Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận Thành tế bào thực vật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 18 trang )

I. Thành tế bào thực vật
I.1. Cấu trúc thành tế bào thực vật
Khác với tế bào động vật ở tế bào thực vật bên ngoài màng sinh chất còn có một
lớp vững chắc bao quanh tế bào đó là thành tế bào (vách tế bào).
Hình 1. Cấu trúc tế bào thực vật
a. Thành phần cấu tạo
Thành tế bào được cấu tạo bởi 3 thành phần chính là cellulose, hemicellulose và
lignin, tỉ lệ giữa các thành phần này có trong thành tế bào khác nhau ở từng loài, từng
giai đoạn phát triển và độ tuổi của cơ thể.
- Thành phần chủ yếu của thành tế bào là cellulose, đây là một loại polisaccarit
có công thức phân tử là (C
6
H
10
O
5
)
n
. Được cấu tạo theo nguyên tắc đa phân gồm nhiều
đơn phân là các phân tử glucose liên kết với nhau nhờ các liên kết β-(1, 4)-glucoside
tạo thành mạch thẳng không phân nhánh. Cellulose được cấu tạo thành chuỗi dài gồm
1
ít nhất 500 phân tử glucose. Các phân tử cellulose nằm cạnh nhau liên kết với nhau nhờ
các liên kết hidro tạo thành các bó sợi microfibril, có đường kính khoảng 3,5 nm. Mỗi
chuỗi có nhiều nhóm -OH tự do, vì vậy giữa các sợi ở cạnh nhau kết hợp với nhau nhờ
các liên kết hidro được tạo thành giữa các nhóm -OH của chúng. Các vi sợi lại liên kết
với nhau tạo thành vi sợi lớn hay còn gọi là bó mixen có đường kính 20 nm, giữa các
sợi trong mixen có những khoảng trống lớn. Khi tế bào còn non, những khoảng này
chứa đầy nước, ở tế bào già thì chứa đầy lignin và hemicellulose. Các bó sợi này lại
đan xen chằng chịt tạo thành lớp cellulose bền chắc. Trong cơ thể người và động vật
chỉ có enzim cắt đứt liên kết α-(1, 4)- glucoside ở phân tử tinh bột mà không có enzim


phá vỡ các liên kết β-(1, 4)-glucoside. Loại enzim này chỉ có ở nấm và một số loài vi
khuẩn.
Hình 2. Cấu trúc phân tử cellulose
- Thành phần quan trọng thứ hai của thành tế bào là hemicellulose.
Hemicellulose là một loại polymer phức tạp và phân nhánh, độ trùng hợp
khoảng 70 đến 200 đơn phân. Hemicellulose chứa các đường đơn 6 cacbon : glucose,
mannose, galactose và đường 5 cacbon gồm xylose và arabinose. Thành phần cơ bản
2
của hemicellulose là β-D-xylopyranose, liên kết với nhau bằng liên kết β-1,4-D-
xylopyranose tạo nên mạch chính của hemicellulose. Mạch nhánh cấu tạo từ các nhóm
đơn giản, thông thường là disaccharide hoặc trisaccharide. Sự liên kết của
hemicellulose với các polysaccharide khác và với lignin là nhờ các mạch nhánh này.
Hình 3. Một loại hemicellulose ở cây gỗ mềm
- Lignin
Lignin là một polyphenol mạch vòng được cấu thành từ các đơn vị
phenylpropene như: guaiacyl (G), trans-coniferyl alcohol; syringyl (S), trans-sinapyl
alcohol; p-hydroxylphenyl (H), trans-p-courmary alcohol.
Hình 4. Các đơn vị cơ bản của lignin
3
Trong tự nhiên, lignin chủ yếu đóng vai trò chất liên kết trong thành tế bào thực
vật, liên kết chặt chẽ với mạng cellulose và hemicellulose. Rất khó để có thể tách lignin
ra hoàn toàn.
Trong tế bào của cây gỗ, cỏ khô và rơm rất giàu lignin nên tỷ lệ tiêu hóa thấp
trừ khi được xử lý hóa học làm cho các liên kết giữa lignin với các carbohydrate khác
bị bẻ gãy.
Hình 5. Cấu trúc lignin trong gỗ mềm với các nhóm chức chính
Sự liên kết chặt chẽ của 3 thành phần trên tạo nên cấu trúc lignocellulose rất bền
vững, quy định tính bền vững của thành tế bào thực vật.
4
Hình 6. Cấu trúc của lignocellulose trong thành tế bào

- Pectin: pectin là đại phân tử mạch thẳng được cấu tạo bởi đơn phân là
gaclactoronic và các ester methyl của chúng qua các liên kết α-1,4- glucoside.
Hình 7. Sự liên kết của các đơn phân cấu tạo phân tử pectin
5
Trong thành
tế bào, pectin tạo
thành lớp keo gắn
kết các thành phần
của thành tế bào và
gắn kết thành của
các tế bào cạnh
nhau tạo thành các
mô nhất định.
Hình 8. Vị trí của pectin trong thành tế bào
- Nước: chủ yếu ở trạng thái nước liên kết, chiếm 75-80% tổng số.
Ngoài ra tùy vào loại tế bào, tùy loài và độ tuổi thành tế bào còn có thêm một số
chất khác như: suberin (bần), sáp, cutin, chất khoáng như: Si, CaCO
3
.
b. Cấu trúc thành tế bào
Thành tế bào có cấu trúc phức tạp, được chia làm 3 lớp chính:
Hình 9. Các lớp cấu trúc thành tế bào
6
- Ngoài cùng là phiến giữa (middle lamella): Cấu tạo bởi pectin, đây là lớp keo
dính thành của các tế bào cạnh nhau để tạo nên các mô nhất định.
- Lớp giữa là vách sơ cấp (primary wall): Bao gồm 30% pectin, 25%
hemicellulose, 15-30% cellulose, 20% glycoprotein và có sự thay đổi tùy theo loài, độ
tuổi.
- Trong cùng là vách thứ cấp (secondary wall): Nằm sát màng sinh chất, xuất
hiện khi tế bào ngừng tăng trưởng. Thành phần chính của vách thứ cấp là cellulose,

hemicellulose, về già được thấm thêm chất lignin để tăng độ vững chắc.
I.2. Chức năng của thành tế bào thực vật
1. Bảo vệ tế bào về mặt cơ học: Bảo vệ lớp màng sinh chất bên trong khỏi
những tác động cơ học. Có tác dụng như bộ khung nâng đỡ cơ thể thực vật, giúp cơ thể
có thể đứng vững (có thể so sánh với bộ xương của cơ thể động vật).
2. Quy định hình dạng của tế bào, giúp các tế bào thực hiện các chức năng nhất
định. Nhờ có thành các tế bào trong một mô sinh trưởng ở một giới hạn nhất định.
3. Ngăn cản sự xâm nhập của các loại virut, vi khuẩn. Thành tế bào rất dày và
bền vững, không có các thụ thể để virut có thể bám vào xâm nhập. Do đó, khi cơ thể bị
xây xước, thành tế bào bị phá vỡ virut dễ dàng theo vết thương xâm nhập vào tế bào cơ
thể thực vật.
4. Giúp tế bào chịu đựng áp suất trương: Vách được coi là lớp áo giới hạn giúp
cho tế bào không bị vỡ khi trương nước. Nhờ có vách tế bào và nồng độ các chất tan
mà tế bào kiểm soát được lượng nước tối đa vào trong tế bào, làm cho tế bào có mức
trương nước có giới hạn, tránh bị vỡ tế bào.
5. Vách tế bào còn có vai trò trong sự phân hóa tế bào.
Năm 1990, các nhà khoa học Pháp đã chứng minh vai trò của vách tế bào qua sự
phát triển của phôi qua thí nghiệm trên tảo Fucus sprralis. Ở lần phân chia thứ nhất của
hợp tử, tạo ra hai tế bào: Một tế bào tản, là nguồn gốc của tản và một tế bào rễ giả là
nguồn gốc của rễ giả (giúp tảo bám vào giá thể). Nếu dùng tia laser để phá hủy tế bào
rễ giả nhưng vẫn còn giữ lại vách, thì ở những lần phân chia sau đó, tế bào tản có thể
phân hóa thành các tế bào rễ giả nếu được tiếp xúc với phần vách này. Nhưng nếu cắt
7
bỏ toàn bộ phần vách của tế bào rễ giả thì sự phân hóa này không xảy ra. Thí nghiệm
trên đã cho thấy vách có vai trò quan trọng trong sự phát triển của phôi.
Vách tế bào rễ giả
Hình 10. Vai trò của vách tế bào trong sự phát triển phôi Fucus spiralis
6. Ngoài ra, thành tế bào thực vật không hoàn toàn khít ở mọi điểm mà có thủng
nhiều lỗ tạo nên các kênh trao đổi chất giữa các tế bào trong toàn bộ cơ thể. Đặc biệt ở
các tế bào mạch gỗ, chất nguyên sinh tiêu biến chỉ còn lại vách tế bào thấm nhiều

lignin vững chắc tạo nên các đường ống dẫn nước xuyên suốt từ rễ lên tới lá.
8
Phá vỡ thành tế bào
của tế bào rễ giả
Tế bào tản
Tế bào
rễ giả
Tế bào tản
II. Chất nền ngoại bào ở tế bào động vật ( extracellular matrix)
II.1. Cấu tạo chất nền ngoại bào ở tế bào động vật
Do tế bào tổng hợp và tiết ra môi trường ngoài. Được cấu tạo bởi protein, các
loại sợi glicoprotein (do protein kết hợp với polisaccarit) kết hợp với các chất vô cơ và
hữu cơ khác nhau, đặc biệt là các ion hóa trị hai như Ca
2+
.
Hình 11. Chất nền ngoại bào
-Protein: Loại protein phổ biến nhất cấu tạo chất nền ngoại bào là collagen.
Collagen là một protein dạng sợi gồm ba xoắn α giàu glycine và proline, có khả năng
đàn hồi cao. Chính các sợi collagen làm cho chất nền có tính bền vững và dẻo dai.
9
Hình 12. Cấu trúc collagen
- Glicoprotein: gồm các phân tử protein liên kết với polisaccarit
Hình 13. Cấu tạo glicoprotein
Màng đáy (basal lamina) là một loại chất nền đặc biệt, nằm dưới các tấm tế bào
và những nhóm tế bào của tổ chức khác ví dụ biểu mô cơ giúp liên kết các tấm tế bào
của biểu mô vào các mô khác như mô cơ.
10
Hình 14. Sự liên kết của biểu mô vào màng đáy
II.2. Chức năng chất nền ngoại bào
Chất nền ngoại bào có rất nhiều chức năng:

- Giúp các tế bào liên kết với nhau tạo thành các mô nhất định.
- Góp phần cấu thành các đặc tính của sụn, da và các mô khác. Trong cơ thể
người, ở vài mô, như mô thần kinh ở não có rất ít chất nền ngoại bào trong khi sụn và
xương lại có một lượng lớn. Tế bào xương dính vào chất nền ngoại bào nhờ collagen
và calcium phosphate nhờ đó làm cho xương cứng.
- Giúp lọc các chất đi qua các mô khác nhau.
- Đóng vai trò trong việc truyền tín hiệu hoá học từ tế bào này đến tế bào khác.
- Bôi trơn tế bào.
III. Sự liên kết giữa các tế bào
III.1. Sự liên kết giữa các tế bào động vật
Tế bào động vật không được nối với nhau bằng thành tế bào như ở tế bào thực
vật. Do đó, để thực hiện việc liên kết giữa các tế bào với nhau hoặc giữa tế bào với chất
nền ngoại bào tạo thành các mô nhất định thì tế bào thực hiện qua các mối nối. Dựa
vào cấu trúc và chức năng mà mối nối giữa các tế bào được chia làm 3 loại: Mối nối
chặt, mối nối neo giữ và mối nối thông tin.
11
Hình 15. Các loại mối nối ở tế bào động vật
III.1.1. Mối nối chặt (tight junction)
Mối nối chặt còn gọi là mối nối kín thường gặp ở các tế bào cấu trúc nên mô lát
trong cơ thể (lát mặt trong hệ tiêu hóa, ) tạo nên tấm tế bào.
a. Cấu tạo mối nối chặt
Mối nối chặt được
hình thành giữa hai tế bào
nằm cạnh nhau, màng sinh
chất của hai tế bào này hòa
nhập vào nhau tại một số
điểm với kích thước mối nối
khoảng 0,1-0,3µ tạo nên
khoảng giữa các mối nối có
kích thước 10-15nm.

Hình 16. Cấu tạo mối nối chặt
12
Hình 17. Ảnh chụp hiển vi mối nối chặt
b. Chức năng mối nối chặt
Các mối nối chặt giúp bít kín các con đường gian bào giữa hai tế bào cạnh nhau
tạo nên tấm tế bào, có chức năng ngăn chặn sự khuyếch tán các chất qua khoảng gian
bào. Ví dụ: đối với biểu mô ruột non mối nối chặt giúp ngăn cản sự rò rỉ của các chất
dinh dưỡng từ mạch máu trở lại khoang ruột, giúp chất dinh dưỡng được vận chuyển
theo một chiều từ khoang ruột vào máu, bạch huyết.
Hình 18. Vai trò của mối nối chặt ở biểu bì ruột
13
III.1.2. Mối nối neo giữ ( anchoring juction)
Mối nối neo giữ là mối nối giữa các tế bào cạnh nhau hoặc liên kết tế bào với
chất nền ngoại bào một cách chắc chắn nhờ vào các sợi thuộc bộ xương tế bào và các
loại protein màng. Đây là mối nối phân bố rộng khắp trong các mô động vật đặc biệt là
các mô phải chịu các bất lợi về cơ học, chịu sự kéo giãn thường xuyên như: Biểu mô
cơ, da,…
a. Cấu tạo mối nối neo giữ
Căn cứ vào cấu trúc và chức năng liên kết neo được phân biệt làm ba dạng khác
nhau: Liên kết dính, desmosome và hemidesmosome.
- Liên kết dính: Là nơi gắn kết của các siêu sợi actin, các sợi này của các tế bào
nằm cạnh nhau kết nối với nhau qua trung gian một loại protein xuyên màng là
cadherin.
Hình 19. Cấu trúc mối liên kết dính
- Desmosome: Là một thể liên kết bao gồm nhiều phức hợp protein khác nhau:
Tấm bào tương, cadehrin và các siêu sợi trung gian.
+ Tấm bào tương: Là một phức hợp các protein nội bào tập trung dày đặc
tạo thành tấm dẹt hình tròn khá lớn nằm mặt trong của màng sinh chất, đối diện với
tấm bào tương của tế bào bên cạnh. Mặt ngoài liên kết với cadherin.
14

+ Cadherin: Một đầu liên kết với tấm bào tương, một đầu nhô ra khoảng
gian bào để liên kết với cadherin của tế bào bên cạnh.
+ Các siêu sơi trung gian Keratin: Liên kết với mặt trong của tấm bào
tương ở mặt bên của sợi.
Hình 20. Cấu trúc desmosome
- Hemidesmosome: Giống với desmosome về mặt hình thái nhưng lại khác về
mặt chức năng và cấu trúc hóa học. Mối liên kết này gắn kết cực đáy màng tế bào biểu
mô vào lamina đáy-một lớp đệm đặc biệt thuộc mô liên kết. Các siêu sợi keratin lại gắn
với tấm bào tương ở đầu tận cùng của sợi. Các protein xuyên màng thuộc họ integrin.
Nhờ các protein cadherin xuyên màng, có một đầu nối với các sợi của khung xương tế
bào, một đầu gắn với protein xuyên màng của tế bào bên cạnh hoặc các sợi của chất
nền ngoại bào.
15
Hình 21. Mối nối neo giữ: desmosome và hemodesmosome
Hình 22. Hình chụp hiển vi hemidesmosome
b. Chức năng mối nối neo giữ
Gắn kết bộ khung của các tế bào này với bộ khung của tế bào kia hoặc với chất
nền ngoại bào, giúp cho các tế bào liên kết chặt chẽ, không bị tách rời khi gặp các tác
động cơ học. Giúp các tế bào của biểu mô gắn với màng đáy tiếp giáp với các mô khác
của cơ thể. Tạo điều kiện cho các mô trong cơ thể liên kết với nhau.
16
III.1.3. Mối nối thông tin (communicating junction)
Đây là loại mối nối phổ biến ở các tế bào cần sự thông tin nhanh như mô thần
kinh, mô tim.
a. Cấu tạo mối nối thông tin
Phổ biến nhất là kết nối khe (gap-injunction) được cấu tạo bởi phức hệ
connexons gồm 6 protein giống nhau gọi là connexin xuyên qua màng xếp thành một
vòng tạo thành kênh ưa nước với đường kính 1,5 - 2nm. Các connecxon phân bố trên
một vùng tập trung; điển hình là các xynap điện. Cho phép các ion có khối lượng 1000
Dalton đi qua nhưng không cho phép các phân tử protein đi qua. Các connexons giữ

khoảng cách của màng sinh chất giữa các tế bào cạnh nhau là 2-4nm.
Hình 23. Mối nối thông tin giữa hai tế bào cạnh nhau
b.
Chức năng mối nối thông tin
Thực hiện chức năng trao đổi các ion hai chiều giữa các tế bào, đảm bảo vai trò
truyền đạt thông tin ví dụ như xynap điện.
III.2. Sự liên kết giữa các tế bào thực vật
Thành tế bào thực vật ăn khớp với nhau trên diện rộng giúp liên kết các tế bào
tạo thành mô nhờ phiến giữa pectin. Các tế bào trong một mô và giữa các mô trong cơ
thể có sự liên hệ chặt chẽ với nhau.
17
Thành tế bào thực vật có nhiều khe hở hình thành nên cầu nối nguyên sinh chất
giữa các tế bào với nhau. Cầu sinh chất còn được gọi là cầu liên bào, được bọc lót bởi
màng sinh chất chứa ống trung tâm nối lưới nội chất của hai tế bào nằm cạnh nhau.
Hình 24. Sự liên kết giữa các tế bào thực vật và cầu nối nguyên sinh chất
Nhờ có cầu liên bào, nước và các phân tử nhỏ (các chất dinh dưỡng, thông tin
hóa học) có thể dễ dàng trao đổi giữa các tế bào mà không cần xuyên qua màng sinh
chất. Tạo nên một hệ thống lưu thông vật chất trong toàn bộ cơ thể thực vật.
Hình 25.
Cầu nối nguyên sinh chất giữa các tế bào
18

×