Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Mối quan hệ giữa văn hóa du lịch và du lịch văn hóa Những vấn đề lý luận và thực tiễn Luận văn ThS. Du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




LÊ THỊ HẢI LÝ



MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HÓA DU LỊCH
VÀ DU LỊCH VĂN HÓA - NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành: Du lịch
(Chương trình đào tạo thí điểm)

LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH


Người hướng dẫn khoa học: GS. TS Lê Chí Quế



Hà nội-2015
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2


4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
5. Phương pháp nghiên cứu 7
6. Bố cục của đề tài 7
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA DU LỊCH VÀ
DU LỊCH VĂN HÓA 8
1.1. Một số vấn đề chung về văn hóa du lịch và du lịch văn hóa 8
1.1.1. Du lịch 8
1.1.1.1. Khái niệm 8
1.1.1.2. Phân loại du lịch 10
1.1.2. Văn hóa 12
1.1.2.1.Khái niệm 12
1.1.2.2. Phân loại văn hóa 15
1.1.3. Du lịch văn hóa 17
1.1.3.1. Khái niệm 17
1.1.3.2. Tài nguyên du lịch văn hóa 20
1.1.3.3. Dịch vụ du lịch văn hóa 21
1.1.3.4. Mục tiêu và nhiệm vụ của du lịch văn hoá 21
1.1.4. Văn hóa du lịch 23
1.1.4.1.Khái niệm 23
1.1.4.2. Thành tố tạo dựng văn hoá du lịch 29
1.1.4.3. Những yếu tố khác 34
1.1.4.4. Những biểu hiện văn hoá du lịch 36
1.2. Mối quan hệ giữa Văn hóa du lịch và du lịch văn hóa 41
1.2.1. Bảo vệ tài nguyên du lịch văn hóa 41
1.2.2. Nâng cao hình ảnh điểm đến 43
1.2.3. Đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách 44
1.2.4. Tạo môi trường du lịch văn minh 46
Tiểu kết chương 1 47
Chương 2. THỰC TIỄN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HÓA DU
LỊCH VÀ DU LỊCH VĂN HÓA 49

2.1. Giới thiệu khái quát về địa bàn nghiên cứu 49
2.1.1. Tổng quan về khu di tích lịch sử - văn hóa Kim Liên 49
2.1.2.Tiềm năng du lịch văn hoá của Khu di tích 50
2.1.2.1. Các di tích lịch sử Cách mạng 50
2.1.2.2. Các trò chơi, biểu diễn nghệ thuật, âm nhạc 51
2.1.2.3.Các lễ hội 51
2.1.2.4.Ngành nghề truyền thống 52
2.1.2.5.Món ăn dân tộc 52
2.2. Những biểu hiện mối quan hệ giữa văn hóa du lịch và du lịch văn hóa tại
khu di tích lịch sử - văn hóa Kim Liên 53
2.2.1. Giữ gìn tính nguyên gốc và bảo vệ giá trị văn hóa của tài nguyên du
lịch văn hóa 53
2.2.1.1. Quê nội Làng Sen 55
2.2.1.2. Quê Ngoại - Hoàng Trù 57
2.2.1.3. Mộ Bà Hoàng Thị Loan 58
2.2.2. Tạo dựng thương hiệu hình ảnh điểm đến 61
2.2.3. Tăng khả năng đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách 65
2.2.4. Tạo môi trường du lịch văn minh 70
Tiểu kết chương 2 75
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG MỐI QUAN HỆ
GIỮA VĂN HÓA DU LỊCH VÀ DU LỊCH VĂN HÓA 78
3.1. Định hướng các cấp về vấn đề này 78
3.2. Một số giải pháp 81
3.2.1. Xây dựng hệ thống pháp lý tạo sự gắn kết đối với hai vấn đề này 81
3.2.2. Xây dựng môi trường văn hóa du lịch trong du lịch văn hóa 82
3.2.3. Bảo vệ tôn tạo và phát huy di sản văn hóa trong hoạt động du lịch văn
hóa 85
3.2.4.Tuyên truyền giáo dục cho các đối tượng tham gia du lịch 88
3.2.5. Xây dựng một khu ẩm thực 91
3.2.6. Nâng cao vai trò quản lý nhà nước đối với việc khai thác các giá trị văn

hóa đặc trưng cho phát triển du lịch văn hóa 94
Tiểu kết chương 3 96
KẾT LUẬN 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
PHỤ LỤC 104


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
KHXH : Khoa học Xã hội
KHXHVN : Khoa học Xã hội Việt Nam
KHXH&NV : Khoa học Xã hội và Nhân văn
KHKT : Khoa học Kỹ thuật
KH&CN : Khoa học và Công nghệ
Nxb : Nhà xuất bản
NN&PTNT : Nông nghiệp và phát triển nông thôn
UBND : Ủy ban nhân dân
HĐND : Hội đồng nhân dân
GS : Giáo sư
PGS : Phó giáo sư
PGS.TSKH : Phó giáo sư, Tiến sỹ khoa học
TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
Ts : Tiến sỹ
VHTT : Văn hóa Thông tin
VHDG : Văn hóa dân gian
VHNT : Văn hóa Nghệ thuật
VH-TT&DL : Văn hóa - Thể thao và Du lịch

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Ngày nay du lịch đã trở thành một hoạt động tinh thần quan trọng
không thể thiếu trong cuốc sống của con người. Chính vì vậy, lực lượng lao
động tham gia vào hoạt động du lịch ngày càng lớn. Nhiều trường Đại học,
cao đẳng cũng như trung cấp chuyên nghiệp trong cả nước đã, đang đào tạo
và cung cấp nguồn lao động ngành du lịch để đáp ứng nhu cầu lao động ngày
càng cao của xã hội.
Trong chương trình đào tạo hiện nay ở các trường Đại học, Cao đẳng
hay trung cấp chuyên nghiệp chưa có nội dung rõ ràng về văn hóa du lịch và
du lịch văn hóa. Trong một số giáo trình, sách tham khảo cũng như trên tạp
chí du lịch có chỗ tuy đã có sự phân biệt nhưng chưa rõ ràng; có chỗ chưa đưa
ra được sự phân biệt giữa văn hóa du lịch và du lịch văn hóa. Trong thực tiễn
hoạt động du lịch ở các điểm du lịch gần như ta chưa thấy được sự gắn kết
của mối quan hệ này nhằm tạo sự phát triển bền vững.
Với cương vị là một học viên cao học khóa 7 chuyên ngành Du lịch học
- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, hiện lại đang tham gia
công tác giảng dạy tại Trường Đại học Vinh. Vì vậy, tôi thấy việc nghiên cứu
“Mối quan hệ giữa văn hóa du lịch và du lịch văn hóa - Những vấn đề lý luận
và thực tiễn” là vấn đề cấp thiết.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu mối quan hệ giữa văn hóa du lịch
và du lịch văn hóa trên bình diện lý thuyết và thực tiễn. Trên cơ sở đó đề xuất
các giải pháp nhằm tạo dựng sự gắn kết mối quan hệ này góp phần xây dựng
hình ảnh điểm đến cho điểm du lịch được lựa chọn nghiên cứu nói riêng và
phát triển bền vững du lịch Việt Nam nói chung.


2
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu về khái niệm văn hóa du lịch, các cấu trúc, thành tố hình
thành nên văn hóa du lịch, khái niệm về du lịch văn hóa, mục tiêu nhiệm vụ

của du lịch văn hóa.
- Nhận diện mối quan hệ giữa văn hóa du lịch và du lịch văn hóa
- Nghiên cứu thực tiễn biểu hiện của mối quan hệ này
- Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ giữa văn hóa du
lịch và du lịch văn hóa, góp phần vào sự phát triển bền vững cho du lịch.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là mối quan hệ giữa văn hóa du
lịch và du lịch văn hóa.
- Phạm vi nghiên cứu
Trong đề tài này tôi tập trung thực hiện nghiên cứu trường hợp Khu di
tích Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Du lịch Văn hóa
Từ trước đến nay, vấn đề về Du lịch văn hóa đã được nhiều tác giả
nghiên cứu. Đã có nhiều công trình cũng như giáo trình được công bố. Du
lịch văn hóa là một loại hình du lịch. Dựa trên nguồn tiềm năng có sẵn, du
lịch văn hóa là một trong ba loại hình du lịch (du lịch văn hóa, du lịch sinh
thái, du lịch biển đảo) được Quốc gia ưu tiên phát triển. Trong chiến lược phát
triển du lịch Việt Nam 2010 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030, đây vẫn là một
loại hình du lịch được chú trọng phát triển.
Ở mỗi vùng, mỗi địa phương, cũng đã có nhiều tác giả nghiên cứu và
đánh giá về hoạt động du lịch văn hóa của địa phương mình:
- Nguyễn Phạm Hùng, Đề tài khoa học trọng điểm nhóm A, Nghiên
cứu phát triển du lịch văn hóa vùng Đồng bằng Sông Hồng, 2013.

3
- Học viên Cao học Lê Thị Lan Hương, chuyên ngành Du lịch học -
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, với đề tài “Tìm hiểu việc khai thác tài
nguyên văn hóa của tỉnh Nghệ An phục vụ hoạt động du lịch”.
- Học viên cao học Trần Thị thu Thủy, chuyên ngành Du lịch học - Đại

học Khoa học xã hội và nhân văn, với đề tài “nghiên cứu phát triển du lịch
văn hóa Bình Định”,2010.
- Sinh viên Đinh Thị Kim Thùy, chuyên ngành Văn hóa du lịch - Đại
học Dân lập Hải Phòng, với đề tài “xây dựng một số tuyến du lịch văn hóa
huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng”, 2010.
Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu nội dung cơ sở lý luận
về Du lịch văn hóa:
- Trần Thúy Anh 2011, Du lịch văn hóa những vấn đề lý luận và thực
tiễn, NXB giáo dục Việt Nam.
- Trần Thúy Anh (2011), Khai thác di sản văn hóa phục vụ phát triển
du lịch ở Việt Nam, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 12.
- Trần Thúy Anh (2009), Tăng cường gắn kết giữa văn hóa với du lịch,
Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 8.
- Nguyễn Phạm Hùng (1998), Tượng đài Hà Nội và du lịch văn hóa,
Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 8.
- Đào Duy Tuấn (2009), Lễ hội và vấn đề phát triển du lịch văn hóa ở
Việt Nam, Tạp chí du lịch Việt Nam số 3.
Văn hóa du lịch
Văn hóa đã và đang xuất hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chưa nói đến văn hóa trong hoạt động du lịch mà chúng ta thấy yếu tố văn hóa
có mặt mọi lúc, mọi nơi. Điều đó chứng tỏ văn hóa có vai trò vô cùng quan trọng
trong đời sống xã hội loài người. Không ít bút giấy đã nói đến vấn đề này.
Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển bởi lẽ, văn hóa do con người sáng
tạo ra, chi phối toàn bộ hoạt động của con người, là hoạt động sản xuất nhằm

4
cung cấp năng lượng tinh thần cho con người, làm cho con người ngày càng
hoàn thiện.
Văn hóa là động lực của sự phát triển, bởi lẽ mọi sự phát triển đều do
con người quyết định chi phối. Văn hóa khơi dậy và nhân lên mọi tiềm năng

sáng tạo của con người, huy động sức mạnh nội sinh to lớn trong con người
đóng góp vào sự phát triển xã hội.
Văn hóa là hệ điều tiết của sự phát triển. Bởi lẽ, văn hóa phát huy mặt
tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của các nhân tố khách quan và chủ quan, của
các điều kiện bên trong và bên ngoài, bảo đảm cho sự phát triển được hài hòa,
cân đối, lâu bền.
Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hóa dựa vào chuẩn mực của
nó là chân, thiện, mỹ (cái đúng, cái tốt, cái đẹp) để hướng dẫn và thúc đẩy
người lao động không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay
nghề, sản xuất hàng hóa với số lượng ngày càng nhiều với chất lượng ngày
càng cao, đáp ứng nhu cầu không ngừng tăng lên của xã hội; mặt khác, văn hóa
sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống, của đạo lý, dân tộc để hạn chế
xu hướng sùng bái hàng hóa, sùng bái tiền tệ, nghĩa là hạn chế xu hướng tiêu
cực của hàng hóa và đồng tiền “xuất hiện với tính cách là lực lượng có khả
năng xuyên tạc bản chất con người, cũng như những mối liên hệ khác”. Hạn
chế những tiêu cực này chỉ có thể là văn hóa và chủ yếu bằng văn hóa.
Vì sự phát triển bền vững, văn hóa phê phán lối sống thực dụng, chụp
giật, chạy theo ham muốn quá mức của “xã hội tiêu thụ”, dẫn đến chỗ làm cạn
kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường sinh thái. Như vậy, văn hóa đã góp phần
quan trọng vào vấn đề bảo vệ môi trường và sự phát triển bền vững
Điều này giải thích vì sao văn hóa bao trùm tất cả các phương diện của
hoạt động xã hội. Nào là văn hóa đô thị và văn hóa nông thôn; Văn hóa ứng
xử và văn hóa giao tiếp; hay văn hóa doanh nghiệp, văn hóa trường học, văn
hóa bệnh viện (sách của tác giả Trần Đình Thêm, NXB Thanh niên)…Chắc

5
hẳn cụm từ Văn hóa nông thôn không còn xa lạ với tất cả chúng ta. Đó là sinh
hoạt văn hóa mang đậm nét dấu ấn, phong vị văn hóa văn minh nông nghiệp
trồng lúa nước với cơ cấu tổ chức xã hội thôn làng tương đối khép kín, nay có
điều kiện xây dựng một cách chắc chắn và đủ đầy hơn về cơ sở vật chất kỹ

thuật; là sự bền vững phong phú, đa dạng của các hoạt động văn hóa dân gian
thôn làng kết hợp với sự gia tăng ngày càng nhiều hình thức sinh hoạt và
hưởng thụ văn hóa hiện đại, tạo điều kiện cho người dân sáng tạo và hưởng
thụ văn hóa nhiều hơn, cao hơn; là dân trí ngày càng được nâng cao bởi sự
phát triển kinh tế hộ, kinh tế làng, khiến mức sống của người dân tăng lên khá
ổn định, tạo điều kiện gia tăng khả năng học tập, dịch chuyển, giao tiếp dưới
nhiều hình thức; là ý chí vươn lên của người nông dân trong tất cả các lĩnh
vực học tập vốn có truyền thống từ xưa (với lệ khuyến học); là rất nhiều nét
đẹp trong giao tiếp, ứng xử, thực hành văn hóa của người nông dân… Với
hành trang văn hóa ấy người nông dân đang tự nâng mình để xây dựng nông
thôn mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngày càng giàu đẹp, công
bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu
hạ tầng kinh tế xã hội phát triển ngày càng hiện đại, có mặt bằng dân trí và
văn hóa cao. Hay điều mà các doanh nghiệp trên thế giới nói chung và trong
nước nói riêng đó chính là vấn đề văn hóa doanh nghiệp. Văn hóa doanh
nghiệp là toàn bộ các giá trị văn hóa được xây dựng trong suốt quá trình tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp, chi phối tình cảm, nếp suy nghĩ và hành vi
của mọi thành viên của doanh nghiệp; tạo nên sự khác biệt giữa các doanh
nghiệp và được coi là truyền thống riêng của mỗi doanh nghiệp. Lớp bề mặt
của yếu tố doanh nghiệp biểu hiện hữu hình như: trang phục làm việc, môi
trường làm việc, lợi ích, khen thưởng, đối thoại, cấu trúc tổ chức, các mối
quan hệ…phần lõi biểu hiện vô hình của văn hóa doanh nghiệp đó chính là
các giá trị, các quy tắc vô hình, thái độ, niềm tin, tâm trạng và cảm xúc, gia
đình… Văn hóa nông thôn hay văn hóa doanh nghiệp, dù là trong môi trường

6
nào, hoạt động nào thì văn hóa cũng được coi là cái gốc, là hạt nhân làm nền
tảng cho người ta soi vào đó.
Nói đến vấn đề văn hóa du lịch tức là nói đến các thuộc tính văn hóa
được thể hiện ra trong ba thành tố tạo dựng trong hoạt động du lịch: Khách

thể du lịch, chủ thể du lịch và môi giới hay là yếu tố trung gian kết nối chủ thể
du lịch với khách thể du lịch. Các công trình phản ánh Các hiện tượng trong
du lịch có liên quan đến văn hóa đã từng được biết đến như:
- Lê Huy bá (2006), Du lịch sinh thái, NXB khoa học và kỹ thuật.
- Nguyễn Đình Hòe (2002), Du lịch bền vững, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội.
- Phạm Trung Lương (2002), Du lịch sinh thái, NXB giáo dục.
- Phan Huy Suy, Vài suy nghĩ về phát triển du lịch bền vững.
Ngoài ra còn có các bài báo có liên quan đến nội dung này viết về du
lịch địa phương như: phát triển du lịch bền vững Nha Trang - Khánh Hòa
(Hội thảo cùng tên cũng diễn ra tại địa phương này năm 2005); hay phát triển
du lịch bền vững Phong Nha - Kẽ Bàng; quản lý bền vững tài nguyên thiên
nhiên - hướng phát triển du lịch bền vững tại tỉnh Kiên Giang và cụ thể cho
khu vực Hà Tiên - Đông Hà Tất cả những giáo trình, tài liệu tham khảo hay
các bài báo, hội thảo trên đều thể hiện yếu tố văn hóa trong nhân tố trung gian
kết nối giữa khách thể du lịch và chủ thể du lịch. Nội dung nhấn mạnh ý thức
trong khai thác tài nguyên du lịch, nâng cao trách nhiệm bảo vệ môi trường,
xây dựng kế hoạch quy hoạch xây dựng, quản lý sức chứa du lịch, đào tạo
nguồn nhân lực có chuyên môn nghiệp vụ cao Đó chính là văn hóa du lịch
được thể hiện trong nhân tố thứ ba tạo nên du lịch - Nhân tố trung gian du
lịch. Đây là một nội dung thể hiện văn hóa du lịch của yếu tố trung gian kết
nối chủ thể du lịch với khách thể du lịch.
Văn hóa du lịch về mặt lý luận đã được các tác giả nghiên cứu qua một
số tài liệu hoặc giáo trình hay bài báo như:

7
- Trần Diễm Thúy, văn hóa du lịch, NXB văn hóa - thông tin.
- Trần Thúy Anh 2011, Du lịch văn hóa những vấn đề lý luận và thực
tiễn, NXB giáo dục Việt Nam.
- Bùi Thanh Thủy (2009), Nội hàm văn hóa du lịch, Tạp chí Du lịch, số 12.

- Nguyễn Văn Bốn (2012), Văn hóa du lịch Việt Nam, Tạp chí Văn hóa
Nghệ thuật số 335.
Mối quan hệ giữa văn hóa du lịch và du lịch văn hóa
Có nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa du lịch và du lịch văn hóa,
tuy nhiên mối quan hệ giữa hai phạm trù này thì vẫn còn rất ít tác giả nghiên
cứu. Hiện chưa có một công trình nghiên cứu nào chính thống và đầy đủ về
vấn đề này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
như sau:
- Phương pháp thu thập, tổng hợp và xử lý tư liệu
- Phương pháp khảo sát thực địa
- Phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu
- Phương pháp điều tra xã hội học
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương
Chương 1. Những vấn đề lý luận về văn hóa du lịch và du lịch văn hóa
Chương 2. Thực tiễn về mối quan hệ giữa văn hóa du lịch và du lịch
văn hóa
Chương 3. Một số giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ giữa văn
hóa du lịch và du lịch văn hóa để tạo sự phát triển bền vững trong du lịch


8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ VĂN HÓA DU LỊCH VÀ DU LỊCH VĂN HÓA

1.1. Một số vấn đề chung về văn hóa du lịch và du lịch văn hóa
1.1.1. Du lịch

1.1.1.1. Khái niệm
Du lịch là một khái niệm có tính lịch sử, xã hội cụ thể vì vậy có rất
nhiều quan niệm khác nhau về nó. Nội hàm của khái niệm du lịch luôn thay
đổi cho phù hợp với thực tiễn của hoạt động này. Trước đây, nói tới du lịch là
người ta nói tới những hoạt động của con người được quy định bởi những giới
hạn cụ thể về không gian và thời gian. Cùng với sự phát triển của xã hội, du
lịch phát triển từ hiện tượng có tính đơn lẻ của một bộ phận nhỏ dân cư thành
hiện tượng có tính phổ biến và ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống
của mọi tầng lớp trong xã hội. Lúc đầu, người đi du lịch thường thường tự
thỏa mãn các nhu cầu trong chuyến đi của mình. Về sau, các nhu cầu đi lại, ăn
ở, giải trí của khách du lịch đã trở thành một cơ hội kinh doanh và du lịch
lúc này được quan niệm là một hoạt động kinh tế nhằm thỏa mãn các nhu cầu
của du khách. Một ngành kinh tế được hình thành nhằm đáp ứng các nhu cầu
của con người trong chuyến đi rời khỏi nơi cư trú thường xuyên - đó là ngành
du lịch.
Ở Việt Nam cũng đã có nhiều cách hiểu khác nhau về du lịch. Luật Du
lịch 2005 cho rằng: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con
người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham
quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”.
Định nghĩa này có tính luật định, là căn cứ để điều chỉnh nhận thức và
hành vi của mọi người trong xã hội về du lịch. Về cơ bản, nó phù hợp với

9
nhận thức và hành vi hiện hành của xã hội mang tính phổ thông, phổ biến,
phổ cập.
Cũng với cách tiếp cận như trên, Trần Đức Thanh trong “Nhập môn
khoa học du lịch” đưa ra cách định nghĩa về du lịch gồm hai phần:
1. Sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi
của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sức khỏe,
nâng cao tại chổ nhận thức về thế giới xung quanh, có hoặc không kèm theo

việc tiêu thụ một số giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hóa và dịch vụ do các cơ sở
chuyên nghiệp cung ứng.
2. Một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu nảy
sinh trong quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian
rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi
sức khỏe, nâng cao tại chổ nhận thức về thế giới xung quanh [42,Tr. 14].
Tuy nhiên mới đây nhất trong Đề tài khoa học trọng điểm nhóm A về
“Nghiên cứu phát triển du lịch văn hóa vùng Đồng Bằng Sông Hồng” của
PGS.TS Nguyễn Phạm Hùng lại đưa ra một cách nhìn khác và mới về Khái
niệm du lịch:”Du lịch là những hoạt động (chuyến đi) đa dạng của con người
rời khỏi nơi cư trú của mình trong một khoảng không gian và thời gian nhất
định, nhằm thưởng thức, trải nghiệm, khám phá những điều mới lạ và khác lạ
về tự nhiên và văn hóa, để làm phong phú thêm đời sống tâm hồn của mình”
[14, Tr. 31].
Ở đây tác giả nhấn mạnh CÁI LẠ, YẾU TỐ LẠ trong du lịch. Nói tới
du lịch là nói tới khả năng cung ứng du lịch, đó là cung ứng tài nguyên, sản
phẩm du lịch, hay dịch vụ du lịch. Dù là tài nguyên, sản phẩm hay dịch vụ du
lịch, thì cũng đều phải đáp ứng yêu cầu “mới lạ” và “khác lạ” so với những gì
mà con người thường hưởng thụ, được cung ứng hàng ngày.

10
Nhìn chung những khái niệm trên về du lịch không mâu thuẫn nhau
nhưng mỗi một khái niệm nhấn mạnh một khía cạnh riêng từ các góc nhìn
khác nhau. Tất cả các khái niệm đều cho rằng du lịch là hoạt động di chuyển
khỏi nơi cư trú thường xuyên của con người. Với khái niệm Du lịch của Trần
Đức Thanh, nhìn nhận Du lịch vừa là một ngành kinh tế đem lại lợi nhuận, nó
vừa là một hoạt động xã hội nhằm nâng cao sức khỏe, nhận thức cho người đi
du lịch. Khái niệm Du lịch trong Luật Du lịch, xem du lịch là một hoạt động
xã hội với mục đích nâng cao sức khoe, tham quan tìm hiểu và nghỉ dưỡng
của khách du lịch. Cách hiểu du lịch của PGS.TS Nguyễn Phạm Hùng, du lịch

cũng là hoạt động nhằm mục đích thưởng thức, trải nghiệm, khám phá nhưng
ở khái niệm này tác giả nhấn mạnh TÍNH LẠ, TÍNH MỚI ở nơi khách đến.
1.1.1.2. Phân loại du lịch
Theo Trần Đức Thanh trong “Nhập môn khoa học du lịch”, hiện nay đa
số các chuyên gia về du lịch Việt Nam phân chia các loại hình du lịch theo
các tiêu chí cơ bản dưới đây:
Phân loại theo tài nguyên môi trường
Tùy vào môi trường tài nguyên mà hoạt động du lịch được chia thành
hai nhóm lớn là du lịch văn hóa và du lịch thiên nhiên.
Người ta gọi là du lịch văn hóa khi hoạt động du lịch diễn ra chủ yếu
trong môi trường nhân văn, hoặc hoạt động du lịch đó tập trung khai thác tài
nguyên du lịch nhân văn. Du lịch thiên nhiên được coi là loại hình hoạt động
du lịch đưa du khách về những nơi có điều kiện, môi trường tự nhiên trong
lành, cảnh quan tự nhiên hấp dẫn nhằm thỏa mãn nhu cầu đặc trưng là về
với thiên nhiên của con người. Du lịch biển, du lịch núi, du lịch nông thôn
là những loại hình du lịch tiêu biểu thuộc du lịch tự nhiên.

11
Phân loại theo mục đích chuyến đi
Mục đích chuyến đi là động lực thúc đẩy hoạt động nhằm thỏa mãn nhu
cầu du lịch của con người. Do đó, cách phân loại này còn được gọi là căn cứ
vào động cơ hoặc căn cứ vào nhu cầu.
Chuyến đi của con người có thể có mục đích thuần túy du lịch, tức là
chỉ nhằm nghỉ ngơi, giải trí, nâng cao nhận thức tại chổ về thế giới xung
quanh. Ngoài các chuyến đi như vậy, có nhiều cuộc hành trình vì các lý do
khác nhau như học tập, công tác, hội nghị, tôn giáo Trong các chuyến đi này
không ít người đã sử dụng các dịch vụ du lịch như lưu trú, ăn uống tại khách
sạn, nhà nghỉ Cũng không ít người nhân chuyến đi đó đã tranh thủ thời gian
rỗi có được để tham quan, nghỉ ngơi nhằm thẩm nhận tại chỗ những giá trị
của thiên nhiên., đời sống văn hóa tại nơi đến. Những lúc đó có thể coi họ

đang thực hiện một chuyến du lịch kết hợp trong chuyến đi của mình.
Phân loại theo lãnh thổ hoạt động
Các học giả người Mỹ Mc Intosh và Goelder đã sử dụng tiêu chí này để
phân loại như sau:
Du lịch quốc tế (International Tourism) liên quan đến chuyến đi vượt ra
ngoài phạm vi lãnh thổ (biên giới) quốc gia của khách du lịch.
Du lịch quốc tế đến (đón khách) là chuyến đi của người nước ngoài đến
tham quan du lịch.
Du lịch quốc tế đi (gửi khách) là chuyến đi của người trong nước ra
tham quan du lịch ở nước ngoài.
Du lịch trong nước là chuyến đi của những cư dân chỉ trong phạm vi
quốc gia của họ.
Du lịch nội địa bao gồm du lịch trong nước và du lịch quốc tế đến.
Du lịch quốc gia bao gồm du lịch nội địa và du lịch ra nước ngoài.
Các cách phân loại khác

12
Ngoài ba cách phân loại phổ biến nói trên còn có rất nhiều cách phân
chia du lịch thành các thể loại khác. Đó là:
Căn cứ vào đặc điểm địa lý của nơi đến du lịch bao gồm du lịch biển,
du lịch núi, du lịch thành phố, du lịch nông thôn.
Căn cứ vào phương tiện giao thông bao gồm du lịch xe đạp và các
phương tiện thô sơ, du lịch xe máy, du lịch ô tô, du lịch tàu hỏa, du lịch tàu
thủy, du lịch máy bay.
Căn cứ vào loại hình lưu trú bao gồm du lịch ở khách sạn, nhà trọ,
motel, bungalow,bãi cắm trại và làng du lịch.
Căn cứ vào thời gian du lịch bao gồm du lịch dài ngày và du lịch
ngắn ngày.
Căn cứ vào lứa tuổi bao gồm du lịch thiếu niên, du lịch thanh niên, du
lịch trung niên và du lịch cao niên.

Căn cứ vào hình thức tổ chức du lịch bao gồm du lịch theo đoàn, du
lịch gia đình và du lịch cá nhân.
Căn cứ vào phương thức hợp đồng bao gồm du lịch trọn gói và du lịch
từng phần.
1.1.2. Văn hóa
1.1.2.1.Khái niệm
Văn hóa là một lĩnh vực vô cùng rộng lớn của đời sống con người.
Hiện nay, Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về Văn hóa. Có những nhận thức
khác nhau về văn hóa là do những nguyên nhân như trình độ nhận thức khác
nhau, mục đích nhận thức khác nhau, động cơ nhận thức khác nhau hay góc
độ tiếp cận khác nhau… của mỗi người.
Ở Việt Nam, văn hóa cũng được định nghĩa rất khác nhau. Hồ Chí
Minh cho rằng “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa

13
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về
mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh
đó tức là văn hóa”

[27, Tr.431].Với cách hiểu này, văn hóa sẽ bao gồm toàn
bộ những gì do con người sáng tạo và phát minh ra. Cũng giống như định
nghĩa của Tylor, văn hóa theo cách nói của Hồ Chí Minh sẽ là một “bách
khoa toàn thư” về những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người. Phạm
Văn Đồng cho rằng “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong
phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có
liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con
người làm nên lịch sử… (văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và
tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp
thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân

tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh”
.

Theo định nghĩa này thì văn hóa là những cái gì đối lập với thiên nhiên và do
con người sáng tạo nên từ tư tưởng tình cảm đến ý thức tình cảm và sức đề
kháng của mỗi người, mỗi dân tộc. Riêng Nguyễn Đức Từ Chi xem văn hóa
từ hai góc độ. Góc độ thứ nhất là góc độ hẹp, mà ông gọi là “góc nhìn báo
chí”: văn hóa sẽ là kiến thức của con người và xã hội. Nhưng, ông không mặn
mà với cách hiểu này vì hiểu như thế thì người nông dân cày ruộng giỏi
nhưng không biết chữ vẫn bị xem là “không có văn hóa” do tiêu chuẩn văn
hóa ở đây là tiêu chuẩn kiến thức sách vở. Còn góc nhìn thứ hai là “góc nhìn
dân tộc học”: văn hóa được xem là toàn bộ cuộc sống - cả vật chất, xã hội,
tinh thần - của từng cộng đồng
;
và văn hóa của từng cộng đồng tộc người sẽ
khác nhau nếu nó được hình thành ở những tộc người khác nhau trong những
môi trường sống khác nhau. Văn hóa sẽ bị chi phối mạnh mẽ bởi sự kiểm soát
của xã hội thông qua gia

14
Theo Trần Ngọc Thêm Từ “văn hóa” có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng
Việt, Văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức trình độ văn
hóa, lối sống (nếp sống); theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của
một giai đoạn (văn hóa Đông Sơn)…:”Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình
hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự
nhiên và xã hội” [43, Tr. 10].
Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả
ở nước ngoài khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa
do UNESCO đưa ra vào năm 1994. “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể

những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính
của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ
thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người,
những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng”.
Nhìn chung, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng. Mỗi định
nghĩa đề cập đến những dạng thức hoặc những lĩnh vực khác nhau trong văn
hóa. Như định nghĩa của Tylor và của Hồ Chí Minh thì xem văn hóa là tập
hợp những thành tựu mà con người đạt được trong quá trình tồn tại và phát
triển, từ tri thức, tôn giáo, đạo đức, ngôn ngữ,… đến âm nhạc, pháp luật…
Còn các định nghĩa Nguyễn Đức Từ Chi, tổ chức UNESCO… thì xem tất cả
những lĩnh vực đạt được của con người trong cuộc sống là văn hóa.
Nhưng có lẽ khái niệm dễ hiểu và dễ được nhiều người chấp nhận hơn
cả là “Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần mà loài người
sáng tạo ra trong quá trình lịch sử” [53, Tr.24].
Như vậy, với ý nghĩa đó thì văn hóa có mặt trong tất cả các lĩnh vực đời
sống của con người và trong mọi hoạt động xã hội của con người đều có các
khía cạnh của văn hóa.

15
Dựa trên các định nghĩa đã nêu để xác định một khái niệm văn hóa cho
riêng mình nhằm thuận tiện cho việc thu thập và phân tích dự liệu khi nghiên
cứu. Chúng tôi cho rằng, văn hóa là sản phẩm của con người được tạo ra
trong quá trình lao động, được chi phối bởi môi trường (môi tự nhiên và xã
hội) xung quanh và tính cách của từng tộc người.
1.1.2.2. Phân loại văn hóa
Theo quan niệm của Unesco có 2 loại di sản văn hóa:
Một là, những di sản văn hóa hữu thể như đình làng, đền, chùa, miếu,
lăng, mộ, nhà sàn…
Hai là, những di sản văn hóa vô hình bao gồm các biểu hiện tượng
trưng và “không sờ thấy được” của văn hóa được lưu truyền và biến đổi qua

thời gian, với một số quá trình tái tạo, trùng tu của cộng đồng rộng rãi…
những di sản văn hóa tạm gọi là vô hình này theo Unesco bao gồm cả âm
nhạc, múa truyền thống, văn chương truyền miệng, ngôn ngữ, huyền thoại, tư
thế, nghi thức, phong tục, tập quán, y dược cổ truyền, việc nấu ăn và các món
ăn, lễ hội, bí quyết và quy trình công nghệ của các nghề truyền thống…
Cái hữu thể và cái vô hình gắn bó hữu cơ với nhau, lồng vào nhau, như
thân xác và tâm trí con người.
Theo quan niệm của Trần Quốc Vượng, cấu trúc của văn hóa gồm có:
Văn hóa sản xuất, văn hóa vũ trang, văn hóa sinh hoạt.
Theo GS.TS Trần Ngọc Thêm, có thể xem văn hóa như một hệ thống
gồm 4 thành tố (tiểu hệ) cơ bản như sau: Văn hóa nhận thức gồm 2 vi hệ nhận
thức về vũ trụ và nhận thức về con người; Văn hóa tổ chức cộng đồng gồm 2
vi hệ Văn hóa tổ chức sống tập thể ở tầm vĩ mô như tổ chức nông thôn, quốc
gia, đô thị và văn hóa tổ chức đời sống cá nhân liên quan đến đời sống riêng
mỗi người như tín ngưỡng, phong tục, giao tiếp, nghệ thuật…; văn hóa ứng
xử với môi trường tự nhiên và văn hóa ứng xử với môi trường xã hội (với mỗi

16
loại môi trường, đều có thể có hai cách xử thế phù hợp với hai loại tác động
của chúng tạo nên 2 vi hệ là tận dụng môi trường và ứng phó với môi trường).
Cả 4 thành tố của hệ thống văn hóa đều bị quy định bởi một gốc chung
là loại hình văn hóa.
Có nhiều cách phân loại về văn hóa song chúng tôi theo cách hiểu phổ
biến nhất từ trước tới nay cho thuận tiện trong hoạt động nghiên cứu đề tài.
Dù là dưới góc độ tiếp cận nào đó là văn hóa được chia làm 2 phần văn hóa
vật thể và văn hóa phi vật thể.
Văn hóa vật thể: Là toàn bộ những giá trị sáng tạo thể hiện qua giá trị
vật chất như: hàng hóa, công cụ lao động, cơ sở hạ tầng, … văn hóa vật chất
ảnh hưởng lớn tới trình độ dân trí, lối sống đến thành viên của một nền văn
hóa vật chất.

Văn hóa phi vật thể: Là toàn bộ những hoạt động tinh thần của con
người và xã hội bao gồm: kiến trúc, phong tục tập quán, thói quen và cách
ứng xử, ngôn ngữ, các hoạt động văn học nghệ thuật.
Nhiều năm qua ở nước ta, có một bài học, một kinh nghiệm hết sức
thuyết phục là văn hoá trong du lịch ở nước ta vừa như là mục tiêu mang tính
định hướng, vừa như là một quan điểm khẳng định rằng, văn hoá là nội dung,
là bản chất đích thực của du lịch Việt Nam, tạo nên tính độc đáo, đặc sắc, hấp
dẫn nhất của các sản phẩm du lịch Việt Nam, góp phần tạo dựng hình ảnh
quốc gia trong mắt bạn bè quốc tế.
Văn hoá là nguồn tài nguyên độc đáo của du lịch (nguồn nguyên liệu để
hình thành lên hoạt động du lịch). Khi nói văn hoá là nguồn nguyên liệu để hình
thành lên hoạt động du lịch, tức là chúng ta nói đến vật hút / đối tượng hưởng thụ
của du khách. Nguồn nguyên liệu văn hoá có hai loại cơ bản: Văn hoá vật thể là
những sáng tạo của con người tồn tại, hiện hữu trong không gian mà có thể cảm
nhận bằng thị giác, xúc giác, chẳng hạn những di tích lịch sử văn hoá, những mặt

17
hàng thủ công, các công cụ trong sinh hạt, sản xuất, các món ăn dân tộc… Văn
hoá phi vật thể như lễ hội, các loại hình nghệ thuật, cách ứng xử, giao tiếp…
Theo quan niệm của ngành du lịch, người ta xếp các thành tố văn hoá vào tài
nguyên nhân văn (đối lập với tài nguyên tự nhiên như biển, sông hồ, núi rừng,
hang động…) cụ thể là: Các di tích lịch sử - văn hoá; hàng lưu niệm mang tính
đặc thù dân tộc; ẩm thực; lễ hội; các trò chơi giải trí; phong tục, tập quán, cách
ứng xử, giao tiếp; tín ngưỡng, tôn giáo; văn học - nghệ thuật.
Vì vậy mà văn hoá là điều kiện và môi trường để cho du lịch phát sinh
và phát triển. Cùng với tài nguyên tự nhiên, tài nguyên văn hoá là một trong
những điều kiện đặc trưng cho việc phát triển du lịch của một quốc gia, một
vùng, một địa phương. Giá trị của những di sản văn hoá: di tích lịch sử, các
công trình kiến trúc, các hình thức nghệ thuật, các tập quán, lễ hội, ngành
nghề truyền thống… cùng với các thành tựu kinh tế, chính trị, xã hội, các cơ

sở văn hoá nghệ thuật, các bảo tàng… là những đối tượng cho du khách khám
phá, thưởng thức, cho du lịch khai thác và sử dụng. Sự khai thác và thu lợi
nhuận từ tài nguyên, việc xây dựng các khu điểm du lịch đều phản ánh trí tuệ
và sức sáng tạo của loài người. Chính những tài nguyên này không chỉ tạo ra
môi trường và điều kiện cho du lịch phát sinh và phát triển mà còn quyết định
quy mô, thể loại, chất lượng và hiệu quả của hoạt động du lịch của một quốc
gia, một vùng, một địa phương.
1.1.3. Du lịch văn hóa
1.1.3.1. Khái niệm
Theo tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO): "Du lịch văn hóa bao gồm
hoạt động của những người với động cơ chủ yếu là nghiên cứu, khám phá về
văn hóa như các chương trình nghiên cứu, tìm hiểu về nghệ thuật biểu diễn,
về các lễ hội và các sự kiện văn hóa khác, thăm các di tích và đền đài, du lịch
nghiên cứu thiên nhiên, văn hóa hoặc nghệ thuật dân gian và hành hương".

18
Các nhà quản lý di sản văn hóa thì cho rằng du lich văn hóa là loại hình
du lịch được tổ chức tốt, có giáo dục, góp phần cho công tác duy tu và bảo
tồn. Đối tượng mà khách du lịch hướng tới là các di tích và di chỉ. Theo hội
đồng quốc tế các di chỉ và di tích (ICOMOS): "Du lịch văn hóa là loại hình
du lịch mà mục tiêu là khám phá những di tích và di chỉ. Nó mang lại những
ảnh hưởng tích cực bằng việc đóng góp vào việc duy tu, bảo tồn. Loại hình
này trên thực tế đã minh chứng cho những nỗ lực bảo tồn và tôn tạo, đáp ứng
nhu cầu của cộng đồng vì những lợi ích văn hóa - kinh tế - xã hội".
Thậm chí nhiều nhà di sản văn hóa còn đồng nhất khái niệm du lịch văn
hóa là du lịch hướng tới di sản văn hóa. Du lịch di sản văn hóa thế giới được
phác họa là hoạt động du lịch nhằm thưởng ngoạn các địa điểm, các vật thể,
các hoạt động thể hiện một cách xác thực về các câu chuyện và con người
trong quá khứ và hiện tại. Nó bao gồm các tài nguyên về văn hóa, lịch sử và
tự nhiên. Theo cách giải thích này, du lịch di sản văn hóa cũng có thê được

gọi là du lịch văn hóa song phạm vi của nó hẹp hơn du lịch văn hóa. Do di sản
văn hóa nhấn mạnh nhiều hơn đến một địa danh cụ thể nhằm tạo ra sự cảm
nhận về các đặc điểm riêng của một địa danh đó, con người ở đó, các vậ thể,
câu chuyện cũng như truyền thống địa danh đó. Trong khi đó, du lịch văn hóa
bao trùm tất cả các yếu tố trên song ít nhấn mạnh đến yếu tố địa danh.
Luật Du lịch cho rằng: " Du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa vào
bản sắc văn hóa dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống" [50, Tr.9]. Ở nghĩa rộng hơn, du lịch
văn hóa cần phải hiểu là bao gồm các hình thức du lịch dựa trên giá trị văn
hóa dân tộc và đặt ra yêu cầu về tôn trọng và giữ gìn, phát huy bản sắc văn
hóa truyền thống đó. Như vậy, du lịch lễ hội, du lịch di tích lịch sử - văn hóa,
du lịch bản làng đều có thể coi là du lịch văn hóa.

19
Ở Việt Nam, ta nhận thấy có sinh cảnh môi trường tự nhiên với sự đa
dạng của các hệ sinh thái (từ núi đồi, cao nguyên, châu thổ đến ven biển, hải
đảo và đa dạng sinh học). Tâm thức Việt Nam thích sống hòa hợp với tự
nhiên nên ở Việt Nam đi tham quan thắng cảnh tự nhiên thường cũng đồng
thời là tham quan di tích - di sản văn hóa. Theo GS. Trần Quốc Vượng, "Du
lịch văn hóa là loại hình chủ yếu hướng vào việc quy hoạch, lập trình, thiết kế
các tour lữ hành tham quan các công trình văn hóa cổ kim". Ví dụ ở Hà Nội,
tham quan du lịch hồ Tây kết hợp thăm đền Quán Thánh, chùa Trấn Quốc,
chùa Kim liên, đình Nhật Tân, phủ tây Hồ đầy đủ tam giáo và tín ngưỡng
dân gian. Đi du lịch Lào Cai vừa là lên Sapa, vừa tham quan đền Đức Thánh
Trần sát biên giới, bên bờ sông Nậm Thi, thăm Hà Khẩu Bát Xát, chợ Bảo
Hà, uống rượu ngô Hmông, rượu thóc Sán Lùng, mua lâm thổ sản, đồ thổ
cẩm, du lịch Hạ Long là sự kết hợp giữa việc ngắm kỳ quan tuyệt đẹp với
việc thưởng lãm núi Bài Thơ, cảng Vân Đồn, hang Đầu Gỗ và hình dung lại
trận chiến Nguyên - Mông năm xưa Một cách diễn giải khác về du lịch văn
hóa là đề cập đến các công trình văn hóa, yếu tố truyền thống trong cuộc sống

của người dân một vùng nào đó với tư cách là đối tượng, là nguyên liệu tạo
dựng chương trình. Theo đó, du lịch văn hóa là loại hình du lịch nhằm thu hút
du khách mà quan tâm chủ yếu của họ là truyền thống lịch sử, phong tục tập
quán, nền văn hóa nghệ thuật, di tích của nơi đến. Dưới góc độ nhất định,
quan điểm này đã thể hiện được mục tiêu của loại hình du lịch là nhằm thỏa
mãn nhu cầu tìm hiểu về các đặc điểm văn hóa truyền thống, vật thể và phi
vật thể, về cuộc sống trong quá khứ cũng như trong hiện tại của con người
của một vùng đất cụ thể.
Mới đây nhất, PGS.TS Nguyễn Phạm Hùng cho rằng: “Du lịch văn hóa
là toàn bộ các dịch vụ du lịch dựa vào việc khai thác sự khác biệt, độc đáo,
mới lạ của tài nguyên văn hóa phục vụ nhu cầu thưởng thức, khám phá, trải

20
nghiệm của du khách. Du lịch văn hóa là du lịch dựa vào khai thác các tài
nguyên du lịch để tạo ra các dịch vụ du lịch thích hợp phục vụ nhu cầu du
khách” [14,Tr. 32].
Về căn bản, các khái niệm nêu trên đều cho rằng du lịch văn hóa là loại
hình du lịch lấy văn hóa làm điểm tựa, du lịch văn hóa mang sứ mệnh tôn
vinh và bảo vệ các giá trị văn hóa tốt đẹp của con người. Lấy du lịch làm cầu
nối, văn hóa được làm giàu thêm thông qua sự tiếp xúc, tiếp biến, giao lưu,
lan tỏa, tiếp nhận và hội tụ tinh hoa văn hóa các dân tộc. Du lịch văn hóa
không chỉ đem đến lợi ích về kinh tế mà còn góp phần giáo dục tình yêu tổ
quốc, thúc đẩy tích cực sự phát triển xã hội.
1.1.3.2. Tài nguyên du lịch văn hóa
Theo quan niệm của Luật du lịch, “Tài nguyên du lịch là cảnh quan
thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hóa, công trình lao động sáng
tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp
ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du
lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch” [50,Tr. 7]. Như vậy chúng ta có thể hiểu
rằng, tài nguyên du lịch có hai loại hình cơ bản là tài nguyên du lịch tự nhiên

và tài nguyên du lịch nhân văn.
Tài nguyên du lịch nhân văn chính là nhân tố giúp hình thành nên
nhưng khu, điểm, tuyến, đô thị du lịch văn hóa để thu hút khác du lịch đến
tham quan. Đối với tài nguyên du lịch của các tộ người chứa đựng cả 2 loại
tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn trong một không gian. Đó là hệ
thống giá trị là cảnh quan sinh thái nhân văn do con người sống trong một
môi trường tự nhiên cụ thể, bằng lao động sán tạo của mình tạo ra cảnh quan
đó với hệ thống các giá trị vật thể, phi vật thể, thiết chế xã hội; là các yếu tố
tự nhiên như rừng nguyên sinh, các loài động thực vật hoang dã, khí hậu, thủy
văn, địa hình, hang động, phong cảnh; là quê hương của các cộng đồng tộc

×