được xem là biểu tượng của



thần linh. Tính cứng rắn của đá vì thế đá được xem là vật thông linh trời và
đất. Đá có thể là phương tiện truyền đạt mong muốn cho con người: điều
chỉnh nguồn nước. Tục thờ NeakTà biểu hiện còn ẩn chứa dấu vết tục thờ Đá
trong quan hệ lễ thức cầu nước của người Việt cổ.
Thời gian các lễ thức cầu nước vào khoảng tháng 3, 4, 5 đều theo lịch sản
xuất nông nghiệp còn mang ý nghĩa cầu m
ùa.
Lễ thức cầu nước ẩn chứa tâm lý cư dân nông nghiệp. Những người dân
cầu mong nguồn nước dồi dào mang ý nghĩa tương đồng với mục đích cầu
mong cho con người và vạn vật sinh sôi: tin vào trời đất, các lực lượng siêu
nhiên và tín ngưỡng đã thấm sâu vào các nghi lễ, lễ thức bộc lộ nhân sinh

quan hồn nhiên của cư dân khai phá.
Sinh hoạt tâm
linh gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu:
“Tín ngưỡng thờ Mẫu (Mẹ) có từ rất xưa, tục thờ thần Nữ giữ vai trò chủ
đạo của nền kinh tế lúa nước và điều hành sản xuất nông nghiệp, gia đình. Từ
một bà mẹ cụ thể, dân gian đã tô đậm làm linh thiêng thêm hình ảnh Mẫu:
Tâm linh, quyền năng, tạo ra sự sống (vốn là thiêng chức của người mẹ). Mẫu
là đất (đất mẹ), là nước, là cây lúa (trong nhiều thần thoại), làm ra sự sống cho
con người. Ý thức thờ nữ thần nảy nở từ hình t
hái sản xuất nông nghiệp lúa
nước, khi mẹ Âu Cơ đẻ bọc trăm trứng nở ra trăm con là tổ tiên của các dòng
Bách Việt” [Nguyễn Trọng Báu, Truyện kể về phong tục các dân tộc Việt
Nam tập 3, Nhà xuất bản Giáo Dục, tr. 77].
Nền tảng tâm
linh của tín ngưỡng thờ Mẫu là ý thức của người nông dân
cầu mong ở đất đai mùa màng tươi tốt. Vị thần Đất mang yếu tố âm, thường
xuất hiện dưới dạng nữ nhân. Trong truyền thuyết Việt Nam, các vị nữ thần
gắn với việc tạo lập vũ trụ, nữ thần mặt trăng, các hiện tượng mây mưa, sấm
chớp… đều được thần hóa và mang tính nữ. Biểu tượng của đất nước – quê
hương – dân tộc cũng gắn với các
mẹ, chúng tôi gặp Bà Mẹ xứ sở Pôh Nagar



của người Chăm, Bà Chúa Xứ của người Việt… vòng quay tuần tự của thiên
nhiên và mùa vụ của nghề trồng lúa nước, nhu cầu tâm linh của người nông
dân là cơ sở nền tảng của tín ngưỡng này.
Sự hỗn dung trong tín ngưỡng thờ Mẫu của cư dân Vĩnh Long đã hằn sâu
trong tâm thức, trong đời sống văn hóa tinh thần của cư dân người Việt cổ.
Trên bước đường khai phá, di dân về phương Nam trước khi đến Nam

Bộ, lưu
dân có thời gian dừng chân trên dãy đất miền Trung và có sự tiếp nhận, dung
nạp vào hành trang văn hóa, tín ngưỡng thờ Mẫu mang tính cội nguồn những
vị nữ thần có nguồn gốc Chăm như Pô Inư Nagar.
Đến vùng đất Vĩnh Long, các thế hệ lưu dân người Việt gần gũi, tiếp xúc
với các tộc người cùng cội nguồn văn minh nông nghiệp lúa nước cũng chịu
ảnh hưởng sâu đậm của tín ngưỡng thờ Mẫu là người Hoa v
à người Khmer.
Chính những nét trùng hợp trong tín ngưỡng, người Việt dễ dàng tiếp nhận
hình tượng bà Đất (Neang Hing Pras Anây Thor), bà Lúa (Neang Hing Srâu),
bà Nước (Neang Hing Tưk), bà Om (Neang Hing Ol)… của người Khmer. Và
ngược lại, người Hoa, người Khmer tiếp nhận các hình tượng Mẫu trong tín
ngưỡng người Việt. Môi trường cảnh quan mới, điều kiện giao tiếp mới…
làm cho văn hóa tiềm thức trong đó có tín ngưỡng thờ Mẫu có điều kiện phát

triển mới mẻ khác với tín ngưỡng thờ Mẫu gốc của người Việt cổ. Không còn
là hình ảnh Bà Chúa Kho, Mẫu Thượng Ngàn… mà thay vào đó là những
hình tượng Mẫu: Bà Chúa Xứ, Bà Thiên Hậu, Bà Cố Hỷ… Vùng ven sông
thường thờ Thủy Long Thánh Phi và Cậu Trây – Cậu Quí (tục gọi là Bà Cậu)
được các miếu Vạn Bình Khê (xóm Chài thị xã Vĩnh Long), Vạn Thủy Nam
(Thiện Mỹ, Trà Ôn), Vạn Tân Hưng (xóm Đáy Tân Hòa Bắc) [10, tr. 206]. Bà
Thủy Long còn được thờ ở nhiều làng ven sông như miếu Bà Thủy (thị trấn
Trà Ôn) gắn với lễ hội cầu ngư. Bà Chúa Xứ (
Thiên Y A Na) được tôn làm nữ
thần phù hộ dân xứ Cù lao, hải đảo. Hiện nay, Cù lao Bình Hòa Phước còn



lưu truyền truyền thuyết về ngỗng thần gây sóng gió tại vàm Cái Muối cũng
chính là truyền thuyết người Chăm được tổ tiên chúng ta đưa vào [10, tr.

207]. Vùng cư dân nghề nông thường thờ Bà Chúa Xứ. Bà Chúa Xứ cũng
chính là Thiên Y A Na, Bà Mẹ Xứ Sở của vùng đất.
Tuy nhiên, trên bức tranh văn hóa hỗn dung ấy, nét chính vẫn là yếu tố
thuần Việt. Người Việt là tộc người đông dân nhất, theo tư liệu thống kê của
Tìm hiểu văn hóa Vĩnh Long, có vai t
rò chủ lực trong công cuộc khai phá
vùng đất. Đồng thời với công cuộc khai hoang lập ấp: “Người Việt sớm triển
khai những hoạt động đánh bắt cá tôm, chăn nuôi,sản xuất thủ công. Vào thời
kỳ này, đa số lưu dân người Việt sống trong những ngôi nhà sàn hoặc nhà nền
đất ở những khu vực đất tương đối cao. Một số sống trong thuyền ghe và dọc
theo kênh rạch. Tương ứng với các hình thái cư trú
trên có các loại hình làng:
làng đồng, làng rừng, làng sông (làng thuyền). Lúc ban đầu, làng rừng và làng
sông chiếm ưu thế, càng về sau làng rừng và làng sông nhường chỗ cho sự
phát triển của làng đồng. Mỗi làng đồng ra đời thì ngôi đình làng, ngôi chùa
cũng được dựng lên. Đó là nơi sinh hoạt cộng đồng (nổi bật là sinh hoạt tín
ngưỡng dân gian) của lưu dân người Việt” [10, tr.23].
Đến cuối thế kỷ XVIII, dân số Vĩnh Long tiếp tục tăng nhanh bởi sự nhập
cư của nhóm
di dân người Việt từ miền Trung vào. Trong quá trình lao động
sản xuất, người việt có cá tính và đặc điểm văn hóa đặc sắc, các sinh hoạt vật
chất và tinh thần của cư dân ngày thêm phong phú. Chẳng hạn như, tại Bãi
Tiên, ven cù lao An Bình, người Việt đã dừng chân và lập chùa Di Đà (còn
gọi là Tiên Châu Cổ Tự). Địa danh này đã đi vào truyền thuyết Bãi Tiên. Đây
còn là nơi tổ chức các sinh hoạt phật giáo cho cư dân trong vùng.
Người Việt ở Vĩnh Long còn duy trì khá phổ biến những nghi lễ, tín
ngưỡng như thờ cúng tổ tiên, thờ thần Đất,
thờ Mẫu… và phong tục tập quán
có liên quan đến đời sống cá nhân, sinh hoạt gia đình và sinh hoạt cộng đồng.




“ Theo quy định, mỗi khi thành lập làng thì phải xây dựng một ngôi đình
và thờ thần Thành Hoàng cai quản cõi dương gian. Đó là biểu tượng thần linh
thay mặt thiên tử phù hộ cư dân một vùng. Đình là nơi thờ thần, nơi hương
chức làm việc, chỗ dân làng hội họp và tham dự lễ hội vui chơi. Khoảng một
thế kỷ đầu sau khi thành lập, đình ở Vĩnh Long thờ các vị phúc thần hay thần
Thành Hoàng. Theo văn tế đình Long Hưng (xã Lục Sĩ Thành- Trà Ôn ) chủ
nhân đầu tiên của đình làng l
à các vị thần xuất phát từ Thăng Long như:
Thiên hạ Đô Thành Hoàng Đại Vương, Đại Càn Tứ Vị Thánh Nương
Nương… Bên cạnh các vị thần đó, đình còn thờ một số thần linh làm điểm
tựa tinh thần cho người bình dân như: Thổ Địa, Thiên Y A Na… Chúng ta
thấy hệ thống thần linh ngự trị ở đình làng Vĩnh Long đầu tiên là một tập hợp
phức tạp, kể cả nữ thần cũng được tùng tự hai bên sân đìn
h hoặc ngay trong
chính tâm mà điều này không được chấp nhận ở một số nơi” [10, tr.213]. Bên
cạnh đó, tục thờ các danh nhân lịch sử cũng có từ lâu. Đền thờ Tống Phước
Hiệp tại Vĩnh Long và đền thờ Thống Chế Nguyễn Văn Tồn ở Trà
Ôn…Những người có công với nước với dân thì nhân dân ghi nhớ và thờ
phụng. Đình làng cũng là thiết chế văn hóa được triều đình nhìn nhận do
chính quyền địa phương quản lý. Thế nhưng ở Vĩnh Long cũng như ở Nam
Bộ, tín ngưỡng dân gian đã có mặt tại đì
nh. Đình làng trở thành đình hội và
cũng từ đó ngôi chùa, ngôi đình, miếu đều là thiết chế tín ngưỡng dân gian.
Trong hệ thống t
ín ngưỡng dân gian của cộng đồng xóm ấp, những ngôi
miếu là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh tiêu biểu. Theo thống kê của Bảo Tàng
Vĩnh Long, mỗi xóm ấp đều có một ngôi miếu và ngôi miếu được xem là ngôi
đình trong phạm vi hạn hẹp. Các vị thần linh thờ trong miếu thường ít khi thờ

một vị thần. Ngôi miếu có thể là sự thu nhỏ văn hóa vùng đó. Ở những vùng
ven sông, ven biển, dân vạn chài thường thờ Thủy Long Thánh Phi và Cậu
Trây, Cậu Quý (tục gọi là Bà Cậu). Lăng Cá Ông nằm dọc theo ven biển.



Những cư dân làm ruộng thường thờ Bà Chúa Xứ, Thần Nông… Trong đó,
nữ thần Thiên Y A Na thường gọi là Bà Chúa Xứ được thờ phổ biến nhất.
Các lễ hội của cộng đồng cư dân ở Vĩnh Long biểu hiện niềm tin của con
người đối với thần linh được phụng thờ trong đình, chùa, đền, miếu. Trong
đó, lễ hạ điền thường được tổ chức vào đầu m
ùa mưa mang ý nghĩa tế thần
Thành Hoàng, Thần Nông…cầu mưa thuận gió hòa. Lễ thượng điền tổ chức
vào cuối mùa mưa mang ý nghĩa cảm tạ ơn thần vì mùa màng đã có kết quả.
Dù trở thành bộ phận của dân tộc, người Hoa vẫn giữ được nét cá tính của
mình. Theo tư liệu Vĩnh Long lịch sử và phát triển, trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Long hiện nay, người Hoa cư trú xen kẽ cùng với người Việt v
à người Khmer
từ lâu đời. Cũng như người Việt, người Hoa thực hiện thổ táng và để tang
người đã khuất, đây là dạng thờ cúng tổ tiên. Ngoài ra, người Hoa còn thờ các
vị thần bảo vệ, giúp đỡ cộng đồng: gia đình và cộng đồng, dân tộc. Trong mỗi
gia đình, người Hoa thờ thần như thần sân, thần bếp, thần lửa…đặc biệt thờ
thần tài, thần đất phù hộ cho làm ăn buôn bán.
Người Hoa quan niệm rằng thần tài là nữ thần- nàng Như Nguyệt bị chồng
là Âu Minh rầy la nàng chui vào xó xỉnh để trốn và giận hờn. Vì vậy người
Hoa cũng như người Việt đều kiêng quét rác trong ngày đầu năm mới. Ở cộng
đồng, người Hoa cò
n thờ các vị thần bảo vệ, giúp đỡ cộng đồng: Bà Thiên
Hậu, Quan Công…Chùa Ông hay còn gọi là Thất Phủ Miếu, nghĩa là miếu
thờ của n

hững người Hoa di dân. Người Hoa ở Vĩnh Long ca ngợi khí tiết
trung nghĩa của Quan Công và tôn thờ ông như vị trung thần phù hợp với tâm
lý di dân của người Hoa ở Việt Nam. Trong Thất Phủ Miêu (chùa Ông), của
cộng đồng người Hoa còn thờ Bà Thiên Hậu, Ông Bổn với quan niệm là vị
phúc thần.
Ở Vĩnh Long, người Việt và người Hoa cùng thờ nữ thần Ngũ hành nương
nương, theo quan niệm t
riết lý sáng tạo âm dương. Cùng với người Việt và



người Khmer, người Hoa cùng tôn thờ người mẹ (như thờ Mẫu của người
Việt). Trong các lễ cúng “Vía Bà”,”Vía Ông” tạo nên giá trị văn hóa tinh
thần-tâm linh góp phần làm phong phú thêm giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam.
Khác với lối sống của người Việt và người Hoa, người Khmer nặng về tinh
thần tôn giáo. Phật giáo Tiểu Thừa truyền bá vào cộng đồng người Khmer và
trở thành một tôn giáo chính thống, phổ cập rộng rãi và sâu sắc nhất ở tộc
người này. Theo các tư liệu viết về “Văn hóa người Khm
er vùng đồng bằng
sông Cửu Long”, Phật giáo Tiểu Thừa đã chi phối sâu sắc sinh hoạt văn hóa
tâm linh của người Khmer địa phương, nhất là nam giới. Trong đời sống tâm
linh người Khmer, sự linh thiêng của ngôi chùa, về Đức Phật đã ăn sâu vào
tâm khảm, máu thịt. Người Khmer còn có quan niệm rằng, con trai nếu không
được tu học dưới mái chùa làng là người có nhiều tội lỗi trong cuộc sống.

Được vào chùa tu học, người Khmer vừa là nghĩa vụ vừa là vinh dự. Phật giáo
hiện hữu trong mọi không gian, thời gian của đời sống. Nhà gắn liền với chùa,
đời gắn liền với đạo. Sống với niềm tin dâng của cải cho chùa một phần để
cầu phúc cho con cháu, khi chết đi sẽ được nương nhờ và che chở dưới bóng
bồ đề. Tinh thần Phật giáo được chuyển giao, lưu truyền từ thế hệ này sang

thế hệ khác trở thành sợi dây vô hì
nh ràng buộc thiêng liêng mỗi người
Khmer.
Ngôi Chùa có vị trí quan trọng trong đời sống của người Khmer. Chùa là
không gian thiêng liêng của phum, sóc và là nơi bảo lưu hài cốt, là trung tâm
sinh hoạt tâm linh của cộng đồng người Khmer tại từng phum, sóc, là nơi bảo
lưu những tư liệu cổ. Chùa của người Khmer còn gắn với buổi đầu khai hoang
lập ấp. Lịch sử của một số ngôi chùa như Bãi Xàu Đôi – Sâm
Rông EK…
Cho thấy xưa kia chốn này là rừng hoang. Những người đầu tiên đến đây từng
cụm nhỏ, lập chùa và chính chùa là nơi quy tụ thành cộng đồng phum sóc cho
nên có tên “Chùa Gốc”. Chùa được xem là trung tâm văn hóa, xã hội của khu

×