Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Chính sách chiết khấu và điều hàng chính sách tiền tệ bằng công cụ chính sách chiết khấu tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.54 KB, 22 trang )

Trang 1 /22
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ- LUẬT

CHÍNH SÁCH CHIẾT KHẤU
VÀ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ BẰNG CÔNG CỤ
CHÍNH SÁCH CHIẾT KHẤU TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
2008 – 2013
GVHD: Th.s Nguyễn Thị Hai Hằng
Th.s Nguyễn Thị Ngân
Lớp K12401 – Nhóm 12:
Phan Thị Diệu K124010012
Trương Thị Đức K124010018
Đặng Thị Hồng Hậu K124010027
Hoàng Thị Hiền K124010028
Phạm Thị Tân K124012226
Thành phố Hồ Chí Minh ngày 02 tháng 10 năm 2014
Trang 2 /22
MỤC LỤC
Trang 3 /22
LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực kì quan trọng của nhà
nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng lớn đến các biến số vĩ mô như: công
ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát… Để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ
thì việc sử dụng công cụ của nó có vai trò quyết định, chủ chốt.
Ở Việt Nam, từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ, đặc biệt là công cụ của nó
đang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng đối với nền kinh tế. Với đặc
điểm nền kinh tế Việt Nam, việc lựa chọn công cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ
thể vẫn là vấn đề thường xuyên phải quan tâm, theo dõi và giải quyết đối với các nhầ hoạch
định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế.
Có 2 loại công cụ chính mà nhà nước vẫn thường sử dụng để đạt được mục tiêu của


chính sách tiền tệ là công cụ trực tiếp và công cụ gián tiếp.
Tại các quốc gia phát triển và Việt Nam những năm gần đây, việc NHTW sử dụng
công cụ trực tiếp (như hạn mức tín dụng, khung lãi suất và biên độ dao động tỷ giá…) đang
dần được hạn chế thay vào đó là sử dụng các công cụ gián tiếp (như nghiệp vụ thị trường
mở, chính sách chiết khấu và tỷ lệ dự trữ bắt buộc). Bởi lẽ, các công cụ gián tiếp tạo điều
kiện cho NHTM nói riêng và các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung tạo được sự linh
hoạt, uyển chuyển và nhanh nhạy đối với cơ chế thị trường luôn luôn biến đổi, nhiều phức
tạp đang diễn biến từng ngày, từng giờ và giúp cho nhà nước có thể quản lý chiều sâu đối
với nền kinh tế.
Một trong những công cụ gián tiếp hiệu quả hàng đầu của chính sách tiền tệ đó chính
là CHÍNH SÁCH CHIẾT KHẤU.Chính vì thế, bài tiểu luận của nhóm sẻ đi sâu, làm rõ,
phân tích về công cụ CHÍNH SÁCH CHIẾT KHẤU VÀ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ THÔNG QUA CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH CHIẾT KHẤU TẠI VIỆT NAM
Trang 4 /22
NĂM 2008 VÀ 2011. Bài tiểu luận sẽ còn có nhiều bất cập và thiếu sót, chính vì thế nhóm
rất mong nhận được sự đóng góp chân thành từ cô và các bạn!!!
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHTW: Ngân hàng trung ương HNCK: Hạn ngạch chiết khấu
NHNN: Ngân hàng nhà nước LSCK: Lãi suất chiết khấu
NHTM: Ngân hàng thương mại
Trang 5 /22
DANH MỤC BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ
Hình 1: Diễn biến các lãi suất chủ chốt trong năm 2008 (trang 16)
Hình 2: Diễn biến chỉ số CPI trong năm 2008 (trang 17)
Hình 3: Lãi suất cơ bản, lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn năm 2010-2011
(trang 20)
Bảng 1: Điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn trong năm 2011(trang 19)
Bảng 2: Điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu năm 2011 (trang 19)
Trang 6 /22
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH CHIẾT KHẤU

1.1. Công cụ chính sách chiết khấu
1.1.1. Khái niệm
Đây là hoạt động mà NHTW thực hiệc cho vay ngắn hạn đối với các NHTM thông
qua nghiệp vụ tái chiết khấu bằng việc điều chỉnh lãi suất chiết khấu (đối với thương phiếu
và giấy tờ có giá) và hạn mức cho vay chiết khấuthông qua việc NHTW quản lý cửa sổ chiết
khấu.
Chính sách chiết khấu được thể hiện bằng quy chế cho vay của NHTW đối với các
NHTM. Quy chế này gồm những nội dung về điều kiện cho vay ngắn hạn dưới hình thức
chiết khâú các giấy tờ có giá do các NHTM đưa đến.Mục đích vay chiết khấu của NHTM
chủ yếu là để bù đắp thiếu hụt tạm thời nhu cầu thanh toán hoặc thiếu hụt dự trữ bắt buộc.
Những thay đổi trong chính sách chiết khấu của NHTW sẽ tác động đến khối lượng vay
chiết khấu của các NHTM, từ đó ảnh hưởng tới lượng cung ứng và lãi suất thị trường.
1.1.2. Đặc điểm
Chính sách tái chiết khấu giúp NHTW thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng
đối với NHTM khi các NHTM gặp khó khăn trong thanh toán và có thể kiểm soát được hoạt
động tín dụng của NHTM đồng thời có thể tác động tới việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với
nền kinh tế thông qua việc ưu đãi tín dụng vào các lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên hiệu quả của
công cụ này còn phụ thuộc vào hoạt động cho vay của các NHTM, mặt khác mức lãi suất
chiết khấu có thể làm méo mó, sai lệch thông tin về cung cầu vốn trên thị trường.
Các khoản vay chiết khấu mà NHTW cấp cho các NHTM có 3 loại: tín dụng điều
chỉnh, tín dụng thời vụ và tín dụng mở rộng.
Trang 7 /22
Thứ nhất, cho vay tín dụng điều chỉnh, một loại thông dụng nhất, nhằm giúp các ngân
hàng giải quyết vấn đề khả năng hoàn trả ngắn hạn do tiền gửi bị tạm thời rút ra. Tín dụng
điều chỉnh được cấp bằng một cú điện thoại, sẽ được hoàn trả khá nhanh chóngvào cuối
ngày làm việc sau đối với các ngân hàng lớn.
Thứ hai, tín dụng được cấp để đáp ứng những nhu cầu thời vụ của một số ít ngân
hàng đang nghỉ và những vùng nông nghiệp hoạt động theo kiểu thời vụ.
Thứ ba, tín dụng mở rộng được cấp cho những ngân hàng bị gặp khó khăn nghiêm
trọng về khả năng thanh toán do tiền gửi bị rút ra, thì không yêu cầu phải hoàn trả nhanh

chóng ngay. Những ngân hàng được cấp loạt tín dụng này phải nộp một bản đề nghị trình
bày nhu cầu vay tín dụng mở rộng và một bản kế hoạch khôi phục lại khả năng hoàn trả của
ngân hàng.
Việc ngân hàng được đến cửa sổ chiết khấu là một đặc ân chứ không phải là một
quyền hạn. Các ngân hàng được lưu ý là không được phép kiếm lợi từ các khoản vay chiết
khấu và NHTW cố gắng ngăn cản tình hình này bằng cách quy định các thể lệ cho từng ngân
hàng một. Thể lệ đó giới hạn các ngân hàng này có được vay chiết khấu thường xuyên đến
mức nào. Các thể lệ do NHTW quy định để được sử dụng cửa sổ chiết khấu thường được
liên tưởng đến cái gọi là “lòng tin đạo lý”, mặc dù công cụ chính sách tiền tệ này rất ít liên
quan đến đạo lý. Ngân hàng phải chịu ba loại phí khi đến vay tại cửa sổ chiết khấu:
Một là phí lãi biểu thị bằng lãi suất chiết khấu
Hai là phí về việc làm đúng theo các điều tra của NHTW về khả năng thanh toán của
ngân hàng khi đến vay tại cửa sổ chiết khấu.
Ba là phí về việc rất có thể bị từ chối cho vay chiết khấu vì đến cửa sổ chiết khấu quá
thường xuyên.
1.1.3. Tác động của công cụ
Những thay đổi trong chính sách chiết khấu của NHTW sẽ tác động đến khối lượng
vay chiết khấu của các NHTM, từ đó ảnh hưởng tới cung tiền và lãi suất thị trường.
1.1.4. Cơ chế tác động
NHTW thay đổi lãi suất chiết khấu và hạn mức chiết khấu, qua đó ảnh hưởng đến các
hoạt động đi vay của các NHTM như sau:
Thứ nhất: Thay đổi hạn mức chiết khấu:
Trang 8 /22
Dự trữ bổ sung cho các NHTM có thể bị thu hẹp hoặc nới rộng phụ thuộc vào hạn
mức chiết khấu của NHTW, từ đó ảnh hưởng đến khả năng tạo tiền của hệ thống NHTM,
lảm thay đổi lượng tiền cung ứng. Mặt khác, khi cung tiền thay đổi sẽ tác động làm cho lãi
suất thị trường thay đổi.
Hạn mức chiết khấu ↑ => Dự trữ bổ sung cho các NHTM ↑ => Khả năng cho vay
của hệ thống ngân hàng ↑ => Cung tiền (MS) ↑.
Hạn mức chiết khấu ↑ => Cung vốn khả dụng ↑ => Lãi suất cho vay ↓.

Tại Việt Nam, NHNN sẽ xác định hạn mức tín dụng cho từng tổ chức tín dụng theo
công thức:
HMCK của ngân hàng (Hi) = Vốn tự có của ngân hàng (Vi) × Tỷ trọng giữa dư
nợ tín dụng bằng VNĐ so với tổng tài sản (Si) × Hệ số chiết khấu (k)
Trong đó:
Tỷ trọng dư nợi tín dụng bằng VNĐ so với tổng tài sản (Si) =
Hệ số chiết khấu (k) =
Thứ hai: Thay đổi lãi suất chiết khấu:
Khi NHTW tăng lãi suất chiết khấu, làm tăng chi phí đi vay của NHTM, để kinh
doanh có lãi, NHTM phải tăng lãi suất cho vay nền kinh tế, từ đó làm giảm nhu cầu tín dụng.
Ngoài ra khi lãi suất chiết khấu tăng, chi phí đi vay tăng buộc các NHTM hạn chế vay
NHTW. Để phục hồi dự trữ, các NHTM phải giảm cung ứng tín dụng, khiến lãi suất thị
trường tăng.
Lãi suất chiết khấu ↑ => Chi phí đi vay của NHTM ↑ => Lãi suất cho vay của
NHTM ↑ => Nhu cầu đi vay ↓ => Cung tiền (MS) ↓
Lãi suất chiết khấu ↑ => Chi phí đi vay của NHTM ↑ => Nhu cầu đi vay của
NHTM ↓ => Để duy trì dự trữ, cho vay của NHTM ↓ => Lãi suất thị trường ↑.
Trang 9 /22
Ngoài ra, ở các nước có thị trường chưa phát triển (thương phiếu chưa phổ biến để có
thể làm công cụ tái chiết khấu) thì NHTW còn thực hiện nghiệp vụ này thông qua việc cho
vay tái cấp vốn ngắn hạn đối với các NHTM.
Việc tái cấp vốn cho các NHTM là công cụ đắc lực trong định hướng phát triển kinh
tế.
1.1.5. Chức năng khác của chính sách chiết khấu
Ngoài việc sử dụng làm công cụ tác động đến tiền cơ sở, qua đó đến cung tiền và lãi
suất, chính sách chiết khấu còn được NHTW sử dụng với hai chức năng khác là:
Một là chức năng người cho vay cuối cùng (lender of last resort):
Trong chức năng này, chính sách chiết khấu được NHTW thực hiện vai trò người cho
vay cuối cùng. Thông qua công cụ này, NHTW cung cấp thêm dự trữ cho các ngân hàng
đang có nguy cơ phá sản do không có khả năng chi trả, từ đó tránh được một cuộc sụp đổ

dây chuyền trong toàn hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, nó còn được các NHTW sử dụng để
chống lại sự sụp đổ của thị trường tài chính. Sử dụng chính sách chiết khấu để tránh các vụ
sụp đổ hệ thống ngân hàng hoặc thị trường tài chính là yêu cầu rất quan trọng để thực hiện
chính sách tiền tệ thành công. Bởi vì nếu để các vụ sụp đổ ngân hàng xảy ra sẽ gây tổn hại
nghiêm trọng đến nền kinh tế do nó làm giảm sút nghiêm trọng cung ứng tiền, đồng thời cản
trở khả năng các thị trường tài chính chuyển vốn tới những nơi có cơ hội đầu tư sinh lời. Tuy
nhiên, điểm bất lợi của chức năng này là các ngân hàng lớn (too big to fail) có thể vì thế mà
chấp nhận nhiều rủi ro hơn trong kinh doanh với suy nghĩ đã có NHTW đứng đằng sau. Điều
này khiến cho các NHTW phải rất thận trọng không sử dụng thái quá chức năng này.
Hai là chức năng thông báo:
Chính sách chiết khấu còn có thể được sử dụng để thông báo cho thị trường về ý định
của NHTW về chính sách tiền tệ trong tương lai. Ví dụ, khi NHTW muốn ngăn ngừa nguy
cơ lạm phát bằng chính sách thắt chặt tiền tệ, chính sách chiết khấu sẽ được nâng lên. Lãi
suất chiết khấu cao phát tín hiệu về một chính sách tiền tệ thắt chặt trong tương lai. Điểm bất
lợi của chức năng này là có thể bị thị trường giải thích sai lệch. Chẳng hạn, nếu NHTW thấy
Trang 10 /22
rằng lãi suất chiết khấu đang được áp dụng quá thấp so với lãi suất thị trường, có thể bị các
NHTM lạm dụng các khoản vay chiết khấu để tăng cung ứng tín dụng làm cung tiền tăng
không có lợi cho nên kinh tế, NHTW sẽ quyết định tăng lãi suất chiết khấu lên. Như vậy,
mục đích của việc tăng lãi suất chiết khấu ở đây nhằm giảm các khoản vay chiết khấu, tránh
nguy cơ tăng trưởng quá nhanh cung tiền. Thế nhưng, việc NHTW tăng lãi suất chiết khấu
có thể bị thị trường hiểu lầm là tín hiệu của sự thay đổi trong chính sách tiền tệ của NHTW,
gây ra những phản ứng sai lệch, trái với chủ ý của NHTW. Để khắc phục được nhược điểm
này, cách tốt nhất là NHTW đồng thời với việc tăng hoặc giảm lãi suất chiết khấu, công bố
công khai mục đích của mình.
1.1.6. Ưu và nhược điểm của chính sách chiết khấu
Mỗi một công cụ mà NHTW sử dụng để điều tiết nền kinh tế đều có ưu nhược điểm
riêng của nó. Công cụ chính sách chiết khấu có các ưu và nhược điểm sau:
Ưu điểm:
Một là, các khoản vay chiết khấu đều được đảm bảo bằng các giấy tờ có giá, nên

NHTW chắc chắn thu hồi được nợ khi đến hạn và chủ động trong việc sử dụng công cụ tái
cấp vốn, sử dụng để thực hiện vai trò của người cho vay cuối cùng.
Hai là, công cụ này tác động theo cơ chế thị trường, do đó ít ảnh hưởng đến tính cạnh
tranh trong hệ thống ngân hàng.
Nhược điểm:
Tuy nhiên tác dụng của chính sách chỉ có thể phát huy khi các NHTM có nhu cầu vay
từ NHTW tại lãi suất hợp lý. Với sự phát triển của thị trường tài chính, các NHTM có thể
tìm kiếm được các nguồn vay thay thế làm cho sự phụ thuộc vào các khoản vay NHTW
giảm đi, do đó làm giảm mức độ phát huy hiệu quả của công cụ này.
Ngoài ra, NHTW khó kiểm soát được hoàn toàn những tác động của công cụ này bởi vì
NHTW chỉ có thể thay đổi được lãi suất chiết khấu và các điều kiện cho vay mà không kiểm
soát được việc các NHTM quyết định vay tại mình là bao nhiêu.
1.2. Kinh nghiệm sử dụng công cụ chính sách chiết khấu tại một số quốc gia trên thế giới
Trang 11 /22
Tính chu kì của quá trình tái sản xuất tư bản trong những năm gần đây chứng tỏ rằng
“ Lãi suất tái chiết khấu mà cao sẽ kiềm hãm thị trường tiền tệ, lãi suất này thấp sẹ kích thích
thị trường tiền tệ phát triển” đã không còn tác dụng nữa. Do vậy, hiện nay, một số nước tư
bản phát triển đang tiến hành chính sách chiết khấu với lãi suất cao và không cần kìm hãm
lãi suất thị trường phát triển.
1.2.1. Tại Mỹ
Ở Mỹ, lãi suất tái chiết khấu nói riêng và lãi suất chiết khấu nói chung đã từng được
coi là công cụ hoạt động chủ yếu của NHTW trong thế kỉ 19 cho đến những năm 30 của thế
kỉ 20. Về mặt lãi suất, chức năng trước tiên của NHTW Mỹ là sẵn sàng cung cấp các nguồn
thanh toán một cách kịp thời và đầy đủ vào nền kinh tế bất cứ lúc nào thông qua hệ thống
NHTM khi nền kinh tế có nguy cơ suy thoái do thiếu tiền vì lạm phát gây ra. Luật dữ trữ liên
bang Mỹ đã nêu ra cơ chế chiết khấu từ những năm 1913 tuy điều kiện chưa có hoạt động
của thị trường mở và vào thời điểm đó, công cụ lãi suất tái chiết khấu là công cụ duy nhất
của CSTT nước Mỹ. Thông qua công cụ này, mục tiêu chính của chính phủ Mỹ muốn ngăn
ngừa việc tái diễn của cuộc khủng hoảng tài chính bằng cách bơm tiền cho NHTM vào lúc
cần thiết để giật tắt các làn sóng do hoảng loạn về mặt tâm lí đã ồ ạt kéo đến ngân hàng rút

tiền ra. Tuy biện pháp cũng tương đối thành công lúc bấy giờ nhưng khi khủng hoảng tất cả
các bộ phận của nền kinh tế Mỹ vào những năm 1929-1933 thì công cụ này đã mất tác dụng.
Năm 2008, nhằm cứu vãn thị trường tài chính lâm vào khủng hoảng, FED đã liên tục
cắt giảm lãi suất chiết khấu xuống, có lúc chỉ còn 0.5%.
1.2.2. Tại Nhật Bản
Lãi suất chiết khấu lầ công cụ chính mà NHNN Nhật Bản (BOJ) sử dụng để tác động
tới nền kinh tế. Từ năm 1980 – 1990, lãi suất chiết khấu được thay đổi 6 lần, giảm dần từ
7.25% (năm 1980) xuống 2.5% (năm 1988) sau đó tăng lên 6% ( năm 1990). Mục đích của
việc tăng lãi suất chiết khấu năm 1990 lên 6% là để giảm bớt lượng cung ứng tiền tệ và tín
dụng trước khủng hoảng vùng Vịnh.
Trang 12 /22
Những năm sau đó, lãi suất chiết khấu của BOJ liên tục giảm, đỉnh điểm là năm 1995
còn 1%. BOJ quyết tâm chống suy thoái bằng cách không ngừng nới rộng cho vay ở các cửa
sổ chiết khấu thông qua việc hạ lãi suất liên tục.
Trang 13 /22
CHƯƠNG 2 : ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ THÔNG QUA CHÍNH SÁCH
CHIẾT KHẤU TẠI VIỆT NAM NĂM 2008 VÀ 2011.
2.1. Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ thông qua chính sách chiết khấu tại Việt
Nam từ 2008.
2.1.1. Diễn biến kinh tế.
Những thách thức mà nền kinh tế phải đối mặt là vô cùng phức tạp, khó lường. Nếu
như trong 6 tháng đầu năm, sự gia tăng mạnh của giá dầu, giá lương thực, sự giảm giá của
thị trường bất động sản, chứng khoán, thì 6 tháng cuối năm, giá dầu giảm mạnh từ mức kỉ
lục từ mức 147 USD/thùng vào giữa tháng 7 xuống mức thấp nhất xung quanh 40
USD/thùng vào trong tuần tháng 12. Kinh tế thế giới lại chuyển từ áp lực lạm phát cao sang
xu hướng thiểu phát và giảm phát.
Nền kinh tế Việt Nam không những đối mặt với những diễn biến khó lường của kinh
tế thế giới, mà còn phải đối mặt với nhiều khó khăn nội tại. Lạm phát tăng mạnh (giá xăng,
giá gạo leo thang ). Trước tình hình đó, Chính Phủ đã điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng cao
sang mục tiêu kiềm chế lạm phát là ưu tiên hàng đầu và tăng trưởng duy trì ở mức hợp lí.

2.1.2. Điều hành chính sách tiền tệ thông qua chính sách chiết khấu
Trong 8 tháng đầu năm 2008, trước bối cảnh lạm phát và nhập siêu tăng mạnh, đe dọa
đến sự ổn định kinh tế vĩ mô, cùng với biện pháp thắt chặt tiền tệ, NHNN đã từng bước tăng
lãi suất cơ bản và các mức lãi suất khác nhau cho phù hợp với mục tiêu kiểm soát chặt chẽ
tiền tệ. Lãi suất cơ bản tăng từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm rồi 12%; 14%/năm, lãi suất tái
cấp vốn tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm, 13% và 15%/năm, lãi suất tái chiết khấu tăng từ
4,5%/năm lên 6%;11% rồi 13%/năm.
Trong những tháng cuối năm 2008, lạm phát có xu hướng giảm dần đồng thời trong
khi đó tăng trưởng kinh tế đã có sự sụt giảm mạnh so với 2007 do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính thế giới. Tình hình này đòi hỏi NHNN phải có những bước đi thận
Trang 14 /22
trọng nhằm tiếp tục kiểm soát lạm phát nhưng đồng thời cũng góp phần tăng đầu tư sản xuất,
kinh doanh để ngăn chặn đà suy giảm kinh tế. Trong bối cảnh NHNN 5 lần điều chỉnh lãi
suất cơ bản từ 14%/năm xuống 13%;12%;11% và 9,5%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ
13%/năm xuống 12%;11%;10%;9% và 7,5%/năm.
Hình 1: Diễn biến các lãi suất chủ chốt trong năm 2008.
Nguồn: Tổng cục thống kê.
2.2. Nhận xét về việc điều hành.
2.2.1. Về mặt tích cực.
Tuy bối cảnh của nền kinh tế lạm phát cao và gặp nhiều khó khăn. Chính sách chiết
khấu cùng các công cụ khác của chính sách tiền tệ của NHNN đã có tác động tích cực đối
với kiềm chế lạm phát, cũng cố niềm tin đối với các tổ chức, cá nhân, các nhà đầu tư trong
và ngoài nước. Thực tế cho thấy, việc điều hành linh hoạt các công cụ các công cụ quản lí đã
phát huy tác dụng nhiều mặt, vừa kiểm soát khối lượng tiền tệ lưu thông, vừa điều tiết lãi
suất và tỉ giá trên thị trường. Kinh tế vĩ mô đã có những dấu hiệu tích cực, thể hiện qua :
Lạm phát có xu hướng giảm dần, ngoại trừ tháng 5 tăng 3,91% chủ yếu là do sốc giá
gạo vào tháng 4/2008. Cụ thể CPI các tháng như sau:.
Trang 15 /22
Hình 2: Diễn biến chỉ số CPI trong năm 2008
Nguồn: tổng cục thống kê.

Lãi suất có xu hướng giảm : Sau những động thái của mức lãi suất chủ đạo của
NHNN, hiện nay lãi suất huy động và cho vay của các TCTD đã giảm, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp tiếp cận vốn vay của ngân hàng một cách dễ dàng, lãi suất cho vay của NHTM
nhà nước là 12-14%/năm, của NHTM cổ phần phổ biến ở mức 14-16%/năm. Các TCTD
hoạt động an toàn, khả năng thanh toán được đảm bảo. Các TCTD Việt Nam vẫn chưa chịu
tác động lớn từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, hiện nay vẫn đang hoạt động bình
thường và ổn định.
Luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam tiếp tục tăng mạnh: Vốn FDI
tiếp tục gia tăng. Cả năm đạt 60,3 tỉ USD gấn 5 lần so với cùng kì năm 2007, vốn thực hiện
đạt 9,1 tỉ USD cho thấy rằng các nhà đầu tư nước ngoài vẫn tin tưởng vào sự ổn định kinh tế
vĩ mô của Việt Nam trung và dài hạn.
2.2.2. Về mặt tiêu cực
Trước những dấu hiệu gia tăng lạm phát, xuất hiện từ cuối năm 2007 ngay từ đầu năm
2008, NHNN đã theo đuổi CSTT thắt chặt. Những động thái đầu tiên được thực thi trong quí
Trang 16 /22
1/2009: qui định tỉ lệ nợ vay, chiết khấu các giấy tờ có giá để đầu tư và kinh doanh chứng
khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ của các TCTD, tăng lãi suất cơ bản lên mức
8,75%/năm và phát hành 20300 tỉ đồng tín phiếu bắt buộc. Những liệu pháp này đã gây cú
sốc cho nền kinh tế
Sự lỗi nhịp thường xuyên của lãi suất cơ bản so với lạm phát. Với mục tiêu kiềm chế
lạm phát dưới mức tăng trưởng kinh tế, lãi suất cơ bản ban đầu được neo ở mức 8,25%/năm,
từ tháng 2 bắt đầu tăng “nhỏ giọt” lên 8,75%/năm và duy trì hết tháng 5 mới có bước tăng
vọt lên 12%/năm thì lạm phát đại nhảy vọt lên 15,96% và dù lạm phát trong 6 tháng đã hạ
nhiệt rất mạnh so với tháng 5 (2,14% so với kỉ luc 3,91%) nhưng lãi suất cơ bản lại được đẩy
lên thêm 2% nữa kể từ ngày 11/6. Trong khi kỉ lục lãi suất cơ bản này được duy trì suốt quí
2, thì lạm phát chỉ còn là 2,98% trong tháng 10, khi lạm phát âm xuất hiện, lãi suất cơ bản
cũng chỉ giảm nhỏ giọt xuống 13%/năm và ngày 5/11 tiếp tục giảm xuống 12%/năm
Tóm lại, năm 2008 là một năm đầy sóng gió nhưng với sự điều tiết của NHNN đã
góp phần quan trọng trong kiềm chế lạm phát, hạn chế nhập siêu, duy trì tăng trưởng kinh tế,
thị trường tiền tệ giữ được bình ổn lãi suất. Nhưng bên cạnh đó, NHNN vẫn còn có những

thời điểm thiếu nhịp nhàng, thực thi trong giải pháp điều hành tiền tệ. Thị trường trong
những tháng đầu năm còn có những biến động nhất định.
2.3. Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ thông qua chính sách chiết khấu tại Việt
Nam 2011.
2.3.1. Diễn biến kinh tế.
Năm 2011, kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng được dự báo là
còn rất nhiều khó khăn, thách thức phải đương đầu. Kiềm chế lạm phát là mục tiêu hàng đầu
mà Chính phủ đưa ra mà chính sách tiền tệ là một trong những công cụ quan trọng để điều
tiết. Để bảo đảm cho lãi suất thực dương thì phải tăng lãi suất. Song với tốc độ lạm phát 5
tháng đầu năm 2011 đã lên tới 12% so với tháng 12/2010, mức lãi suất sẽ phải tăng đến bao
giờ mới “vượt được lạm phát”.
2.3.2. Điều hành chính sách tiền tệ thông qua chính sách chiết khấu.
Trang 17 /22
Trước tác động của nền kinh tế thế giới cũng như biến động kinh tế trong nước, lạm phát 5
tháng đầu năm 2011 tăng cao 12% buộc ngân hàng nhà nước phải tăng lãi suất tái chiết khấu
tái cấp vốn và lãi suất qua đêm lên 12% vào ngày 8/3/2011. Mức lãi suất tái chiết khấu chỉ
còn kém 1% so với mức đỉnh 13% của thời kỳ siêu phát 2009. Nhìn chung lãi suất chiết
khấu, tái cấp vốn năm 2011 tăng mạnh và cao hơn 2010. Cùng với chính sách nâng lãi suất,
chỉ trong vòng tháng 2 và tháng 3 NHNN đã hút về gần 80 nghìn tỷ đồng trên thị trường mở.
Như vậy việc tăng lãi suất đã giúp hạ nhiệt lạm phát.
Bảng 1: Điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn trong năm 2011.
15% 2210/QĐNHNN 06/10/2011 10-10-2011
14% 929/QĐ-NHNN 29/4/2011 01-05-2011
13% 692/QĐ-NHNN 31/3/2011 01-04-2011
12% 379/QĐ-NHNN 8/3/2011 08-03-2011
11% 271/QĐNHNN 17/02/2011 17-02-2011
Bảng 2: Điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu năm 2011.
13% 929/QĐ-NHNN 29/4/2011 01-05-2011
12% 379/QĐ-NHNN 8/3/2011 08-03-2011
Trang 18 /22

Hình 3: Lãi suất cơ bản, lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn năm 2010-2011.
Nguồn:website NHNN.
2.4. Kết quả và hạn chế của điều hành chính sách chiết khấu năm 2011.
2.4.1. Kết quả đạt được
Năm 2011, trước tình hình lạm phát tăng cao lên ngưỡng 18,13% cùng với tăng trưởng
nóng của nền kinh tế, NHNN đã điều chỉnh tăng các mức lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp
vốn lần lượt lên các mức 13%/năm, 14%/năm. Nhờ việc gia tăng lãi suất cộng với việc kết hợp
linh hoạt các công cụ khác của chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, lạm phát đã được kiểm
soát: năm 2012 chỉ còn 6.81%, năm 2013 giảm xuống còn 6.04%.
Trong tình hình lạm phát đã được kiểm soát vào năm 2012-2013, NHNN trở lại giảm
dần lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn nhằm tăng lượng tiền lưu thông với mục tiêu
thúc đẩy phát triển kinh tế. Việc này cũng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, điều kiện thị
trường tiền tệ để giảm mặt bằng lãi suất cho vay, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và nền
kinh tế.
2.4.2. Những mặt hạn chế
Thứ nhất : năm 2011, các NHTM phải đối mặt lớn với rủi ro thanh khoản trong khi lãi
suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn lại cao, hạn mức tín dụng lại thấp, NHNN không còn là
Trang 19 /22
chỗ dựa về vốn; do đó, biện pháp đơn giản các NHTM áp dụng là tăng lãi suất huy động để bù
đắp thiếu hụt về nguồn vốn. Các cuộc đua lãi suất lại bắt đầu dưới các hình thức: Khuyến mãi,
tặng thưởng, huy động lãi suất linh hoạt… mức lãi suất thực huy động sau khi cộng các % tiếp
thị, khuyến mại lên tới 18,5-19,5%/năm dù đã có cam kết giữa các ngân hàng về trần lãi suất
huy động là 14%/năm.
Thứ 2: Giai đoạn từ tháng 1/2011-3/2012, các lãi suất tái cấp vốn giao động từ 7-
15%/năm, có những thời điểm lãi suất trên thị trường liên ngân hàng 25-30%/năm, NHTM
cho doanh nghiệp vay vốn với lãi suất thỏa thuận 22-25% năm. Chênh lệch 2 loại lãi suất
quá lớn sẽ tạo ra cơ hội phát triển các hoạt động kinh doanh chênh lệch lãi suất trên thị
trường tiền tệ dưới nhiều hình thức đầu tư tiền gửi khác nhau, làm bất ổn thêm thị trường
tiền tệ.
Với mức chênh lệch cao giữa lãi suất cho vay thỏa thuận của các TCTD với khách

hàng và lãi suất cho vay thỏa thuận giữa các TCTD với nhau so với lãi suất tái cấp vốn như
trên, sẽ tạo ra những cơ hội cho một số TCTD tìm mọi cách để vay tái chiết khấu có lợi hơn
huy động vốn từ nền kinh tế, hoặc để cho vay lại trên thị trường với lãi suất cao để hưởng
chênh lệch lãi suất.
Tuy nhiên, thời gian sau đó, mối quan hệ giữa các loại lãi suất được NHNN điều
chỉnh hợp lý hơn thời kỳ trước đó, theo nguyên tắc: Lãi suất tái chiết khấu< lãi suất huy
động vốn dưới 12 tháng < lãi suất tái cấp vốn; “sàn” là lãi suất tái chiết khấu; “Trần” là lãi
suất tái cấp vốn; Biên độ 1-2%, lãi suất huy động vốn của TCTD biến động trong biên độ
nói trên. Sự đổi mới cơ chế lãi suất lãi suất nói trên đã khuyến khích các TCTD huy động
vốn từ nền kinh tế, hạn chế vay vốn từ NHNN, không còn cơ hội cho các TCTD lợi dụng
vay tái cấp vốn của NHNN để cho vay lại trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao để
hưởng chênh lệch lãi suất lớn.
Thứ 3: Trong điều kiện lạm phát đang bùng phát cao từ 1/2011- 2/2012, việc lựa chọn
sử dụng công cụ tái cấp vốn tuy giải quyết được khó khăn thanh khoản cho một số TCTD,
Trang 20 /22
nhưng làm tăng thêm tiền cung ứng trong lưu thông, gây áp lực thêm cho mục tiêu kiểm soát
lạm phát.
Thứ 4: Thời gian qua, do nguồn vốn cho vay hạn hẹp, NHNN chỉ được cho vay tái cấp
vốn trong một giới hạn nhất định, nằm trong hạn mức tăng tổng phương tiện thanh toán M2
đã được Chính phủ duyệt hàng năm; nhiều TCTD cần vay nhưng không điều kiện được vay
tái cấp vốn; một số TCTD đủ điều kiện vay vốn nhưng không có nhu cầu vay. Do đó, doanh
số cho vay và dư nợ tái cấp vốn đối với các TCTD không lớn; mức độ tác động tới lãi suất
và cung cầu vốn trên thị trường còn hạn chế.
Trang 21 /22
CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ.
Thời gian qua chính sách chiết khấu của NHNN luôn bị động trước nền kinh tế. Khi
kinh tế lạm phát, tăng trưởng nóng thì NHNN mới có các biện pháp tăng lãi suất, khi kinh tế
có dấu hiệu tăng trưởng chậm thì mới bắt đầu nới lỏng tiền tệ, giảm lãi suất. Do đó, các
chính sách đưa ra chưa kịp thời, hiệu quả chậm, không theo định hướng mục tiêu.
Khắc phục nhược điểm này, NHNN cần chủ động hơn trong việc điều hành chính sách

tiền tệ, phải thiết lập một mức lãi suất cơ bản định hướng được thị trường, tăng cường công
tác dự báo kinh tế.
NHNN cũng nên quản lý sát sao hơn hệ thống các NHTM, hỗ trợ hệ thống thanh khoản
để tránh tình trạng đồng loạt các ngân hàng mất thanh khoản, NHNN sẽ không đủ khả năng
giải quyết thanh khoản cho tất cả các TCTD, hoặc nếu giải quyết được thì làm cho lượng
tiền lưu thông quá lớn gây ảnh hưởng xấu cho nền kinh tế.
Trang 22 /22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo điện tử VNeconomy
2. Lê Vinh Danh, Tiền tệ ngân hàng, thị trường tài chính, Nhà xuất bản tài chính.
3. Nguyễn Văn Tiến (2009), Tài chính - tiền tệ Ngân hàng, Nhà xuất bản thống kê
4. Lê Văn Tư (2005), Chính sách tiền tệ và điều tiết vĩ mô của Ngân hàng Trung ương,
Nhà xuất bản tài chính
5. Website Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: www.sbv.gov.vn
.

×