Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Các giải pháp tài chính chủ yếu để đẩy mạnh công tác tiêu thụ và tăng doanh thu tại Công ty Cổ Phần Đá Mài Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.27 KB, 49 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, trước khi tiến hành hoạt động
sản xuất sản phẩm, Doanh nghiệp phải biết mình sản xuất cái gì? Sản xuất cho
ai? Sản xuất như thế nào? để có thể tiêu thụ được tốt nhất và đem lại lợi
nhuận cho Doanh nghiệp mình nhiều nhất.
Có thể nói, tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng, là mấu chốt cho sự tồn
tại và phát triển của một Doanh nghiệp. Muốn tồn tại được trong thị trường
cạnh tranh, như một yêu cầu tất yếu, doanh nghiệp phải bán được sản phẩm
do mình sản xuất ra. Có như vậy mới có khả năng bù đắp các chi phí và tích
luỹ để có thể mở rộng quy mô sản xuất, đứng vững trong cạnh tranh.
Tiêu thụ sản phẩm trực tiếp ảnh hưởng đến doanh thu bán hàng và từ
đó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận. Nó là mấu chốt quyết định sự tăng
trưởng của doanh nghiệp. Chính vì vậy việc nghiên cứu, phân tích quá trình
này là không thể thiếu nhằm tìm và hiểu được ý nghĩa của quá trình, những
nhân tố ảnh hưởng đến nó và bằng phương pháp nào để nó hoạt động có hiệu
quả nhất là một đòi hỏi hết sức cần thiết đối với các doanh nghiệp.
Trong thời gian thực tập tại Công ty Cổ Phần Đá Mài Hải Dương em đã
tìm hiểu tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty dưới sự chỉ bảo của lãnh đạo
các phòng ban, mà đặc biệt là phòng Kế toán - Tài chính. Đồng thời vận dụng
lý thuyết đã học kết hợp với các tài liệu có liên quan, em mạnh dạn đi sâu
nghiên cứu đề tài: “Các giải pháp tài chính chủ yếu để đẩy mạnh công tác
tiêu thụ và tăng doanh thu tại Công ty Cổ Phần Đá Mài Hải Dương”.
Nội dung nghiên cứu gồm 3 phần chính:
Chương I: Tiêu thụ sản phẩm và tầm quan trọng của công tác tài
chính đối với việc tiêu thụ sản phẩm.
Sv: Nguyễn Đức Hùng Lớp K42/11.08
1
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
Chương II: Thực trạng hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tại
Công ty cổ phần Đá Mài Hải Dương.


Chương III: Một số giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh công tác tiêu
thụ sản phẩm ở Công ty Cổ Phần Đá Mài Hải Dương.
Sv: Nguyễn Đức Hùng Lớp K42/11.08
2
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
CHƯƠNG I: TIÊU THỤ SẢN PHẨM VÀ TẦM QUAN
TRỌNG CỦA CÔNG TÁC TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI VIỆC TIÊU
THỤ SẢN PHẨM.
1.1. Tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
1.1.1. Tiêu thụ sản phẩm.
Trong nền kinh tế thị trường, dưới sự tác động của các quy luật như quy
luật cung cầu, quy luật giá trị, đặc biệt là quy luật cạnh tranh, để tồn tại được
các doanh nghiệp luôn phải cố gắng sử dụng các biện pháp khác nhau nhằm
mục đích cuối cùng là trang trải được các chi phí và có lợi nhuận. Để đạt
được điều đó thì tất yếu doanh nghiệp cần phải tiêu thụ được các sản phẩm
của mình. Có tiêu thụ được các sản phẩm mới đảm bảo cho quá trình tái sản
xuất được thường xuyên liên tục.
Vậy tiêu thụ sản phẩm là gì:
Tiêu thụ sản phẩm là quá trình đơn vị xuất bán giao sản phẩm cho đơn
vị mua và thu được khoản tiền về số sản phẩm đó. Thời điểm tiêu thụ được
xác định là khi người mua sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã thanh toán hoặc
chấp nhận thanh toán, không phụ thuộc vào việc đã thu được tiền hay chưa.
Như vậy tiêu thụ sản phẩm bao gồm hai hành vi:
- Đơn vị bán xuất giao sản phẩm, hàng hoá.
- Đơn vị mua thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán.
Về việc doanh nghiệp xuất giao sản phẩm cho khách hàng có thể được
tiến hành ngay tại kho của doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp sẽ vận chuyển
hàng tới địa điểm nhất định theo thoả thuận. Điều đó mới chỉ thể hiện sự vận
động của hàng hoá từ nơi này đến nơi khác, chưa thể hiện việc chuyển quyền
sở hữu. Để xác định là tiêu thụ nhất định phải tồn tại hành vi tiếp theo đó là

hành vi thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán tiền hàng. Việc thanh toán có
thể diễn ra dưới nhiều hình thức như thanh toán bằng tiền mặt, séc, chuyển
khoản….
Sv: Nguyễn Đức Hùng Lớp K42/11.08
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
Đứng trên góc độ luân chuyển vốn thì tiêu thụ sản phẩm là quá trình
chuyển hoá hình thái giá trị của vốn từ hình thái sản phẩm hàng hoá sang hình
thái tiền tệ, làm cho vốn trở lại hình thái ban đầu khi nó bước vào mỗi chu kỳ
sản xuất mới.

TLSX (TLLĐ + ĐTLĐ)
T – H SX H’ – T’

SLĐ
Quan sát sơ đồ trên ta thấy, tiêu thụ là một mắt xích quan trọng của quá
trình sản xuất. Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào cũng vậy, việc tồn kho hàng
hoá luôn phải trả giá đắt. Sự gia tăng của hàng hoá tồn kho là biểu hiện dậm
chân tại chỗ của khâu lưu thông. Việc hàng hoá chậm chuyển đổi thành tiền sẽ
gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc bù đắp toàn bộ chi phí đã bỏ ra
trong quá trình kinh doanh như: Giá vốn hàng bán, chi phí quản lí doanh
nghiệp, chi phí bán hàng Nếu chỉ dừng lại ở (H’) thì đồng vốn không hoàn
thành sứ mạng luân chuyển, quá trình tái sản xuất đã bị gián đoạn. Và nếu tiêu
thụ được hàng hoá thì chẳng những doanh nghiệp bù đắp chi phí đã bỏ ra mà
còn thực hiện được giá trị của lao động thặng dư, nghĩa là tạo được cho mình
khả năng thụ lợi nhuận. Là khâu cuối cùng của quá trình kinh doanh cho nên
những thiệt hại trong khâu tiêu thụ gây ảnh hưởng lớn cho doanh nghiệp vì
nếu sản phẩm không tiêu thụ được thì toàn bộ chi phí về sức người, sức của
mà doanh nghiệp đã bỏ ra trở thành vô giá trị.
*Đối với các doanh nghiệp có thể thực hiện các hình thức tiêu thụ sản
phẩm khác nhau:

-Trường hợp 1: Doanh nghiệp bán hàng được khách hàng thanh toán
ngay. Khi đó lượng hàng được xác định thanh toán ngay và đồng thời doanh
thu bán hàng cũng được xác định. Trường hợp này doanh thu tiêu thụ sản
phẩm và tiền hàng là trùng nhau về thời điểm và thực hiện.
Sv: Nguyễn Đức Hùng Lớp K42/11.08
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
-Trường hợp 2: Doanh nghiệp xuất giao hàng hoá được khách hàng
chấp nhận thanh toán nhưng chưa trả tiền ngay. Lúc này doanh thu tiêu thụ
sản phẩm được xác định nhưng chưa thu về.
-Trường hợp 3: Doanh nghiệp bán hàng theo phương thức trả góp thì
doanh thu tiêu thụ sản phẩm cũng được xác định ngay nhưng tiền bán hàng
mới chỉ thu được một phần, còn lại sẽ thu theo từng kỳ tiếp theo.
-Trường hợp 4: Doanh nghiệp đã xuất giao đủ hàng cho khách hàng
theo số tiền mà khách hàng đã trả trước. Khi đó đồng thời với việc xuất giao
hàng cho khách, tiền ứng trước trở thành tiền thu bán hàng của công ty.
Doanh thu bán hàng cũng được xác định tại thời điểm này.
-Trường hợp 5: Doanh nghiệp thu được tiền hàng hoặc chấp nhận thanh
toán số hàng đã gửi đi hoặc giao cho các đại lí. Trong trường hợp này thì hành
vi xuất giao hàng và thanh toán tiền hàng cách nhau khá xa nên việc xác định
sản phẩm đã tiêu thụ được hay chưa thường hay bị nhầ nhầm lẫn. Do đó có
thể dẫn đến nhầm lẫn doanh thu giữa kỳ hạch toán này với kỳ hạch toán khác.
Cần nhớ rõ khi doanh nghiệp xuất giao sản phẩm hàng hoá và đã thu được
tiền hoặc được chấp nhận thanh toán thì mới xác định doanh thu tiêu thụ sản
phẩm.
Như vậy, tiêu thụ sản phẩm là khâu tương đối phức tạp cần có sự theo
dõi chặt chẽ để không xẩy ra nhầm lẫn dẫn đến xác định sai kết quả kinh
doanh và có thể làm doanh nghiệp bị thất thoát, mất vốn dẫn đến tình hình
kinh doanh của doanh nghiệp sẽ kém đi. Nếu thực hiện được doanh thu tiêu
thụ sản phẩm đầy đủ, kịp thời góp phần đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu
động tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất tiếp theo.

1.1.2. Doanh thu bán hàng của doanh nghiệp.
Khái niệm: Doanh thu là biểu hiện của tồng giá trị các loại sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đã bán ra trong một thời kỳ nhất định. Có
thể nói đây là bộ phận chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Khi hoàn thành việc bán hàng, về cơ bản doanh nghiệp đã xác định
được doanh thu. Xem xét trên góc độ tài chính thì thời điểm ghi nhận doanh
Sv: Nguyễn Đức Hùng Lớp K42/11.08
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
thu bán hàng là khi quyền sở hữu sản phẩm, hàng hóa đã được chuyển giao
hoặc dịch vụ đã được thực hiện, và người mua đã chấp nhận thanh toán,
không kể đã thu được tiền hay chưa. Cần phân biệt doanh thu bán hàng với
tiền thực thu được từ việc bán hàng.
Nếu doanh nghiệp thực hiện phương thức bán chịu sản phẩm, hàng hóa
cho khách hàng thì sau khi đã xuất giao hàng, quyền sở hữu về hàng hóa đã
được chuyển giao cho khách hàng, lúc này doanh thu bán hàng của doanh
nghiệp được ghi nhận, nhưng phải sau một thời gian nhất định doanh nghiệp
mới thu được tiền bán hàng.
Doanh thu bán hàng của doanh nghiệp phụ thuộc vào đặc điểm sản
xuất, tiêu thụ của từng ngành và có ảnh hưởng lớn đến tình hình tài chính của
doanh nghiệp.
Doanh thu bán hàng được chia thành 2 nhóm:
1.1.2.1. Doanh thu bán hàng ra bên ngoài:
Doanh thu bán hàng ra ngoài là bộ phận doanh thu có được do tiêu thụ sản
phẩm hàng hoá, dịch vụ cho một đơn vị hạch toán độc lập với doanh nghiệp
bán hàng. Doanh thu bán hàng ra ngoài gồm:
- Doanh thu bán các sản phẩm, hàng hoá thuộc sản xuất kinh doanh
chính như bán thành phẩm (bao gồm cả doanh thu do tiêu thụ sản phẩm sản
xuất bằng nguyên vật liệu của doanh nghiệp và của cả người đặt hàng), doanh
thu về bàn giao công trình, hạng mục công trình xây dựng cơ bản hoàn thành,
công tác thăm dò địa chất, công tác thiết kế, doanh thu về tiêu thụ sản phẩm

nông lâm ngư nghiệp của các nông lâm trường, hợp tác xã, tập đoàn sản xuất
thực hiện cho đơn vị khác ngoài phạm vi thanh tocán của đơn vị mình.
- Doanh thu về tiêu thụ khác như cung cấp lao vụ, dịch vụ cho bên
ngoài, bán bản quyền phát minh sáng chế, tiêu thụ những sản phẩm chế biến
từ phế phẩm, phế liệu… ra bên ngoài.
1.1.2.2. Doanh thu tiêu thụ nội bộ.
Doanh thu tiêu thụ nội bộ là bộ phận doanh thu được xác định từ việc
bán hàng hoá, sản phẩm, dịch vụ, lao vụ nội bộ giữa các đơn vị trực thuộc
Sv: Nguyễn Đức Hùng Lớp K42/11.08
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
trong cùng một công ty hoặc giữa các đơn vị, các công ty trực thuộc một tổng
công ty hạch toán toàn ngành. Doanh thu tiêu thụ nội bộ gồm:
- Doanh thu bán các sản phẩm hàng hoá sản xuất kinh doanh chính
được thực hiện giữa các đơn vị thành viên trong cùng một công ty hoặc cùng
một tổng công ty với nhau.
- Doanh thu cung cấp các lao vụ, dịch vụ, sản phẩm phụ… cho các đơn
vị thành viên khác trong cùng công ty, tổng công ty.
1.1.2.3. Ý nghĩa của doanh thu bán hàng.
Doanh thu có ý nghĩa lớn đối với toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh thu là nguồn tài chính tiềm năng quan trọng để trang trải các khoản chi
phí hoạt động kinh doanh, là nguồn quan trọng để các doanh nghiệp có thể
thực hiện được các nghĩa vụ với Nhà Nước như nộp các khoản thuế theo luật
định, là nguồn để có thể tham gia góp vốn cổ phần, tham gia liên doanh, liên
kết với các đơn vị khác. Khi doanh thu không đủ đảm bảo các khoản chi phí
đã bỏ ra, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn về tài chính. Nếu tình trạng này kéo
dài, sẽ làm cho doanh nghiệp không đủ sức cạnh tranh trên thị trường và sẽ
gặp khó khăn trong kinh doanh.
Doanh thu là một chỉ tiêu tài chính quan trọng của doanh nghiệp, nó
phản ánh quy mô của quá trình sản xuất, phản ánh trình độ tổ chức chỉ đạo
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi lẽ có được doanh thu bán hàng

chứng tỏ doanh nghiệp đã sản xuất sản phẩm được người tiêu dùng chấp
nhận, rằng sản phẩm đó về mặt khối lượng, giá trị sử dụng, chất lượng, giá cả
đã phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Doanh thu bán hàng
còn là nguồn vốn quan trọng để doanh nghiệp trang trải các khoản chi phí về
tư liệu lao động, đối tượng lao động đã hao phí trong quá trình sản xuất kinh
doanh, để trả lương, trả thưởng cho người lao động, trích bảo hiểm xã hội,
nộp các khoản thuế theo luật định.
Thực hiện doanh thu bán hàng là kết thúc giai đoạn cuối của quá trình
luân chuyển vốn tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất sau. Vì vậy
thực hiện chỉ tiêu doanh thu bán hàng có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình tài
Sv: Nguyễn Đức Hùng Lớp K42/11.08
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
chính của doanh nghiệp và quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp. Nếu vì lí
do nào đó doanh nghiệp không thực hiện được chỉ tiêu doanh thu bán hàng
hoặc thực hiện chậm đều làm cho tình hình tài chính của doanh nghiệp gặp
khó khăn và ảnh hưởng không tốt đến quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Trong cơ chế hiện nay, tiêu thụ sản phẩm ngày càng thể hiện vai trò
mang tính sống còn đối với mỗi doanh nghiệp. Do vậy, trong công tác tiêu thụ
sản phẩm các doanh nghiệp không được coi nhẹ việc xác định nội dung doanh
thu tiêu thụ sản phẩm sản xuất kinh doanh của đơn vị mình để xác định doanh
thu cho chính xác, phân chia nội dung doanh thu cho phù hợp để thuận tiện
cho công việc theo dõi, phản ánh chính xác doanh thu.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm và doanh thu
bán hàng của doanh nghiệp.
Như chúng ta đã biết: Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng kết thúc
một chu kỳ kinh doanh và mở ra một chu kỳ kinh doanh mới tiếp theo. Chỉ có
thông qua tiêu thụ sản phẩm, đồng vốn của doanh nghiệp mới trở về hình thái
ban đầu của nó. Có tiêu thụ sản phẩm mới có doanh thu để bù đắp toàn bộ chi
phí mà doanh nghiệp đã chi ra trong quá trình sản xuất và tiêu thụ đảm bảo

cho quá trình sản xuất được liên tục.
1.1.3.1. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng ngành nghề, từng doanh
nghiệp.
Đặc điểm sản xuất kinh doanh có ảnh hưởng không nhỏ đến công tác
tiêu thụ sản phẩm. Chẳng hạn, với ngành công nghiệp, sản xuất dựa trên máy
móc thiết bị là chủ yếu, với trình độ kỹ thuật cao, sản phẩm sản xuất hàng
loạt, việc sản xuất lại ít phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và không mang tính
thời vụ nên việc tiêu thụ sản phẩm thường thuận lợi, liên tục và tiêu thụ
nhanh hơn.
Đối với ngành nông nghiệp do đặc điểm mang tính thời vụ và phụ
thuộc vào điều kiện tự nhiên nên việc tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp cũng
mang tính thời vụ, đưa đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong năm của doanh
nghiệp thường tập trung vào vụ thu hoạch.
Sv: Nguyễn Đức Hùng Lớp K42/11.08
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
Khác hai ngành trên ngành xây dựng cơ bản có đặc trưng riêng là sản
xuất đơn chiếc theo đơn đặt hàng, giá trị sản phẩm thường lớn, thời gian thi
công kéo dài nên việc tiêu thụ sản phẩm cũng mang tính chất riêng lẻ, theo
từng công trình cụ thể.
1.1.3.2. Khối lượng sản phẩm đưa ra tiêu thụ.
Khối lượng sản phẩm đưa ra tiêu thụ càng nhiều thì khả năng doanh thu
càng lớn. Tất nhiên ở đây chỉ đề cập đến khả năng mà thôi vì việc tiêu thụ sản
phẩm còn phụ thuộc rất nhiều yếu tố khác như quan hệ về cung cầu trên thị
trường, chất lượng của sản phẩm, giá cả… Vấn đề là sản phẩm đưa ra phải
phù hợp với nhu cầu của thị trường. Nếu khối lượng sản phẩm đưa ra vượt
quá nhu cầu của thị trường thì việc tiêu thụ sản phẩm là rất khó khăn. Nhưng
nếu khối lượng sản phẩm đưa ra tiêu thụ là quá ít, không đáp ứng được yêu
cầu của thị trường thì doanh nghiệp sẽ không khai thác hết tiềm năng của thị
trường. Do vậy trong công tác tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp phải đánh giá
chính xác nhu cầu của thị trường và năng lực sản xuất của mình để chuẩn bị

một khối lượng sản phẩm đưa ra thị trường thích hợp.
1.1.3.3. Kết cấu mặt hàng tiêu thụ.
Nhu cầu tiêu dùng rất đa dạng phong phú, để đáp ứng nhu cầu hơn nữa
và tăng được doanh thu thì các doanh nghiệp thường tìm cách đưa ra được cơ
cấu mặt hàng hợp lý.
Khi tiến hành sản xuất, có thể có những mặt hàng sản xuất tương đối
đơn giản, chi phí thì thấp nhưng thị trường ưa dùng và tin tưởng nên doanh
nghiệp có thể bán với giá cao mà việc tiêu thụ vẫn thuận lợi. Nhưng có những
mặt hàng sản xuất phức tạp, chi phí bỏ ra sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cao
nhưng giá bán thì lại thấp do giới hạn của cầu và cung và có thể việc tiêu thụ
cũng không được dễ dàng. Do vậy việc thay đổi kết cấu mặt hàng tiêu thụ
cũng sẽ ảnh hưởng tới tiêu thụ sản phẩm và doanh thu bán hàng. Khi đưa sản
phẩm ra thị trường, mặt hàng nào phù hợp với nhu cầu thị trường, giá cả hợp
lí, chất lượng bảo đảm thì tiêu thụ nhanh và ngược lại mặt hàng nào không
phù hợp với nhu cầu thị trường thì thị trường sẽ không chấp nhận và việc bán
Sv: Nguyễn Đức Hùng Lớp K42/11.08
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
sản phẩm sẽ trở lên khó khăn. Vì vậy việc xem xét kết cấu mặt hàng tiêu thụ
doanh nghiệp phải thực hiện trước khi ký kết hợp đồng tiêu thụ. Sau khi đã
chọn, không được tự ý phá vỡ kế hoạch mặt hàng, vì làm ảnh hưởng đến lợi
ích khách hàng. Đối mặt với thị trường, các doanh nghiệp phải không ngừng
nghiên cứu tìm hiểu thị trường, cho ra đời những sản phẩm mới ưu việt hơn
thay thế cho những sản phẩm đã bị lỗi thời lạc hậu.
1.1.3.4. Chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là một yếu tố quan trọng thúc đẩy công tác tiêu
thụ sản phẩm. Trong nền kinh tế thị trường, sản phẩm có chất lượng cao, phù
hợp với thị hiếu của người tiêu dùng sẽ được bán với giá cao, làm tăng doanh
thu và tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Cùng một loại sản phẩm tiêu thụ trên
thị trường thì những sản phẩm có chất lượng tốt hơn sẽ được tiêu thụ nhiều
hơn, làm tăng doanh thu dẫn tới tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.

Như vậy chất lượng sản phẩm chính là giá trị tăng thêm của một sản
phẩm, nó làm tăng uy tín sản phẩm của doanh nghiệp đối với khách hàng.
Chất lượng sản phẩm cũng là vũ khí cạnh tranh sắc bén có thể dễ dàng đè bẹp
các đối thủ. Chất lượng sản phẩm được nâng cao không những ảnh hưởng tới
giá bán sản phẩm mà còn ảnh hưởng tới khối lượng tiêu thụ, do đó ảnh hưởng
trực tiếp tới doanh thu tiêu thụ, sản phẩm có phẩm cấp cao, giá bán sẽ cao
hơn.
Nâng cao chất lượng sản phẩm còn tạo điều kiện tiêu thụ sản phẩm dễ
dàng và nhanh chóng thu được tiền bán hàng. Ngược lại những sản phẩm chất
lượng kém không đúng với yêu cầu trong hợp đồng thì đơn vị mua hàng có
thể
từ chối việc chấp nhận thanh toán và dẫn đến sản phẩm phải bán với giá thấp,
làm giảm doanh thu, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.1.3.5. Giá cả sản phẩm.
Giá cả sản phẩm tác dụng rất lớn tới quá trình tiêu thụ sản phẩm đồng
thời là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Về
nguyên tắc, giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá và biến động
Sv: Nguyễn Đức Hùng Lớp K42/11.08
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
xung quanh giá trị hàng hoá. Trong cơ chế thị trường, giá cả được hình thành
tự phát trên thị trường theo quy luật cung cầu. Vì thế doanh nghiệp có thể sử
dụng giá cả như một đòn bẩy sắc bén để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Nếu
doanh nghiệp đưa ra một mức giá phù hợp với chất lượng sản phẩm, phù hợp
với thị trường tiêu thụ thì sẽ được đông đảo người tiêu dùng chấp nhận.
Ngược lại nếu đưa ra mức giá bán không hợp lí thì doanh nghiệp sẽ không
tiêu thụ được sản phẩm của mình. Mặt khác, nếu doanh nghiệp quản lí sản
xuất tốt, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm dẫn tới có thể bàn hàng ra
thấp hơn mặt bằng giá của các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Điều này là
một lợi thế to lớn cho doanh nghiệp trong việc cạnh tranh khách hàng trên thị
trường.

Đặc biệt đối với những thị trường sức mua có hạn, trình độ tiêu thụ ở
mức độ thấp như ở vùng nông thôn, miền núi, nơi có mức thu nhập thấp thì
giá cả có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm.
1.1.3.6. Công tác tổ chức bán hàng.
Công tác tổ chức bán hàng cũng là nhân tố rất quan trọng trong quá
trình tiêu thụ sản phẩm. Nó giúp cho doanh nghiệp có thể đẩy mạnh công tác
tiêu thụ sản phẩm. Công tác tổ chức bán hàng gồm những mặt sau:
-Về hình thức bán hàng: Một doanh nghiệp nếu áp dụng tổng hợp các
hình thức bán hàng như bán buôn, bán lẻ, bán tại kho, bán tại cửa hàng, bán
qua đại lí sẽ tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn một doanh nghiệp chỉ áp
dụng một hình thức bán hàng đơn thuần nào đó. Ngoài ra, các doanh nghiệp
còn tổ chức mạng lưới đại lí phân phối, cửa hàng giới thiệu sản phẩm để mở
rộng và chiếm lĩnh thị trường.
Tuy nhiên, cần có những biện pháp kinh tế tài chính thích hợp để
khuyến khích các đại lí này hoạt động có hiệu quả để đẩy mạnh khối lượng
tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ cho doanh nghiệp.
- Về mặt tổ chức thanh toán: Việc áp dụng nhiều hình thức thanh toán
khác nhau như thanh toán bằng tiền mặt, thanh toán chuyển khoản, thanh toán
hàng đổi hàng, thanh toán ngay, thanh toán chậm, sẽ tạo điều kiện thuận lợi
Sv: Nguyễn Đức Hùng Lớp K42/11.08
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
cho khách hàng khi mua hàng của doanh nghiệp, từ đó có thể thu hút được
đông đảo khách hàng đến với doanh nghiệp.
- Về các dịch vụ kèm theo: Để tăng sức cạnh tranh trong công tác tiêu
thụ sản phẩm thì việc tổ chức thực hiện các dịch vụ kèm theo là cần thiết như
dịch vụ vận chuyển miễn phí, bảo hành sản phẩm, quà tặng kèm theo, Điều
này giúp cho khách hàng yên tâm và thuận lợi khi mua sản phẩm của doanh
nghiệp và tất nhiên tiêu thụ sản phẩm cũng dễ dàng hơn.
1.1.3.7. Quảng cáo giới thiệu sản phẩm.
Thông qua quảng cáo mà người tiêu dùng biết được thông tin về một

mặt hàng nào đó, hình ảnh của doanh nghiệp, thấy được tính năng, công dụng
và ưu thế của sản phẩm của doanh nghiệp so với những sản phẩm cùng loại
trên thị trường, để từ đó kích thích nhu cầu tiêu dùng của khách hàng.
Đối với những sản phẩm mới quảng cáo giúp cho khách hàng làm quen
được với sản phẩm từ đó khơi dậy những nhu cầu mới để khách hàng tìm đến
doanh nghiệp, khi tiêu thụ sản phẩm chững lại và có nguy cơ bão hoà, quảng
cáo là trợ thủ đắc lực cho doanh nghiệp đẩy mạnh tiêu thụ sớm giải quyết
lượng hàng tồn đọng để nhanh chóng chuyển sang mặt hàng khác khi cần
thiết hoặc có biện pháp đổi mới sản phẩm.
Tuy nhiên, việc quảng cáo phải gằn liền với chữ tín, nếu doanh nghiệp
quảng cáo không đúng với thực chất sản phẩm của doanh nghiệp thì doanh
nghiệp sẽ nhanh chóng bị tẩy chay ra khỏi thị trường.
1.1.4. Xác định doanh thu bán hàng.
Doanh thu bán sản phẩm hàng hóa, căn cứ vào số lượng sản phẩm hàng
bán trong kỳ và giá bán đơn vị sản phẩm, doanh thu được xác định theo công
thức sau:
D
T
=

=
n
i
QtixGi
1
)(
Trong đó: DT: Là doanh thu bán hàng.
Qti: Là số lượng sản phẩm thứ i bán ra trong kỳ.
Gi: Là giá bán đơn vị sản phẩm thứ i.
Sv: Nguyễn Đức Hùng Lớp K42/11.08

Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
i : Là loại sản phẩm bán trong kỳ.
i = 1,n
Giá bán sản phẩm được tính theo giá bán hóa đơn hoặc được xác định
căn cứ chính sách giá cả sản phẩm của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp, không chỉ xác định doanh thu bán hàng mà còn
xác định doanh thu thuần về bán hàng. Doanh thu thuần về bán hàng được xác
định bằng cách lấy doanh thu bán hàng trừ đi các khoản giảm trừ (chiết khấu
bán hàng) như chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại;
và các loại thuế gián thu được tính gộp vào trong giá bán (nếu có), như thuế
tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu…
1.2. Vai trò của công tác tài chính doanh nghiệp trong việc thúc đẩy tiêu
thụ, tăng doanh thu của doanh nghiệp.
1.2.1. Sự cần thiết đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm hàng hoá.
Như chúng ta đã biết: Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng kết thúc
một chu kỳ kinh doanh và mở ra một chu kỳ kinh doanh mới tiếp theo. Chỉ có
thông qua tiêu thụ sản phẩm, đồng vốn của doanh nghiệp mới trở về hình thái
ban đầu của nó. Có tiêu thụ sản phẩm mới có doanh thu để bù đắp toàn bộ chi
phí mà doanh nghiệp đã chi ra trong quá trình sản xuất và tiêu thụ đảm bảo
cho quá trình sản xuất được liên tục.
Tiêu thụ sản phẩm ảnh hưởng đến tốc độ chu chuyển của vốn lưu động.
Vốn lưu động là toàn bộ số tiền ứng trước để mua sắm tài sản lưu động phục
vụ quá trình sản xuất. Nó có đặc điểm bỏ toàn bộ một lần vào chu kỳ sản xuất,
khi kết thúc chu kỳ tái sản xuất thì vốn lưu động sẽ được thu về. Như vậy chu
kỳ luân chuyển vốn lưu động cũng nằm trong chu kỳ tái sản xuất của hàng
hoá, rõ ràng nó phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất hàng hoá. Tiêu thụ nằm ở cuối
giai đoạn của chu kỳ tái sản xuất, nếu không hoàn thành tiêu thụ tức là chu kỳ
sản xuất chưa kết thúc, làm cho chu kỳ sản xuất kéo dài, vốn lưu động ứ đọng
dẫn đến vòng quay vốn chậm. Bên cạnh đó khi tiến hành tiêu thụ doanh
nghiệp xuất hàng đi mà chưa thu được tiền về làm cho vốn lưu động bị chiếm

dụng, giảm hiệu quả sử dụng vốn. Vậy công tác tiêu thụ có ý nghĩa quan trọng
Sv: Nguyễn Đức Hùng Lớp K42/11.08
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Có đẩy mạnh tiêu thụ thì mới rút
ngắn chu kỳ sản xuất tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn, ổn định tình hình tài
chính của doanh nghiệp để tiến tới đảm bảo chắc về mặt tài chính trước các
khoản nợ vay và các nghĩa vụ khác.
Thực hiện tốt khâu tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp mới có tiền trang
trải các khoản chi phí. Để sản xuất doanh nghiệp luôn phải ứng trước các
khoản chi phí phục vụ cho đầu vào như: chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân
công, chi phí khấu hao, chi phí dịch vụ mua ngoài, và chi phí bằng tiền
khác… Sau khi sản phẩm được sản xuất ra doanh nghiệp còn phải tổ chức tiến
hành tiêu thụ sản phẩm để thu tiền về. Để tiêu thụ được sản phẩm doanh
nghiệp phải bỏ ra nhiều khoản chi phí nhất định như chi phí bán hàng, ngoài
ra còn các chi phí gián tiếp khác như chi phí quản lí doanh nghiệp… Trong
trường hợp đó mà sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được thì doanh nghiệp
không bù đắp được các chi phí bỏ ra, mà việc bù đắp chi phí là một vấn đề
quan trọng. Trước hết phải bù đắp những tiêu hao đã mất sau đó mới tìm
kiếm lợi nhuận. Nếu doanh nghiệp không có khả năng bù đắp được những
tiêu hao đã mất thì cũng có nghĩa là doanh nghiệp sẽ phải rút lui khỏi thị
trường. Khi tiêu thụ được thông suốt sẽ thu được tiền về, tiền thu về sẽ tiếp
tục quá trình tái sản xuất. Nếu như thực hiện tốt khâu tiêu thụ sản phẩm thì
doanh nghiệp mới có thể có lợi nhuận. Thực hiện được tiêu thụ sản phẩm,
doanh nghiệp có tích luỹ để thực hiện nghĩa vụ với Nhà Nước, có vốn để tái
sản xuất mở rộng. Để đạt được lợi nhuận các doanh nghiệp luôn phải tăng
cường công tác tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh, trong đó có việc tổ
chức tiêu thụ sản phẩm, có như vậy mới mong đem lại kết quả cao, góp phần
thúc đẩy doanh nghiệp ngày càng phát triển.
Bên cạnh đó cũng từ công tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp
có thể nắm được nhu cầu thị hiếu của khách hàng, tình hình cạnh tranh trên

thị trường, vị trí của các đối thủ cạnh tranh và vị trí của doanh nghiệp trên thị
trường, cũng như nắm bắt thị trường nào là chủ yếu, thị trường nào là thứ yếu,
thị trường nào có tiềm năng cần khơi dậy, từ đó để hoạch định nên những kế
hoạch đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh cho phù hợp.
Sv: Nguyễn Đức Hùng Lớp K42/11.08
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
Đồng thời qua tiêu thụ sản phẩm cũng là căn cứ để kiểm tra đánh giá
về khối lượng, chất lượng sản phẩm sản xuất ra một cách chính xác cũng như
đánh giá về trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh, tổ chức thanh toán của đơn
vị mình. Vì tiêu thụ sản phẩm có được doanh thu chứng tỏ doanh nghiệp tổ
chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả, sản phẩm đạt chất lượng quy cách mẫu
mã phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng được thị trường chấp nhận. Đặc biệt
khi trong điều kiện hiện nay nước ta đã gia nhập WTO, dần dần tiến tới xoá
bỏ hàng rào thuế quan thì việc tiêu thụ sản phẩm ngày càng trở nên quan
trọng hơn.
1.2.2. Vai trò của tài chính doanh nghiệp trong việc thúc đẩy tiêu thụ,
tăng doanh thu của doanh nghiệp.
Chúng ta đã biết, tài chính doanh nghiệp là một khâu của hệ thống tài
chính trong nền kinh tế, là một phạm trù kinh tế khách quan gắn liền với sự ra
đời của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ.
Tài chính doanh nghiệp là tổng hợp các mối quan hệ kinh tế dưới hình
thức giá trị gắn liền với việc sử dụng và hình thành quỹ tiền tệ nhất định nảy
sinh trong quá trình phân phối, phục vụ cho mục đích nhất định.
Có thể khẳng định rằng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vai trò
của tài chính doanh nghiệp ngày càng cao. Đối với mọi doanh nghiệp việc tối
đa hoá lợi nhuận là một trong những cái đích cần hướng tới của tài chính
doanh nghiệp. Nhưng để đạt được điều này thì trước hết phải thành công
trong việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, trên cơ sở đó mới tạo tiền đề tăng thu,
tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vai trò của tài chính doanh nghiệp được thể
hiện trên các điểm sau:

1.2.2.1. Tài chính doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc tạo lập vốn,
đảm bảo đầy đủ và kịp thời vốn cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu tiếp cận, chiếm lĩnh và mở rộng thị trường
tiêu thụ.
Trong cơ chế quản lí hành chính trước đây, vốn của doanh nghiệp hầu
như do ngân sách Nhà nước cấp toàn bộ, do đó việc huy động vốn chỉ là vấn
Sv: Nguyễn Đức Hùng Lớp K42/11.08
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
đề thứ yếu. Nhưng khi đã bước sang nền kinh tế thị trường thì không thể ngồi
đợi ngân sách cấp. Không tự vận động đồng nghĩa với tự đào thải. Chính vì
vậy, việc chủ động tạo lập vốn trở nên cần thiết hơn bao giờ hết nhằm đảm
bảo doanh nghiệp hoạt động nhịp nhàng và liên tục với chi phí vốn ở mức
thấp nhất. Trên cơ sở đó mới đảm bảo được yêu cầu sản xuất kinh doanh, tạo
tiền đề cho việc chiếm lĩnh và mở rộng thị trường tiêu thụ. Vai trò của tài
chính doanh nghiệp còn được thể hiện ở chỗ, xác định đúng đắn các nhu cầu
vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ và lựa chọn
các phương pháp, hình thức thích hợp, sử dụng các công cụ đòn bẩy như: lãi
suất cho vay, cổ tức khi phát hành trái phiếu, khai thác và huy động vốn từ
bên trong và bên ngoài, đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn cho hoạt động. Từ
đó, doanh nghiệp mới có điều kiện tái sản xuất giản đơn cũng như tái sản xuất
mở rộng, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng mẫu mã
sản phẩm. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải bỏ ra một khoản kinh phí để
tổ chức nghiên cứu nắm bắt nhu cầu, tạo điều kiện tăng khả năng cạnh tranh
của sản phẩm hàng hoá trên thị trường và dần đi đến chiếm lĩnh thị trường.
1.2.2.2. Tài chính doanh nghiệp giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức sử
dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả.
Một đồng vốn sử dụng đầu tư hôm nay sẽ có khả năng thu lời ngày mai
nếu chúng ta biết dùng nó một cách đúng đắn và hợp lí. Khi làm kinh doanh
thì một đồng vốn cũng là rất quý nên việc sử dụng lãng phí, hiệu quả thấp
đồng vốn là một điều hết sức tránh. Điều này còn nguy hiểm hơn nhiều việc

không huy động được vốn. Mặt khác, để đáp ứng nhu cầu thị trường về sản
phẩm hàng hoá, tài chính doanh nghiệp phải xác định được trọng điểm quản lí
và phương pháp sử dụng vốn, xây dựng kế hoạch về chi phí, giá thành. Qua
đó cải tiến sản xuất kinh doanh, thực hành tiết kiệm, đảm bảo sản phẩm, hàng
hoá của doanh nghiệp có thể đứng vững trên thị trường. Thêm vào đó, doanh
nghiệp có thể định giá bán thấp hơn mặt bằng giá của sản phẩm cùng loại, tạo
ra thế mạnh cạnh tranh, không ngừng tăng khối lượng tiêu thụ. Việc hình
thành và sử dụng tốt các quỹ của doanh nghịêp cũng như sử dụng các hình
Sv: Nguyễn Đức Hùng Lớp K42/11.08
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
thức thưởng phạt vật chất một cách hợp lí sẽ thúc đẩy cán bộ công nhân viên
gắn bó với doanh nghiệp, từ đó tăng năng suất lao động góp phần cải tiến, đáp
ứng nhu cầu sản phẩm trên thị trường và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Tài
chính doanh nghiệp còn sử dụng công cụ giá bán, chiết khấu, quà tặng, bảo
hành, vận chuyển lắp đặt sản phẩm để thu hút khách hàng. Đây là một trong
những biện pháp hữu hiệu nhằm đẩy mạnh khối lượng tiêu thụ, tăng doanh
thu của doanh nghiệp.
1.2.2.3. Vai trò của tài chính doanh nghiệp được thể hiện trong việc giám
đốc, kiểm tra quy trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp nó kiểm tra tính đúng đắn của kế hoạch sản
xuất kinh doanh, kế hoạch doanh thu, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, từ đó cân
đối giữa kế hoạch và thực tiễn, đồng thời sẽ tránh được trường hợp phán đoán
sai lệch giữa cung và cầu, làm cho việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
gặp khó khăn. Thông qua lập kế hoạch sổ sách, số liệu kế toán, định mức kinh
tế kỹ thuật, tài chính doanh nghiệp kiểm tra, giám sát đảm bảo sử dụng vốn
đúng mục đích, đúng đối tượng, đúng thiết kế, tránh lãng phí hao hụt mất mát.
nhờ vậy, giá thành sản phẩm hàng hoá sẽ hạ, chất lượng đảm bảo, hàng hoá sẽ
được thông nguồn dễ dàng. Ngoài ra, tài chính doanh nghiệp còn phải giám
sát chặt chẽ tình hình thực hiện hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, công tác thanh
toán tiền hàng thông qua các chỉ tiêu: doanh thu bán hàng, hệ số thanh toán,

giá trị sản phẩm tồn kho, giá cả sản phẩm tiêu thụ. Từ đó giúp nhà quản lí
thấy được tình hình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp để đưa ra biện pháp
khắc phục kịp thời.
Ngày nay, các doanh nghiệp phải tự chủ về tài chính của mình. Do vậy,
vai trò của tài chính càng trở nên vô cùng quan trọng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh cũng như trong công tác đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh
thu cho doanh nghiệp. Điều cơ bản là các doanh nghiệp vận dụng sự tự chủ ấy
như thế nào và phát huy vai trò quan trọng của tài chính doanh nghiệp đến
đâu để đạt được mục đích cao nhất? Chính vì vậy mà các doanh nghiệp không
được thụ động trong nền kinh tế, đòi hỏi phải năng động nếu không sẽ khó
tránh khỏi sự đào thải chính mình.
Sv: Nguyễn Đức Hùng Lớp K42/11.08
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
1.3. Một số giải pháp kinh tế tài chính chủ yếu được sử dụng để đẩy
mạnh công tác tiêu thụ, tăng doanh thu của doanh nghiệp.
1.3.1. Giá cả hàng hóa.
Giá cả là một công cụ rất linh hoạt và nhạy bén, nó có ảnh hưởng to lớn
đến khối lượng hàng hoá tiêu thụ của doanh nghiệp vì nó có tác động kích
thích lượng cầu phát triển. Để có được mức giá phù hợp thì cần thiết phải dựa
vào những phân tích về thị trường, những phân tích về chi phí trong kinh
doanh từ đó có một mức giá bán phù hợp.
Trong kinh doanh, doanh nghiệp có thể thực hiện phân hoá giá. Đó là
việc xác định nhiều mức giá khác nhau của cùng một loại sản phẩm, hàng hoá
cho phù hợp với từng vùng thị trường và từng nhóm khách hàng khác nhau.
Mục tiêu của nó là kích thích vào nhu cầu tiêu thụ của khách hàng để co thể
phát triển và mở rộng thị trường.
Trong công tác tiêu thụ sản phẩm, việc giảm giá cũng được các doanh
nghiệp rất chú trọng quan tâm, tất nhiên giảm giá không đồng nhất với hạ giá.
Thực hiện việc giảm giá cũng nhằm thu hút các khách hàng. Giảm giá có
nhiều phương thức khác nhau:

- Giảm giá theo khối lượng sản phẩm: Việc giảm giá này được áp dụng
với những khách hàng mua khối lượng sản phẩm lớn. Giả cả sản phẩm có thể
được giảm theo 1 tỉ lệ % hoặc theo số tuyệt đối. Mức giảm cũng có thể chia
thành các cung bậc khác nhau theo khối lượng hàng hoá mà khách hàng mua.
- Giảm giá trong kì hạn ngắn: Theo phương pháp này, trong một
khoảng thời gian ngắn, mọi khách hàng khi mua sản phẩm của doanh nghiệp
đều được mua với giá hạ hơn so với bình thường. Doanh nghiệp áp dụng
phương thức giảm giá này trong những ngày lễ, ngày kỉ niệm. Điều chú ý
trong phương thức này là mọi đối tượng khách hàng đều được hưởng giá ưu
đãi không phân biệt với khối lượng mua nhiều hay ít.
- Giảm giá theo đối tượng khách hàng: Trong phương thức này chỉ có
một số đối tượng khách hàng nhất định mới được hưởng mức giá ưu đãi. Ví
dụ như các đối tượng khách hàng là học sinh, sinh viên, thương bệnh binh…
Sv: Nguyễn Đức Hùng Lớp K42/11.08
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
Qua trên ta có thể thấy giá cả sản phẩm nếu được sử dụng một cách linh
hoạt, nhạy bén, kịp thời sẽ là công cụ vô cùng sắc bén trong kinh doanh đặc
biệt là trong tiêu thụ sản phẩm.
1.3.2. Chiết khấu bán hàng.
Chiết khấu bán hàng là số tiền doanh nghiệp bán theo quy định của hợp
đồng đã thoả thuận dành cho khách hàng trong trường hợp khách hàng thanh
toán sớm tiền hàng hoặc mua với số lượng lớn. Chiết khấu bán hàng tính theo
tỷ lệ phần trăm trên doanh thu hoá đơn chưa có thuế giá trị gia tăng. Thông
thường chiết khấu bán hàng được chia làm nhiều bậc, khách hàng thanh toán
ngay được hưởng tỷ lệ chiết khấu cao, thanh toán trong một thời gian ngắn
được hưởng tỷ lệ chiết khấu thấp hơn, nếu thanh toán chậm thì không được
hưởng tỷ lệ chiết khấu thậm chí còn chịu tỷ lệ lãi suất trên số tiền trả chậm
theo lãi suất vay vốn của ngân hàng.
Đối với chiết khấu bán hàng tính theo khối lượng sản phẩm bán ra cũng
tương tự, khách hàng mua sản phẩm đạt tới một mức nào đó thì được hưởng

tỷ lệ chiết khấu cao, khách hàng mua mức thấp hơn được hưởng tỷ lệ chiết
khâu thấp hơn và mua dưới một mức nào đó sẽ không được hưởng tỷ lệ chiết
khấu. Đây là biện pháp tài chính được sử dụng khá phổ biến ở các doanh
nghiệp trong nước hiện nay. Các doanh nghiệp cần phải có tỷ lệ chiết khấu
hấp dẫn để đẩy mạnh tiêu thụ, nhanh chóng thu hồi vốn và quay vòng vốn.
1.3.3. Cước phí vận chuyển.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng nhất là các khách hàng ở xa,
các doanh nghiệp sản xuất hầu như đảm nhận vận chuyển cho khách hàng.
Bản chất của việc vận chuyển hàng hoá không phải là một công cụ tài chính
khi khách hàng trả đầy đủ tiền cước phí vận chuyển, nhưng khi doanh nghiệp
giảm giá cước phí thì nó đã trở thành một công cụ tài chính phục vụ cho công
tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Đòn bẩy cước phí vận chuyển này
thường được chia tách thành các cấp khác nhau, nếu khách hàng mua với khối
lượng lớn có thể còn được miễn phí. Từ tính kích thích mạnh mẽ đó đã tạo
cho công cụ này chỗ đứng trong các chiến dịch cạnh tranh của doanh nghiệp.
Sv: Nguyễn Đức Hùng Lớp K42/11.08
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
1.3.4. Hoa hồng đại lí.
Nhằm mục đích mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nhiều doanh
nghiệp đã mở ra hàng loạt các đại lí phân bổ khắp nơi. Các đại lí này được
thực hiện việc bán hàng cho doanh nghiệp và doanh nghiệp trích một tỷ lệ %
trên doanh thu bán được tại các đại lí để trả công cho các đại lí đó. Số tiền này
gọi là tiền hoa hồng phí. Tiền hoa hồng phí không chỉ có tác dụng mở rộng
mạng lưới tiêu thụ sản phẩm, chiếm lĩnh thị trường mà còn giúp cho các
doanh nghiệp tiết kiệm chi phí tiền lương cho nhân viên bán hàng, tiết kiệm
chi phí thuê cửa hàng, nhà kho, chi phí bảo quản sản phẩm, doanh nghiệp có
thể giảm một phần chi phí để tìm kiếm thị trường tiêu thụ vì công việc này đã
có các đại lí làm hộ, do đó doanh nghiệp có thể tập trung vào nâng cao hiệu
quả hoạt động kinh doanh của mình.
1.3.5. Quà tặng khi mua hàng

Để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, các doanh nghiệp còn khơi dậy nhu
cầu bằng cách tặng quà cho khách hàng khi mua sản phẩm hàng hoá của
doanh nghiệp. Việc tặng quà có muôn nghìn cách khác nhau. Có thể mua sản
phẩm nào cũng có quà tặng hoặc mua sản phẩm với số lượng nào thì mới
được nhận quà mặc dù công cụ này chưa thực sự được sử dụng phổ biến
nhưng cũng đã có nhiều doanh nghiệp áp dụng và đã đem lại không ít thành
công trong công tác tiêu thụ sản phẩm.
Nói tóm lại, các công cụ tài chính có tầm quan trọng rất lớn trong công
tác đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Nó nói
lên trình độ, nghệ thuật kinh doanh của từng doanh nghiệp và có thể khẳng
định đó là mấu chốt dẫn đến sự thành công của doanh nghiệp trong cơ chế thị
trường cạnh tranh gay gắt này.
Sv: Nguyễn Đức Hùng Lớp K42/11.08
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT VÀ
TIÊU THỤ SẢN PHẨM TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN ĐÁ MÀI
HẢI DƯƠNG.
2.1. Tổng quan về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công Ty
Cổ Phần Đá Mài Hải Dương.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty.
2.1.1.1. Thông tin về Công ty.
+ Tên công ty: Công ty Cổ Phần Đá Mài Hải Dương.
+ Tên Tiếng Anh: Hai Duong Grinding wheels joint stock company.
+ Địa chỉ: Số 314 đường Điện Biên Phủ, Thành phố Hải Dương, Tỉnh Hải
Dương.
+ Điện thoại: 0320.3854560.
+ Fax: 0320.3853790.
Website: .
Vốn điều lệ: 39.943.190.000. đồng.
Số cổ phần : 3.994.319 cổ phần.

Công ty có 2 chi nhánh gồm:
+ Văn phòng đại diện tại Hà Nội: Số 116- nhà D5- Giảng Võ- Ba Đình.
+ Chi nhánh tại TP. Hồ Chí Minh: Số 123- đường 23- phường 11- quận
6.
Công ty cổ phần Đá Mài Hải Dương là một doanh nghiệp thành viên
thuộc Tổng Công ty máy và thiết bị công nghiệp, Bộ công nghiệp, là một đơn
vị hạch toán kinh tế độc lập.
2.1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty.
Trong lịch sử hình thành và phát triển của Công ty Cổ phần Đá Mài Hải
Dương đã trải qua nhiều bước thăng trầm, từ chiến tranh chống đế quốc Mỹ
đến thời kỳ xoá bỏ chế độ quan liêu bao cấp và đối mặt với cơ chế thị trường.
Năm 1961 nhà máy chế tạo đá mài thuộc Bộ cơ khí và luyện kim chỉ là
một bộ phận nhỏ (phân xưởng) thuộc nhà máy chế tạo bơm Hải Hưng. Do
Sv: Nguyễn Đức Hùng Lớp K42/11.08
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
tình hình phát triển của nền kinh tế Nhà Nước đã cử một số cán bột công nhân
của nhà máy đi học tập và nghiên cứu tại nước ngoài như Trung Quốc, Tiệp
Khắc và Liên Xô cũ. Năm 1963, nhà máy chế tạo đá mài tách ra khỏi nhà máy
chế tạo bơm để thành lập Nhà Máy chế tạo Đá Mài. Lúc đó, qui mô sản xuất
còn nhỏ chỉ có 5-6 cán bộ và 50- 60 công nhân, mỗi năm chỉ sản xuất được
50-60 tấn đá mài với qui trình công nghệ và sản xuất đơn giản. Để đáp ứng
với tình hình kinh tế, Nhà Nước đã quyết định thành lập Nhà Máy chế tạo đá
mài Hải Hưng vào ngày 03/11/1966. Từ đó cán bộ công nhân viên của nhà
máy lấy ngày 03/11 là ngày truyền thống.
Từ năm 1967 1986, năng lực của nhà máy Đá Mài tăng 23 lần (từ gần
30 tấn lên 700 tấn sản phẩm đá mài, hạt mài/năm.), diện tích nhà xưởng tăng
5 lần và dần được thay đổi kiên cố.
Tháng 07/1997, Nhà Nước đã quyết định đổi tên Nhà Máy chế tạo Đá
Mài Hải Hưng thành Công ty đá mài Hải Dương thuộc Tổng công ty máy và
thiết bị công nghiệp.

Từ năm 1999-2000, Công ty đã đầu tư hàng trăm triệu đồng để mở
rộng, khai thác thị trường, đầu tư về con người, phương tiện, mở VP đại diện
tại Miền Nam, Hà Nội, Miền Trung.Thực hiện chiến lược CLSP, trong giai
đoạn này Cty đã đầu tư 4 lò nung Gas, đa dạng hoá sản phẩm, đẩy mạnh công
tác nghiên cứu chế tạo sản phẩm mới.Tháng 9/2001 và tháng 7/2003 Cty đã
nghiên cứu và chế tạo thành công Đá Mài chất dính Gốm lớn có đường kính
900mm và 1100mm.
Để phù hợp với tình hình mới, theo đề nghị của Ban đổi mới và phát
triển Doanh nghiệp Bộ Công Nghiệp, ngày 23/10/2003 Bộ trưởng Bộ Công
Nghiệp ra Quyết đinh số 170/2003/QĐ-BCN về việc chuyển công ty
Đá Mài thành Công ty Cổ phần Đá Mài Hải Dương với vốn điều lệ là 6183
triệu đồng.
Năm 2004-2005, được sự đồng ý của Bộ Khoa học và Công nghệ, công
ty đã thực hiện chương trình nghiên cứu khoa học mang mã số KC05-12
nghiên cứu chế tạo đá mài cao tốc do đồng chí nguyễn Minh Triết- Giám Đốc
Sv: Nguyễn Đức Hùng Lớp K42/11.08
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
Cty làm chủ nhiệm cùng các cộng sự là các kỹ sư công nghệ, sau hơn một
năm nghiên cứu và chế tạo thử nghiệm đề tài đã bảo vệ thành công cấp Nhà
Nước và được triển khai thực hiện.
Năm 2003 được nhận giải thưởng chất lượng Việt Nam.
Năm 2004 được cấp chứng nhận hệ thống Quản Lý Chất Lượng theo
tiêu chuẩn ISO 9001: 2000.
Hiện tại, vốn điều lệ của công ty là hơn 39 tỷ đồng, trong đó số vốn góp
của Nhà Nước là 1 tỷ đồng. Công ty có tổng diện tích là 38.336m2, gần với
quốc
lộ 5A, gần cảng Cống Câu, bến phà rất thuận lợi cho việc chở nguyên vật liệu
và tiêu thụ sản phẩm.
Cho đến nay Công ty Cổ Phần Đá Mài Hải Dương đã hình thành và
phát triển được hơn 40 năm. Về cơ bản Công ty đã từng bước khẳng định

mình, Công ty sản xuất rất nhiều loại đá mài như: đá mài công nghiệp, đá mài
dao, đá mài loại nhỏ phục vụ cho ngành y tế và hiện nay công ty đang nghiên
cứu và chế tạo đá mài kê và đá mài đánh bóng gạch lát nền các sản phẩm hạt
mài rất đa dạng, các loại hạt có kích cỡ phục vụ cho lọc sàng xát gạo, đánh
bóng các loại sản phẩm của ngành công nghiệp.
Hoạt động của công ty qua 1 số năm:
ST
T
Chỉ tiêu Đơn vị tính 2005 2006 2007
1 Giá trị tổng sản lượng Tr.đồng 35.430 40.336 65.552
2 Tổng doanh thu Tr.đồng 32.191 54.835 75.553
3 Lợi nhuận trước thuế Tr.đồng 3.436 2.808 5.587
4 Lợi nhuận sau thuế Tr.đồng 2.474 2.021 4.023
5 Tổng tài sản cuối năm Tr.đồng 37.255 50.712 71.325
2.1.1.3. Phương hướng của công ty trong những năm tới.
Để tiếp tục duy trì hoạt động và phát triển, công ty đã đề ra phương
hướng trong những năm tới như sau:
Sv: Nguyễn Đức Hùng Lớp K42/11.08
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
Tiếp tục nâng cao hiệu quả của sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh
các sản phẩm hiện có, mở rộng sản xuất, mở rộng thị trường đảm bảo cho sự
phát triển và tăng trưởng. Phấn đấu năm 2008 đạt tổng doanh thu là 100 tỷ
đồng và lợi nhuận thực hiện trước thuế là 10 tỷ đồng.
Đầu tư đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ 1 số khâu chủ yếu. Tiếp
tục nghiên cứu các loại sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu của thị trường,
nâng cao sức cạnh tranh.
Xây dựng thêm cơ sở hạ tầng, đào tạo cán bộ công nhân viên trong biên
chế của công ty thông qua các lớp đào tạo, các chương trình tập huấn.
Nghiên cứu hướng đến thị trường nước ngoài, tăng doanh thu, tăng lợi
nhuận, tăng nộp ngân sách và tăng thu nhập cho người lao động.

2.1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý và tổ chức sản xuất của công ty.
2.1.2.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý.
Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty là tổng hợp các bộ phận lao động
quản lý khác nhau, có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau được chuyên môn hoá
và có những quyền hạn, trách nhiệm nhất định được bố trí thành những cấp,
những khâu khác nhau nhằm đảm bảo chức năng quản lý và phục vụ mục đích
chung của công ty.
Để đáp ứng nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, việc tổ chức bộ máy quản lý
của Công ty Cổ phần Đá Mài Hải Dương được biên chế gọn nhẹ, phù hợp với
nội dung và nhiệm vụ của từng bộ phận:
+ Đ ại hộ i đ ồng cổ đông: Là các chủ sở hữu vốn, tài sản của công ty.
Đại hội đồng cổ đông là cơ quan có quyền lực cao nhất của công ty. Đại hội
đồng cổ đông hoạt động theo luật Doanh nghiệp và điều lệ của công ty.
+ Hộ i đ ồng quản trị: Có quyền quyết định các vấn đề trong phạm vi
quyền hạn của mình theo quy định trong điều lệ của công ty. Các thành viên
trong hội đồng quản trị được bầu ra trong cuộc họp đại hội cổ đông, có nhiệm
kì không quá 3 năm. Là cơ quan cao nhất đề ra và thông qua các chính sách,
chiến lược của công ty.
Sv: Nguyễn Đức Hùng Lớp K42/11.08
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
+ Ban giám đ ốc: Là người điều hành hoạt động của công ty, chịu trách
nhiệm trước hội đồng quản trị. Là người đại diện hợp pháp của công ty, chịu
trách nhiệm trước pháp luật và trước toàn thể cán bộ công nhân viên về kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
+ Phó giám đ ốc sản xuất: Được giám đốc uỷ quyền trực tiếp điều hành
sản xuất, tổ chức qui trình sản xuất theo các định mức kinh tế kỹ thuật, đảm
bảo đúng số lượng, chủng loại và chất lượng sản phẩm theo đúng kế hoạch
đáp ứng nhu cầu thị trường.
+ Phó giám đ ốc kĩ thuật: được giám đốc uỷ quyền trong lĩnh vực kĩ
thuật, nghiên cứu khoa học, áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật nghiên cứu cải

tiến sản phẩm đang sản xuất, chế tạo sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu thị
trường; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kĩ thuật và công nhân phù hợp với nhu cầu
trước mắt và lâu dài của công ty.
* Các phòng ban trực thuộc:
+ Phòng tổ chứ c lao đ ộng tiề n lương và b ảo vệ (phòng tổng hợp): tham
mưu cho giám đốc về lĩnh vực công tác tổ chức bộ máy cán bộ, công tác tổ
chức quản lí lao động tiền lương, và công tác bảo vệ an ninh chính trị, trật tự
an toàn công ty.
+ Phòng tài chính – kế toán: Giúp việc cho giám đốc về công tác tài
chính- kế toán và thông tin kinh tế toàn bộ doanh nghiệp. Theo dõi và quản lí
toàn bộ về mặt tài chính của Công ty, quản lí tài sản lao động, tài sản cố định,
quản lí sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm. Tập hợp chi phí tính giá thành sản
phẩm và kết quả sản xuất kinh doanh, lập các biểu báo cáo kế toán.
+ Phòng kế hoạch: giúp phó giám đốc sản xuất quản lí điều hành kế
hoạch sản xuất, kế hoạch cung ứng vật tư kĩ thuật, kế hoạch xây dựng cơ bản,
quản lí đất đai, kết hợp với phòng thị trường để tổ chức mạng lưới tiêu thụ sản
phẩm đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội.
+ Văn p hòng công ty: Làm công tác văn phòng, công tác quản trị hành
chính, tiếp khách văn thư.
Sv: Nguyễn Đức Hùng Lớp K42/11.08

×