Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

dự trữ bắt buộc và điều hành chính sách tiền tệ tại việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.98 KB, 24 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ- LUẬT
_  _
ĐỀ TÀI: DỰ TRỮ BẮT BUỘC VÀ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TẠI
VIỆT NAM HIỆN NAY.
Nhóm SV thực hiện: K12401_nhóm 10
Trần Thị Huệ K124010036
Nguyễn Trọng Hữu K124010043
Lâm Thị Kim Liên K124010047
Trần Thị Hằng Mơ K124010054
Trương Thị Thu Phượng K124010071

TP. Hồ Chí Minh, ngày 1 tháng 10 năm 2014
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DTBB : Dự trữ bắt buộc
NHTW: Ngân hàng trung ương
TCTD: Tổ chức tín dụng
WTO: Tổ chức kinh tế thế giới
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHNN: Ngân hàng nhà nước
BĐS: Bất động sản
TTCK: Thị trường chứng khoán
NHNN: Ngân hàng nhà nước
CSTT: Chính sách tiền tệ
NHNN&PTNT: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần
MỤC LỤC.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong nền kinh tế thị trường, tiền trở thành phương tiện đảm bảo cho các hoạt động trong
nền kinh tế diễn ra một cách bình thường. Hoạt động của tiền trong nền kinh tế luôn gắn liền


với các hiện tượng kinh tế như lạm phát, thâm hụt ngân sách…Do đó CSTT luôn là một
trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng trong quá trình điều hành các hoạt động
kinh tế. Để các CSTT được thực hiện một các triệt để và hiệu quả, không thể bỏ qua vai trò
đặc biệt của NHNN trong chiến lược phát triển kinh tế xã hộị. NHNN được xem là quả tim
của nền kinh tế, nếu NHNN thực hiện tốt chức năng điều tiết tiền tệ thì nền kinh tế sẽ phát
triển ổn định, ngược lại nếu NHNN có bất kỳ trục trặc nào cũng sẽ đưa nền kinh tế vào tình
trạng khủng hoảng và suy sụp. Vậy NHNN cần phải sử dụng công cụ gì thực hiện tốt chức
năng điều tiết tiền tệ? Trong từng thời kỳ, tùy thuộc vào điều kiện thực tiễn của nền kinh tế
mà NHNN có lựa chọn, kết hợp các công cụ của CSTT cho phù hợp nhằm hướng tới mục
tiêu cuối cùng là ổn định giá trị tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô.
Ở Việt Nam, trong bối cảnh nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước, để CSTT phát huy hiệu quả và vai trò của nó, NHTW đã kết hợp sử dụng linh
hoạt và đồng bộ các công cụ của CSTT như DTBB, lãi suất, tỷ giá. Trong bài tiểu luận
“DTBB và điều hành chính sách tiền tệ tại Việt Nam hiện nay”, nhóm xin được tập trung
vào tìm hiểu về công cụ DTBB và việc sử dụng công cụ DTBB thực hiện CSTT của NHNN
Việt Nam. Bài viết sẽ cung cấp cho các bạn một số thông tin hữu ích về DTBB, phân tích
các hoạt động có liên quan đến DTBB của NHNN Việt Nam trong từng giai đoạn, từ đó đưa
ra một số giải pháp và kiến nghị hi vọng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ
DTBB.
2. Mục đích nghiên cứu:
Để có thể thực hiện mục tiêu ổn định và tăng trưởng thông qua việc cung ứng tiền và điều
tiết khối lượng tiền, trong lưu thông. Ngân hàng trung ương (NHTW) các nước có thể sử
dụng các công cụ khác nhau như: Lãi suất, chính sách triết khấu….Trong đó dự trữ bắt buộc
4
là công cụ nhận được khá nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu các nhà hoạch định
chính sách. Như một yếu tố tất yếu, dự trữ bắt buộc ra đời. Dự trữ bắt buộc là một phần số
dư tiền gửi các loại mà ngân hàng thường mại (NHTM) phải dự trữ dưới dạng tiền mặt hoặc
tiền gửi tại NHTW. Trong hoạt động kinh doanh của mình, các NHTM sử dụng các khoản
tiền gửi của khách hàng để cho vay hoặc đầu tư khá linh hoạt. Với mục đích là có được cái
nhìn tổng quát về công cụ dự trữ bắt buộc không chỉ ở trong nước mà còn ở các quốc gia

khác nhau. Nhóm sẽ đi sâu phân tích thực trạng về việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc qua
các thời kỳ cũng như là việc điều hành chính sách tài chính để thấy rõ hơn về cách thức cũng
như phương pháp mà NHTW áp dụng đối với từng thời kỳ cụ thể.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Thực trạng điều hành CSTT thông qua công cụ DTBB tại Việt Nam trong thời gian qua, giai
đoạn 1990 đầu 2014.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phân tích định tính, phương pháp logic, tổng hợp số liệu thứ cấp từ các tài liệu sách báo và
các trang mạng đáng tin cậy, sau đó phân tích đưa ra kết luận chung cho vấn đề.
5
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỰ TRỮ BẮT BUỘC
1.1 Khái niệm:
Dự trữ bắt buộc, hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một quy định của ngân hàng trung ương về tỷ
lệ giữa tiền mặt và tiền gửi mà các ngân hàng thương mại bắt buộc phải tuân thủ để đảm
bảo tính thanh khoản.
Ngoài ra, theo quyết định số 581/QĐ - NHNN ngày 9/9/2003 của Thống đốc NHNN:
“DTBB là số tiền mà các TCTD hoạt động tại Việt Nam phải duy trì trên tài khoản tiền gửi
thanh toán tại Ngân hàng Nhà nước”.
Trước đây, DTBB nhằm đảm bảo khả năng thanh toán cho TCTD trước nhu cầu rút tiền mặt
của khách hàng và do đó hạn chế rủi ro thanh khoản cho cả hệ thống. Tuy nhiên, theo thời
gian ý nghĩa này giảm dần vì cho dù TCTD có duy trì một mức DTBB lớn bao nhiêu thì khi
rủi ro thanh khoản xảy ra, mức dự trữ này cũng không thể giúp TCTD chống đỡ được nguy
cơ phá sản. Mặt khác, TCTD cũng không thể duy trì một mức DTBB quá lớn vì đặc điểm
của DTBB là không sinh lời, DTBB càng cao thì lợi nhuận của TCTD càng giảm, điều này
đi ngược lại mục tiêu hoạt động vì lợi nhuận của TCTD. Bên cạnh đó, sự phát triển của công
nghệ ngân hàng luôn cho phép Các TCTD có thể sử dụng đa dạng các hình thức bảo hiểm
rủi ro mà không cần phụ thuộc quá nhiều vào dự trữ tiền mặt. Chính vì vậy hiện nay các
nước thường duy trì một tỷ lệ DTBB thấp.
1.2 Một số vấn đề cơ bản về DTBB:
1.2.1 Phương pháp tính:

1.2.1.1 Căn cứ xác định DTBB:
• Quy chế DTBB đối với Các TCTD ban hành theo quyết định số 581/QĐ - NHNN
ngày 9/9/2003 của Thống đốc NHNN
1
• QĐ số 1130/2005/QĐ - NHNN của Thống đốc NHNN ngày 1/8/2005 về việc sửa
đổi, bổ sung một số điều của quy chế DTBB.
2
1 Luật dự trữ bắt buộc
2 Luật dự trữ bắt buộc
6
Ngày nay, khi sử dụng công cụ DTBB mang nghĩa NHTW đang muốn điều chỉnh hệ số
nhân tiền, mặc dù vậy nhưng mục tiêu đảm bảo khả năng thanh khoản cho ngân hàng của
DTBB vẫn không bị mất đi ý nghĩa của nó, không những thế, nó còn là cơ sở để xác định tỷ
lệ DTBB.
Những căn cứ cụ thể sau thường được sử dụng để đưa ra yêu cầu về tỷ lệ DTBB:
- Tính chất kỳ hạn của mỗi loại tiền gửi - tùy vào tính chất kỳ hạn của tiền
gửi mà nghĩa vụ DTBB khác nhau; thông thường kỳ hạn càng dài thì mức
độ ổn định càng cao và độ rủi ro thanh khoản càng thấp và vì thế, tỷ lệ DTBB đối với loại
tiền gửi này thường thấp hơn so với loại tiền gửi có kỳ hạn ngắn hơn
 Mức độ của các khoản nợ - quy mô của các nguồn tiền gửi. Thông thường
quy mô của các nguồn tiền gửi càng cao thì khả năng rủi ro càng cao và vì thế, tỷ lệ
DTBB sẽ tỷ lệ thuận với quy mô nguồn tiền gửi. Về điều này, ta có thể tham khảo
yêu cầu tỷ lệ DTBB của FED.
 Loại tiền gửi khác nhau cũng chứa đựng khả năng an toàn thanh khoản khác nhau
nên NHTW có thể quy định tỷ lệ khác nhau cho tiền gửi của các đồng tiền khác
nhau .
1.2.1.2 Nguyên tắc tính DTBB:
Các TCTD phải duy trì đầy đủ DTBB tại NHNNtrong kỳ duy trì DTBB theo nguyên tắc
sau:
· Số dư bình quân tài khoản tiền gửi thanh toán của TCTD tại NHNNkhông thấp hơn

tiền DTBB trong kỳ.
· Số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của TCTD tại NHNNhàng ngày trong kỳ duy trì
DTBB có thể thấp hơn hoặc cao hơn tiền DTBB của kỳ đó.
1.2.1.3 Cách xác định dự trữ bắt buộc:
Mức DTBB = tỷ lệ DTBB x số dư bình quân tài khoản thuộc đối tượng DTBB kỳ xác định.
Số dư bình quân tài khoản thuộc đối tượng DTBB kỳ xác định
= .
Số dự trữ bình quân ngày của kỳ duy trì
= .
7
1.2.2 Phương pháp quản lý dự trữ bắt buộc.
Căn cứ vào mức độ chênh lệch về thời gian giữa kỳ xác định và kỳ duy trì co cac phuong
phap sau:
1.2.2.1 Phương pháp nối tiếp:
Là phương pháp mà kỳ xác định và kỳ duy trì nối tiếp nhau.
Đặc điểm: Đối tượng phải DTBB chủ động hoàn toàn trong việc sử dụng dự trữ vì vào đầu
kỳ họ đã biết được mức DTBB phải thực hiện trong kỳ, số dư tiền gửi để tính DTBB biến
động không ngừng, lãi xuất ngắn hạn có thể biến động lớn, gây bất ổn định cho thị trường
tiền tệ. Điều này cho thấy công cụ DTBB không thể kiểm soát được khả năng cho vay của
các đối tượng phải dự trữ.
1.2.2.2 Phương pháp trùng một phần:
Là phương pháp mà kỳ xác định và kỳ duy trì trùng nhau một phần. Phương pháp này
phần lớn được các nước sử dụng
Các đặc điểm: Đối tượng phải thực hiện DTBB, luôn phải quan tâm đến DTBB và không
sử dụng quá mức dự trữ có được, số dư tiền gửi để tính DTBB ít biến động, lãi suất thị
trường ít biến động. Điều này cho thấy công cụ DTBB phát huy hiệu quả cao hơn so với
phương pháp nối tiếp trong việc thực thi CSTT.
1.2.2.3 Phương pháp trùng hoàn toàn:
Về mặt lý thuyết phương pháp trùng hoàn toàn quy định kỳ duy trì đồng thời cũng là kỳ
xác định, còn trên thực tế không có sự trùng khớp hoàn toàn mà luôn có một độ trễ nhất định

(có thể từ 2 đến 3 ngày).Đối tượng chịu sự quản lý về DTBB phải chủ động duy trì dự trữ ở
mức cụ thể mà không thể sử dụng dự trữ vì mục tiêu lợi nhuận một cách tùy ý. Điều này cho
thấy công cụ DTBB phát huy được hiệu quả nhất.
1.3 Vai trò và tác động của dự trữ bắt buộc:
1.3.1 DTBB với tiềm năng tín dụng của các ngân hàng:
Khi tỷ lệ DTBB thay đổi, nó trực tiếp tác động đến nguồn vốn khả dụng của mỗi ngân hàng.
Với tổng số nguồn tiền gửi huy động được, tỷ lệ DTBB càng thấp thì phần chênh lệch còn
lại - vốn khả dụng của bản thân ngân hàng này càng cao, khả năng cho vay ra của ngân hàng
8
càng lớn và ngược lại. Bên cạnh đó, mỗi động tác cấp tín dụng cho một đối tượng nào đó
thông qua chuyển khoản của ngân hàng , hoạt động này mở ra một nguồn vốn mới cho một
ngân hàng kế tiếp, sự tiếp tục của quá trình này chính là quá trình tạo tiền của hệ thống ngân
hàng làm cho tổng nguồn có thể cho vay của toàn hệ thống được nhân lên nhiều lần so với
số tiền gửi ban đầu, mức độ được nhân lên chính là hệ số nhân tiền. Qua đó cho thấy, tỷ lệ
DTBB có quan hệ chặt chẽ với nguồn vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, vốn
khả dụng chỉ thể hiện được tiềm năng tín dụng, còn thực sự nó có làm cho khối lượng tín
dụng tăng lên hay không lại phụ thuộc vào thái độ sẵn sàng cấp tín dụng của các ngân hàng
và nhu cầu tín dụng của nền kinh tế.
1.3.2 DTBB và lãi suất:
• Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi nếu:
NHTW tăng tỷ lệ DTBB thì vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng giảm. Khả năng cho
vay đối với nền kinh tế của các tổ chức tín dụng giảm dẫn đến cung vốn giảm. Khả năng tạo
tiền của hệ thống ngân hàng giảm dẫn đến MS giảm.
NHTW giảm tỷ lệ DTBB thì vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng tăng làm cho cung vốn
tăng, MS tăng tác động này làm cho lãi suất thị trường giảm.
• Ngoài ra, DTBB có thể tác động đến lãi suất bằng hai cách:
 Thứ nhất, do DTBB có thể thu mở rộng hay thu hẹp tiềm năng tín dụng cho nên lãi
suất thị trường cũng vì thế mà có thể giảm xuống hoặc tăng lên.
 Thứ hai, hiệu ứng của tác động trên càng tăng lên khi phần DTBB của các ngân hàng
ở NHTW không được tính lãi hoặc mức lãi không đáng kể. Khi DTBB tăng lên thì lãi

thu được từ hoạt động cho vay giảm xuống làm giảm lợi nhuận của các NHTM. Điều
này được các ngân hàng khắc phục bằng cách điều chỉnh tăng lãi suất cho vay trên thị
trường tín dụng.
1.3.3 DTBB và khối lượng tiền cung ứng
Trong điều kiện các yếu tố không đổi nếu:
NHTW giảm các yêu cầu về DTBB (giảm tỷ lệ DTBB) dẫn đến vốn khả dụng của các
TCTD tăng làm cho hệ số nhân tiền tệ tăng, cơ sở tiền tệ không thay đổi làm cho lượng tiền
cung ứng tăng.
9
NHTW tăng yêu cầu về DTBB (tăng tỷ lệ DTBB) dẫn đến vốn khả dụng của các tổ chức
tín dụng giảm kéo theo hệ số nhân tiền tệ giảm, cơ số tiền tệ không thay đổi, lượng tiền cung
ứng m giảm.
Khối lượng tiền cung ứng thay đổi là kết quả tất yếu của việc thay đổi tiềm năng tín dụng,
thay đổi lãi suất trên thị trường, nó cũng là mục tiêu cuối cùng mà NHTW muốn đạt được
khi điều chỉnh DTBB. Tỷ lệ DTBB sẽ được nâng lên nếu NHTW thực hiện việc thắt chặt
tiền tệ, hướng đến mục tiêu kiểm soát lạm phát và ngược lại, để mở rộng tiền tệ nhằm
khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo thêm công ăn, việc làm cho người lao động thì
NHTW sẽ hạ tỷ lệ DTBB.
1.3.4. Tạo thu nhập cho NHTW
Vì tiền gửi DTBB là không được trả lãi hay trả lãi rất thấp cho các ngân hàng nên nó đã
tạo ra thu nhập cho NHTW. Nguồn thu từ DTBB của NHTW có thể được dùng để bù đắp
vào chi phí phát hành tiền hay hoạt động của NHTW. Nhìn chung khoản thu từ DTBB khá
nhỏ , chỉ có những quốc gia có tỷ lệ DTBB cao mới đem lại thu nhập lớn cho NHTW và mới
bù đắp được chi phí của ngân hàng.
Có thể nói sự tác động của DTBB đối với khối lượng tiền trong nền kinh tế là khá toàn
diện, nó tác động không chỉ đén quy mô, khối lượng tín dụng mà cả đói với lãi suất tín dụng.
Mức độ tác dụng không chỉ tăng hay giảm mà là thay đổi theo số lần về tiền trong lưu thông
qua công thức số nhân tiền.
1.3.5. Bình ổn lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng.
Để đáp ứng các yêu cầu của công tác quản lý, các ngân hàng sẽ lập một mức dự trữ phù hợp

dưới hình thức dự phòng trung bình. Mức dự trữ này sẽ được quyết định trên cơ sở mức dự
trữ trung bình hàng ngày của một ngân hàng. Mức dự phòng cho phép các ngân hàng có thể
điều hoà được những biến động về vốn khả dụng. Sự thiếu cân bằng tức thời về nhu cầu tiền
mặt trong chi trả có thể được bù đắp bằng một phần trong lượng dự phòng ngay trong kỳ
duy trì, giảm áp lực đối với lãi suất trên thị trường. Dự trữ cho thanh toán nhiều khi có thể bị
10
thiếu hụt và lượng dự phòng trung bình sẽ bù đắp cho những thiếu hụt này. Đó chính là cơ
chế bình ổn lãi suất qua đêm trên thị trường tiền tệ .
1.3.6. Kiểm soát tăng tưởng tiền tệ.
Trong điều kiện các công cụ gián tiếp và trực tiếp khác không phát huy được hiểu quả thì
chức năng này phát huy được tác dụng của nó. Nó cho phép NHTW có thể kiểm soát được
khối lượng tiền gửi có thể phát hành séc mà các ngân hàng có thể tạo ra theo mong muốn.
1.4. Ưu và nhược điểm của công cụ DTBB:
1.4.1 Ưu điểm:
• DTBB tôn trọng sự cạnh tranh bình đẳng giữa các ngân hàng vì nó được áp dụng
với tất cả các ngân hàng với cùng một tỷ lệ như nhau.
• NHTW chủ động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng thông qua việc thay đổi tỷ
lệ DTBB
• DTBB là công cụ đầy quyền lực của NHTW tác động nhanh và mạnh đến lượng
tiền cung ứng. Bởi lẽ chỉ cần một sự thay đổi nhỏ về tỷ lệ DTBB thì mức dự trữ dư
thừa và lãi suất cho vay đối với nền kinh tế sẽ thay đổi và dẫn đến sự thay đổi theo
cấp số nhân của khối lượng tiền cung ứng.
• Ngoài ra DTBB còn được sử dụng để thiết lập mối quan hệ giữa việc tạo tiền của hệ
thống ngân hàng với nhu cầu tái cấp vốn tại NHTW vì bằng việc tăng tỷ lệ DTBB
lên cao buộc các ngân hàng phải tìm nguồn vốn từ NHTW
1.4.2. Nhược điểm:
• Do DTBB là công cụ có quyền lực mạnh nên nó thiếu tính linh hoạt. Chỉ cần một sự
thay đổi dù lớn hay nhỏ về tỷ lệ DTBB cũng đều gây ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống
ngân hàng.
• Có thể khiến cho một số ngân hàng có mức dự trữ quá thấp rơi vào tình trạng mất “

khả năng thanh toán ngay”. Đồng thời việc thay đổi thường xuyên tỷ lệ DTBB khiến
cho các ngân hàng rơi vào tình trạng bất ổn trong việc quản lí thanh khoản và làm
phát sinh tăng chi phí.
• NHTW sẽ khó thực hiện những thay đổi nhỏ trong việc cung ứng tiền tệ vì như đã nói
trên DTBB có tác động nhanh và mạnh đến khói lượng cung tiền.
11
• Đối với NHTM tỷ lệ dự trữ là một khoản không đem lại lợi nhuận cho họ vì phải mất
một khoản tiền không được sử dụng để kiếm lời trong khi vẫn phải trả một lãi suất
huy động vốn
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ THÔNG QUA
CÔNG CỤ DTBB CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA.
2.1 Giai đoạn từ khi có pháp lệnh ngân hàng đến trước khi luật ngân hàng có hiệu lực
tháng 5/1990 đến 10/1998.
• Ở nước ta, công cuộc đổi mới hệ thống ngân hàng bắt đầu từ những năm 1990
đến1998. Trong điều kiện thị trường tiền tệ nói riêng và thị trường tài chính nói
chung chưa phát triển, ngân hàng chưa thể sử dụng các công cụ của CSTT theo
đúng bài bản như ở các nước đã có thị trường phát triển. Xuất phát từ tình hình cụ
thể của nền kinh tế và hoạt động ngân hàng, NHNN đã sử dụng một cách có hiệu
quả các công cụ điều tiết sẵn có như lãi suất, tỷ giá. Đồng thời thiết lập và bước đầu
sử dụng các công cụ điều tiết gián tiếp theo quy định của pháp lệnh ngân hàng như
DTBB, tái cấp vốn.
• Ngay từ thời kỳ thực hiện nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1998 của hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ) về tổ chức bộ máy của NHNN, đánh dấu sự khởi đầu sự
chuyển đổi của hệ thống ngân hàng từ mô hình một cấp sang hai cấp, công cụ
DTBB đã được hình thành.
• Tại quyết định số 16/NH-QĐ ngày 26/4/1998 của Tổng giám đốc NHNN Việt Nam
(nay là thống đốc NHNN Việt Nam) quy định về trình tự lập và giao kế hoạch tín
dụng trong hệ thống NHNN Việt Nam khi quy định rằng: “Nhằm đảm bảo khả năng
chi trả cho khách hàng, các ngân hàng chuyên danh (NHCD) ký gửi một phần
nguồn vốn huy động vào NHNN. Mức ký gửi vốn tối đa là 20% tổng số nguồn vốn

huy động thực tế cuối quý trước”.
Sau khi có hai pháp lệnh về ngân hàng:
Pháp lệnh ngân hàng đã chính thức quy định về việc NHNN áp dụng DTBB đối với các tổ
chức tín dụng (TCTD):
12
Điều 44.3 Pháp lệnh NHNN quy định: NHNN có quyền bắt buộc các TCTD duy trì tỷ lệ
dữ trữ tối thiểu bắt buộc; điều 45 pháp lệnh NHNN giao NHNN quy định tỷ lệ DTBB ít nhất
ở mức 10% và nhiều nhất ở mức 35% trên toàn bộ tiền gửi ở TCTD. Ngoài ra pháp lệnh còn
quy định thêm. Trong trường hợp cần thiết, Hội đồng quản trị NHNN có thể quyết định tăng
tỷ lệ DTBB tới trên mức 35% và trả lãi cho mức tăng đó. Tháng 6/1992 NHNN xây dựng và
ban hành quy chế DTBB thay thế quyết định số 16NH/QĐ.
Cơ chế DTBB nói trên được vận hành đã có tác động rõ rệt trong điều hành CSTT, giúp
NHNN theo dõi được tình hình khả năng thanh toán và khống chế khả năng tạo tiền của các
TCTD. Tuy nhiên đến đầu năm 1994 nó đã bộc nộ một số điểm không còn phù hợp với
CSTT mở rộng cung ứng tín dụng cho nền kinh tế với lãi suất cho vay hợp lý trong điều kiện
lạm phát đã được kiềm chế ở mức trên dưới 10%, vì thế cần thiết phải có sự thay đổi một số
điểm của cơ chế DTBB. Luật Ngân hàng Nhà nước bổ sung và sửa đổi năm 2003 quy định
tại điều 20 như sau : Ngân hàng Nhà nước quy định tỷ lệ DTBB đối với từng loại hình tổ
chức tín dụng và từng loại tiền gửi với mức từ 0% đến 20% tổng số dư tiền gửi tại mỗi tổ
chức tín dụng trong từng thời kỳ .
2.2) Giai đoạn từ năm 2007  đầu năm 2014.
2.2.1) Giai đoạn từ đầu năm 2007 (Việt Nam gia nhập WTO).
Năm 2007:Một năm đầy khó khăn trong điều hành CSTT và trong hoạt động của các
NHTM. Tình hình lạm phát gia tăng (CPI năm 2007 tăng lên mức kỷ lục là 12,63% so vơi
tháng 12/2006), luồng vốn ngoại tệ vào quá nhiều trong khi khả năng hấp thụ vốn ngoại tệ
còn hạn chế, đã gây ra các hiệu ứng kinh tế (VND lên giá, bùng nổ tín dụng, lạm phát gia
tăng, sức ép đòi hỏi bơm nội tệ để mua ngoại tê,…), TTCK trong nước ảm đạm.
Các diễn biến kinh tế trong nước cũng như ngoài nước đang đặt ra rất nhiều thách thức cho
Chính phủ trong việc đưa ra chính sách ứng phó phù hợp. Nhưng đây cũng là năm ấn tượng
trong kết quả chung của thị trường.

Năm 2007 là năm của của sự tăng DTBB, biểu hiện vào cuối năm 2007 trước sức ép của
lạm phát (lạm phát liên tục ở mức cao, và nhảy vọt đến trên 12% vào cuối 2007) và lo ngại
rủi ro quá lớn từ các khoản cho vay BDS, NHTW dường như đã bớt phải chịu sức ép tăng
13
trưởng.Ngày 1/6/2007, NHTW đã điều chỉnh tăng tỷ lệ DTBB lên gấp đôi đối với cả nội tệ
và ngoại tệ: từ 5% lên 10% đối với tiền gửi VND kỳ hạn dưới 12 tháng và từ 2% lên 4% đối
với kỳ hạn từ 12 tháng đến 24 tháng, tăng từ 8% lên 10% đối với tiền gửi ngoại tệ kỳ hạn
dưới 12 tháng và từ 2% lên 4% đối với kỳ hạn từ 12 tháng đến 24 tháng.
Bảng 2: Theo văn bản số 1141/QĐ-NHNN 28/5/2007.
Loại TCTD
Tiền gửi VND Tiền gửi ngoại tệ
Không kỳ
hạn và dưới
12 tháng
Từ 12
tháng trở
lên
Không kỳ
hạn và dưới
12 tháng
Từ 12
tháng trở
lên
Các NHTM Nhà nước (không bao
gồm NHNo & PTNT), NHTMCP
đô thị, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, ngân hàng liên doanh, công
ty tài chính, công ty cho thuê tài
chính
10% 4% 10% 4%

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn
8% 4% 10% 4%
NHTMCP nông thôn, ngân hàng
hợp tác, Quỹ tín dụng nhân dân
Trung ương
4% 4% 10% 4%
Việc tăng tỷ lệ DTBB một cách đột ngột, mức tăng dự trữ quá nhanh và mạnh khi
tăng trưởng tín dụng chưa quá nóng đã đẩy NHTM lâm vào khủng hoảng thiếu thanh khoản
chưa từng có, kéo theo tình trạng cạn kiệt tín dụng trong ngắn hạn.
2.3) Giai đoạn 2008-2011:
• Năm 2008, nền kinh tế nước ta được dự báo tiếp tục tăng trưởng ở mức cao, thu hút
vốn đầu tư nước ngoài thuận lợi, nhưng việc kiểm soát tốc độ tăng chỉ số giá tiêu
dùng thấp hơn tăng trưởng kinh tế gặp khó khăn, do giá cả hàng hóa diễn biến phức
tạp. Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài gia tăng, gây sức ép tăng giá VND và kéo theo
phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ tăng lên. Vì vậy, với chức năng của mình và
thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, NHNN điều hành các công cụ CSTT một cách chủ
14
động, theo nguyên tắc thị trường, nhằm ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN về việc điều
chỉnh tỉ lệ DTBB đối với các TCTD. Theo đó, tỷ lệ DTBB điều chỉnh tăng lên 1 %
đối với tất cả các kì hạn, áp dụng cho cả tiền gửi VNĐ và ngoại tệ với hầu hết các
TCTD. Cụ thể, đối với tiền VND không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng, tỷ lệ
DTBB được tăng từ 10% lên 11%, đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên, tỷ lệ
DTBB được tăng từ 4% lên 5%. Đối với tiền gửi bằng ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ
hạn dưới 12 tháng tăng từ 10% lên 11%, đối với tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng tỷ lệ
DTBB tăng từ 4% lên 5%. Những tháng cuối năm 2008, để ngăn chặn suy giảm kinh
tế, NHNN đã điều chỉnh giảm tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi VNĐ từ 11% xuống 6% và
tiền gửi ngoại tệ từ 11% xuống 7%.

• Năm 2009, khi nền kinh tế vượt qua cơn sốc lạm phát năm 2008 thì lại tiếp tục chịu
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu khiến đất
nước phải tập trung vào giải quyết cơn suy thoái này.
Ngày 1/3/2009, NHNN hạ 1% tỷ lệ DTBB bằng VND trong một vài trường hợp.
Theo đó, tỷ lệ DTBB với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn được điều chỉnh hạ từ
3,6% xuống các mức1% và 3%.
Việc thay đổi này được đưa ra là nhằm ổn định thị trường tiền tệ, lãi suất, tỷ giá và có
thêm cơ hội hỗ trợ vốn khả dụng cho các TCTD có điều kiện huy động và mở rộng
vốn một cách có hiệu quả hơn.
Bảng 3: Theo quyết định số 379/QĐ-NHNN ngày 24/2/2009
Loại TCTD
Tiền gửi VND Tiền gửi ngoại tệ
Không kỳ
hạn và dưới
12 tháng
Từ 12
tháng trở
lên
Không kỳ
hạn và dưới
12 tháng
Từ 12
tháng trở
lên
15
Các NHTM Nhà nước (không bao
gồm NHNN& PTNT), NHTMCP
đô thị, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, ngân hàng liên doanh, công
ty tài chính, công ty cho thuê tài

chính
3% 1% 7% 3%
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn
1% 1% 6% 2%
NHTMCP nông thôn, ngân hàng
hợp tác, Quỹ tín dụng nhân dân
Trung ương
1% 1% 6% 2%
Đánh giá: NHTW giảm mạnh tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng VNĐ so với năm 2008
nhằm ổn định thị trường tiền tệ, tỷ giá, lãi suất và nhằm hổ trợ cho các tổ chức tín dụng có
khả năng huy động vốn có hiệu quả đối với nền kinh tế. Năm 2010 kinh tế Việt Nam có
những thuận lợi sau:
Kinh tế thế giới dần phục hồi, hỗ trợ thương mại đầu tư tài chính.
Xuất khẩu sẽ phục hồi nhanh do cơ cấu ngành hàng và lợi thế về tỷ giá.
Thừa hưởng hệ thống cơ cấu hạ tầng đã được đầu tư mạnh năm 2009 từ chính sách kích
cầu. Từ giai đoạn 2009 đến tháng 10/2010, hế số nhân tiền tệ tăng mạnh là do tỷ lệ tiền
ngoài hệ thống vẫn trong xu hướng giảm thì tỷ lệ DTBB cũng giảm mạnh từ mức 8% xuống
3% và duy trì cho đến tháng 10/2010. NHNN
• Ngày 18/1/2010, NHNN giảm tỷ lệ dự trữ đối với tiền gửi bằng ngoại tệ có thời hạn
dưới 12 tháng là 4%, từ 12 tháng trở trên 2% tạo điều kiện cho các NHTM tăng
nguồn cung ngoại tệ cho thị trường. Bên cạnh đó, ngày 1/10/2010, tỷ lệ DTBB của
các TCTD được điều chỉnh nâng lên từ 8% lên 9% nhằm đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn
tối thiểu trong việc tiến tới tuân thủ các nguyên tắc Basel.
Bảng 4: Theo văn bản số 74/QĐ-NHNN. Áp dụng từ ngày 01/02/2010
Loại TCTD
Tiền gửi VND Tiền gửi ngoại tệ
Không kỳ
hạn và dưới
Từ 12 tháng

trở lên
Không kỳ
hạn và dưới
Từ 12
tháng trở
16
12 tháng 12 tháng lên
Các NHTM Nhà nước (không bao
gồm NHNo & PTNT), NHTMCP
đô thị, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, ngân hàng liên doanh, công
ty tài chính, công ty cho thuê tài
chính
3% 1% 8% 6%
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn 1% 1% 7% 5%
NHTMCP nông thôn, ngân hàng
hợp tác, Quỹ tín dụng nhân dân
Trung ương
1% 1% 7% 5%
Năm 2011, điều chỉnh tăng 3 lần liên tiếp đối với tiền gửi bằng ngoại tệ. NHNN khống chế
tăng trưởng tín dụng ngoại tệ ở mức dưới 20% trong năm 2011, việc tăng DTBB ngoại tệ là
phù hợp. Đồng thời, tăng DTBB cũng sẽ làm giảm áp lực tỷ giá, lạm phát.
Tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng VND áp dụng theo QĐ 379/QĐ-NHNN ngày 24/2/2009
(áp dụng từ kỳ dự trữ tháng 3/2009), tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng USD áp dụng theo
QĐ 1925/QĐ-NHNN ngày 26/8/2011(áp dụng từ kỳ dự trữ tháng 9/2011).
Bảng 5: Theo văn bản số 1925/QD-NHNN 26/8/2011. Áp dụng từ ngày 01/09/2011.
Loại TCTD
Tiền gửi VND Tiền gửi ngoại tệ
Không kỳ

hạn và dưới
12 tháng
Từ 12
tháng trở
lên
Không kỳ
hạn và dưới
12 tháng
Từ 12
tháng trở
lên
Các NHTM Nhà nước (không bao
gồm NHNN & PTNT), NHTMCP
đô thị, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, ngân hàng liên doanh, công
ty tài chính, công ty cho thuê tài
3% 1% 8% 6%
17
chính
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn 1% 1% 7% 5%
NHTMCP nông thôn, ngân hàng
hợp tác, Quỹ tín dụng nhân dân
Trung ương
1% 1% 7% 5%
2.4. Giai đoạn 2012 – đến nay:
2.4.1. Năm 2012
Năm 2012 giảm tỉ lệ DTBB cho 5 TCTD gồm:
Theo điểm b, khoản 1, điều 1, thông tư 20, các tổ chức tín dụng có dư nợ cho vay phát
triển nông nghiệp nông thôn trên tổng dự nợ bình quân cuối các quý trong năm tài chính liền

lề từ 40 - 70% thì tỷ lệ DTBB bằng VND bằng 1/5 tỷ lệ DTBB thông thường tương ứng với
từng kỳ hạn tiền gửi.
18
Agribank
Ngân hàng TMCM
Mê Kông
Ngân hàng TMCP
Bưu điện Liên Việt
(Lienvietpostbank).
Ngân hàng Phát triển
Nhà đồng bằng sông
Cửu Long (MHB)
Quỹ Tín dụng nhân
dân Trung ương
Chính sách này được đánh giá là động lực để các tổ chức tín dụng đẩy mạnh cho vay
lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nhằm tiếp thêm nguồn vốn cho khu vực này.
Năm 2012, tỷ lệ DTBB VND với các NHTM kỳ hạn trên 12 tháng là 1%, không kỳ hạn và
dưới 12 tháng là 3%. Với Agribank và Quỹ tín dụng Nhân dân Trung ương, tỷ lệ này là 1%.
Trong giai đoạn lãi suất cho vay còn ở mức cao như thời gian vừa qua, nếu tăng tỷ lệ DTBB
sẽ tăng chi phí đầu vào của nguồn vốn cho vay làm tăng lãi suất cho vay của các TCTD,
nhưng NHNN có thể tăng lãi suất tiền gửi DTBB lên một mức hợp lý để bù đắp chi phí huy
động vốn cho các TCTD, giảm áp lực tăng lãi suất cho vay. Theo quan điểm của một số
chuyên gia và NHNN, thời gian qua, do hệ thống NH thiếu thanh khoản nên nếu NHNN
tăng tỷ lệ DTBB thì sẽ gây khó khăn cho nền kinh tế.
2.4.2. Năm 2013
Tiếp tục giảm tỉ lệ DTBB cho 7 TCTD và tái cấp vốn để khuyến khích các TCTD hỗ trợ
vốn tín dụng cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Tính đến ngày 30/9/2013, dư nợ tín dụng
đối với lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 16,75%.
Cuối 2013 đến đầu năm 2014. Trong các năm trước, NHNN có giảm tỉ lệ DTBB nhưng
từ năm 2013 đến nay, NHNN hầu như không giảm tỉ lệ DTBB, chỉ ưu tiên cho một số

TCTD, hỗ trợ phát triển nông thôn. Đáng chú ý, ngay cả khi giữ nguyên tỷ lệ DTBB như
vậy, nhưng từ trong năm 2013 đến nay, tại nhiều thời điểm, lượng vốn của các tổ chức tín
dụng gửi tại Ngân hàng Nhà nước vẫn vượt quá yêu cầu. Nói cách khác, tại nhiều thời điểm
và hiện nay hệ thống có hiện tượng thừa vốn. Nếu hạ tỷ lệ DTBB trong điều kiện này thì tiến
dư cũng không có lợi. Trong năm 2013 và nửa đầu 2014 này, cùng với hoạt động mua vào
ngoại tệ quy mô lớn, Ngân hàng Nhà nước đã phải liên tục phát hành tín phiếu để hút bớt
tiền trong lưu thông về. Vì nếu để lượng tiền đồng quá lớn dẫn đến tình trạng dư thừa tiền
sẽ tạo áp lực lên lạm phát, VND mất giá mà mối quan ngại là biến động tỷ giá USD/VND.
Trong hai năm 2012-2013, NHNN không dùng tỷ lệ DTBB như một công cụ linh hoạt để
điều tiết. Mà bằng các công cụ và chính sách khác nhau tại nhiều thời điểm. Trong 2013 đến
nay, dù giữ nguyên tỷ lệ DTBB hệ thống vẫn có hiện tượng thừa vốn. Trong năm 2013 và
nửa đầu 2014, cùng với việc mua vào ngoại tệ quy mô lớn, NHNN đã liên tục phát hành tín
19
phiếu để hút bớt tiền trong lưu thông về. Bởi nếu để lượng tiền đồng quá lớn có thể sẽ tạo áp
lực lạm phát, VND mất giá làm biến động tỷ giá USD/VND.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐIỀU HÀNH
CỦA CÔNG CỤ DTBB
Có thể nói công cụ DTBB là công cụ mang tính chất hỗ trợ cho các công cụ khác trong điều
hành CSTT ở một số quốc gia có nền kinh tế phát triển. Công cụ này đặc biệt phát huy hiệu
quả khi chính sách tái chiết khấu không có hiệu lực và khi nền kinh tế có những biến động
quá lớn ( những năm 2007-2008 tại VN).
3.1. Một số hạn chế:
• DTBB thể hiện tác động rất rõ đến việc điều hành tỉ giá và lãi suất trong thời gian qua
như tác động đến việc tăng cơ số tiền tệ, nhất là đối với ngoại tệ thì không rõ (trong
khi một trong những mục tiêu chính của việc sử dụng DTBB là kiểm soát cung tiền)
• DTBB thiếu tính mềm dẻo bởi rất khó thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ bằng công
cụ DTBB.
• Việc quy định trả lãi cho tiền gửi dự trữ vượt mức không khuyến khích các NHTM sử
dụng tối đa nguồn vốn dẫn đến tình trạng dự trữ vượt mức nhiều ,từ đó hạn chế các hoạt
động cho vay qua đêm.

3.2. Một số kiến nghị:
• Thứ nhất, để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế của CSTT, nếu diễn biến giá cả
như trên trong thời gian tới, NHNN cũng nên xem xét giảm tỉ lệ DTBB đối với tiền
gửi kì hạn 12-24 tháng. Việc này có ý nghĩa trong cả dài hạn vì nguồn vốn tín dụng
ngân hàng vẫn đang chiếm tỉ trọng lớn trong đầu tư phát triển. Do đó, việc giảm chi
phí đối với nguồn vốn trung-dài hạn cho các ngân hàng không những tác động tốt đến
việc kinh doanh của các ngân hàng mà còn tạo điều kiện cho tăng trưởng tín dụng
đảm bảo đáp ứng vốn cho tăng trưởng kinh tế.
• Thứ hai, trong những tháng tiếp theo, tỉ giá giữa VND và USD có xu hướng ổn
định và có thể giảm, hiện tại lãi suất tiền gửi VND vẫn ở mức cao hơn nhiều so
với tiền gửi USD, lợi thế về thu nhập kì vọng vẫn nghiêng về phía VND, cộng
với việc CPI tháng 10 vừa qua tăng không đáng kể nên sự di chuyển từ USD sang
VND không lớn; hơn nữa NHNN đang chủ trương khuyến khích cho vay ngoại
20
tệ. Do đó, trong những tháng tiếp theo, nếu không có gì bất ổn trong diễn biến giá
cả thì NHNN nên xem xét giảm tỉ lệ DTBB đối với tiền gửi ngoại tệ. Vì hiện nay
khoảng cách giữa tỉ lệ DTBB ngoại tệ và tiền gửi nội tệ tương đối cao, nên có tác
động như một khoản thuế đánh vào giá đầu vào của tiền gửi USD và ảnh hưởng
đến giá đầu ra của khoản tín dụng bằng USD.Ngoài ra, để phục vụ cho công tác
điều hành DTBB của NHNN được tốt hơn, cần phải thực hiện cải tiến hệ thống
thông tin báo cáo để có thể xác định chính xác tổng dự trữ của các TCTD phân
tán tại các chi nhánh NHNN tỉnh thành phố vào từng thời điểm làm căn cứ để
kiểm soát lượng DTBB định kì (vì như đã nói ở trên, theo Quy chế về DTBB
mới, ban hành kèm theo Quyết định số 581/2003/QĐ-NHNN ngày 9/6/2003,
NHNN đã cho phép tiền gửi nội tệ tại chi nhánh NHNN tỉnh thành phố của các
TCTD làm tiền duy trì DTBB).
3.3 So sánh việc sử dụng dự trữ bắt buộc tại Việt Nam và một số nước khác.
• Hiện nay chính phủ Việt Nam vẫn duy trì một tỷ lệ DTBB nhất định đối với các ngân
hang thương mại, các tổ chức tín dụng trong khi các nước khác không có nữa.
• Sự phát triển của thị trường tài chính ở Việt Nam về quy mô,trình độ quản lí,dự đoán

và kiểm soát biến động lượng vốn còn non yếu,gây khó khăn trong việc áp dụng các
các công cụ khác.
 Là công cụ tác động nhanh và hiệu quả đối với toàn bộ thị trường tiền tệ,sử dụng
công cụ dữ trự bắt buộc để giảm áp lực về thanh khoản có thể thực hiện nhanh chóng,dễ
dàng hơn.
 DTBB là công cụ thực hiện hiệu quả nhất việc phân chia tỷ lệ DTBB khác nhau đối
với tiền gửi Việt Nam đồng và ngoại tệ tạo ra lợi thế cho VNĐ,làm hạn chế tình trạng đô la
hóa cũng như tâm lí e ngại nội tệ của người dân.
• Còn đối với các nước phát triển họ không còn áp dụng phổ biến nữa vì:
 TCTD không thể duy trì một mức DTBB quá lớn vì đặc điểm của DTBB là không sinh
lời,DTBB càng cao thì TCTD càng giảm,điều này đi ngược với mục tiêu vì lợi nhuận
của TCTD.
21
 Khi sử dụng công cụ DTBB để kiểm soát cung ứng tiền tệ như việc tăng DTBB có thể
gây ra vấn đề khả năng thanh khoản ngay đối với ngân hàng có dự trữ vượt mức quá
thấp.
 Thay đổi tỉ lệ DTBB quá nhanh cũng gây nên tình trạng không ổn định cho các ngân hàng.
Vậy tuy theo điều kiện,tình hình cụ thể mà ta có thể áp dụng công cụ DTBB ở mức độ nào
cho phù hợp. Công cụ DTBB mang tính hành chính áp đặt trực tiếp,đầy quyền lực và cực kì
quan trọng để cắt cơn sốt lạm phát,khôi phục hoạt động kinh tế trong trường hợp nền kinh tế
phát triển chưa ổn địnhvà các công cụ điều tiết khác chưa đủ mạnh để điều hòa CSTT của
nền kinh tế. Mặt khác,đồng Việt Nam chưa có chỗ đứng tốt trên trường quốc tế nên chính
sách công cụ DTBB sẽ vẫn còn được sử dụng trong tương lai.
Trên đây là một vài ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả vận hành của công cụ DTBB trong
thực thi CSTT của NHNN Việt Nam. Có thể chưa đầy đủ nhưng cũng là một số gợi ý cho
quá trình cải tiến công cụ này hiện nay, cùng với sự kết hợp đồng bộ với các công cụ CSTT
khác góp phần thực hiện tốt mục tiêu cuối cùng của CSTT.
22
DANH MỤC BẢNG BIỂU ĐỒ THỊ
Bảng 1: Theo văn bản số 1141/QĐ-NHNN 28/5/2007.

Bảng 2: Theo quyết định số 379/QĐ-NHNN ngày 24/2/2009
Bảng 3: Theo văn bản số 74/QĐ-NHNN. Áp dụng từ ngày 01/02/2010
Bảng 4: Theo văn bản số 1925/QD-NHNN 26/8/2011. Áp dụng từ ngày 01/09/2011.
23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
• Kinh tế học - David Begg, Stanley Fischer, Rudiger Dornbusch, NXB Thống kê 2007.
• Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số 3 – 2014.
• />dung-201312172210528174ca34.chn.
• Dự báo kinh tế( website dự báo kinh tế Việt Nam).
• Nguyễn Thị Nhung, 2011, DTBB – Từ lý thuyết đến thực tiễn, />• Lê văn hải, Quản lý DTBB của ngân hàng trung ương.
• Trần Nguyễn Ngọc Anh Thư, Kinh tế vĩ mô.
• Quyết định 397/QĐ-NHNN năm 2009 điều chỉnh tỷ lệ DTBB của các tổ chức .tín dụng do
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt nam ban hành.
• Nguồn: .
24

×