Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Hiện trạng thủy sinh vật ở một số nhánh sông trong lưu vực sông cầu.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.37 KB, 8 trang )


HIỆN TRẠNG THỦY SINH VẬT Ở MỘT SỐ NHÁNH SÔNG
TRONG LƯU VỰC SÔNG CẦU

Phan Thị Anh Đào
1
, Đỗ Thị Thanh Bình
2
Phan Văn Mạch
2
,
Trần Thị Thanh Bình
3
, Lê Xuân Tuấn
3
1
Viện Khoa học Khí tượng Thuỷ văn và Môi trường
2
Viện Sinh Thái và Tài nguyên Sinh vật
3
Khoa Sinh-KTNN, Đại học Sư phạm Hà Nội

1. Mở đầu
Sông Cầu là phụ lưu cấp II của hệ thống sông Thái Bình, bắt nguồn từ tỉnh Bắc
Kạn, sau đó cùng với sông Thương, sông Lục Nam và sông Đuống chảy vào sông Thái
Bình và đổ ra biển. Sông Cầu có chiều dài trên 200 km với nhiều phụ lưu như Sông Công,
Sông Cà Lồ... Lưu vực sông Cầu có nhiều khu dân cư đông đúc, nhà máy, bệnh viện và
khu công nghiệp. Trước kia đây là con sông nổi tiếng v
ề vẻ đẹp tự nhiên cũng như chất
lượng nước sạch. Ngày nay do các hoạt động sản xuất, sinh hoạt trong lưu vực nên sông
chịu áp lực lớn của lượng nước thải đổ vào với nhiều loại hình chất thải, từ nước thải sinh


hoạt, bệnh viện cho đến các loại nước thải của các loại hình sản xuất công nghiệp. Khả
năng tự làm sạ
ch của sông không thể đảm bảo nên sông đang bị ô nhiễm, gây tác động
trực tiếp đến các hệ sinh thái lưu vực sông và qua đó ảnh hưởng tới tài nguyên nước, tài
nguyên sinh vật. Quan điểm tiếp cận hệ sinh thái ngày càng được áp dụng rộng rãi trong
quản lý tổng hợp tài nguyên nước. Để quản lý tốt lưu vực sông phục vụ cho phát triển lâu
dài và bền vững lưu vực các tỉnh trong lưu vực sông Cầ
u, môt trong những công việc cần
tiến hành là kiểm kê hiện trạng thuỷ sinh vật trên các nhánh sông trong lưu vực. Trên cơ
sở đó phân tích và tìm biên pháp khắc phục môi trường để đảm bảo và duy trì tính bền
vững trong đa dạng sinh học và tài nguyên nước. Do một số hạn chế nên nghiên cứu này
chỉ dừng lại ở việc đánh giá sơ bộ hiện trạng đa dạng thủy sinh vật ở nhánh chính sông
Cầu, sông Công và sông Cà Lồ
. Kết quả phân tích chủ yếu dựa trên cơ sở số liệu của các
đợt khảo sát được tiến hành trong năm 2006 và thu thập số liệu liên quan.

2. Địa điểm và phương pháp nghiên cứu
Khảo sát nghiên cứu lưu vực sông Cầu tại 5 mặt cắt chính bao gồm: Trên nhánh chính
sông Cầu: Khu vực Cầu Trần Quốc Bình, Thái Nguyên (Trạm1); Khu vực sau ngã ba
S.Cầu, S. Công gần UB xã Tân Hưng Sóc Sơn HN (Trạm3); Khu vực đò Quang biểu
V
ĩnh Thế, Quế võ, Bắc Ninh (Trạm5); Trên nhánh sông Công: Khu vực gần cầu đường
sắt Đa Phúc, Thái Nguyên (Trạm2); Trên nhánh sông Cà Lồ: Khu vực cầu Xuân Tảo,
Xuân Giang, Sóc Sơn. Hà Nội (Trạm4). Thời gian khảo sát, nghiên cứu và thu mẫu được
tiến hành trong tháng 9, 11/2006. Tại các khu vực khảo sát, thu mẫu có chụp ảnh, quan
sát, đo đạc và ghi chép các đặc điểm điều kiện tự nhiên, thủy lý hóa của thủy vực.
Phương pháp thu mẫu dựa theo Mary Ann H. Franson (1995). Thu m
ẫu sinh vật
nổi bằng lưới vớt hình chóp nón, đường kính miệng lưới 25 cm, chiều dài lưới 90 cm.
Vải lưới vớt thực vật nổi cỡ 75 (75 sợi /cm), vải lưới vớt động vật nổi cỡ 49 (49 sợi

/cm). Thu mẫu định tính và định lượng sinh vật đáy bằng lưới kéo đáy, vợt cầm tay.
Tuyển tập báo cáo Hội thảo khoa học lần thứ 10 - Viện KH KTTV & MT
102
Thu mẫu các nhóm côn trùng nước bằng vợt cầm tay và lưới Suber sampler kích thước
50 x 50 cm. Thu mẫu thực vật thuỷ sinh bao gồm cả hoa, lá, cành và quan sát phân bố
của chúng trong thuỷ vực.. Thu mẫu cá và phỏng vấn trên sông qua dân đánh cá, tại
các khu vực dân cư ven sông, các chợ trong khu vực. Mẫu sinh vật nổi, sinh vật đáy và
mẫu cá được cố định trong dung dịch formalin 5%. Mẫu thực vật thuỷ sinh được ngâm
trong formol hoặc phơi, ép khô đưa về phòng phân tích.


Sơ đồ 1. Vị trí trạm lấy mẫu
(T1-T2: Trạm lấy mẫu)
S«ng
CÇu
S. Cµ Lå
T5
T4
T3
T2
Hå Nói Cèc
§¸p CÇu
S«ng
C«ng
T1
Th¸c Huèng

















Ngoài việc thu mẫu, định vị tọa độ các trạm thu mẫu và quan sát dọc theo khu
vực suối, chúng tôi còn đo đạc thực tế một số yếu tố môi trường bằng máy kiểm tra
chất lượng nước do Nhật Bản sản xuất (Máy WQC 22 A - Water quality cheker). Tất
cả các số liệu trên thực địa được ghi trong phiếu thu mẫu, phỏng vấn dân địa phương
và ghi chép các vấn đề liên quan đến các thủ
y vực nghiên cứu.
Phân tích định tính các mẫu sinh vật nổi sinh vật đáy và cá chủ yếu dựa vào sách
định loại của các tác giả (Đặng Ngọc Thanh và cs, 1980; Mai Đình Yên, 1978, Dương
Đức Tiến và cs, 1997; Dương Đức Tiến, 1996; Akihito Shirota, 1966; Takaaki
Yamagishi, 1992; Phạm Hoàng Hộ, 2000; Maurice Kottelat, 1996, 2001).
- Phân tích định lượng thực vật nổi bằng buồng đếm Goriaev với dung tích 0.0009 ml.
- Phân tích định lượng động vật nổi bằng buồng đếm Bogorov v
ới dung tích 10
ml. Kết quả nhân với lượng nước lọc qua lưới.
- Phân tích mẫu sinh vật đáy bằng đếm cá thể trên diện tích thu mẫu nhất định.

3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Một số đặc điểm môi trường các trạm khảo sát

Nhiệt độ nước các trạm khảo sát dao động từ 25.2
o
C đến 26.1
o
C. Độ pH dao
động ở mức kiềm (7.45 - 7.68) và không chênh lệch nhau nhiều giữa các trạm. Độ đục
Tuyển tập báo cáo Hội thảo khoa học lần thứ 10 - Viện KH KTTV & MT
103
dao động từ 30 mg/l ở khu vực cầu Trần Quốc Bình (Thái Nguyên) đến 365mg/l ở khu
vực đò Quang Biểu (Bắc Ninh). Ngoại trừ điểm tại khu vực cầu Trần Quốc Bình là
khu vực mang tính chất suối, nền đáy đá, sỏi, nước không sâu, các khu vực khảo sát
khác, độ đục đều cao một phần do nước chảy mạnh, một phần do các hoạt động khai
thác cát, một phần do các hoạt động giao thông thu
ỷ. Độ dẫn điện dao động từ 115.4
µS/m - 223 µS/m. Độ muối (NaCL) dao động từ 0- 0.1%o. Tổng các chất khoáng hoà
tan (TDS) dao động từ 81.3 đến 115.7 mg/l. Hàm lượng ô xy hoà tan dao động từ 5.74
đến 7.15 mg/l. Hàm lượng ô xy là yếu tố khá quan trọng biểu thị chất lượng môi
trường nước. Các quá trình sinh học và hoá học tại khu vực có nhiều chất hữu cơ và vô
cơ xảy ra mạnh, tiêu tốn một lượng lớn ô xy hoà tan trong nước, làm hàm lượng ô xy
ở đó giảm đi, còn tại khu vực có hàm lượng ô xy hoà tan cao là do sự xáo trộn và các
quá trình sinh học, hoá học xảy ra không lớn nên lượng ôxy hoà tan không bị tiêu hao
nhiều và vẫn còn cao. Như vậy, trong một thuỷ vực, lượng ô xy hoà tan trong nước
thấp hay cao sẽ là chỉ số gián tiếp biểu thị lượng vật chất hữu cơ và vô cơ ở đó nhiều
hay ít. Hàm lượng ô xy hoà tan tại thời điểm khảo sát đều không vượt quá giớ
i hạn cho
phép theo tiêu chuẩn Việt nam với nước mặt.

3.2. Đặc điểm thuỷ sinh vật
3.2.1.
Thực vật thủy sinh (Macrophyte)

Qua nghiên cứu, đã xác định được 40 loài thực vật thủy sinh thuộc hai ngành
Thực vật Quyết (Pteridophyta) và ngành Thực vật có hạt (Spermatophyta) phân bố
trong các dạng thủy vực sông, suối, ao, hồ trong lưu vực sông Cầu. Thực vật thuỷ sinh
thường phân bố tại các khu vực nơi nước đứng, lòng sông, suối rộng, có các bãi ngập
nước diện tích lớn. Không thấy có nhóm thực vật nào phổ biến trong các dạng thuỷ
vực ngoại trừ một số loài rong như rong đuôi chồn vòng Myriophyllum verticillatum
L., rong đuôi chồn Myriophyllum spicatum L., rong đuôi chó Ceratophylum demersum
L. mọc tại các khu vực sông, suối nước chảy yếu Một số loài như dừa nước Ludvigia
repens L.: ngổ Limnophyla aromatica (L.): phỏng rạ Hygroriza aristata (Retz.) Nees
ex W. & Arn); rau bợ Marsilea quadrifolia L. mọc ven sông, suối (nơi nước chảy chậm
hoặc không chảy). Các loài thực vật thuỷ sinh thuộc các họ
ráy Araceae, khoai lang
Convolvulaceae, hoa tán Apiaceae như cây khoai nước Colocassia esculenta, rau
muống Ipomoea aquatic, rau cần nước Oenanthe javanica… dân địa phương sử dụng
làm thực phẩm, chăn nuôi gia súc khá phổ biến. Các nhóm thực vật thuỷ sinh trong
khu vực là những loài phổ biến mọc tại nhiều sông, suối, ao và ruộng trũng để hoang
là nơi trú ngụ cho các nhóm thuỷ sinh vật khác như tôm, cua, ốc và các nhóm côn
trùng nước. Chúng thường không có giá trị kinh tế lớn và cũng không gây ả
nh hưởng
đến môi trường của thuỷ vực. Trong thực vật thuỷ sinh, ngoài lúa là cây lương thực
được trồng phổ biến khắp nơi, một số loài khác như sen Nelumbo nucifera Gaertn,
súng Nymphaea pubessens Georg cũng được trồng tại một số hồ ở một số khu vực làm
cảnh và lấy hạt làm thuốc, thực phẩm. Rau muống Ipomoea aquatica Forsk là thực
phẩm hầu như không thể thiếu trong bữa ă
n hàng ngày của cư dân địa phương cũng
được trồng rộng rãi khắp nơi. Thực vật thuỷ sinh là nhóm tham gia trong quá trình làm
sạch tự nhiên của thuỷ vực. Một số loài được dùng trong công đoạn xử lý nước thải
của các cơ sở sản xuất thực phẩm, bệnh viện như cây sậy Phragmitis comunis Trin,
một vài loài rong, bèo. Chúng giữ lại và hấp thụ một phần các chất thải trước khi đ
i

Tuyển tập báo cáo Hội thảo khoa học lần thứ 10 - Viện KH KTTV & MT
104
qua các công đoạn xử lý khác, làm giảm ô nhiễm cho thuỷ vực. Trên sông Cầu, sông
Cà Lồ, sông Công, nơi nước chảy mạnh và ở những nơi các hoạt động giao thông diễn
ra với cường độ cao, thực vật thuỷ sinh không phát triển nhiều. Ven sông chỉ thấy có
một vài nhóm thực vật thuỷ sinh sống thành đám như cây nghể nước Polygonum
hydropiper tại khu vực gần ngã ba sông Công, sông Cầu. Tại khu vực các bãi ven
sông, người dân địa phươ
ng trồng một vài loài thực vật thuỷ sinh làm thực phẩm rau
xanh, chăn nuôi gia súc như khoai nước, bèo cái, rau muống và rau cần theo thời vụ.
3.2.2.
Thực vật nổi (Phytoplankton)
Có 113 loài thực vật nổi thuộc 6 ngành tảo là Tảo Silic (Bacillariophyta), Tảo
Lục (Chlorophyta), Tảo lam (Cyanophyta), Tảo Mắt (Euglenophyta), tảo Vàng ánh
(Chrysophyta) và tảo Giáp (Pyrrophyta) đã được xác định trong các đợt khảo sát bổ sung.
Th¸ng 9
T

o L

c
T

o Silic
T

o Lam
T

o M


t
Tảo Vàng ánh
Tảo Giáp
40%
33%
14%
10%
Th¸ng 11
Tảo Lục
Tảo Silic
Tảo Lam
Tảo Mắt
45%
19%
20%16%

Hình 1. Thành phần thực vật nổi đã khảo sát, nghiên cứu vào tháng 9/2006 và 11/2006
Hình 1 cho thấy, trong thành phần thực vật nổi, vào tháng 9, nhóm tảo Lục có
số loài đông nhất với 36 loài (chiếm tỉ lệ 40% trên tổng số loài xác định được), sau đến
nhóm tảo Silic (với 30 loài, chiếm tỉ lệ 33 %), tảo lam (13 loài, chiếm tỉ lệ 14%), tảo
Mắt (9 loài, chiếm tỉ lệ 10 %), tảo Vàng ánh (2 loài, chiếm tỉ lệ 2%) và cuối cùng là
tảo Giáp (1 loài, chiếm 1%). Trong tháng 11, xác định được 75 loài và tảo Silíc có số
loài đông nhất với 34 loài, chiế
m tỉ lệ 45%, sau đến nhóm tảo Lục và tảo lam (15 và 14
loài, chiếm tỉ lệ tương ứng là 20% và 19 %), cuối cùng là nhóm tảo Mắt (với 12 loài,
chiếm tỉ lệ 16%). Không thấy xuất hiện hai nhóm tảo Vàng ánh và tảo Giáp vào thời
kỳ này. Tại hầu hết các trạm, nhóm tảo Silic và tảo Lục có số loài cao nhất, sau đến
nhóm tảo lam, tảo Mắt và cuối cùng là hai nhóm tảo Giáp và tảo Vàng ánh chỉ xuất
hiện tại từng trạm và từ

ng thời kỳ. Về sự nhạy cảm đối với ô nhiễm có thể liệt kê các
chi có mặt tại các trạm khảo sát như: Straurastrum, Pinnularia, Surirella, Cocconeis.
Các chi Euglena, Oscillatoria, Scenedesmus, Chlorella, Nitzschia là những chỉ thị
thường xuyên được sử dụng để chỉ thị sự ô nhiễm nước (Dương Đức Tiến, Võ Hành,
1997) tại đây cũng thấy xuất hiện. Các loài tảo thuộc các chi Euglena, Scenedesmus,
Oscillatoria, Nitzschia là những nhóm thường có m
ặt trong các thuỷ vực ô nhiễm hữu
cơ và được đánh giá là có khả năng chịu đựng ô nhiễm cao. Một số loài tảo trong các
chi trên cũng ưa sống trong môi trường giầu chất hữu cơ.
Mật độ thực vật nổi dao đông từ 3174 tb/l đến 6238 tb/l vào thời kỳ tháng 9 và
dao động từ 1870 tb/l đến 9750 tb/l vào thời kỳ tháng 11. Mật độ số lượng thực vật nổi
cả hai thời k
ỳ đều do 3 nhóm tảo Silic, tảo Lam và tảo Lục quyết định. Nhóm tảo Mắt
tại khu vực trạm 1, 2 và 5 cao hơn các trạm khác cho thấy các khu vực này mức độ ô
nhiễm là cao hơn các khu vực khác. Trong khi tảo Silic không cao có thể thấy các khu
Tuyển tập báo cáo Hội thảo khoa học lần thứ 10 - Viện KH KTTV & MT
105
vực này có xu hướng bị ô nhiếm hơn. Khi thuỷ vực bị ô nhiễm, tính đa dạng và mật độ
của quần xã tảo trong thuỷ vực bị biến đổi. Tại khu vực không ô nhiễm, số lượng loài
thường cao nhưng mật độ cá thể trong một loài lại thấp. Ngược lại, quần xã tảo tại nơi
ô nhiễm được đặc trưng bởi số lượng loài ít nhưng mậ
t độ cá thể lại cao hơn hẳn.
3.2.3.
Động vật nổi (zooplankton)
Xác định được 56 loài động vật nổi thuộc các nhóm Giáp xác Chân chèo
Copepoda, Giáp xác Râu ngành Cladocera Trùng Bánh xe Rotatoria, giáp xác
Ostracoda và Ấu trùng côn trùng tại các trạm khảo sát trên lưu vực sông Cầu.
Th¸ng 9
Giáp xác Dâu
Giáp xácchân chèo

Trùng bánh xe
54%
24%
22%
Th¸ng 11
Giáp xác Dâu
Giáp xácchân chèo
Trùng bánh xe
Các nhóm khác
50%
24%
16%
10%

Hình 2. Thành phần động vật nổi đã khảo sát, nghiên cứu vào tháng 9/2006 và 11/2006
Thành phần động vật nổi vào tháng 9 chỉ có các loài thuộc 3 nhóm giáp xác Râu
ngành, Mái chèo và Trùng bánh xe. Hình 2 cho thấy, trong đó, giáp xác Râu ngành có
số loài đông nhất (27 loài, chiếm 54% trên tổng số loài động vật nổi), tiếp đó là nhóm
Giáp xác chân chèo (có 9 loài, chiếm tỉ lệ 24%), nhóm Trùng Bánh xe (8 loài, chiếm 22
%). Vào tháng 11, trong thành phần động vật nổi, nhóm giáp xác Râu ngành vẫn có số
loài đông nhất (24 loài, chiếm 50%), sau đến giáp xác Chân chèo (12 loài, chiếm 24%),
Trùng bánh xe (8 loài, chiếm 16%) và các nhóm khác (5 loài, chiếm 10%). Các nhóm
ấu trùng côn trùng tồn tại trong các khu vực khảo sát không nhiều chứng tỏ khu vực này
bị
ảnh hưởng rất nhiều bởi các hoạt động của con người nên ấu trùng côn trùng không
tồn tại và phát triển được. Nhóm Trùng bánh xe Rotatoria là nhóm thường có mặt trong
thủy vực giàu dinh dưỡng (Đặng Ngọc Thanh, Hồ Thanh Hải, 2001; Jonh C. Morse et
al., 1994) xuất hiện tại đây, chứng tỏ đây là khu vực ít nhiều bị ảnh hưởng của ô nhiễm .
Giữa các trạm khảo sát và các thời điểm khác nhau, số lượng loài động vật nổ
i cũng

khác nhau. Các trạm càng về phía hạ lưu, thành phần loài càng phong phú hơn và mật
độ cũng cao hơn. Tại hầu hết các khu vực tại hai thời điểm, nhóm giáp xác Râu ngành
hầu như có số lượng loài cao hơn cả, sau đến nhóm giáp xác Chân chèo và nhóm Trùng
bánh xe.
Mật độ động vật nổi dao đông rất lớn tại các khu vực khác nhau, dao động từ 6
con/m
3
tại khu vực cầu Trần Quốc Bình, Thái Nguyên đến 7847 con/m
3
tại khu vực
đò Quang Biểu, Bắc Ninh vào tháng 9 và dao động từ 29 con/m
3
tại khu vực Cầu
dường sắt Đa Phúc, Thái Nguyên đến 3020 con/m
3
ở khu vực đò Quang Biểu, Bắc
Ninh vào tháng 11. Như vậy, cả hai thời điểm, mật độ động vật tăng dần vè phía hạ
lưu và mật độ động vật nổi đều do hai nhó Râu nhành và Chân chèo thay nhau chiếm tỉ
lệ cao nhất và quyết định mật độ động vật nổi.
Tuyển tập báo cáo Hội thảo khoa học lần thứ 10 - Viện KH KTTV & MT
106

×