Tải bản đầy đủ (.pdf) (188 trang)

ĐẶC ĐIỂM SỬ THI DÂN TỘC CHĂM Ở PHÚ YÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.77 MB, 188 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
___________________________


Nguyễn Đặng Hải Dương


ĐẶC ĐIỂM SỬ THI DÂN TỘC CHĂM
Ở PHÚ YÊN

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HỒ QUỐC HÙNG



Thành phố Hồ Chí Minh - 2009




LỜI CẢM ƠN
Chúng tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn với Tiến
sĩ Hồ Quốc Hùng đã tận tình hướng dẫn, cung cấp và truyền
thụ cho chúng tôi những kiến thức quý báu trong nghiên cứu và
hoàn thành luận văn. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Phòng


đào tạo sau đại học, Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi hoàn thành chương
trình đào tạo và luận văn thạc sỹ.


 

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Phú Yên là là vùng đất được khai sinh trong hành trình lịch sử Nam tiến của dân tộc ta, nằm ở
duyên hải Nam Trung bộ. Đây là địa bàn sinh sống của nhiều tộc người như: Ê đê, Chăm, Ba na,
Hoa, Tày, Nùng, Dao... trong đó phần lớn là người Kinh. Từ cơ cấu đa dạng về tộc người như vậy
dẫn đến sự đa dạng, phong phú của văn học dân gian. Trong đó, sử
thi là một thể loại văn học dân
gian độc đáo, đã xuất hiện và lưu truyền khá lâu đời ở tỉnh Phú Yên. Cùng với số lượng lớn tác
phẩm sử thi ở Tây Nguyên, một số sử thi cũng được tìm thấy ở Phú Yên. Nó góp phần tạo nên diện
mạo đa dạng, khá phong phú cho thể loại.
Sử thi dân tộc Chăm ở Phú Yên chứa đựng giá trị nhiều mặt. Nó phản ánh sâu sắ
c đời sống
lịch sử xã hội người Chăm ở một vùng đất cao nguyên thuộc PhúYên. Nó cho thấy con người,
những tập tục, những khao khát cùng quan niệm sống của họ. Tìm hiểu sử thi dân tộc Chăm còn
giúp ta tìm hiểu những giá trị về văn hoá, văn học của một tộc người đã có sự biến đổi theo địa bàn
cư trú trong quá trình lịch sử phía Nam đất nước. Sự thay đổi v
ề văn hóa trong quá trình cộng cư
giữa các tộc người đã thể hiện sâu sắc trong các tác phẩm sử thi dân tộc Chăm - Phú Yên. Trong quá
trình cộng cư ấy, người Chăm ở Phú Yên đã có sự tiếp thu những nét văn hoá, nếp sống của đồng
bào dân tộc bản địa như Ba na, Ê đê ở khu vực này, tạo nên một tộc người Chăm ít nhiều có sự
khác biệt với tộc người Chă
m ở Bình Thuận và Ninh Thuận. Điều đó lý giải vì sao sử thi Chăm Phú
Yên có nhiều nét tương đồng với sử thi Tây Nguyên trong nhiều mặt mà không thấy có ở các nhóm

Chăm vùng khác. Vì vậy, tìm hiểu đặc điểm sử thi Chăm ở Phú Yên ta sẽ thấy nét đặc trưng riêng,
vừa có nét ảnh hưởng của sử thi Tây Nguyên qua nếp sống, nếp nghĩ của tư duy người Chăm. Đó là
sự hài hoà, pha trộn tư duy Ch
ăm nguyên thuỷ và tư duy của cộng đồng cư dân trong cuộc sống hoà
nhập trên địa bàn sinh sống.
Đề tài “Đặc điểm sử thi dân tộc Chăm ở Phú Yên” góp phần vào việc giữ gìn những giá trị
văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số. Hiện nay, vấn đề giữ gìn và phát huy những giá trị
văn hoá của các dân tộc Việt Nam không chỉ là công việc của riêng dân tộc đó mà đã trở
thành
nhiệm vụ quan trọng của xã hội và nhất là đối với các nhà khoa học.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn:
Việc sưu tầm, nghiên cứu sử thi của các dân tộc thiểu số đang được tiến hành từ nhiều năm
nay và đã được viện Văn hoá cho in 16 tác phẩm hay tập sử thi hoàn chỉnh trong kho tàng sử thi Tây
Nguyên. Trong quá trình sưu khảo, có nhiều công trình nghiên cứu về sử thi Tây Nguyên, nhưng
chưa có công trình cụ thể nào nghiên cứu riêng về sử thi dân tộc Chăm ở Phú Yên. Luận văn này
nhằm tìm hiểu thể loại với mong muốn tìm ra nét đặc trưng của nó tồn tại trong tộc người Chăm vốn
sống lâu đời ở vùng đất Phú Yên.
Với những nỗ lực và kết quả của việc nghiên cứu, chúng tôi mong muốn góp phần vào vi
ệc
bảo tồn và gìn giữ di sản văn hoá tộc người Chăm ở Phú Yên đang có nguy cơ bị mai một dần. Đây
cũng là đóng góp nhỏ thiết thực trong quá trình gìn giữ, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
3. Lịch sử vấn đề:
Sử thi là tài sản quí báu của văn học việt Nam và của mọi dân tộc trên thế giới. Đó là tiếng nói
khẳng định những giá trị v
ăn hoá đặc sắc của dân tộc. Với những giá trị quí báu ấy, sử thi đã thu hút
rất nhiều sự quan tâm của giới nghiên cứu.
Sử thi ở Việt Nam được biết đến khi L.Sabatier công bố bản sưu tầm sử thi “Đăm San” vào
thập niên 30 của thế kỉ XX. Đây là bản sử thi đầu tiên mở đầu cho quá trình sưu tầm sử thi cho đến
thời điểm hiện tại. Đế
n năm 1963, tập Trường ca Tây Nguyên, do Y Điêng, Y Yung, Kơxo Blêu,

Ngọc Anh sưu tầm đã được xuất bản. Trong đó, các sử thi được sưu tầm là: “Xing Nhã”, “Đăm Di”,
“Đăm Đroăn”, “Khinh Dú”, “Y Prao”. Đây là những sử thi Ê đê. Sau năm 1975, công việc sưu tầm
sử thi được chú ý hơn và nhiều sử thi khác đã được phát hiện: “Giông Tư”, “Đăm Noi”, “Xing Chi
Ôn”, “Đăm Di đi săn”, “Xing Chơ Niếp”, “Chi Lơ Kok”,…Đến nay các nhà sưu tầm
đã sưu tầm
được hơn 800 tác phẩm sử thi, trong đó có 173 tác phẩm đã phiên âm và dịch nghĩa, 75 tác phẩm đã
được xuất bản. Trong hơn 800 tác phẩm sử thi đã sưu tầm, Mnông có gần 300 tác phẩm, Ê đê có 54
tác phẩm, Xơ đăng có 105 tác phẩm, Ba na và Gia rai có 238 tác phẩm, Raglai có 33 tác phẩm.
Trong đó, đặc biệt dân tộc Chăm Hroi có hai tác phẩm đã được xuất bản là: “Tiếng cồng ông bà
Hbia Lơ Đă” và “Chi Bri - Chi Brit”.
Từ khi bản sư
u tầm sử thi Đăm San xuất hiện, công việc nghiên cứu sử thi đã được tiến hành.
Luận án “Về thể loại sử thi anh hùng của các dân tộc ở Tây Nguyên” của tác giả Võ Quang Nhơn đã
xác định đặc điểm của thể loại sử thi anh hùng về nội dung và thi pháp. Ông đưa ra những khuynh
hướng mới trong việc nghiên cứu sử thi. Và sau đó, có nhiều công trình khác ra đời như: “Sử thi
thần thoại H’Mông” của
Đỗ Hồng Kỳ, “Đặc điểm nhóm sử thi dân tộc Ba na (Kon Tum)” của Phan
Thị Hồng, “Văn hoá mẫu hệ trong sử thi Ê đê” của Krông Buôn Tuyết Nhung. “Hệ thống nghệ thuật
của sử thi anh hùng Tây Nguyên” của Phan Nhân Thành. Nhà nghiên cứu văn học dân gian Phan
Đăng Nhật đã có nhiều công trình nghiên cứu về sử thi Tây Nguyên như: “Vùng sử thi Tây
Nguyên”, “Nghiên cứu sử thi Việt Nam”. Trong giáo trình “Văn học dân gian Việt Nam”, các tác
giả Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn đã dành chương 6 để nghiên cứu về sử thi
anh hùng.
Tuy nhiên, về sử thi Chăm ở Phú Yên, hầu như chưa có một công trình nghiên cứu nào đi sâu
vào nghiên cứu cụ thể và hệ thống. Một vài bài viết mang tính chất nhận định, giới thiệu về sử thi ở
nơi này xuất hiện rải rác như lời giới thi
ệu của tác giả Phan Đăng Nhật ở hai cuốn sách: “Tiếng
cồng ông bà Hbia Lơ Đă” và “Chi Bri - Chi Brit”. Nói chung, các bài viết chỉ dừng lại ở mức độ
giới thiệu tác phẩm mà chưa đi sâu vào từng vấn đề cụ thể.
Do vậy, cần có một cái nhìn hệ thống và đầy đủ hơn về sử thi Chăm ở Phú Yên. Đây là nhiệm

vụ khoa học mà luận văn của chúng tôi hướng đế
n khi nghiên cứu về sử thi Chăm ở Phú Yên.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là 5 tác phẩm sử thi của dân tộc Chăm. Chúng tôi cố
gắng làm rõ đặc điểm về cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ của nó. Từ những yếu tố này, có thể so sánh
với những tác phẩm sử thi cùng loại ở Tây Nguyên để xem mối quan hệ và những tương đồng về tư
duy ngh
ệ thuật giữa các tộc người có quá trình lịch sử khác nhau.
Những tác phẩm khảo sát gồm:
- Trường ca Chi Liêu
- Trường ca Tiếng cồng ông bà Hơ Bia Lơ Đă
- Trường ca Anh em Chi Blơng
- Chi Bri, Chi Brit
- Trường ca Hbia Tà Lúi Ka Li Pu
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp điền dã:
Ngoài văn bản đã có, chúng tôi đặt nhiệm vụ đi điền dã để trực tiếp kiểm tra s
ự tồn tại hiện
hữu của các sử thi. Phương pháp này cần thiết cho luận văn nhằm tìm hiểu về vùng đất, phong tục,
lối sống của tộc người Chăm Hroi trên tỉnh Phú Yên và sự lưu truyền sử thi Chăm - Phú Yên.
Chúng tôi đã đi điền dã ở vùng núi huyện Sơn Hoà, trung tâm của sử thi Chăm - Phú Yên và tìm
hiểu kiến thức thực tế về đời sống người Chă
m Hroi nơi đây. Bên cạnh đó, chúng tôi tìm đến người
sưu tầm sử thi Chăm - Phú Yên là ông Ka Sô Liễng, người dân tộc Chăm sưu tầm và biên dịch sử
thi Chăm - Phú Yên để tìm hiểu thêm về trình thức truyền miệng (oral- formulaic theory), không
gian diễn xướng của sử thi.
- Phương pháp phân tích tổng hợp:
Từ việc nghiên cứu những đặc điểm cụ thể của sử thi Chăm - Phú Yên, chúng tôi có cơ sở để
khái quát thành những đặc điểm mang tính chất đặc thù của đối tượng nghiên cứu
- Phương pháp thống kê:

Thao tác chủ yếu trong luận văn này là th
ống kê những chi tiết, tần số xuất hiện của các môtip,
biện pháp nghệ thuật trong các tác phẩm để hình thành những đặc điểm có tính qui luật của sử thi.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu:
Phương pháp so sánh đối chiếu nhằm tìm ra những nét tương đồng và khác biệt của sử thi
Chăm - Phú Yên với sử thi Tây Nguyên, từ đó nhận diện đặc điểm riêng của sử thi Chăm - Phú Yên.
- Ph
ương pháp văn hóa học:
Dựa trên những kiến thức về văn hoá dân tộc Chăm và sự biến đổi của văn hoá dân tộc Chăm
trên vùng đất Phú Yên và sự giao thoa với các dân tộc sống gần gũi nơi đây, chúng tôi có cơ sở để
tìm hiểu những diễn biến, sự hình thành về đặc điểm sử thi dân tộc Chăm - Phú Yên.
6. Những đóng góp mới của luận vă
n:
Trong luận văn này, chúng tôi cố gắng bước đầu xác định đặc điểm cơ bản của sử thi Chăm -
Phú Yên trong sự đối sánh với sử thi Tây Nguyên.
7. Cấu trúc của luận văn:
Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương I: Tổng quan về văn hóa và sử thi dân tộc Chăm ở Phú Yên
1.1. Những đặc điểm cơ bản của dân tộc Chăm ở
Phú Yên
1.1.1. Đặc điểm địa lý, kinh tế các tỉnh miền núi Phú Yên
1.1.2. Sự phân bố dân cư các dân tộc thiểu số ở Phú Yên
1.1.3. Nguồn gốc người Chăm ở tỉnh Phú Yên
1.1.4. Một số đặc điểm văn hoá người Chăm - Phú Yên
1.1.5. So sánh người Chăm ở Phú Yên và người Chăm ở vùng lân cận ..
1.2. Khảo sát tư liệu sử thi Chăm - Phú Yên
1.2.1.Tên gọi
1.2.2. Số lượng thống kê
1.2.3. Tình hình tư liệu

1.2.4.Trình thức kể và không gian diễn xướng sử thi Chăm - PhúYên
1.2.5. Các sử
thi được khảo sát
Chương II. Đặc điểm cấu tạo cốt truyện sử thi dân tộc Chăm ở Phú Yên
2.1. Đề tài
2.2. Kết cấu cốt truyện
2.2.1. Tính hoàn chỉnh trong kết cấu sử thi Chăm - Phú Yên
2.2.2. Kết cấu đa sự kiện của sử thi Chăm - Phú Yên
2.3. Một số môtip trong cốt truyện sử thi Chăm - Phú Yên
2.3.1. Môtip “Sự cản trở trên đường đi”
2.3.2. Môtip “Băng rừng vượt núi”
2.3.3. Môtip “Sự giúp đỡ thần kì”
2.3.4. Môtip “Rèn luyện trước khi chiến đấu”
2.3.5. Môtip “Thuyết phục kẻ thù giảng hoà”
2.3.6. Môtip “Không thu nhận của cải, buôn làng kẻ đối địch khi thắng trận”
Chương III. Đặc điểm cấu tạo nhân vật sử thi dân tộc Chăm ở Phú Yên
3.1. Nhân vật anh hùng
3.1.1. Đặc điểm về xuất thân, lai lịch
3.1.2. Đặc điểm về vẻ đẹp ngoại hình và sức mạnh
3.1.3. Đặc điểm về tâm lý, tính cách
3.1.4. Đặc điểm về hành động
3.1.4.1. Nhân vật anh hùng trong làm lụng
3.1.4.2. Nhân vật anh hùng trong hôn nhân
3.1.4.3. Nhân vật anh hùng trong chiến đấu
3.2. Các nhân vật khác
3.2.1. Nhóm nhân vật đối địch
3.2.2. Nhóm nhân vật người đẹp
3.2.3. Nhóm nhân vật dân làng
3.3.4. Nhóm nhân vật thần linh
Chương IV. Ngôn ngữ sử

thi dân tộc Chăm ở PhúYên
4.1. Tính giàu hình tượng trong ngôn ngữ sử thi Chăm - Phú Yên
4.1.1. Biện pháp so sánh
4.1.2. Biện pháp mô phỏng
4.1.3. Biện pháp sử dụng con số trong sử thi
4.1.4. Biện pháp lặp cấu trúc
4.2. Tính thần kì và hào hùng trong ngôn ngữ sử thi Chăm - Phú Yên
4.3. Tính nhạc điệu trong sử thi Chăm - Phú Yên
Phần kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

 
 
 

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ VĂN HOÁ VÀ SỬ THI DÂN TỘC CHĂM Ở PHÚ YÊN

1.1. Những đặc điểm cơ bản của dân tộc Chăm ở Phú Yên:
1.1.1. Đặc điểm địa lý, kinh tế các tỉnh miền núi Phú Yên:
Phú Yên là tỉnh ở khu vực duyên hải miền Trung, phía bắc giáp tỉnh Bình Định, phía Nam
giáp tỉnh Khánh Hoà, phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Gia Lai và Đắc Lắc, phía Đông giáp biển
Đông. Các huyện miền núi Phú Yên đều nằm ở sườn phía Đông của dãy Trường Sơn nên khí hậu có
đặc điểm chung là vừa ch
ịu ảnh hưởng của khí hậu vùng Tây Nguyên, vừa chịu ảnh hưởng khí hậu
vùng duyên hải với hai mùa mưa và nắng.
Cũng như các tỉnh nằm dọc ven biển miền Trung, Phú Yên là địa bàn có nhiều sông suối, hầu
hết đều bắt nguồn từ dãy Trường Sơn và chảy qua địa hình đồi núi. Về đất đai, các huyện miền núi
có các loại đất như đất xám với đặc điểm là tầ

ng đất mỏng, lẫn nhiều đá, nghèo chất hữu cơ và đạm.
Đất đen, đất đỏ, vàng có lợi thế về trồng trọt và chăn nuôi. Điều đó cho thấy vùng núi Phú Yên có
nhiều lợi thế trong việc phát triển nông nghiệp với hai nghề chính là trồng trọt và chăn nuôi. Rừng
núi Phú Yên là nơi tập trung nhiều loại gỗ quí và nhiều loại thổ sản hiếm với nhiều loại dược th
ảo là
những nguyên liệu quí. Rừng còn là nơi trú ngụ của nhiều động vật lớn như bò, cọp, gấu, hươu, nai,
thỉnh thoảng còn có tê giác.
Như vậy, vùng núi Phú Yên nơi địa bàn người Chăm và các tộc người khác sinh sống, địa
hình thường bị chia cắt bởi sông suối và núi đồi. Đất đai tuy rộng lớn nhưng hầu hết nằm ở địa bàn
đất kém màu mỡ, khả năng khai thác hạn ch
ế. Tuy vậy, trong quá trình sinh sống, lao động và sản
xuất, các dân tộc đã biết cách hoà nhập với thiên nhiên, tạo ra những giá trị văn hoá phong phú và
đa dạng, còn lưu lại đến ngày nay.
1.1.2. Sự phân bố dân cư các dân tộc thiểu số ở Phú Yên:
Phú Yên có 3 huyện miền núi là Sông Hinh, Sơn Hoà, Đồng Xuân. Đây là các huyện có người
Chăm và các dân tộc thiểu số khác sinh sống. Huyện Sông Hinh nằm ở phía Tây Nam tỉnh, tiếp giáp
với huyện Ninh Hoà (tỉ
nh Khánh Hoà), phía Bắc giáp huyện Sơn Hoà , phía Tây giáp huyện
Krôngpa (tỉnh Gia Lai). Nơi này tập trung người Chăm, Ê đê, Ba na, Tày, Nùng. Người Ê đê là dân
tộc thiểu số cư trú đông nhất. Số dân cư Chăm ở đây khoảng 1270 người. Huyện Sơn Hoà nằm ở
phía Tây tỉnh Phú Yên, phía Nam giáp huyện Sông Hinh, phía Bắc giáp huyện Đồng Xuân, phía
Tây giáp tỉnh Gia Lai, phía Đông giáp huyện Phú Hoà. Huyện này tập trung dân tộc Chăm, Ê đê, Ba
na là chính. Ở huyện Sơn Hoà, người Chăm cư trú khoảng 9403 người và là tộc người cư trú đông
nhất. Huyện Đồng Xuân nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Phú Yên, phía Nam giáp huyện Sơn Hoà, phía
Bắc giáp tỉnh Bình Định, phía Tây giáp tỉnh Gia Lai, phía Đông giáp huyện Tuy An và Sông Cầu.
Huyện này rải rác là cư dân Chăm và Ba na. Số dân cư Chă
m ở đây khoảng 6842 người.
Như vậy, tổng số người Chăm ở tỉnh Phú Yên khoảng 17.515 người sống tập trung ở ba
huyện miền núi: Sơn Hoà, Sông Hinh và Đồng Xuân. (Số liệu thống kê năm 2000 của Sở văn hoá
thông tin tỉnh Phú Yên)

1.1.3. Nguồn gốc người Chăm ở tỉnh Phú Yên:
Về nguồn gốc của người Chăm ở Phú Yên có nhiều ý kiến:
Sogny trong bài viết năm 1937 “
Một vài hiểu biết trên một đảo nhỏ của dân tộc Chăm
sống ở các huyện Đồng Xuân và Sơn Hoà, tỉnh Phú Yên”, cho rằng: “Người Chăm ở hai huyện
Đồng Xuân và Sơn Hoà chính là hậu duệ của cư dân đất Chăm Pa. Ở thời kì này (1377-1388), nước
Chăm pa đầu hàng trước kẻ thù và cư dân đã có sự phân tán, sống chung lẫn lộn với người Ba na
và Ê đê. Sau nhiều thế hệ, họ
đã chung sống và chan hoà nhau. Hiện nay, họ vẫn hồi tưởng lại một
cách tội nghiệp về gốc gác của mình và về phương diện ngôn ngữ họ vẫn còn nói tiếng nói của đất
nước Chăm pa” [125, tr.2]
Theo các tài liệu lịch sử cho biết, sau khi Chế Bồng Nga chết, Chiêm Thành bước vào thời kì
suy tàn và trở thành một phiên thuộc của nhà nước phong kiến Đại Việt. Năm 1457, chúa Nguyễn
cử Lương Văn Chánh vào
đánh thành Hồ và mở đầu cuộc khẩn hoang lập ấp, người Chăm lui về
sống trên vùng núi. Nhà nghiên cứu Phan Khoang trong “Việt sử xứ Đàng Trong” viết: “Sau khi
đất Phú Yên ngày nay trở vào Nam bị các chúa Nguyễn đánh chiếm thì một số người Chăm lên sinh
sống với người Mọi” [125, tr.3]. Theo đó, người Chăm Hroi trước kia là thần dân của vương quốc
Chiêm Thành cũ di tản lên vùng núi tránh loạn rồi định cư luôn tạ
i đây, họ vẫn còn giữ ngôn ngữ và
một số phong tục tập quán của người Chăm đồng bằng. Người Chăm ở Phú Yên có cùng hệ Chăm
với Ninh Thuận, Bình Thuận. Tuy nhiên, trong những sinh hoạt thường nhật nhiều yếu tố đã bị ảnh
hưởng, lai tạp. Có thể lý giải là do một bộ phận người Chăm do cách ly với cộng đồng khá lâu nên
không còn giữ được một số y
ếu tố truyền thống văn hoá nhưng lại tiếp thu văn hoá của các dân tộc
bản địa. Chẳng hạn như người Chăm ở đây có thể nói được tiếng Ê đê. Thậm chí một số bộ phận
sống trong rừng già tự nhận là dân tộc Chăm nhưng sinh hoạt của họ mang nặng bản sắc Ê đê hơn.
Tóm lại, người Chăm đang cư trú tại Phú Yên hiện nay thật sự là con cháu của cư dân Chăm
pa, đã lên miền núi sinh sống qua nhiều thế hệ. Do cách ly với cộng đồng lâu ngày nên trong đời
sống, kinh tế, xã hội và văn hoá có những khác biệt so với cộng đồng người Chăm đang sống tại

Ninh Thuận, Bình Thuận và các nơi khác. Tuy nhiên, họ vẫn tự nhận mình là người Chăm. Điều đó
ph
ản ánh khá rõ trong tên gọi, nguồn gốc dân tộc, và trong một số đặc trưng về văn hoá.
Người Chăm - Phú Yên có nhiều tên gọi dân tộc gắn với địa danh nơi họ sống hoặc đặc điểm
nơi họ sống. Chẳng hạn như người Chăm sống ở suối Hà Đang, huyện Đồng Xuân tự nhận mình là
người Chăm Hà Đang. Người Chăm tại Thuận H
ải gọi những cư dân gốc Chăm sinh sống tại các
tỉnh Phú Yên và Bình Định là H’roi hay Hờ Roi. Nói chung, Chăm Hroi là tên gọi tộc người Chăm
sống ở vùng núi phía Tây Bình Định và Phú Yên. Nguồn gốc của tên Chăm Hroi này được Ka Sô
Liễng, nhà sưu tầm văn học dân gian giải thích: “Đây là tên gọi chung chỉ người Chăm sống ở vùng
thấp gần người Kinh nhằm phân biệt một bộ phận người Chăm sống ở
rừng già, thường gọi là Chăm
Dlay Yưa”. Tên gọi này đã phân biệt cộng đồng Chăm sống ở vùng núi Bình Định, Phú Yên và
cộng đồng Chăm sống tại đồng bằng của Ninh Thuận, Bình Thuận, và các tỉnh Nam Bộ.
Như vậy, có thể gọi người Chăm sống tách biệt với cộng đồng Chăm gốc ở Ninh Thuận, Bình
Thuận và hiện tại đang sống ở Bình Định, Phú Yên là Ch
ăm Hroi. Tên gọi người Chăm ở Phú Yên
nhằm xác định rõ địa danh và nơi sinh sống của cộng đồng người Chăm Hroi là ở Phú Yên để phân
biệt với người Chăm Hroi sinh sống ở Bình Định.
1.1.4. Một số đặc điểm văn hoá người Chăm - Phú Yên:
Dân tộc Chăm cũng giống như các dân tộc ít người khác sinh sống ở Phú Yên, họ sống dọc
theo dãy Trường Sơn t
ừ Sông Hinh đến huyện Vân Canh tỉnh Bình Định. Người Chăm Hroi tìm nơi
hiểm hóc như đỉnh núi cao, thung lũng có núi non bao bọc xung quanh để sinh sống. Do cư trú trong
những vùng đất có điều kiện tự nhiên và địa hình không thuận lợi, trong hoạt động kinh tế, người
Chăm - Phú Yên tồn tại nhiều loại hình như săn bắt, hái lượm, làm ruộng, các nghề thủ công, trồng
cây, chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Làm rẫy là loại hình sản xuất nông nghi
ệp chủ yếu của những người Chăm - Phú Yên. Họ
chọn đất làm rẫy ở rừng thưa vì rừng già là nơi Yàng ngự trị, không ai được xâm phạm. Trước khi

phát rẫy, họ phải làm gà cúng Yàng đất cầu mong cho được mạnh tay khoẻ chân. Người Chăm - Phú
Yên có nhiều điều cấm kị liên quan đến Yàng.Trong chăn nuôi, người Chăm - Phú Yên ít chú ý
chăm sóc gia súc, gia cầm mà hầu như phó mặc cho thiên nhiên, may rủi. Khi gặp dịch bệ
nh, họ đập
bò, giết trâu, mổ heo cúng Yàng, cầu xin sự giúp đỡ của thần linh. Săn bắt, hái lượm là một phương
thức lao động của người Chăm - Phú Yên. Họ thường cầm dao, ná, rựa, dây đi săn với hai hình thức
săn tập thể và săn cá nhân. Người Chăm - Phú Yên theo chu kì vào rừng để hái lượm các sản phẩm
của rừng như măng, nấm, mật ong, cánh kiến, hoa quả, thuốc chữa bệnh, các loại lá, rễ, cây có thể
ăn được. Các nghề thủ công truyền thống là những nghề dệt vải và nghề
đan.
Người Chăm - Phú Yên có tính cộng đồng cao. Khi người ở địa phương khác hoặc dân tộc
khác xâm phạm quyền lợi, danh dự của người dân trong cộng đồng, trước tiên người Chăm - Phú
Yên tập hợp lại khuyên bảo. Nếu những người này không nghe cộng đồng mới xử phạt. Trong cộng
đồng, người dân sẵn sàng chia nhau những món ăn, thịt săn được cho nhau. Họ quan niệm con vật
chết là của chung, con vậ
t sống là của riêng. Những tập tục, lối sống trên đây đã phản ánh đúng hình
thái xã hội đặc trưng của thời đại sử thi phát triển. Và trong đời sống văn hoá của người Chăm - Phú
Yên, đáng chú ý nhất là đời sống tâm linh. Người Chăm - Phú Yên có quan niệm và hệ thống thần
linh của người mình như sau:
Bà tạo hoá sinh ra mọi vật trên trái đất (gọi là Mó Pinh). Mó Pinh và Yàng là đấng tối cao trong
tự nhiên. Mó Pinh giao cho Yàng cai quản m
ọi vật trên trái đất. Trong hệ thống thần linh, có nhiều
Yàng như Yàng đất, Yàng trời thấp, Yàng trời cao, Yàng núi, Yàng rừng, Yàng sông, Yàng suối,
Yàng cây đa...Thân hình Yàng cũng giống như người nhưng mặt giống khỉ, râu giống dê, sừng
giống sừng bò, chân giống chân cá sấu, tóc đỏ giống lông gà trống, mắt giống mắt cú, miệng giống
mỏ diều hâu. Yàng cũng có Yàng tốt và Yàng xấu, Yàng ác. Do vậy làm việc gì người Chăm - Phú
Yên cũng phải kh
ấn xin, hỏi ý kiến Yàng mới được thực hiện. Khi gặp hoạn nạn khó khăn trong
cuộc sống, dân chúng khấn Yàng trời. Khi tai qua nạn khỏi, họ đâm trâu cúng Yàng trời, gọi là
“đâm trâu xoay cột”. Ngoài ra, họ còn cúng ông bà, Yàng Lơ geh, Yàng Tơdrê, Yàng Mơ Pó, Yàng

Mơ Lăm (cúng Ma ác), Yàng Núi, Yàng Rừng, Yàng Anh em.
Trong lễ hội, tín ngưỡng, người Chăm - Phú Yên có nhiều lễ hội. Lễ hội tín ngưỡng theo vòng
đời người là lễ hội được xoay theo những bước quan trọ
ng trong đời một con người như sinh đẻ,
trưởng thành, hôn nhân, tang ma. Một số lễ như: lễ cưa răng là một lễ quan trọng để đánh dấu sự
trưởng thành của một người đến tuổi trưởng thành, lễ mừng sức khoẻ, lễ bỏ mả. Một số lễ hội theo
vòng cây trồng như: lễ tìm đất, cầu mưa, cúng xin cây, cúng đầu mùa, lễ cúng cơm mới, lễ
đưa lúa
vào kho. Ngoài ra, người Chăm - Phú Yên còn có một số lễ tục khác trong đời sống thường nhật
như: lễ cúng đầu phục (cúng cổng làng), cúng bến nước, cúng đất, lễ đổ đầu, cúng rửa xả xui, cúng
trừ ma lai.
Những biểu hiện trong sinh hoạt văn hóa trên đây cho thấy, người Chăm - Phú Yên có ảnh
hưởng sâu nặng với các dân tộc thiểu số nơi đây như dân tộc Ba na, Ê đê. Bởi lẽ
, cùng sống và sinh
hoạt trong một địa bàn không rộng lắm, các dân tộc này ở xen kẽ gần gũi với nhau. Do vậy, ngôn
ngữ và văn hoá có sự ảnh hưởng qua lại với nhau một cách mạnh mẽ. Cùng với sự cách ly với cộng
đồng người Chăm đã lâu đời và không còn sự tiếp xúc, giao lưu, người Chăm - Phú Yên đã không
còn giữ lại được những nét văn hoá truyền thống của người Chăm gốc trong quan niệm, sinh ho
ạt
vật chất và tinh thần.
1.1.5. So sánh người Chăm ở Phú Yên và người Chăm ở vùng lân cận:
Người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận là một cộng đồng có số dân chiếm đa số trong cộng
đồng người Chăm ở Việt Nam, còn lưu giữ nhiều bản sắc và phong tục cổ truyền của nhất của tộc
người. Do vậy, so sánh người Chăm ở Phú Yên với ngườ
i Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận, nhất là
người Chăm theo đạo Bà là môn là cách thức tìm ra những nét văn hoá của cộng đồng mà người
Chăm ở Phú Yên còn lưu giữ được hoặc đã thay đổi, tiếp biến trong quá trình lịch sử.
Người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận có khoảng trên 60 nghìn người, cư trú tương đối
tập trung. Người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận theo hai tôn giáo chính là Bàlamôn và Hồi
giáo.

Người Chăm Bàlamôn thờ
tín ngưỡng đa thần. Thần ở trên trời như thần mặt trời, thần gió,
thần mưa, thần sấm sét. Thần ở trên mặt đất như thần núi, thần sông, thần cây, thần rừng, thần ở các
động vật, ở các công cụ lao động, ở đền tháp.v.v… Hệ thống lễ nghi nông nghiệp của người Chăm
Bàlamôn gồm một số lễ nghi tiêu biểu như: lễ chuyển mùa,
đón năm mới, lễ cầu mưa, lễ cúng chặn
nguồn nước, lễ tế trâu, lễ cúng thần ruộng, lễ cúng đầu lúa. Hệ thống nghi lễ cộng đồng tôn giáo có
lễ Katê là lễ hội lớn nhất. Nghi lễ vòng đời của người Chăm Bàlamôn tập trung chủ yếu ở giai đoạn
sinh, cưới và tang, bao gồm: lễ sinh đẻ, lễ cưới, lễ tang ma.
Người Chăm theo đạo Hồ
i giáo cũ (Bà ni) sống quây quần bên thánh đường. Thánh đường là
nơi các tu sỹ và các tín đồ Bà ni đến cầu nguyện và dâng lễ. Người Chăm Bà ni có tín ngưỡng nhất
thần, chỉ thờ phụng thánh Ala và thiên sứ Môhamet. Tuy nhiên, người Chăm Bà ni ngoài việc cầu
nguyện thánh Ala vẫn cầu nguyện các thần linh từ xa xưa như các thần thiên nhiên: thần Mưa, thần
Biển, thần Núi, thần Nước, thần Sông và một số nhân thần như Pôklongirai, Pôrômê, Pô Inư

gar…Tháng chay Ramưvan là thời gian quan trọng nhất của người Bàni và là mùa lễ hội lớn
nhất. Người Chăm Bà ni không tổ chức và tham dự lễ hội Katê. Nghi lễ vòng đời gồm những lễ
quan trọng như: lễ Karơh là lễ cấm phòng cho các thiếu nữ và lễ katat là lễ cắt qui đầu cho các nam
thiếu niên đến tuổi trưởng thành.
So với những truyền thống trên, người Chăm Hroi ở Phú Yên, do điều kiện lịch sử, địa lý đã
có sự thay đổi, tiếp thu những phong tục, lối sống của các dân tộc lân cận. Người Chăm ở Phú Yên
có hệ tín ngưỡng và tôn giáo hoàn toàn khác so với Người Chăm Ninh Thuận, Bình Thuận:
• Tục thờ Yàng
: đây là hệ thống thần linh của những dân tộc Tây Nguyên cũng như những dân
tộc khác như Ba na, Gia Rai, Ê đê ở miền núi phía Tây Phú Yên. Tôn giáo, tín ngưỡng của người
Chăm - Phú Yên là tín ngưỡng đa thần ở dạng sơ khai. Nét giống nhau của người Chăm ở Phú Yên
và Người Chăm Ninh Thuận, Bình Thuận là đều thờ đa thần với thần mưa, thần núi, thần sông…
Tuy nhiên, người Chăm - Phú Yên thì gọi chung là Yàng và phân chia thành nhiều tên gọi khác
nhau như: Yàng núi, Yàng rừng, Yàng sông…

• Về tín ngưỡng, lễ hội
: người Chăm - Phú Yên vẫn còn lưu giữ nhiều lễ hội đặc sắc của cư
dân Chăm trong vòng đời người và nông nghiệp. Nhưng nếu lễ hội Katê là lễ hội lớn nhất của người
Chăm theo đạo Bà la môn thì lễ đổ đầu- một lễ hội thể hiện sự sinh sôi nảy nở, biểu hiện tính phồn
thực với ý nghĩa tạo ra mọi sự số
ng mới, là lễ hội lớn nhất trong năm của người Chăm Hroi. Trên
thực tế, trong quá trình cộng cư với các tộc người Tây Nguyên, người Chăm - Phú Yên đã ít nhiều
ảnh hưởng qua một số tập tục. Người Chăm - Phú Yên đã thể hiện lối sống của một cộng đồng sống
ở vùng miền núi với những lễ như lễ trỉa lúa, cầu mưa, đốt rẫ
y…Những lễ nghi khác như đâm trâu
xoay cột, cúng Yàng anh em, cúng trừ ma lai liên quan đến những phong tục và tập quán lâu đời của
cư dân dân tộc Tây Nguyên hơn là tập quán của người Chăm. Lễ tang ma của người Chăm - Phú
Yên là dựng nhà mồ với cách làm tương tự như phong tục người Ba na, chỉ khác chút ít ở cách dựng
nhà mồ. Tất cả những lễ này đều có cúng Yàng với mong muốn được thần linh phù hộ cho mọi việc
xuôi chèo mát mái. Nh
ững sự thay đổi đó đã thể hiện sự hoà nhập sâu sắc với mảnh đất người Chăm
- Phú Yên đang sống. Đó là hệ quả của quá trình xa cách lâu ngày với cộng đồng Chăm gốc.
• Về đền tháp
: nếu người Chăm xưa kia để lại nhiều dấu tích về những ngọn tháp hùng vĩ ở
những nơi họ đã sống, thì ở vùng núi Phía Tây Phú Yên lại không có những ngọn tháp Chăm ấy mà
lại xuất hiện những nhà rông- là nơi sinh hoạt chung của cộng đồng, nhất là những buôn làng sống
cận cư với người Ba na.
Một nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt trên là do địa hình ở Nam Trung Bộ v
ới phía Tây được
bao bọc bởi dãy núi cao Trường Sơn, phía Đông là biển sâu, ở giữa là những mảnh đồng bằng nhỏ
hẹp bị chia cắt bởi các dãy núi ăn ra tận biển thành các thung lũng, những con sông ngắn, thác cao.
Địa hình hiểm trở với đèo, dốc, núi cao, vực sâu đã khiến cho việc giao lưu, đi lại khó khăn hơn
giữa các vùng. Gs. Lê Bá Thảo có viết: “Nam Trung Bộ được cấu tạo chủ yế
u bởi sườn đông dãy
Trường Sơn hay cao nguyên, các đồng bằng thì nhỏ hẹp, bờ biển thì bị chia cắt thành nhiều vũng,

vịnh… Những đồng bằng ở cực Nam Trung Bộ đều nhỏ hẹp và gần như chỉ là những thành tạo cho
sông và biển bồi đắp bám vào các thung lũng chân núi” [100, tr.429]. Có thể nhận thấy, chính đặc
điểm địa lý của dải đất miền Nam Trung Bộ là một phần ảnh hưởng với sự khác biệt của người
Chăm - Phú Yên với người Chăm Ninh Thuận, Bình Thuận.
Tóm lại, các lĩ
nh vực sinh hoạt, đặc biệt là đời sống tâm linh của người Chăm - Phú Yên ảnh
hưởng các cư dân bản địa ở vùng lân cận khá đậm, khiến họ vừa có nét giống Chăm truyền thống,
có nét giống với các dân tộc Tây Nguyên. Chính cơ sở xã hội này tác động không ít đến sử thi.
1.2. Khảo sát tư liệu sử thi Chăm - Phú Yên:
1.2.1. Tên gọi:
Nằm trong cái nôi của những tộc người có sinh hoạ
t truyện kể dưới dạng văn vần trường
thiên, người Chăm trong sinh hoạt văn hóa tinh thần của mình cũng dùng thể loại này một cách phổ
biến. Họ gọi đó là Hri. Hri bao gồm cả hình thức thể hiện, nghĩa là hát, kể, ngâm để tạo thành một
sinh hoạt văn hoá đặc sắc của người Chăm - Phú Yên. Bởi lẽ, sử thi là một loại hình văn học dân
gian “sống”, tồn t
ại trong kí ức người kể chuyện, và “kể sử thi”, nghĩa là họ hát, họ kể, ngâm trong
một không gian yên tĩnh của vùng rừng núi, trong một ngôi nhà lớn với nhiều người tham dự.
1.2.2. Số lượng thống kê:
Theo ông Ka Sô Liễng, số lượng sử thi người Chăm - Phú Yên được thống kê như sau:
Prong Mưng đi săn, Chi Plơng, Plênh chơ ro, H’bia lơ tang, A Nuôi K’tung An, Chi Lơ Kok,
Chi Hoang Prăk Ktrau, Planh Pring, Chi Lơ Bú, Chi Lơ Pang, Tiếng cồng ông bà Hơ Bia Lơ
Đá,
Chi Jông, Chi Til, Chi Tơm, Chi Liệng, Tea Lok, Anh em lạc nhau, Chi Bri - Chi Brit, Aguokông,
Hbia Tà Lúi Ka Li Pu, Chi Liêu, Anh em Chi Blơng.
Danh mục các sử thi này chỉ là một bộ phận của kho tàng sử thi Chăm - Phú Yên. Chắc chắn
số lượng sử thi của người Chăm không dừng lại ở đó. Tuy nhiên, hiện nay số lượng sưu tầm được là
5 tác phẩm sử thi đang được tìm hiểu trong luận văn.
1.2.3. Tình hình tư liệu:
Trước đây, 5 tác phẩm sử thi được d

ịch và lưu trữ thông qua nhà sưu tầm văn học dân gian Ka
Sô Liễng. Ông là người Chăm, rất có tâm huyết với văn học dân gian, am hiểu tiếng Việt và những
ngôn ngữ của những dân tộc khác. Ông đã sưu tầm và dịch thuật những tác phẩm này. Nhờ sự biên
dịch của ông, những tác phẩm tưởng chừng đã thất lạc hoặc chỉ còn trong tâm trí vài người già đã
sống lại một cách rõ ràng và đầy đủ nhất. Bởi lẽ, khi tìm được một tác phẩm sử thi và ghi âm lại, tác
phẩm đó vẫn còn xa cách với người nghe bởi khoảng cách của ngôn ngữ và phong tục tập quán. Qua
sự chuyển giao sử thi dân tộc Chăm và một số dân tộc khác như Ê đê, Mơ nông, Ba na củ
a ông,
những tác phẩm sử thi đã có thể đến với người đọc một cách khá trọn vẹn về nội dung.
Năm 2000, tỉnh Phú Yên đã cho in ấn lần lượt những tác phẩm sử thi dân tộc Chăm và lưu
truyền trong phạm vi của tỉnh. Năm 2002, dự án in thành sách kho tàng sử thi Tây Nguyên đã được
thực hiện, và hai tác phẩm sử thi của dân tộc Chăm đã được xuất bản rộng rãi trong cả n
ước. Đó là
hai tác phẩm sử thi: “Chi Bri - Chi Brit” và “Tiếng cồng ông bà Hbia Lơ Đă”. Những tác phẩm sử
thi này được in theo hai thứ tiếng: tiếng Việt và tiếng Chăm.
Sử thi dân tộc Chăm - Phú Yên chỉ có một nguồn sưu tầm là từ nghệ nhân Ka Sô Liễng. Tư
liệu được khảo sát là những tư liệu đã được xử lý về ngôn ngữ và đã qua sự sắp xếp, biên dịch của
ông. Do đó, không có ngu
ồn tư liệu thứ hai để so sánh về phương thức dịch thuật hoặc đối chiếu sự
giống hay khác nhau trong cùng một tác phẩm nhưng có hai nguồn tư liệu sưu tầm khác nhau.
Ông Ka Sô Liễng đã tìm được những nghệ nhân còn thuộc những sử thi này và ghi âm lại tác
phẩm. Cho đến nay, những nghệ nhân hát sử thi này có người còn sống nhưng cũng có người đã
mất. Và nghệ nhân kể sử thi cũng không h
ẳn thuộc hoàn toàn tác phẩm. Ông Ka Sô Liễng đã đi sưu
tầm một sử thi không chỉ là một nghệ nhân kể mà là nhiều nghệ nhân kể. Mỗi người nhớ một đoạn,
và ông đã biên dịch lại cho hoàn chỉnh. Đây là trường hợp của sử thi “Hbia Tà Lúi Ka Li Pu”.
Sử thi dân tộc Chăm - Phú Yên được sưu tầm không chỉ nằm trên một vùng đất mà là nhiều
vùng đất, nhiều xã nơi tập trung người Chă
m sinh sống. Vùng trung tâm văn hoá sử thi Chăm - Phú
Yên là huyện Sơn Hoà, cách thành phố Tuy Hoà 70km. Đây là nơi người Chăm sống tập trung nhất.

1.2.4. Trình thức kể và không gian diễn xướng sử thi Chăm - Phú Yên:
Để tìm hiểu thêm đời sống thực tại của sử thi Chăm - PhúYên, ngoài văn bản, chúng tôi đã
điền dã vùng núi này và khảo sát số lượng sử thi, các hình thức diễn xướng, lưu truyền của nó.
Chúng tôi đã tiến hành đ
i tìm hiểu, khảo cứu để có được những tư liệu cần thiết, giúp ích cho quá
trình nghiên cứu luận văn.
Trở về địa phương, tìm về nguồn tư liệu văn học dân gian, chúng tôi đã gặp không ít khó
khăn. Bởi lẽ, những tác phẩm sử thi được thống kê thì khoảng hơn 18 tác phẩm, nhưng trên thực tế
thì không có đầy đủ các tác phẩm này. Bên cạnh đó, chúng tôi tìm hiểu nguồn tư liệu d
ựa trên sự
phiên dịch qua tiếng Việt và hỏi chuyện người Chăm trong khả năng nói tiếng Việt của họ. Vì vậy,
quá trình tìm hiểu gặp nhiều hạn chế. Hầu hết những tìm hiểu là qua nghệ nhân Ka Sô Liễng.
Đợt đầu tiên chúng tôi tiến hành điền dã vào tháng 2 năm 2008, khi bắt đầu tìm hiểu về số
lượng sử thi tồn tại trong cộng đồng người Chăm. Chúng tôi đã điền dã vùng núi xã Ea Chà Rang,
nơi nghệ
nhân Ka Sô Liễng sinh sống. Đây cũng là vùng tập trung nhiều cư dân người Chăm. Xã Ea
Chà Rang thuộc buôn Kiến Thiết, cách thị trấn Sơn Hoà 30 km. Đường lên buôn cũng dễ dàng đi,
không như trước đây chỉ toàn đường rừng. Ở xã Ea Chà Rang, người Chăm sống xen kẽ với người
Kinh, người Ê đê. Nhà người Chăm và người Kinh có khi ở sát bên, liền kề nhau, có khi ở cách xa
nhau với mật độ rải rác, thưa thớt. Chúng tôi tìm gặp
được nghệ nhân Ka Sô Liễng, được ông dẫn đi
thăm vài nơi trong buôn, chỉ cho chúng tôi thấy cuộc sống của người Chăm nơi đây. Ngày thường
người Chăm đi làm rẫy, do đó chúng tôi cũng ít gặp người dân mà chỉ gặp chủ yếu là những cô bé,
cậu bé Chăm đang chơi đùa trong sân nhà và người già. Nghệ nhân Ka Sô Liễng rất vui khi kể cho
chúng tôi nghe những câu chuyện về đời sống hiện tại và phong tụ
c của người Chăm. Là người
Chăm, lại hiểu tiếng Kinh rất rõ nên qua quá trình công tác, nghệ nhân Ka Sô Liễng giải thích, kể
rất cụ thể cho chúng tôi văn hóa, đời sống người Chăm nơi đây. Tuy nhiên, sức khoẻ của ông không
được tốt ở thời điểm đó, do vậy ông không nhớ hết được những tác phẩm sử thi ông đã sưu tầm
được. Đợt điền dã này chúng tôi đã tiếp c

ận cách diễn xướng Hri và so sánh với tài liệu ông biên
soạn về đời sống của tộc người Chăm ở Phú Yên. Chúng tôi cũng cảm nhận được sự hồn hậu, chân
thật của những con người nơi vùng đất này cũng như vẻ đẹp còn rất nguyên sơ của vùng núi Ea Chà
Rang. Điều quan trọng là qua đó thấy được không khí thẩm mỹ của sử thi và các trình thức kể
chuyện.
Đợt thứ
hai chúng tôi trở lại Ea Chà Rang là vào tháng 8 năm 2008. Lúc bấy giờ nghệ nhân Ka
Sô Liễng đã khoẻ hơn sau đợt phẫu thuật. Ông đã cung cấp cho chúng tôi ba tác phẩm sử thi do ông
đánh máy nữa. Đó là những sử thi: “Anh em Chi Blơng”, “Hbia Tà Lúi Ka Li Pu”, “Chi Lơ Kok”
(sử thi Ê đê ở Phú Yên có nội dung tương tự như “Tiếng cồng ông bà Hbia Lơ Đă”). Ông cũng hào
hứng giải thích những tập tục của người Chăm trong những sử thi này, nhất là trong sử thi “Hbia Tà
Lúi Ka Li Pu”. Ông b
ảo rằng khi khoẻ lại ông sẽ đi thăm các vùng Tây Nguyên để sưu tầm tiếp tục
những sử thi đang còn tồn tại ở đó. Nghệ nhân Ka Sô Liễng đã hát Hri cho chúng tôi nghe, và đồng
thời cung cấp những cuốn băng ghi âm ông đã miệt mài ghi âm bà con hát Hri.
Những Hri này được truyền kể bằng hình thức hát, kể và được cộng đồng yêu thích. Trình thức
diễn xướng sử thi bao gồm: người hát phải sử dụ
ng nhiều thủ pháp nghệ thuật như ngâm, hát với tiết
tấu lúc nhẹ nhàng, khoan thai, lúc bay bổng dữ dội theo diễn biến và bối cảnh câu chuyện nhằm làm
nổi bật nội dung mà tác phẩm muốn diễn tả. Chính vì lưu truyền bằng hình thức diễn xướng, sử thi
rất dễ biến đổi và có nhiều bản có nội dung tương đồng nhau. Người Gia Rai, người Ê đê ở Sơn Hoà
và Sông Hinh có thể kể được “Chi Lơ Kok”. Hoặc sử thi “Tiếng cồng ông bà Hbia Lơ Đă” và “Chi
Lơ Kok” cùng kể về người anh hùng Xing Chi Ngã. Sử thi “Xing Nhã” (dân tộc Ê đê ở Tây
Nguyên) lại có nội dung t
ương tự như “Tiếng cồng ông bà Hbia Lơ Đă”. Hình thức lưu truyền bằng
miệng đã cho thấy sự di chuyển của sử thi trong một khoảng cách địa lý xa đáng ngạc nhiên của
những tác phẩm sử thi ở Tây Nguyên đến vùng núi Phú Yên. Điều này có thể lý giải như sau: Phú
Yên nằm giữa lưu vực sông Đà Rằng, con sông này là con sông tiếp nối sông Ba chảy qua khu vực
trung tâm của người Ê đê, Gia Rai ở Tây Nguyên. Sử
thi cũng lan truyền theo văn hoá dọc con sông

đến vùng Sông Hinh và Sơn Hoà của Phú Yên. Do đó, sử thi “Xinh Nhã” đã lưu truyền đến khu vực
này và không chỉ có một dân tộc Ê đê ở Phú Yên có thể nhớ và kể lại mà cả người Chăm ở đây cũng
đã kể lại nhưng biến đổi theo văn hoá, phong tục người Chăm.
Môi trường diễn xướng Hri thường vào lúc ban đêm, ở những nhà rông - nơi sinh hoạt chung
c
ủa cả cộng đồng hoặc những ngôi nhà rộng, thoáng mát, có thể chứa được nhiều người. Người dân
tộc Chăm - Phú Yên thường bảo: tháng tám kiếm củi, sửa kho, làm đường, coi rẫy, tháng 9 tháng 10
ăn lúa mới, nghe hát…Nghệ nhân hát sử thi có thể là đàn ông hoặc đàn bà, có thể là người lớn tuổi
hoặc trẻ tuổi, không nhất thiết phải là người già, miễn là người thuộc và có giọng hát hay là được
mời hát. Tuy nhiên, nghệ nhân hát sử thi th
ường là những người có uy tín và khá lớn tuổi trong cộng
đồng. Hát sử thi là thể loại hát truyền khẩu, nội dung tác phẩm khá dài, nên trong cộng đồng không
có nhiều người thuộc và hát, do vậy nghệ nhân hát sử thi rất được cộng đồng quí mến. Khi hát, họ
được dân làng nhắc rượu mời và để cho người nghệ nhân thực hiện trọn vẹn bài hát của mình, chủ
nhà hoặc dân làng làm gà, nấu cơm để nghệ nhân bồi dưỡng. Nghệ nhân chỉ
hát mà không có chiêng
trống kèm theo. Và người nghệ nhân trước khi hát theo yêu cầu mọi người, có thể vừa hát dạo, vừa
tâm sự chuyện riêng hoặc khen ngợi người này, người kia tốt bụng. Trước khi hát, họ cũng không
quên nhắc nhở người nghe nên và không nên bắt chước những câu chuyện nào, hoặc gợi nhớ lại
những khúc hát ly kì trong Hri. Đây chính là nét độc đáo về sự hoà đồng không gian thực tại và
không gian kí ức khá thú vị. Theo ông Ka Sô Liễng, các nghệ nhân kể chuyệ
n thuộc sử thi vì từ thời
thơ ấu họ đã được nghe cha mẹ, người lớn kể sử thi. Và họ cũng như ông bà, cha mẹ mình không
biết sử thi có từ lúc nào, ai là người đã sáng tạo nên những sử thi đó. Người dân yêu thích Hri, trong
tâm tưởng họ những câu chuyện được nghe là hoàn toàn có thật và đã xảy ra ở một thời kì xa lắm.
Họ tin rằng những chi tiết trong Hri vẫn còn để lại dấu
ấn trong cuộc sống hiện tại. Ông Ka Sô
Liễng cho biết, trong buôn Ea Chà Rang, có cây cổ thụ rất to, và người dân tin rằng đây chính là cây
cổ thụ mà nhân vật Chi Blơng và Chi Tơm đã trèo lên để tìm cây bắp thần đem lại cuộc sống ấm no
cho dân bản. Con suối trong buôn cũng chính là con suối mà Hbia Lơ Đă khi đi tắm bị bỏ bùa mê để

bỏ theo Kjăm Jông. Tuy nhiên, hiện nay, những người thuộc sử thi, biết sử thi ngày càng ít đi vì
nhiều lý do. Ông Ka Sô Liễng lo lắng và trăn trở rằng sẽ có lúc những tác phẩm sử thi đang vẫn còn
đâu đó trong cộng đồng không được biết đến vì người thuộc những tác phẩm ấy qua đời và không
có sự truyền lại cho con cháu đời sau. Đó là điều đáng tiếc cho sử thi Chăm cũng như sử thi nh
ững
dân tộc khác. Sự mai một của những tác phẩm sử thi “sống” sẽ là sự thiếu hụt lớn cho kho tàng văn
học dân gian, và văn hoá dân gian. “Những người già rồi sẽ mất đi, những câu chuyện cổ cũng sẽ
mất đi, nếu người ta không lưu giữ”, ông Ka Sô Liễng nói điều này với một sự thở dài.
Một điều cũng đáng chú ý là khi khảo sát các sử thi khác đ
ã được in thành sách, chúng tôi
thấy có nhiều lời chỉ dẫn, lời kể của người kể sử thi xen vào nội dung cốt truyện. Đó là lời dẫn
chuyện, lời mô tả, đánh giá, nhận xét của người kể lồng vào bối cảnh, sự kiện của sử thi. Chúng tôi
trực tiếp nghe Ka Sô Liễng diễn xướng và suốt trong thời gian diễn xướng của người kể, Hri được
hình thành phần lớn t
ừ các mẫu đối thoại của nhân vật trong sử thi. Diễn biến câu chuyện như một
vở kịch mà người kể chỉ là người tường thuật, không hề thêm bớt, nhận xét, mô tả, đánh giá gì trong
mọi chi tiết cốt truyện. Và ông Ka Sô Liễng cũng xác nhận đây là cách hát kể Hri của người Chăm.
Chúng tôi bổ sung sự tìm hiểu âm hưởng, nhạc điệu sử thi bằng việc nghe những băng ghi âm. Qua
đó, chúng tôi cũng tái tạo lại phần nào một không gian truyện kể cùng âm điệu lúc say sưa, lúc nhịp
nhàng trong lời hát sử thi. Và việc tìm về với buôn làng Chăm, tìm đến không gian văn hoá nơi còn
những khu rừng hoang sơ, đã làm sống lại trong tâm trí chúng tôi một không gian sử thi đầy mê
hoặc và tràn đầy màu sắc cùng âm hưởng hào hùng của những khát vọng, niềm tin. Quả thật, sử thi
phải được đặt trong một không gian sống đúng nghĩa củ
a nó thì mới thực sự trở nên bay bổng, diệu
kì và sự sống từ đó thoát ra mang theo tất cả vẻ đẹp sống động của núi rừng và từng câu chữ bỗng
trở nên là một sự sống thực sự.
Như vậy, tìm hiểu về sử thi dân tộc Chăm, ngoài việc dựa trên những văn bản đã được sưu tầm
và biên dịch, chúng tôi còn quan sát cách diễn xướng của nó. Đi
ều đó ít nhiều rút ngắn khoảng cách
giữa văn bản tiếng Chăm và văn bản tiếng Việt.

1.2.5. Các sử thi được khảo sát:
• Sử thi “Chi Bri - Chi Brit”:
Tác phẩm được chọn từ Kho tàng sử thi Tây Nguyên.Tác phẩm do Ma Mơ Lan ở buôn Kiến
Thiết, xã Ea Chà Rang, huyện Sơn Hoà, tỉnh Phú Yên kể. Ông Ka Sô Liễng sưu tầm và dịch.Văn
bản ghi lại đã chia sử thi thành 20 phần tương ứng với những giai đ
oạn trong cuộc đời và hành động
anh hùng của hai anh em Chi Bri, Chi Brit . Nhưng tất nhiên trong lời hát của nghệ nhân không có
những sự phân chia này.
• Sử thi “Trường ca Tiếng cồng ông bà Hbia Lơ Đă”:
Tác phẩm do Oisăng làng Ma Hoá, xã Phước Tân, huyện Sơn Hoà kể. Ka Sô Liễng ghi chép,
biên dịch và viết lời giới thiệu. Sách do hội Văn nghệ dân gian và văn hoá các dân tộc Phú Yên xuất
bản năm 2000. Sách in hai thứ tiếng, tổng cộng dày 952 trang. Đồng thời, tác phẩm này cũng được
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam cho in trong “Kho tàng s
ử thi Tây Nguyên” năm 2006. Chúng tôi
khảo sát trên tư liệu năm 2000 do Nxb Hội văn nghệ dân gian và văn hoá các dân tộc Phú Yên sản
xuất.
Sử thi “ Tiếng cồng ông bà Hbia Lơ Đă” là một dị bản của sử thi “Xing Nhã” - dân tộc Ê đê ở
Đắc Lắc. Hai tác phẩm có tên khác nhau, nhưng có cốt truyện và hệ thống nhân vật giống nhau.
Tên “Xing Nhã” là lấy theo tên nhân vật chính - cách đặt tên thường gặp trong sử thi. Tên “Tiếng
cồng ông bà Hbia Lơ Đă” là đặt tác phẩm theo tên ng
ười mẹ.
Bảng 1.1. So sánh hệ thống nhân vật của “Tiếng cồng ông bà Hbia Lơ Đă” và “Xing
Nhã”:
Xing Nhã Tiếng cồng ông bà Hbia Lơ Đă
- Giaơ Kôt: cha Xing Nhã
- Hơbia Lơ Đă: mẹ Xing Nhã
- Xing Nhã: nhân vật chính
- Bơra Tang: người yêu Xing Nhã
- Hbia Blao: người yêu thứ 2 của
Xing Nhã

- Bang ra: mẹ nuôi Xing Nhã
- Xing Yuê: cha nuôi Xing Nhã
- Giarơ Bú: kẻ thù của hai cha con
Xing Nhã
- Hbia Guê: vợ của Giarơ Bú
- Prong Mưng: em trai Giarơ Bú
- Gỗn: ông trời, tốt
- Chi Lơ Kôk: cha Xing Chi Ngã
- Hbia Lơ Đă: mẹ Xing Chi Ngã
- Xing Chi Ngã: nhân vật chính
-
Hbia Mơ Giang: người yêu Xing
Chi Ngã
- Hbia Mơ Chuôi: mẹ nuôi Xing Chi
Ngã
- Chi Lơ Mê: cha nuôi Xing Chi Ngã
- Chi Lơ Bú: kẻ thù của hai cha con
Xing Chi Ngã
- Hbia Lơ Gôi: vợ của Chi Lơ Bú
- Prong Mưng: em trai Chi Lơ Bú
- Yàng: ông trời, xấu
Hệ thống nhân vật của hai tác phẩm này có sự thống nhất. Số lượng nhân vật có mối liên hệ
chính với nhân vật trung tâm cũng có sự giống nhau. “Xing Nhã” thì có thêm nhân vật Hbia Blao là
người yêu thứ hai của Xing Nhã. Cách gọi tên cũng na ná như nhau. Những cái tên là sự biến âm
của cùng nhân vật. Ví dụ: Xing Chi Ngã cũng gần giống như Xing Nhã, Giarơ Kốt tương tự như Chi
Lơ Kok. Tên nhân vật Hbia Lơ Đă, Prong Mưng thì giống nhau.
Bảng 1. 2. So sánh c
ốt truyện của “Tiếng cồng ông bà Hbia Lơ Đă” và “Xing Nhã”:
Cốt truyện “Xing Nhã” Cốt truyện “Tiếng cồng ông bà Hbia Lơ
Đă”

+ Cuộc đời Giaơ Kôt
- Hbia Lơ Đă lấy Giarơ Kốt.
- Giarơ Kốt mời Giarơ Bú dự lễ
thổi tai của Xing Nhã.
- Hbia Guê đến vay thóc Giarơ
Kốt.
- Hbia Guê vu khống cho Hbia Lơ
Đă để xúi giục chồng.
- Giarơ Bú kéo quân đi đánh
Giarơ Kốt.
- Giarơ Bú kéo quân đi đánh
Giarơ Kốt.
- Dì Bang Ra bế Xing Nhã chạy
trốn.
- Giarơ
Kốt bị voi của Giarơ Bú
đâm chết
- Hbia Đá bị bắt làm nô lệ.



+ Cuộc đời Xing Nhã
:
- Quân của Giarơ Bú đuổi theo
Xing Nhã nhưng Xing Nhã vẫn
+ Cuộc đời Chi Lơ Kok
:
- Yàng vì không thích tiếng
chiêng của ông bà Hbia Lơ Đă
nên muốn sắp xếp cho con gái

của họ tên là Hbia Lơ Đă bị goá
chồng.
- Chi Lơ Kok đi tìm nơi có
chiêng, gặp Chi Lơ Mê và kết
nghĩa anh em.
- Hbia Lơ Đă gặp Chi Lơ Kok, lấy
nhau, dựng làng.
- Chi Lơ Kok đến làng Chi Lơ Bú,
kết nghĩa
- Chi Lơ Bú kéo quân đánh làng
Chi Lơ Kok vì muốn cướp bộ
chiêng.
-
Hbia Mơ Chuôi bế Xing Chi
Ngă chạy trốn.
- Chi Lơ Kok bị Yàng bắt lên trời,
để cho Chi Lơ Bú thắng, chiếm
làng và bắt Hbia Lơ Đă cùng
dân làng về làm nô lệ.
+ Cuộc đời Xing Chi Ngã
:
- Xing Chi Ngã bị rơi vào gốc
cây, được vợ chồng Hbia Mơ
sống sót. Xinh Nhã được ông
Trời cứu thoát và ở với vợ
chồng Xinh Yuê.
- Xing Nhã chơi quay, gặp nàng
Bra Tang và hò hẹn.
- Xing Nhã chuẩn bị trả thù.
- Bang Ra ngăn cản.

- Xing Nhã chết lên trời gặp ông
Gỗn, được thuốc thần.
- Bra Tang khóc lóc, Xing Nhã
sống lại.
- Xing Nhã đi đánh Giarơ Bú, gặp
hai con ác quỉ, nhờ chúng dẫn
đường.
- Xing Nhã gặp nàng Hbia Blao
và mẹ.
-
Xing Nhã tiêu diệt bọn Giarơ
Bú, giải thoát cho mẹ và người
yêu
- Xing Nhã lấy Bra Tang, Xing
Mưn lấy Hbia Blao
- Bỏ mả cho cha, ăn mừng chiến
thắng
Tang tìm thấy và nuôi. Sau
được Chi Lơ Mê tìm thấy.
- Xing Chi Ngã đánh quay, gặp lại
người con gái đã được hứa hôn
từ nhỏ: Hbia Mơ Giang.
- Xing Chi Ngã chuẩn bị đi đánh
Chi Lơ Bú.
- Xing Chi Ngã bị Yàng sai người
xuống bắt vì không mu
ốn anh
đánh thắng Chi Lơ Bú. Xing
Chi Ngã chiến thắng Yàng và
trở về.

- Xing Chi Ngã tiêu diệt bọn Chi
Lơ Bú và giải thoát cho mẹ
cùng dân làng.
- Xing Chi Ngã cưới Hbia Mơ
Giang.
- Tổ chức ăn mừng chiến thắng.

Cốt truyện Sử thi “Tiếng cồng ông bà Hbia Lơ Đă” và “Xing Nhã” có nét thống nhất. Sự khác
biệt nằm ở đoạn đầu tác phẩm và sự kiện về sự giúp đỡ của thần linh. “Tiếng cồng ông bà Hbia Lơ
Đă” có đoạn nói về lý do Chi Lơ Bú ghen ghét với Chi Lơ Kok là bởi Yàng xúi giục vì không chịu
được tiếng chiêng của gia đình Hbia Lơ Đă. Và tác phẩm này có sự bổ sung quan trọng về sự g
ặp gỡ
của Chi Lơ Kok với Hbia Lơ Đă. Đây có thể xem như sự bổ sung cho “Xing Nhã”. Vì ở “Xing
Nhã”, phần mở đầu đã là Gia rơ Kốt cưới Hbia Lơ Đă, không có hai sự kiện trên. Sự kiện sự giúp đỡ
của thần linh cũng là một sự khác biệt trong hai sử thi. Nếu Gỗn là ông trời tốt đã giúp Xing Nhã
hồi phục và trở về chiến đấu với Chi Lơ Bú thì Yàng trong “Tiế
ng cồng ông bà Hbia Lơ Đă” lại
được miêu tả là Yàng xấu, hãm hại Chi Lơ Kok và Xing Chi Ngã. Điều này cũng thể hiện quan
niệm Yàng có nhiều kiểu, Yàng tốt và Yàng xấu- Yàng tốt thì giúp người, Yàng xấu thì hại người
của người Chăm - Phú Yên.
• Sử thi “Trường ca Chi Liêu”:
Sử thi “Trường ca Chi Liêu” do nghệ nhân Ây rõ kể, ở xã Phước Tân, huyện Sơn Hoà. Ka Sô
Liễng ghi chép, biên dịch và viết lời giới thiệu. Tác phẩm do Hội liên hiệp văn học và nghệ thuật
tỉnh Phú Yên in năm 2000, in thành 2 tập, không có phần tiếng Chăm.

• Sử thi “Trường ca Hbia Tà Lúi Ka Li Pu”:
Sử thi này do nghệ nhân Ma Kh
ử ở buôn Ea Chà Rang kể lại. Theo lời Ka Sô Liễng, sử thi này
có nhiều người nhớ và kể lại được, tuy nhiên mỗi người chỉ nhớ được một phần. Ông đã cất công
ghi chép lại nhiều đoạn đó rồi nối lại với nhau theo cốt truyện của nó. Sau đó ông đem đến kể cho

bà con dân tộc nghe và được họ khen là đúng với cốt truyện. Tác phẩm do nhà xuất bản Văn hoá
dân tộc Hà Nội in năm 2002, dày 600 trang giấy A4 khổ lớn.
• Sử thi “Trường ca Anh em Chi Blơng”:
Sử thi do Ây Bhôm người làng Hà Rai, xã Xuân Lãnh, huyện Đồng Xuân kể. Ka Sô Liễng là
người biên soạn lại. Đây là sử thi được tìm thấy không phải ở trung tâm của sử thi Chăm - Phú Yên.
Tác phẩm sử thi này theo Ka Sô Liễng, ông đã cung cấp cho Hội Văn nghệ dân gian tỉnh Phú Yên.
Nhưng chúng tôi chưa tìm được tài liệu đã in ấn. Do vậy, chúng tôi sử dụng tài liệu của Ka Sô Li
ễng
sưu tầm là một tập đánh máy để khảo sát.






CHƯƠNG II. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỐT TRUYỆN SỬ THI DÂN TỘC CHĂM Ở PHÚ
YÊN
2.1. Đề tài:
Sử thi chủ yếu phản ánh những vấn đề lớn liên quan đến toàn thể cộng đồng, với chủ đề ca
ngợi người anh hùng với chiến công bảo vệ cộng đồng, giúp đỡ con người, dẹp bỏ những thế lực
làm hại con người. Xoay quanh chủ
đề đó, sử thi đã thể hiện hệ thống đề tài bao quanh 3 nhiệm vụ
chính: lấy vợ, sản xuất, đánh giặc. Tuỳ từng nội dung phản ánh mà tác phẩm sử thi đặt nhiệm vụ
nào làm trung tâm. Có thể phân loại đề tài sử thi dựa vào mục đích, nhiệm vụ người anh hùng và đặt
cạnh nhau những tác phẩm có những nhiệm vụ trọng tâm gần giống nhau. Nhà nghiên cứu Phan
Đăng Nhật
đã phân chia loại đề tài của sử thi dựa trên sự cắt chuỗi những tác phẩm gần giống nhau
về đề tài cạnh bên nhau thành hai loại: loại đề tài sử thi về hôn nhân và loại đề tài sử thi về chiến
tranh. Dựa vào kết quả nghiên cứu này, các nhân vật anh hùng có nhiệm vụ trọng tâm gắn liền với
từng kiểu, loại đề tài. Với loại đề tài sử thi về hôn nhân, trung tâm hành động của nhân vật chính là

hôn nhân với sự đấu tranh để tìm kiếm và bảo vệ nó. Có thể tìm thấy những sử thi Tây Nguyên nằm
trong loại đề tài này như: “Đăm Kteh Mlan”, “Grăn Kiêng” (dân tộc Ê đê). Loại đề tài sử thi về
chiến tranh là loại đề tài thông qua chiến tranh để thực hiện những mục đích lớn lao của cuộc đời
con người và bảo vệ cộng đồng như: chiến tranh giành lại vợ; tự vệ trướ
c sự xâm hại của kẻ thù với
gia đình, dân làng; khôi phục, trả thù thế lực đối địch đã cướp bóc của cải, đem lại sự bình yên cho
cộng đồng. Loại sử thi về đề tài chiến tranh chiếm đa số trong số lượng đề tài sử thi, như “Đăm
San”, “Xing Nhã” (dân tộc Ê đê).
Không ngoại lệ, sử thi Chăm - Phú Yên xoay quanh hành động khôi phục lại gia đình, buôn
làng, cứu giúp con người, trừ
ng trị kẻ thù có mưu đồ chiếm đoạt tài sản, hãm hại người khác. Người
anh hùng hoặc trực tiếp dùng sức mạnh để khôi phục và bảo vệ, giúp đỡ mọi người, trả thù cho gia
đình hoặc kết hợp là người tham gia vào cuộc chiến đó, góp phần quyết định cho chiến thắng.
Người hỗ trợ là dân làng, hoặc anh em của người anh hùng. Chống giặc ở đây là chống những th
ế
lực thù địch đi chiếm các vùng đất khác, hoặc muốn chiếm ngôi vua, hoặc là những kẻ thù có mưu
đồ hãm hại dân làng, cướp của quí. Chống giặc còn là chống những ác quỉ có phép thuật với sức
mạnh ghê gớm làm hại tính mạng và cuộc sống buôn làng. Bên cạnh chiến đấu chống giặc, người
anh hùng còn chiến đấu chống lại những tập tục làm hại cuộc sống con người. Cả n
ăm tác phẩm sử
thi ở Phú Yên đều xoay quanh những cuộc chiến đấu bảo vệ và đem lại cuộc sống bình yên cho
cộng đồng. Chẳng hạn trong sử thi “Chi Bri, Chi Brit”, có các sự kiện chính kể về những chiến công
trong chiến đấu của hai anh em trong việc săn bắt thú dữ, diệt ác quỷ, giúp đỡ người đẹp, tiêu diệt

×