Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu luận Môn Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế Phân biệt FDI và FII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.16 KB, 22 trang )

1. Phân biệt FDI và FII
 Đầu tư gián tiếp
Đầu tư gián tiếp nước ngoài (thường được viết tắt là FPI | Foreign Portfolio
Investment) là hình thức đầu tư gián tiếp xuyên biên giới. Nó chỉ các hoạt động mua tài
sản tài chính nước ngoài nhằm kiếm lời. Hình thức đầu tư này không kèm theo việc tham
gia vào các hoạt động quản lý và nghiệp vụ của doanh nghiệp giống như trong hình thức
Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Những tác động tích cực của FPI
• Góp phần làm tăng nguồn vốn trên thị trường vốn nội địa và làm giảm chi phi vốn
thông qua việc đa dạng hoá rủi ro.
• Thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tài chính nội địa.
• Thúc đẩy cải cách thể chế và nâng cao kỷ luật đối với các chính sách của chính
phủ.
Những tác động tiêu cực của FPI
• Nếu dòng FPI vào tăng mạnh, thì nền kinh tế tiếp nhận dễ rơi vào tình trạng phát
triển quá nóng (bong bóng), nhất là các thị trường tài sản tài chính của nó.
• Vốn FPI có đặc điểm là di chuyển (vào và ra) rất nhanh, nên no sẽ khiến cho hệ
thống tài chính trong nước dễ bị tổn thương và rơi vào khủng hoảng tài chính một
khi gặp phải các cú sốc từ bên trong cũng như bên ngoài nền kinh tế.
• FPI làm giảm tính độc lập của chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái.
 Đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) là hình thức đầu tư dài
hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất,
kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất
kinh doanh này.
Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước
chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với
quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các
công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà
người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp


đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là
"công ty con" hay "chi nhánh công ty".
Những tác động tích cực của FDI
• Bổ sung cho nguồn vốn trong nước
Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập. Khi một nền kinh
tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần nhiều vốn hơn nữa. Nếu vốn trong nước không
đủ, nền kinh tế này sẽ muốn có cả vốn từ nước ngoài, trong đó có vốn fdi.
• Tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý
Trong một số trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thể huy động được phần
nào bằng "chính sách thắt lưng buộc bụng". Tuy nhiên, công nghệ và bí quyết quản lý thì
không thể có được bằng chính sách đó. Thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia sẽ giúp
một nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý kinh doanh mà các công ty
này đã tích lũy và phát triển qua nhiều năm và bằng những khoản chi phí lớn. Tuy nhiên,
việc phổ biến các công nghệ và bí quyết quản lý đó ra cả nước thu hút đầu tư còn phụ
thuộc rất nhiều vào năng lực tiếp thu của đất nước.
• Tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu
Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ xí nghiệp có vốn đầu tư của công
ty đa quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp khác trong nước có quan hệ làm ăn với xí
nghiệp đó cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy, nước
thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh
xuất khẩu.
• Tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công
Vì một trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để đạt được chi phí sản
xuất thấp, nên xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê mướn nhiều lao động địa
phương. Thu nhập của một bộ phận dân cư địa phương được cải thiện sẽ đóng góp tích
cực vào tăng trưởng kinh tế của địa phương. Trong quá trình thuê mướn đó, đào tạo các
kỹ năng nghề nghiệp, mà trong nhiều trường hợp là mới mẻ và tiến bộ ở các nước đang
phát triển thu hút FDI, sẽ được xí nghiệp cung cấp. Điều này tạo ra một đội ngũ lao động
có kỹ năng cho nước thu hút FDI. Không chỉ có lao động thông thường, mà cả các nhà
chuyên môn địa phương cũng có cơ hội làm việc và được bồi dưỡng nghiệp vụ ở các xí

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
• Nguồn thu ngân sách lớn
Đối với nhiều nước đang phát triển, hoặc đối với nhiều địa phương, thuế do các xí nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài nộp là nguồn thu ngân sách quan trọng. Chẳng hạn, ở Hải
Dương riêng thu thuế từ công ty lắp ráp ô tô Ford chiếm 50 phần trăm số thu nội địa trên
địa bàn tỉnh năm 2006.
• Vốn tìm kiếm hiệu quả
Đây là nguồn vốn nhằm tận dụng giá thành đầu vào kinh doanh thấp ở nước tiếp nhận
như giá nguyên liệu rẻ, giá nhân công rẻ, giá các yếu tố sản xuất như điện nước, chi phí
thông tin liên lạc, giao thông vận tải, mặt bằng sản xuất kinh doanh rẻ, thuế suất ưu đãi,
v.v
• Vốn tìm kiếm thị trường
Đây là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường hoặc giữ thị trường khỏi bị đối thủ cạnh
tranh giành mất. Ngoài ra, hình thức đầu tư này còn nhằm tận dụng các hiệp định hợp tác
kinh tế giữa nước tiếp nhận với các nước và khu vực khác, lấy nước tiếp nhận làm bàn
đạp để thâm nhập vào các thị trường khu vực và toàn cầu
Những tác động tiêu cực của FDI
• Tác động trực tiếp nhất của FDI tới nền kinh tế vĩ mô thể hiện ở tài khoản vãng
lai. Nếu điều chỉnh được cán cân thanh toán thì không sao, nhưng luồng FDI tăng
quá đột ngột hoặc không bền vững nó có thể tác động tới sự ổn định kinh tế vĩ
mô. Khi tăng trưởng quá phụ thuộc vào các dòng vốn đổ vào từ bên ngoài thì xét
dưới góc độ vĩ mô, nền kinh tế sẽ phải trả giá cho tới các thế hệ sau. Với việc thu
hút vốn đầu tư nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thay vì dựa vào nguồn
vốn đầu tư trong nước mang lại tốc độ tăng trưởng thấp hơn, Việt Nam rõ ràng đã
chọn lựa cải thiện mức sống cho thế hệ hiện tại và đẩy các thế hệ tương lai tới chỗ
phải đối mặt với các khoản nợ nước ngoài ngày càng tăng. Nợ nước ngoài tăng
(tính theo tỷ lệ GDP) sẽ được phản ánh trong cán cân thanh toán vãng lai ngày
càng mất cân đối. Năm 2008, thâm hụt tài khoản vãng lai của Việt Nam đã vượt
quá 10 tỷ USD, chiếm hơn 10% GDP.
Vì vậy, vốn đầu tư nước ngoài tăng sẽ gián tiếp dẫn đến thâm hụt tài khoản vãng

lai tăng và nợ nước ngoài tăng. Bản thân thâm hụt tài khoản vãng lai vốn không
phải là xấu, và thặng dư tài khoản vãng lai cũng không nhất thiết đã là tốt. Tuy
nhiên, về dài hạn, nếu như thâm hụt tài khoản vãng lai không được kiểm soát tốt,
nó sẽ khiến các thị trường tài chính phản ứng bằng cách… tạo ra khủng hoảng.
• FDI tăng mạnh sẽ làm gia tăng nhu cầu đối với cả nhóm hàng hóa thương mại lẫn
nhóm hàng hóa phi thương mại. Tuy nhiên, nhu cầu đối với nhóm hàng hóa phi
thương mại sẽ tăng mạnh hơn. Khi dòng vốn đổ vào nhiều, cung không đủ đáp
ứng cầu sẽ làm giá của nhóm hàng phi thương mại tăng. Việc này dẫn tới tỷ giá
hối đoái thực tăng. Giá nội tệ tăng phản ánh thị trường bị chi phối bởi “cơ chế
giá”; đồng thời nó thúc đẩy sự dịch chuyển vốn từ nhóm hàng hóa thương mại
sang nhóm phi thương mại, do sức cạnh tranh thương mại quốc tế giảm. Vì vậy,
tỷ giá hối đoái thực tăng gián tiếp dẫn đến sức cạnh tranh quốc tế giảm.
Nếu tỷ giá hối đoái thực tăng do luồng vốn FDI đổ vào lớn, nó sẽ cản trở chính
sách điều chỉnh tiền tệ của chính phủ, bằng cách làm chậm phản ứng về cung đối
với khu vực xuất khẩu hoặc làm gia tăng sức ép hỗ trợ khả năng cạnh tranh cho
khu vực bị hàng nhập khẩu đe dọa.
Ở các nền kinh tế bị đô la hóa, một tỷ lệ lớn các mặt hàng phi thương mại cũng có
thể bị tính bằng USD. Tỷ lệ này càng cao, tỷ giá hối đoái thực càng phản ứng
chậm với những thay đổi của tỷ giá danh nghĩa. Ở các nền kinh tế bị đôla hóa,
ngân hàng trung ương cũng khó thực hiện các nghiệp vụ thị trường mở. Do thiếu
các công cụ tiền tệ dưới dạng các tài sản định giá bằng VND, Ngân hàng nhà
nước Việt Nam (SBV) khó thực hiện các nghiệp vụ thị trường mở. Đối với các
công cụ khác, như dự trữ bắt buộc - một công cụ mà SBV thực hiện rất ráo riết -
cũng chỉ mang lại hiệu quả hạn chế. Tình trạng đôla hóa đã tạo điều kiện cho các
luồng vốn nước ngoài qua mặt hệ thống kiểm soát tài chính và trở thành một phần
nguồn cung tiền. Trên thực tế, các vấn đề kinh tế vĩ mô nổi lên mạnh mẽ kể từ
giữa năm 2008 là do sự bất lực trước đó của SBV trong việc điều tiết các luồng tài
chính đổ vào từ bên ngoài. Hệ thống ngân hàng tràn ngập thanh khoản, đẩy nhịp
độ tăng tín dụng lên tới 50% trong năm 2007 và hậu quả đã thấy trong năm sau.
Tuy nhiên, ngay khi Việt Nam sắp sửa rơi vào khủng hoảng do bùng nổ bong

bóng tài sản, thì cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu ập đến. Tăng trưởng kinh tế
thế giới chậm lại, cộng thêm giá dầu thô và các mặt hàng khác giảm, đã giúp làm
nguội nền kinh tế và làm dịu bớt sức ép lạm phát ở Việt Nam. Cú sốc thương mại
trầm lắng cũng làm giảm thu nhập quốc dân và giúp Việt Nam đẩy lùi lạm phát.
FDI vào Việt Nam năm 2008 vẫn cao, song dự báo sẽ giảm mạnh trong năm
2009. Dường như sự may mắn này đã giúp cho Việt Nam thoát khỏi một cuộc
khủng hoảng tài chính cận kề trong năm 2008.
Luồng vốn FDI quá lớn cũng có thể ảnh hưởng tới các nước có hệ thống ngân
hàng yếu hoặc có hệ thống giám sát rủi ro tài chính không tốt. Việt Nam có một
hệ thống ngân hàng còn khá trẻ và thiếu kinh nghiệm, cộng thêm khu vực doanh
nghiệp Nhà nước được kiểm soát khá lỏng lẻo. Hệ thống ngân hàng thiếu kinh
nghiệm trong đánh giá rủi ro nhưng lại phải trung chuyển quá nhiều vốn tín dụng;
thêm vào đó, khối doanh nghiệp nhà nước hăng hái đầu tư vào bất động sản, tài
chính và các hoạt động khác không phải là thế mạnh của họ, đó là một tình huống
tổng hợp nhiều yếu tố thiếu lành mạnh.
• Những bất ổn kinh tế vĩ mô gần đây, nhất là trước khi xảy ra khủng hoảng tài
chính toàn cầu, đã cho thấy sự cần thiết phải có các chính sách phản ứng của
chính phủ trong việc kiềm chế những hậu quả mà một luồng vốn FDI dồi dào gây
ra. Có nhiều yếu tố cản trở chính phủ thi hành các chính sách này, nhưng có thể
kể ra hai yếu tố lớn: thứ nhất là tình trạng đôla hóa nền kinh tế và thứ hai là sự kết
hợp một hệ thống ngân hàng thiếu kinh nghiệm với khối doanh nghiệp nhà nước
đầu tư tham lam. Đó là những thách thức dài hạn chính phủ cần phải giải quyết.
Chừng nào chúng còn tồn tại, chừng đó chính phủ còn khó giải quyết các hậu quả
vĩ mô do các luồng vốn đầu tư gây ra trong ngắn và trung hạn. Nếu chính sách
tiền tệ bị tình trạng đôla hóa cản trở, thì chính sách tài khóa cần phải được tăng
cường. Thông qua cắt giảm mạnh chi tiêu, chính phủ có thể tránh phụ thuộc vào
việc tích trữ ngoại tệ để phục vụ đầu tư, và qua đó kiểm soát thâm hụt tài khoản
vãng lai.
Ngoài ra, chính phủ cần đặt mục tiêu trung hạn hỗ trợ cho hệ thống tài chính trong
nước tăng sức đề kháng đối với các nguy cơ tiềm ẩn phía sau những miếng mồi

hấp dẫn - chẳng hạn tình trạng cho vay vào các dự án rủi ro cao - và hậu quả của
các vụ nổ bong bóng tài chính. Xét về khía cạnh này, cần đề cập đến vấn đề các tổ
chức tài chính nước ngoài có thể giúp đỡ hoặc cản trở Việt Nam như thế nào
trong các chính sách tiền tệ thúc đẩy tăng trưởng.
• FDI gây bất bình đẳng và phân tầng xã hội
Tăng trưởng kinh tế đã chia sẻ lợi ích cho đông đảo các tầng lớp xã hội, trong đó
có cả người nghèo, các nhóm xã hội yếu thế. Tuy nhiên, vẫn còn những khác biệt,
không công bằng, do có những nhóm xã hội được hưởng lợi nhiều hơn và những
nhóm hưởng lợi ít hơn,thậm chí bị rủi ro, mất mát. Phân tầng xã hội trong 2 thập
kỷ Đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng gia tăng, dù rằng xã hội Việt Nam
đang phát triển tương đối công bằng so với các nước khác có cùng trình độ phát
triển kinh tế. Đó chính là do sự quá tập trung nguồn vốn FDI, ODA vào các vùng
kinh tế trọng điểm. Việc chuyển đổi sử dụng đất cho các dự và đầu tư nước ngoài
cũng khiến cho hàng vạn lao động bị ảnh hưởng trực tiếp do bị mất đất sản xuất.
• Góp phần gia tăng ô nhiễm môi trường:
Cùng với những lợi ích do FDI mang lại, Việt Nam đang đối mặt với những thách
thức, trong đó đặc biệt nghiêm trọng là nạn "xuất khẩu" ô nhiễm môi trường từ
các nước phát triển trên thế giới đang ngày càng gia tăng. Theo Tổng cục Môi
trường Vịêt Nam, hiện đang có tình trạng chuyển các ngành gây ô nhiễm môi
trường nặng nề từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển thông qua
FDI.Việc “xuất khẩu” ô nhiễm này mang lại cho các tập đoàn đa quốc gia một lợi
thế cạnh tranh mới nhờ giảm chi phí sản xuất. Nguyên nhân của tình trạng này là
do chi phí để khắc phục ô nhiễm môi trường tại các nước phát triển rất cao. Do
vậy, chính phủ ta cần có những giám sát và quản lý chặt chẽ đối với các dự án đầu
tư FDI, kiên quyết không chấp nhận các dự án FDI gây ô nhiễm môi trường.
• “Bóc chết” các doanh nghiệp trong nước:
Một trong những mặt tích cực như đã trình bày của FDI là thúc đẩy tính cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp. Thế nhưng, nó còn là nguy cơ của sự phá sản của
nhiều công ty nội địa với năng lực còn hạn chế. Các doanh nghiệp có vốn FDI
thường có công nghệ khoa học tiên tiến hơn, tính hiệu quả cao hơn, dẫn đến giá

thành có thể rẻ hơn và chất lượng lại được nâng cao. Nếu các doanh nghiệp Nhà
nước không có sự điểu chỉnh đúng đắn và hợp lý thì sẽ bị “biến mất” trên thị
trường.
• Khánh kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên:
Sự đầu tư, khai thác của những tập đoàn đa quốc gia đến từ nhiều nước có thể
gây ra nạn cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên của nước ta trong tương lai. Hiện
tượng này có thể xảy ra nhất không chỉ ở tài nguyên thiên nhiên như đất đai,
khoáng sản mà còn có cả nguồn lao động vốn được coi là dồi dào và rẻ tiền.

Tuy nhiên cần nhận thấy rằng những tác động tiêu cực của FDI không phải là thuộc tính
riêng của FDI và chúng thường là hệ quả của các chính sách và chất lượng quản lý kinh
tế của nhà nước đã tạo kẽ hở, tạo điều kiện để các doanh nghiệp nói chung và doanh
nghiệp FDI nói riêng khai thác triệt để mà không phải bận tâm nhiều đến hậu quả pháp lý
của các hành động của mình.
2. Phân biệt các hình thức chìa khóa trao tay BT, BTO, BOT. Nêu
những lợi ích mà mà nhà đầu tư có được khi sử dụng các loại
hình BT, BTO, BOT
Hợp đồng chìa khóa trao tay:
Một loại hợp đồng sử dụng trong mua bán công trình thiết bị toàn bộ, theo đó người thầu
chịu trách nhiệm toàn bộ các khâu từ điều tra cơ bản, tư vấn, thiết kế, cung cấp nguyên
vật liệu, máy móc đến thi công xây dựng, lắp đặt, vận hành thử và giao cho người mua
một công trình hoàn chỉnh sẵn sàng đưa vào sử dụng. Tuỳ theo mức độ dịch vụ mà người
thầu cung cấp, có thể phân biệt nhiều loại: HĐCKTT thuần tuý (người thầu có trách
nhiệm chuyển thêm cho người mua một số hướng dẫn về vận hành); hợp đồng chìa khoá
kĩ thuật trao tay (người thầu giúp đỡ thêm về kĩ thuật cho người mua, nhưng không bảo
đảm kết quả vận hành đạt sản lượng và quy cách phẩm chất theo thiết kế); hợp đồng sản
phẩm trao tay (người thầu chịu thêm trách nhiệm đào tạo có kết quả một đội ngũ cán bộ
công nhân có thể đảm bảo vận hành công trình đạt sản lượng, quy cách quy định); hợp
đồng thị trường trao tay (người thầu đảm nhiệm thêm trách nhiệm giúp người mua trong
hoạt động quản lí, tiếp thị, đào tạo đội ngũ).

Các hình thức của nó:
1. Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (sau đây gọi tắt là Hợp đồng
BOT) là hợp đồng được ký giữa Cơ quan nhà nước có thẩm quyền và Nhà đầu tư để xây
dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn,
Nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
2. Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh (sau đây gọi tắt là Hợp đồng
BTO) là hợp đồng được ký giữa Cơ quan nhà nước có thẩm quyền và Nhà đầu tư để xây
dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, Nhà đầu tư chuyển giao công
trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ dành cho Nhà đầu tư quyền kinh doanh
công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.
3. Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (sau đây gọi tắt là Hợp đồng BT) là hợp
đồng được ký giữa Cơ quan nhà nước có thẩm quyền và Nhà đầu tư để xây dựng công
trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, Nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho
Nhà nước Việt Nam; Chính phủ tạo điều kiện cho Nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu
hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho Nhà đầu tư theo thoả thuận trong Hợp
đồng BT.
Những lợi ích mà mà nhà đầu tư có được khi sử dụng các loại hình BT,
BTO, BOT ( NĐ 78/2007/NĐ-CP)
Điều 35. Ưu đãi về thuế
1. Doanh nghiệp BOT và Doanh nghiệp BTO được hưởng ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp như quy định đối với dự án thuộc Danh mục lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư.
Ưu đãi về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp này được áp
dụng trong toàn bộ thời gian thực hiện Dự án.
2. Doanh nghiệp Dự án và nhà thầu phụ được miễn thuế nhập khẩu để thực hiện Dự án
theo quy định của pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
3. Các đối tượng sở hữu công nghiệp đang trong thời hạn bảo hộ, bí quyết kỹ thuật,
quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật để thực hiện Dự án được miễn các loại thuế có liên
quan đến chuyển giao công nghệ và thu nhập từ tiền bản quyền.
4. Ngoài các ưu đãi về thuế nêu tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này, Nhà đầu tư và
Doanh nghiệp Dự án phải nộp các loại thuế khác theo quy định của pháp luật.

5. Ưu đãi về thuế đối với Dự án khác do Nhà đầu tư thực hiện để thu hồi vốn vào
công trình BT được áp dụng theo quy định tại Điều này hoặc theo thỏa thuận trong Hợp
đồng Dự án phù hợp với quy định của pháp luật về đầu tư và pháp luật có liên quan, có
tính đến thời gian thu hồi vốn của công trình BT và khả năng thu lợi nhuận của Dự án
khác.
Điều 36. Thuế đối với các nhà thầu tham gia thực hiện Dự án
1. Các nhà thầu nước ngoài (nếu có) tham gia thực hiện Dự án nộp các loại thuế và
hưởng ưu đãi về miễn, giảm thuế theo quy định của pháp luật về thuế áp dụng đối với nhà
thầu nước ngoài.
2. Các nhà thầu Việt Nam thực hiện các nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật
về thuế áp dụng đối với doanh nghiệp Việt Nam.
Điều 37. Ưu đãi về sử dụng đất
Doanh nghiệp Dự án được miễn tiền sử dụng đất đối với diện tích đất được Nhà
nước giao hoặc được miễn tiền thuê đất trong toàn bộ thời gian thực hiện Dự án.
Điều 38. Bảo lãnh nghĩa vụ của Nhà đầu tư, Doanh nghiệp Dự án và các doanh
nghiệp khác
Trong trường hợp cần thiết, tùy theo tính chất Dự án, Chính phủ chỉ định cơ quan
có thẩm quyền thay mặt Chính phủ bảo lãnh vốn vay, cung cấp nguyên liệu, tiêu thụ sản
phẩm và các nghĩa vụ hợp đồng khác cho Nhà đầu tư, Doanh nghiệp Dự án hoặc các
doanh nghiệp khác tham gia thực hiện Dự án được xác định trong Hợp đồng Dự án và
bảo lãnh nghĩa vụ của các doanh nghiệp nhà nước độc quyền bán nguyên liệu, mua sản
phẩm, dịch vụ của Doanh nghiệp Dự án.
Điều 39. Quyền thế chấp tài sản
1. Trong quá trình thực hiện Dự án, Doanh nghiệp Dự án được cầm cố, thế chấp
các tài sản và quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
2. Việc cầm cố, thế chấp tài sản của Doanh nghiệp Dự án phải được sự chấp thuận
của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền và không làm ảnh hưởng đến mục tiêu, tiến độ và
hoạt động của Dự án quy định trong Hợp đồng Dự án, phù hợp với quy định của pháp
luật.
Điều 40. Quyền mua ngoại tệ

1. Trong quá trình xây dựng và kinh doanh công trình, Nhà đầu tư hoặc Doanh
nghiệp Dự án được mua ngoại tệ tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối để
đáp ứng các giao dịch vãng lai, giao dịch vốn và các giao dịch khác theo quy định của
pháp luật về quản lý ngoại hối, gồm:
a) Chi trả tiền thuê thiết bị, máy móc từ nước ngoài;
b) Nhập khẩu máy móc thiết bị và các sản phẩm, dịch vụ khác để thực hiện Dự án;
c) Thanh toán các khoản nợ (gồm cả nợ gốc và lãi) vay nước ngoài;
d) Thanh toán các khoản nợ (gồm cả nợ gốc và lãi) vay ngân hàng bằng ngoại tệ để
nhập khẩu máy móc thiết bị và các sản phẩm, dịch vụ khác để thực hiện Dự án;
đ) Chuyển vốn, lợi nhuận, các khoản thanh lý đầu tư, các khoản thanh toán cho
việc cung cấp kỹ thuật, dịch vụ, sở hữu trí tuệ và các khoản thu nhập hợp pháp khác ra
nước ngoài (áp dụng đối với Nhà đầu tư nước ngoài).
2. Chính phủ bảo đảm cân đối hoặc hỗ trợ cân đối ngoại tệ cho Dự án năng lượng,
xây dựng công trình giao thông và xử lý chất thải.
Điều 41. Bảo đảm cung cấp các dịch vụ công cộng
1. Doanh nghiệp Dự án được sử dụng đất đai, đường giao thông và các công trình
phụ trợ khác để thực hiện Dự án theo quy định của pháp luật.
2. Trường hợp có khan hiếm về dịch vụ công ích hoặc có hạn chế về đối tượng
được sử dụng công trình công cộng, Doanh nghiệp Dự án được ưu tiên cung cấp các dịch
vụ hoặc được ưu tiên cấp quyền sử dụng các công trình công cộng để thực hiện Dự án.
3. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền chịu trách nhiệm hỗ trợ Doanh nghiệp Dự án
làm các thủ tục và hồ sơ cần thiết để được phép ưu tiên sử dụng dịch vụ và các công trình
công cộng.
Điều 42. Giải quyết tranh chấp
1. Đối với Dự án sử dụng vốn đầu tư trong nước, tranh chấp giữa Cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền và Nhà đầu tư hoặc Doanh nghiệp Dự án; tranh chấp giữa Doanh
nghiệp Dự án với các tổ chức kinh tế tham gia thực hiện Dự án được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền bảo lãnh nghĩa vụ thực hiện hợp đồng nêu tại Điều 38 của Nghị định này
trước hết phải được giải quyết thông qua thương lượng, hoà giải. Trường hợp không giải
quyết được bằng thương lượng, hoà giải các bên có thể đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại

tổ chức trọng tài hoặc tòa án Việt Nam theo pháp luật Việt Nam.
2. Đối với Dự án có vốn đầu tư nước ngoài, mọi tranh chấp trước hết được giải
quyết thông qua thương lượng, hòa giải. Trường hợp không giải quyết được bằng thương
lượng, hoà giải, các bên có thể giải quyết tranh chấp theo quy định sau:
a) Tranh chấp giữa Cơ quan nhà nước có thẩm quyền với Nhà đầu tư nước ngoài hoặc
Doanh nghiệp Dự án được giải quyết thông qua Trọng tài hoặc Toà án Việt Nam, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác trong Hợp đồng Dự án;
b) Tranh chấp giữa Doanh nghiệp Dự án với tổ chức cá nhân, nước ngoài hoặc với
các tổ chức kinh tế Việt Nam hoặc tranh chấp giữa các nhà đầu tư nước ngoài với nhau
được giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 12, Luật Đầu tư.
Điều 43. Bảo đảm về vốn và tài sản
1. Vốn đầu tư và tài sản hợp pháp của Nhà đầu tư không bị quốc hữu hóa hoặc bị
tịch thu bằng biện pháp hành chính.
2. Trong trường hợp cần thiết phải trưng mua, trưng dụng tài sản của Nhà đầu tư
theo quy định tại Điều 6 Luật Đầu tư, Nhà nước bảo đảm thanh toán hoặc bồi thường tài
sản và vốn của Nhà đầu tư theo giá thị trường hoặc bằng hình thức khác theo thỏa thuận.
3. Thế nào là thị trường tài chính? Thế nào là thị trường ngoại hối?
Thị trường chứng khoán?
Thị trường tài chính
Thị trường tài chính là một bộ phận quan trọng bậc nhất trong hệ thống tài chính,
chi phối toàn bộ hoạt động của nền kinh tế hàng hóa. Thị trường tài chính
phát triển góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế xã hội của một
quốc gia.
Vai trò, chức năng
• Thị trường tài chính đóng vai trò là kênh dẫn vốn từ người tiết kiệm đến người
kinh doanh. giúp cho việc chuyển vốn từ người không có cơ hội đầu tư sinh lợi
đến những người có cơ hội đầu tư sinh lợi.
• Thị trường tài chính thúc đẩy việc tích lũy và tập trung tiền vốn để đáp ứng nhu
cầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, sản xuất kinh doanh.
• Thị trường tài chính giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn, không chỉ đối

với người có tiền đầu tư mà còn cả với người vay tiền để đầu tư. Người cho vay
sẽ có lãi thông qua lãi suất cho vay. Người đi vay vốn phải tính toán sử dụng vốn
vay đó hiệu quả nhất do họ phải hoàn trả cả vốn và lãi cho người cho vay đồng
thời phải tạo thu nhập và tích lũy cho chính bản thân mình.
• Thị trường tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chính sách mở
cửa, cải cách kinh tế của Chính phủ thông qua các hình thức như phát hành trái
phiếu ra nước ngoài, bán cổ phần, thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành
sản xuất kinh doanh trong nước.
• Thị trường tài chính cho phép sử dụng các chứng từ có giá, bán cổ phiếu, trái
phiếu, đổi tiền.
Cấu trúc của thị trường tài chính
• Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần
Thị trường nợ: Phương pháp chung nhất mà các công ty sử dụng để vay vốn trên
thị trường tài chính là đưa ra một công cụ vay nợ, ví dụ như trái khoán hay một
món vay thế chấp. Công cụ vay nợ là sự thoả thuận có tính chất hợp đồng có lãi
suất cố định và hoàn trả tiền vốn vào cuối kì hạn. Kì hạn dưới 1 năm là ngắn hạn,
trên 1 năm là trung và dài hạn. Thị trường nợ là thị trường diễn ra việc mua bán
các công cụ nợ kể trên.
Thị trường vốn cổ phần: Phương pháp thứ hai để thu hút vốn là các công ty phát
hành cổ phiếu. Người nắm giữ cổ phiếu sở hữu một phần tài sản của công ty có
quyền được chia lợi nhuận ròng từ công ty sau khi trừ chi phí, thuế và thanh toán
cho chủ nợ (những người sở hữu công cụ nợ.
• Thị trường cấp một và thị trường cấp hai
Thị trường cấp một : Là thị trường tài chính trong đó diễn ra việc mua bán
chứng khoán đang phát hành hay chứng khoán mới. Việc mua bán chứng khoán
trên thị trường cấp một thường được tiến hành thông qua trung gian là các ngân
hàng.
Thị trường cấp hai: Là thị trường mua bán lại những chứng khoán đã phát hành.
Khi diễn ra hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường này thì người vừa bán
chứng khoán nhận được tiền bán chứng khoán còn công ty phát hành không thu

được tiền nữa, một công ty thu được vốn chỉ khi chứng khoán của nó được bán
lần đầu tiên trên thị trường cấp một.
• Thị trường tiền tệ và thị trường vốn
Thị trường tiền tệ: Là một thị trường tài chính chỉ có các công cụ ngắn hạn( kỳ
hạn thanh toán dưới 1 năm).
Thị trường vốn: Là thị trường diễn ra việc mua bán các công cụ nợ dài hạn như
cổ phiếu, trái phiếu. Thị trường vốn được phân thành ba bộ phận là thị trường cổ
phiếu, các khoản cho vay thế chấp và trái phiếu.
Thị trường ngoại hối
Thị trường ngoại hối hay thị trường hối đoái ngoại tệ là thị trường tiền tệ quốc tế
diễn ra các hoạt động giao dịch các ngoại tệ và các phương tiện thanh toán có
giá trị như ngoại tệ.
Các chức năng cơ bản của thị trường ngoại hối
• Đáp ứng nhu cầu mua bán ,trao đổi ngoại tệ nhằm phục vụ cho quá trình chu
chuyển, thanh toán trong các lĩnh vực thương mại và phi thương mại.
• Công cụ để ngân hàng trung ương có thể thực hiện chính sách tiền tệ nhằm điều
khiển nền kinh tế theo mục tiêu chính phủ.
• Thị trường ngoại hối có chức năng tín dụng.
• Cung cấp các công cụ cho các nhà kinh tế nghiên cứu để phòng ngừa rủi ro hối
đoái trong trao đổi ngoại tệ.Đồng thời giúp các nhà đầu cơ nghiên cứu thu được
lợi nhuận nếu họ dự đoán được tỷ giá hối đoái.
Cấu trúc của thị trường ngoại hối:
• Các ngân hàng:
Các ngân hàng trung ương: hầu hết ở các nước ngân hàng trung ương đóng vai
trò tổ chức ,kiểm soát,điều hành và ổn định thị trường ngoại hối.
Các ngân hàng thương mại và các ngân hàng đầu tư: tham gia với mục đích
kinh doanh,cung cấp dịch vụ cho khác hàng như một nhà môi giới.
• Các nhà môi giới : là chủ thể trung gian trong các giao dịch trên thị trường.
• Các doanh nghiệp : các doanh nghiệp tham gia chủ yếu là các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu.Họ vừa là chủ thể cầu ngoại tệ,vừa là chủ thể cung ngoại tệ.

• Các cá nhân ,các nhà kinh doanh : bao gồm các công dân trong và ngoài nước
có nhu cầu mua và bán ngoại tệ.
• Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.
• Các công ty đa quốc gia.
Thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán: là một thị trường mà ở nơi đó người ta mua bán, chuyển
nhượng, trao đổi chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời. Tuy nhiên, đó có thể là
TTCK tập trung hoặc phi tập trung.
Tính tập trung ở đây là muốn nói đến việc các giao dịch được tổ chức tập trung theo một
địa điểm vật chất.Hình thái điển hình của TTCK tập trung là Sở giao dịch chứng khoán
( Stock exchange). Tại Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK), các giao dịch được tập trung
tại một địa điểm; các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá trình ghép
lệnh để hình thành nên giá giao dịch.
TTCK phi tập trung còn gọi là thị trường OTC (over the counter). Trên thị trường OTC,
các giao dịch được tiến hành qua mạng lưới các công ty chứng khoán phân tán trên khắp
quốc gia và được nối với nhau bằng mạng điện tử. Giá trên thị trường này được hình
thành theo phương thức thoả thuận.
Chức năng của TTCK
1. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế:
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ
được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã
hội. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được
các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các
nhu cầu chung của xã hội.
2. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng:
TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa
chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời
hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hoá phù hợp với khả
năng, mục tiêu và sở thích của mình.
3. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán:

Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền
mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong
những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy
tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả
thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao.
4. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp:
Thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng
hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh nghiệp được
nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
5. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô:
Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính
xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng
trưởng; ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh
tế. Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng
giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có
thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và
quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp
tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền
kinh tế.
Cơ cấu Thị trường Chứng khoán:
Xét về sự lưu thông của chứng khoán trên thị trường, TTCK có hai loại:
1. Thị trường sơ cấp:
Là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà
đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng
khoán mới phát hành.
2. Thị trường thứ cấp:
Là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp.Thị trường
thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành.
Các nguyên tắc hoạt động của TTCK:

1. Nguyên tắc cạnh tranh:
Theo nguyên tắc này, giá cả trên TTCK phản ánh quan hệ cung cầu về chứng khoán và
thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị trường sơ cấp, các nhà phát
hành cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư, các nhà đầu
tư được tự do lựa chọn các chứng khoán theo các mục tiêu của mình. Trên thị trường thứ
cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình một lợi nhuận cao nhất,
và giá cả được hình thành theo phương thức đấu giá.
2. Nguyên tắc công bằng:
Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều phải tuân thủ những qui định
chung, được bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin và trong việc gánh chịu các hình thức
xử phạt nếu vi phạm vào những qui định đó.
3. Nguyên tắc công khai:
Chứng khoán là loại hàng hoá trừu tượng nên TTCK phải được xây dựng trên cơ sở hệ
thống công bố thông tin tốt. Theo luật định, các tổ chức phát hành có nghĩa vụ phải cung
cấp thông tin đầy đủ theo chế độ thường xuyên và đột xuất thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng, Sở giao dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức có liên quan.
4. Nguyên tắc trung gian:
Nguyên tắc này có nghĩa là các giao dịch chứng khoán được thực hiện thông qua tổ chức
trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư không mua
trực tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ
cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các công ty chứng khoán mua, bán
chứng khoán giúp các khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua việc thực
hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình.
5. Nguyên tắc tập trung:
Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên sở giao dịch và trên thị trường OTC dưới sự
kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tự quản.
Các thành phần tham gia TTCK:
1. Nhà phát hành:
Là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK dưới hình thức phát hành các
chứng khoán.

2. Nhà đầu tư:
Là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên TTCK. Nhà đầu tư có thể được
chia thành 2 loại:
- Nhà đầu tư cá nhân: là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên
TTCK với mục đích kiếm lời.
- Nhà đầu tư có tổ chức: là các định chế đầu tư thường xuyên mua bán chứng khoán với
số lượng lớn trên thị trường.
Các định chế này có thể tồn tại dưới các hình thức sau: công ty đầu tư, công ty bảo hiểm,
Quỹ lương hưu, công ty tài chính, ngân hàng thương mại và các công ty chứng khoán.
3. Các công ty chứng khoán:
Là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, có thể đảm nhận một hoặc
nhiều trong số các nghiệp vụ chính là môi giới, quản lý quỹ đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư
vấn đầu tư chứng khoán và tự doanh.
4. Các tổ chức có liên quan đến TTCK:
- Uỷ ban chứng khoán Nhà nước: là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản
lý nhà nước đối với TTCK ở Việt nam.
- Sở giao dịch chứng khoán: là cơ quan thực hiện vận hành thị trường và ban hành những
quyết định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán trên Sở phù hợp với các quy
định của luật pháp và UBCK.
- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán: là tổ chức phụ trợ, phục vụ các giao dịch chứng
khoán.
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm: là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực
thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã cam kết
của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể.
4. Nêu những nhân tố làm cho thế giới phẳng?
Tác 1. Sự sụp đổ của Bức tường Berlin vào ngày 9 tháng 11 năm 1989 và sự lớn mạnh
của phần mềm Windows đã “làm nghiêng cán cân quyền lực” (tr. 82) về tay những ai cổ
suý hướng phát triển thị trường tự do và cách quản lý từ cơ sở lên trung ương, chứ không
phải theo hướng ngược lại.
Các cách tổ chức hành chính và quản lý bắt đầu được tiến hành theo hướng nằm ngang

thay vì theo trục thẳng đứng, khi mọi người đều được trao quyền tự do và bình đẳng
trong cuộc sống. Sự kiện này giúp các nước thay đổi cách tư duy về thế giới theo một thể
thống nhất toàn cầu , và nó thúc đẩy việc khai thác tri thức của nhau trong khoảng thời
gian ngắn nhất .
Một tác nhân không kém phần quan trọng trong thời kỳ phát triển rực rỡ của nền kinh tế
tri thức toàn cầu là sự ra đời, cải tiến liên tục của máy tính cá nhân và phần mềm
Windows (được dịch ra 38 ngôn ngữ), tạo điều kiện tốt cho cuộc cách mạng thông tin
toàn cầu . Hai sự kiện này giúp nhân loại xích lại gần nhau hơn trong phạm vi xử lý công
việc, giao tiếp và chia sẻ thông tin giữa các cá nhân .
2. Sự ra đời của mạng web với sự xuất hiện của mạng toàn cầu với www. vào năm
1991 do ông Tim Berners-Lee thiết kế, đã giúp các nhà khoa học chia sẻ kết quả nghiên
cứu và giúp người ta truy cập thông tin nhanh hơn bao giờ hết. Hệ thống ngôn ngữ đánh
dấu siêu văn bản HTML, định vị tài nguyên duy nhất URL hay giao thức truyền siêu văn
bản HTTP, v.v… đã cho phép những người bình thường với kiến thức mạng có thể làm
chủ các trang web và kết nối với các nguồn tài liệu khác trên toàn cầu, và nó thật sự giúp
nhân loại tiến lại gần nhau hơn, không những trong giao tiếp điện tử mà còn cả việc
truyền tải và truy cập thông tin (tr. 97).
Sự ra đời của cáp quang thương mại băng rộng có tín hiệu cao và được truyền tới khoảng
cách xa bằng vận tốc nhanh nhất đã tạo ra cuộc cạnh tranh và cải tiến vượt bậc của các
công ty viễn thông.
Ngoài ra, cuộc cách mạng kỹ thuật số trong hầu như các lĩnh vực kinh tế và giải trí chủ
đạo đã dẫn đến sự bùng nổ giao dịch chứng khoán của các công ty dot.com (công ty kinh
doanh trên Internet). Sự kiện này khiến cho cá nhân có thể tiếp cận các sản phẩm số dễ
dàng hơn và có thể tương tác thương mại với các cá nhân khác trên phạm vi toàn cầu.
3. Phần mềm xử lý công việc là một nhân tố làm phẳng khác. Các công việc kinh
doanh và thương mại bây giờ hầu như được thực hiện thông qua sự kết hợp giữa máy tính
cá nhân với Windows và mạng, cho phép nhân viên kiểm soát nội dung số các dữ liệu.
Đặc biệt, giao thức truyền thư đơn giản SMTP, giao thức kiểm soát truyền thông tin/giao
thức Internet TCP/IP được ví như đường ray xe lửa, thúc đẩy việc trao đổi các thông tin
điện tử giữa các máy tính khác nhau dễ dàng hơn.

Với sự phát triển của thương mại điện tử (e-commerce), các giao dịch thương mại được
thực hiện dựa trên các chuẩn mực mới. Công việc được chia nhỏ ra thành các công đoạn
khác nhau, và hệ thống phần mềm cho phép các cá nhân thực hiện ở mọi nơi trên thế giới
Khái niệm kết nối và sử dụng (plug and play) đã thúc đẩy sự cạnh tranh kinh tế toàn cầu
ở hình thái cộng tác và cùng xây dựng liên minh.
4. Tải lên mạng và mã nguồn mở do cộng đồng phát triển đã giúp các cá nhân có
nhiều tiếng nói và được lắng nghe hơn bao giờ hết.
Quyền lực mới của các cư dân mạng (net citizens) là khả năng gửi các ý tưởng, sản phẩm
hay chia sẻ kinh nghiệm và quan điểm với các cá nhân và cộng đồng khác thông qua mã
nguồn mở. Sự phân phối lại quyền lực này được thực hiện ngoài thể chế truyền thống áp
đặt từ trên xuống dưới và giúp cho các cá nhân không chỉ đơn thuần là người sử dụng
thông tin, mà họ còn là người sản xuất thông tin trên các công cụ điện tử như blogging
(với khoảng 24 triệu blogs), hay bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
Tác nhân này thúc đẩy sự ra đời và lớn mạnh của nghề báo công dân (civic journalism)
khi độc giả cũng có thể trở thành người đóng góp tin tức và bình luận. Tuy nhiên, không
phải các thông tin đều được sử dụng đúng mục đích hay kiến thức mới được sản sinh một
cách xác thực và khoa học. Mã nguồn mở cũng là công cụ đắc lực cho các thế lực tội
phạm khủng bố, tin tặc hay những kẻ xuyên tạc sử dụng để gây ảnh hưởng xấu lên cả
cộng đồng quốc tế.
5. Thuê làm bên ngoài là một hoạt động thuê lao động nước ngoài thực hiện một số
công đoạn mà mình không thể thực hiện được và sau đó gắn kết quả thực hiện vào dây
chuyền sản xuất chung của mình. Tận dụng vào nguồn lao động có kỹ năng cao và rẻ tiền
cộng với sự chênh lệch múi giờ địa lý ở các nước đang phát triển, các nước phát triển có
thể khai thác năng lực trí tuệ của các công nhân tri thức ở đây.
Yếu tố đầu tiên tác động đến trào lưu này là sự kiện Y2K khi Mỹ và Ấn Độ cùng hợp tác
để giải quyết sự cố máy tính. Bằng cách sử dụng các trạm kết nối cáp quang, các chuyên
gia hai nước có thể thực hiện các hoạt động điều chỉnh máy tính cách nhau nửa vòng trái
đất. Sự hợp tác Y2K này là một ví dụ điển hình về sự hợp tác và phân công lao động
quốc tế dựa vào công nghệ thông tin và sự di cư lao động xuyên quốc gia.
6. Chuyển sản xuất ra nước ngoài cũng góp phần làm phẳng thế giới. Đây là quy

trình di chuyển cơ sở sản xuất đến những nước có lao động dồi dào và thị trường tiêu thụ
lớn dưới sự bảo hộ của các qui tắc thương mại quốc tế.
Với việc gia nhập WTO năm 2001, Trung Quốc có thể thu hút nhiều nhà đầu tư nước
ngoài đến xây dựng nhà máy sản xuất, và họ trở thành một “mối đe doạ, một khách hàng,
và một cơ hội” (tr. 216) cho các nước khác. Trung Quốc đã gây thiệt hại cho không ít
các công nhân và ngành nghề chế tạo trên thế giới nhưng lại là “của trời cho” đối với
người tiêu dùng vì sản phẩm mang giá cạnh tranh của họ. Điều này cũng kích thích sự
cạnh tranh và cải thiện sản xuất từ các nước láng giềng và góp phần làm phẳng quá trình
cạnh tranh thương mại quốc tế. Khái niệm “Trung Quốc + 1” (tr. 220) là một lời cảnh
báo thông minh cho các nhà đầu tư khi họ không nên tập trung quá nhiều vốn vào một
nước vì khả năng xảy ra rủi ro tài chính rất cao.
7. Nhân tố thứ bảy là chuỗi cung , một phương pháp cộng tác theo chiều ngang giữa các
nhà cung cấp sản phẩm và khách hàng với chi phí vận chuyển thấp nhất trong thời gian
ngắn nhất và đáng tin cậy nhất .
Với hệ thống bán lẻ lớn, Wal-Mart đã trực tiếp thương lượng với các nhà sản xuất để cắt
giảm chi phí sản xuất, liên tục cải thiện chuỗi cung từ các nhà sản xuất đến trung tâm
phân phối của họ, và thường xuyên cải thiện hệ thống thông tin để nắm bắt thị hiếu của
khách hàng đồng thời thông báo ngay lập tức đến nhà sản xuất. Việc sử dụng các thiết bị
truyền thông hiện đại hỗ trợ rất nhiều trong việc cắt giảm đáng kể các chi phí vận chuyển
và lưu hàng tồn kho, giúp các sản phẩm khác nhau trên thế giới có thể đến tận tay người
tiêu dùng với giá cả hợp lý nhất.
8. Thuê bên ngoài làm là một phương thức hợp tác nằm ngoài tầm quản lý của
chuỗi cung khi nó có thể làm đồng bộ hoá các chuỗi cung bằng các công tác hậu cần
cần thiết. Các công ty làm thuê này phục vụ và hỗ trợ cho các chuỗi cung hoạt động hiệu
quả và nhanh chóng hơn. Hầu như đây là dịch vụ quản lý thứ ba (bên cạnh nhà sản xuất
và người phân phối) giúp hàng hoá hay các yêu cầu khách hàng từ khắp nơi trên thế giới
có thể được vận chuyển và giải quyết một cách nhanh chóng và hiệu quả, nó đã tạo ra
một sân chơi khá công bằng cho những ai có năng lực làm công tác dịch vụ và cung cấp
hậu cần tốt.
9. Nhân tố thứ chín liên quan đến việc cung cấp thông tin .

Với sự phát triển của Google (cách chơi chữ của “googol”, một con số đại diện bởi chữ
số 1 và theo sau là hàng trăm con số 0, phản ánh phương châm sắp xếp khối lượng thông
tin dường như vô tận và đưa lên mạng, tr. 272), Yahoo hay MSN, người ta có thể xây
dựng và phát triển chuỗi cung cấp thông tin, kiến thức, giải trí và truyền thông mà không
có ranh giới về giai cấp hay giáo dục.
Các công cụ giao tiếp điện tử này đã thu hẹp trái đất hình cầu này lại, khi từng cá nhân có
thể giao tiếp với các cá nhân khác mà họ có thể chưa bao giờ biết đến .
Những cộng đồng di cư trên mạng này có thể sống trong những ngôi nhà ảo, và vì vậy sự
an toàn hay tính bảo mật cá nhân không còn được như trước nữa .
10. Các nhân tố xúc tác khác cũng góp phần làm phẳng thế giới.
Nhân tố đầu tiên của nhóm này liên quan đến công nghệ thông tin khi nó có khả năng
tính toán, lưu trữ và cung cấp đầu vào - đầu ra. Cuộc cách mạng số giúp cho quá trình sản
xuất, điều chỉnh và truyền phát thông tin đạt được tốc độ cao do chính các cá nhân thực
hiện vì mục đích của riêng họ trên các thiết bị của họ.
Nhân tố thứ hai là những bước tiến dài về các mã nguồn chia sẻ tài liệu theo hình thức
đồng đẳng.
Nhân tố thứ ba: Các bước đột phá về công nghệ liên lạc thông qua mạng, như điện thoại
VoIP, cho phép chuyển các tín hiệu âm thanh thành tín hiệu số để gửi lên Internet và sau
đó được chuyển thành tín hiệu âm thanh trở lại. Điều này đã tạo ra một cuộc cách mạng
hoá trong ngành viễn thông, không những về việc nâng cao các thiết bị kỹ thuật mà còn
cả việc cung cấp các dịch vụ với giá cả ưu đãi hơn.
Nhân tố thứ tư là khả năng đàm thoại video khi doanh nhân có thể tham dự buổi họp
quốc tế tại địa phương của mình thông qua một màn hình hiển thị cuộc họp ở nước ngoài.
Nhân tố thứ năm: Công nghệ đồ hoạ với những tiến bộ trong trò chơi máy tính với
những giao diện bắt mắt hơn là nhân tố xúc tác thứ năm.
Nhân tố thứ sáu: là việc ứng dụng các thiết bị không dây trong công nghệ truyền thông.
Kết luận: Khi mười, hay một số tác nhân trên cùng đồng thời diễn ra, các cá nhân dường
như chịu sự tác động của toàn cầu hoá theo một chiều hướng khác. Tiến trình này không
chỉ là sự trao đổi hay giao tiếp đơn thuần giữa các chính phủ hay các tập đoàn kinh tế mà
là sự tương tác giữa các cá nhân dẫn đến sự thay đổi vai trò của họ trong cộng đồng quốc

tế. Để có thể gia nhập tiến trình này, các cá nhân phải có những kiến thức và kỹ năng cần
thiết. Vì vậy, giáo dục đóng một vai trò hết sức quan trọng trong công tác đào tạo ra
những công dân kiến thức hội đủ bốn chỉ số: IQ (chỉ số thông minh), EQ (chỉ số tình
cảm), CQ (chỉ số tò mò, tìm hiểu), và PQ (chỉ số đam mê). động trực tiếp nhất của FDI
tới nền kinh tế vĩ mô thể hiện ở tài khoản vãng lai. Nếu điều chỉnh được cán cân thanh
toán thì không sao, nhưng luồng FDI tăng quá đột ngột hoặc không bền vững nó có thể
tác động tới sự ổn định kinh tế vĩ mô. Khi tăng trưởng quá phụ thuộc vào các dòng vốn
đổ vào từ bên ngoài thì xét dưới góc độ vĩ mô, nền kinh tế sẽ phải trả giá cho tới các thế
hệ sau. Với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thay vì
dựa vào nguồn vốn đầu tư trong nước mang lại tốc độ tăng trưởng thấp hơn, Việt Nam
rõ ràng đã chọn lựa cải thiện mức sống cho thế hệ hiện tại và đẩy các thế hệ tương lai
tới chỗ phải đối mặt với các khoản nợ nước ngoài ngày càng tăng. Nợ nước ngoài tăng
(tính theo tỷ lệ GDP) sẽ được phản ánh trong cán cân thanh toán vãng lai ngày càng
mất cân đối. Năm 2008, thâm hụt tài khoản vãng lai của Việt Nam đã vượt quá 10 tỷ
USD, chiếm hơn 10% GDP.
Vì vậy, vốn đầu tư nước ngoài tăng sẽ gián tiếp dẫn đến thâm hụt tài khoản vãng lai
tăng và nợ nước ngoài tăng. Bản thân thâm hụt tài khoản vãng lai vốn không phải là
xấu, và thặng dư tài khoản vãng lai cũng không nhất thiết đã là tốt. Tuy nhiên, về dài
hạn, nếu như thâm hụt tài khoản vãng lai không được kiểm soát tốt, nó sẽ khiến các thị
trường tài chính phản ứng bằng cách… tạo ra khủng hoảng.
FDI tăng mạnh sẽ làm gia tăng nhu cầu đối với cả nhóm hàng hóa thương mại lẫn nhóm
hàng hóa phi thương mại. Tuy nhiên, nhu cầu đối với nhóm hàng hóa phi thương mại sẽ
tăng mạnh hơn. Khi dòng vốn đổ vào nhiều, cung không đủ đáp ứng cầu sẽ làm giá của
nhóm hàng phi thương mại tăng. Việc này dẫn tới tỷ giá hối đoái thực tăng. Giá nội tệ
tăng phản ánh thị trường bị chi phối bởi “cơ chế giá”; đồng thời nó thúc đẩy sự dịch
chuyển vốn từ nhóm hàng hóa thương mại sang nhóm phi thương mại, do sức cạnh
tranh thương mại quốc tế giảm. Vì vậy, tỷ giá hối đoái thực tăng gián tiếp dẫn đến sức
cạnh tranh quốc tế giảm.
Nếu tỷ giá hối đoái thực tăng do luồng vốn FDI đổ vào lớn, nó sẽ cản trở chính sách
điều chỉnh tiền tệ của chính phủ, bằng cách làm chậm phản ứng về cung đối với khu

vực xuất khẩu hoặc làm gia tăng sức ép hỗ trợ khả năng cạnh tranh cho khu vực bị
hàng nhập khẩu đe dọa.
Ở các nền kinh tế bị đô la hóa, một tỷ lệ lớn các mặt hàng phi thương mại cũng có thể bị
tính bằng USD. Tỷ lệ này càng cao, tỷ giá hối đoái thực càng phản ứng chậm với những
thay đổi của tỷ giá danh nghĩa. Ở các nền kinh tế bị đôla hóa, ngân hàng trung ương
cũng khó thực hiện các nghiệp vụ thị trường mở. Do thiếu các công cụ tiền tệ dưới dạng
các tài sản định giá bằng VND, Ngân hàng nhà nước Việt Nam (SBV) khó thực hiện các
nghiệp vụ thị trường mở. Đối với các công cụ khác, như dự trữ bắt buộc - một công cụ
mà SBV thực hiện rất ráo riết - cũng chỉ mang lại hiệu quả hạn chế. Tình trạng đôla hóa
đã tạo điều kiện cho các luồng vốn nước ngoài qua mặt hệ thống kiểm soát tài chính và
trở thành một phần nguồn cung tiền. Trên thực tế, các vấn đề kinh tế vĩ mô nổi lên mạnh
mẽ kể từ giữa năm 2008 là do sự bất lực trước đó của SBV trong việc điều tiết các
luồng tài chính đổ vào từ bên ngoài. Hệ thống ngân hàng tràn ngập thanh khoản, đẩy
nhịp độ tăng tín dụng lên tới 50% trong năm 2007 và hậu quả đã thấy trong năm sau.
Tuy nhiên, ngay khi Việt Nam sắp sửa rơi vào khủng hoảng do bùng nổ bong bóng tài
sản, thì cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu ập đến. Tăng trưởng kinh tế thế giới chậm
lại, cộng thêm giá dầu thô và các mặt hàng khác giảm, đã giúp làm nguội nền kinh tế và
làm dịu bớt sức ép lạm phát ở Việt Nam. Cú sốc thương mại trầm lắng cũng làm giảm
thu nhập quốc dân và giúp Việt Nam đẩy lùi lạm phát. FDI vào Việt Nam năm 2008 vẫn
cao, song dự báo sẽ giảm mạnh trong năm 2009. Dường như sự may mắn này đã giúp
cho Việt Nam thoát khỏi một cuộc khủng hoảng tài chính cận kề trong năm 2008.
Luồng vốn FDI quá lớn cũng có thể ảnh hưởng tới các nước có hệ thống ngân hàng yếu
hoặc có hệ thống giám sát rủi ro tài chính không tốt. Việt Nam có một hệ thống ngân
hàng còn khá trẻ và thiếu kinh nghiệm, cộng thêm khu vực doanh nghiệp Nhà nước
được kiểm soát khá lỏng lẻo. Hệ thống ngân hàng thiếu kinh nghiệm trong đánh giá rủi
ro nhưng lại phải trung chuyển quá nhiều vốn tín dụng; thêm vào đó, khối doanh nghiệp
nhà nước hăng hái đầu tư vào bất động sản, tài chính và các hoạt động khác không
phải là thế mạnh của họ, đó là một tình huống tổng hợp nhiều yếu tố thiếu lành mạnh.
Những bất ổn kinh tế vĩ mô gần đây, nhất là trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính toàn
cầu, đã cho thấy sự cần thiết phải có các chính sách phản ứng của chính phủ trong việc

kiềm chế những hậu quả mà một luồng vốn FDI dồi dào gây ra. Có nhiều yếu tố cản trở
chính phủ thi hành các chính sách này, nhưng có thể kể ra hai yếu tố lớn: thứ nhất là
tình trạng đôla hóa nền kinh tế và thứ hai là sự kết hợp một hệ thống ngân hàng thiếu
kinh nghiệm với khối doanh nghiệp nhà nước đầu tư tham lam. Đó là những thách thức
dài hạn chính phủ cần phải giải quyết. Chừng nào chúng còn tồn tại, chừng đó chính
phủ còn khó giải quyết các hậu quả vĩ mô do các luồng vốn đầu tư gây ra trong ngắn và
trung hạn. Nếu chính sách tiền tệ bị tình trạng đôla hóa cản trở, thì chính sách tài khóa
cần phải được tăng cường. Thông qua cắt giảm mạnh chi tiêu, chính phủ có thể tránh
phụ thuộc vào việc tích trữ ngoại tệ để phục vụ đầu tư, và qua đó kiểm soát thâm hụt tài
khoản vãng lai.
Ngoài ra, chính phủ cần đặt mục tiêu trung hạn hỗ trợ cho hệ thống tài chính trong nước
tăng sức đề kháng đối với các nguy cơ tiềm ẩn phía sau những miếng mồi hấp dẫn -
chẳng hạn tình trạng cho vay vào các dự án rủi ro cao - và hậu quả của các vụ nổ bong
bóng tài chính. Xét về khía cạnh này, cần đề cập đến vấn đề các tổ chức tài chính nước
ngoài có thể giúp đỡ hoặc cản trở Việt Nam như thế nào trong các chính sách tiền tệ
thúc đẩy tăng trưởng.
Theo ASEAN Economic Bulletin

×