Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

NGHIÊN cứu TRƯỜNG hợp 30 năm CHÍNH SÁCH HIV AIDS tại THÁI LAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608.51 KB, 18 trang )

HIV/AIDS tại Thái Lan
Nghiên cứu trường hợp



1
30 NĂM CHÍNH SÁCH HIV/AIDS TẠI THÁI LAN

Các học giả về chính sách y tế đã coi chính sách HIV/AIDS của Thái Lan trong ba thập kỷ qua
là cuộc cách mạng về chính sách quốc gia và đây cũng được coi là bài học cho các nước đang
phát triển khác hiện đang phải đối đầu với đại dịch này.
***
Vài nét về Vương quốc Thái Lan
Vương quốc Thái Lan ở vị trí trung tâm Đông Nam Á là cửa ngõ đi vào các quốc gia Lào, Việt
Nam, Campuchia, Myanma và miền Nam Trung Quốc. Quốc gia này được chia thành bốn vùng
tự nhiên theo loại hình và địa l ý: rừng núi phía Bắc, ruộng lúa bao la đồng bằng miền Trung, cao
nguyên đất nông trại nửa khô hạn miền Đông bắc, và các đảo vùng nhiệt đới nằm dọc bờ biển và
bán đảo ở miền Nam. Về mặt đơn vị hành chính, Thái Lan có 76 tỉnh/thành được phân thành các
huyện, phường/xã và là quốc gia quân chủ lập hiến. Chính phủ hiện nay bao gồm 38 thành viên
gồm 5 Phó Thủ tướng, 21 Bộ trưởng và 12 Thứ trưởng. Về mặt văn hoá, Thái Lan chịu ảnh
hưởng sâu sắc từ các tư tưởng Phật giáo – tôn giáo chính thức được công nhận là quốc giáo ở đất
nước này. Với diện tích đất tương đương tổng diện tích của cả hai nước Việt Nam và Lào, dân
số Thái Lan vào khoảng 67 triệu người. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, thu nhập bình
quân theo đầu người của quốc gia này là 4.972 đô la Mỹ/năm (2011).
I. GIỚI THIỆU CHUNG
1. Sơ lược tình hình HIV/AIDS tại Thái Lan
Với gần 530.000 người (trong độ tuổi 15-49) nhiễm HIV/AIDS, Thái Lan hiện là một trong
những quốc gia có tỷ lệ người hiện nhiễm HIV cao nhất ở khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên
trong suốt hai thập kỷ qua quốc gia này đã có những nỗ lực rất lớn trong việc làm giảm số ca
nhiễm HIV mới hàng năm từ 143.000 (năm 1991) xuống chỉ còn 10.853 (năm 2010). Bảng 1
trình bày một số chỉ số cơ bản về tình hình nhiễm HIV/AIDS ở Thái Lan.


Bảng 1: Một số con số thống kê tình hình nhiễm HIV/AIDS tại Thái Lan
1

Chỉ số
Số liệu
Dân số ước tính (cuối 2011)
66.720.153
Số người nhiễm HIV (cuối 2009)
530.000
Số người từ 15 tuổi trở lên nhiễm HIV (cuối 2009)
520.000

1

HIV/AIDS tại Thái Lan
Nghiên cứu trường hợp



2
Số phụ nữ từ 15 tuổi trở lên nhiễm HIV (cuối 2009)
210.000
Tỷ lệ (ước tính) người từ 15-49 tuổi hiện nhiễm HIV (cuối 2009)
1.3%
Ước tính số ca tử vong do AIDS (năm 2009)
28.000
Trẻ mồ côi do AIDS (từ 0 – 17 tuổi)
250.000
Ngài Wittaya Buranasiri, Bộ trưởng Bộ Y tế công cộng, cũng cho biết thêm 25% tổng số bệnh
nhân được chẩn đoán đang ở độ tuổi lao động từ 30-34. Trong khi quan hệ tình dục không được

bảo vệ là yếu tố nguy cơ chính chiếm tới 84%, quan hệ tình dục sớm và không an toàn ở nhóm
học sinh các trường trung học và sinh viên dạy nghề ngày càng trở nên một vấn đề đáng quan
ngại. Hiện nay, mô hình lây nhiễm HIV/AIDS ở Thái Lan đang phát triển theo xu hướng lây
truyền trong nhóm đồng tính nam, và quan hệ hôn nhân (xem Hình 1). Tỷ lệ HIV ở nhóm tiêm
chích ma túy dao động từ 30 đến 50%. HIV(+) trong nhóm đồng tính nam đang ngày càng tăng.
Tại Bangkok, tỷ lệ nhiễm HIV ở nhóm này đã tăng từ 17% (năm 2003) lên 30% (năm 2008).
Nam đồng tính
41%
Phụ nữ mại dâm
11%
Tiêm chích ma túy
10%
Hôn nhân
32%
Ngoài hôn nhân
6%

Hình 1: Dự đoán xu hướng con đường lây truyền HIV/AIDS tại Thái Lan (2012-2016)
2


2
Petchri Sirinirund (2012). Leading the way: Thailand‟s HIV and AIDS Strategy 2012 – 2016.
National AIDS Management Center.
HIV/AIDS tại Thái Lan
Nghiên cứu trường hợp



3

2. Đặt vấn đề

Các chuyên gia Y tế công cộng không lấy gì làm ngạc nhiên khi Thái Lan trở thành quốc gia
đang phát triển đầu tiên đưa ra công bố về kết quả thay đổi hành vi trên phạm vi toàn quốc và
điều này đã làm giảm nguy cơ lây nhiễm HIV. Bởi vì đó là thành quả của gần 30 năm xây dựng,
phát triển và thực thi chính sách HIV/AIDS và cũng từ đây những chiến lược nhằm ngăn chặn
đại dịch HIV/AIDS của chính phủ Thái Lan đã được xem là mô hình cho các quốc gia đang phát
triển khác.
Ngoại trừ Thái Lan, cho đến nay, rất ít các quốc gia đang phát triển trên thế giới có chính sách
công được thực thi một cách hiệu quả trong việc phòng chống sự lây lan của HIV/AIDS trên
phạm vi toàn quốc. Một chương trình quy mô lớn nhằm kiểm soát lây truyền HIV/AIDS với sự
cam kết của chính phủ, sự tham gia của các cộng đồng địa phương và của những người có hành
vi nguy cơ cao đã giảm một nửa số lượng khách mua dâm, tăng đáng kể tỷ lệ sử dụng bao cao
su, giảm nhanh chóng các bệnh lây truyền qua đường tình dục, và cuối cùng số lượng nhiễm mới
HIV giảm xuống một cách đáng kể. Thành công của Thái Lan là minh chứng cho sự hiệu quả
của chính sách phòng chống HIV/AIDS đã triển khai và liên kết được các chương trình phòng
chống HIV/AIDS một cách toàn diện trên cơ sở được hỗ trợ về mặt chính trị và tài chính. Tuy
nhiên, quay trở lại ba thập kỷ trước, chỉ một số ít người Thái nhận thức được mối đe dọa của
HIV đối với sức khỏe của cộng đồng và nền kinh tế quốc gia. AIDS được xem như một tai họa
của người ngoại quốc và những nhóm người bên lề xã hội Thái, nó đã bị Thủ tướng đương thời,
Prem Tin-su-la-non-da, xem nhẹ và ông đã phát biểu rằng“AIDS cũng giống như các bệnh
khác”. Các báo cáo về những trường hợp có HIV/AIDS bị ém nhẹm bởi chính quyền lo ngại sẽ
ảnh hưởng đến nền công nghiệp du lịch, ngành đang đóng góp một nguồn tài chính đáng kể vào
Tổng sản phẩm thu nhập quốc nội (GDP) của nước này.
Vậy làm thế nào để quốc gia này chuyển từ việc chối bỏ tiến tới xây dựng và thực hiện các chính
sách và chương trình cấp tiến nhằm giảm tỷ lệ mắc mới HIV và các ca bệnh lây truyền qua
đường tình dục? Nội dung dưới đây mô tả các sự kiện và các bên liên quan đã thúc đẩy những
thay đổi về chính sách HIV/AIDS ở Thái Lan qua 5 đời thủ tướng từ năm 1984 đến năm 1994
(tính từ khi HIV mới nổi ở Thái Lan cho đến khi quốc gia này có Chiến lược quốc gia đầu tiên
HIV/AIDS tại Thái Lan

Nghiên cứu trường hợp



4
về phòng ngừa và kiểm soát HIV/AIDS)
3
, giúp các quốc gia đang phát triển có thể rút ra những
bài học kinh nghiệm cho riêng mình từ những thành công và thất bại của Thái Lan nhằm thúc
đẩy quá trình phát triển chính sách phòng chống HIV/AIDS.
Hộp 1: Phương pháp nghiên cứu đánh giá thay đổi chính sách HIV/AIDS ở Thái Lan giai đoạn
1984 – 1994 của AIDSCAP.
Không giống như những phân tích trước đây về động thái của người Thái đối với phòng chống
HIV/AIDS, nghiên cứu của AIDSCAP dựa vào các cuộc phỏng vấn với một số nhân vật đã tham gia vào
các cuộc tranh luận về chính sách AIDS. Hai mươi người được phỏng vấn đang làm việc cho chính phủ,
các trường đại học và các tổ chức phi chính phủ, nghiên cứu cũng đảm bảo rằng danh tính của họ là hoàn
toàn bí mật do vậy họ có thể trả lời và bình luận hết sức thẳng thắn.
Kết quả của những cuộc phỏng vấn này cùng với việc phân tích kỹ lưỡng các tài liệu của chính phủ và
báo chí đã tiết lộ bức tranh chi tiết về làm thế nào các thế lực chính trị và các sự kiện/hoạt động trong
công chúng đã hình thành những động thái của Thái Lan đối với HIV/AIDS. Trong báo cáo, các nhà
nghiên cứu đã xác định 3 giai đoạn quan trọng của quá trình phát triển chính sách từ năm 1985 đến năm
1992, mô tả “chất xúc tác” cho việc phát triển chính sách ở mỗi giai đoạn.

II. NHỮNG THAY ĐỔI CHÍNH SÁCH PHÒNG NGỪA VÀ KIỂM SOÁT HIV/AIDS CỦA THÁI
LAN THẬP NIÊN 1980 VÀ 1990.
1. Xem nhẹ vấn đề
Ca bệnh AIDS đầu tiên được báo cáo ở Thái Lan là vào năm 1984 trong giai đoạn 6 năm cầm
quyền của Tướng Prem Tinsulanonda, cựu tư lệnh quân đội, người được chỉ định làm Thủ tướng
chính phủ vào năm 1982. Prem và nội các của ông đã không công bố ra công chúng những báo
cáo về căn bệnh mới này bởi e ngại nó sẽ làm cản trở kế hoạch thúc đẩy nền kinh tế TháiLan.


3
Tổng hợp từ nghiên cứu của Dự án Phòng và Kiểm soát AIDS (AIDSCAP) do Viện nghiên cứu
ASEAN (Đại học Mahidol, Thái Lan) thực hiện và các tư liệu khác của Tổ chức Y tế thế giới, Ngân hàng
Thế giới, Tổ chức phát triển Liên Hợp quốc.
HIV/AIDS tại Thái Lan
Nghiên cứu trường hợp



5
Đặc biệt, những tin tức về HIV/AIDS của Thái Lan càng bị che đậy vào năm 1987 – vốn là
“Năm du lịch Thái Lan”,chiến dịch này đã tiêu tốn hàng triệu đôla nhằm quảng bá và đẩy mạnh
du lịchcủa người nước ngoài vào Thái. Thời điểm đó không ít ngườiđã chỉ trích rằng AIDS là
hậu quả của việc quảng bá du lịch tình dục vào cuối những năm 1980.
Hầu hết những ca bệnh AIDS được thông báo tới công chúng trong những năm 1980 là người
Thái, những người đã bị nhiễm ở nước ngoài, điều này khiến chính phủ xem nhẹ tình hình và
cho rằng AIDS là một “căn bệnh của người nước ngoài”. Các báo cáo khác về AIDS ở nhóm
đồng tính, hành nghề mãi dâm và tiêm chích ma túy càng củng cố niềm tin rằng căn bệnh này
không liên quan gì đến đại bộ phận người Thái.
“Bệnh AIDS chỉ ở một số nhóm nguy cơ cao”, một quan chức chính phủ đã phát biểu trong bài
diễn văn vào năm 1987 và tuyên bố “Người dân Thái không cần thiết phải được cảnh báo”.
Các chính sách và chương trình được ban hành trong những năm 1980 phản ánh cách nhìn nhận
AIDS như căn bệnh của người nước ngoài và “những người ngoài lề xã hội ”. Chính phủ yêu cầu
bác sỹ phải thông báo tên của những bệnh nhân AIDS và những người nhiễm HIV cho Bộ Y tế
Công cộng. Luật Nhập cư được bổ sung điều khoản cấm những người mắc AIDS và HIV dương
tính nhập cảnh vào Thái Lan.
"Căn bệnh này bị gán cho những người nước ngoài, những người tiêm chích ma tuý và đồng
tính”, do vậy các hoạt động phòng chống của chính phủ chỉ nhắm tới nhóm này. AIDSCAP bình
luận rằng "Một khi AIDS được xem là chỉ liên quan tới một số nhóm “bên lề” xã hội, thì vô cùng

khó khăn để thay đổi được nhận thức đó”.
Nhưng năm 1987, Cha-on Sue-sem đã bắt đầu thay đổi nhận thức của người Thái về AIDS vốn
được xem như một bệnh của “người bên ngoài lề xã hội”. Cha-on Sue-sem là một công nhân bảo
vệ nhà máy, anh bị nhiễm HIV do truyền máu vào năm 1986.Cha-on đãđồng ý nói chuyện với
các phóng viên, xuất hiện trên các kênh truyền hình, và viếng thăm các văn phòng, công sở để
nói về những gì đã xảy ra với anh. Toàn quốc đã tận mắt chứng kiến sự suy sụp sức khỏe một
cách nhanh chóng của anh trên truyền hình và trang nhất các báo trung ương.
HIV/AIDS tại Thái Lan
Nghiên cứu trường hợp



6
AIDSCAP coi trường hợp của Cha-on là một trong những sự kiện ảnh hưởng nhất tới cuộc cách
mạng về chính sách AIDS của Thái Lan. Giống như nam diễn viên Rock Hudson người đã khiến
AIDS trở thành một ngôn từ cửa miệng tại Mỹ, Cha-on đã gióng lên hồi chuông báo động về
mối đe dọa của nguy cơ lây nhiễm HIV đối với toàn xã hội Thái Lan.
2. Tiến tới chấp nhận
Sau những phát biểu của Cha-on, các nỗ lực của chính phủ nhằm che dấu thông tin về tính
nghiêm trọng của AIDS đã vấp phải phản ứng của người dân yêu cầu phải được cung cấp thông
tin về virut HIV và đại dịch AIDS. Những yêu cầu này đã dẫn đến việc công khai kết quả điều
tra giám sát điểm đầu tiên của chính phủ về HIV vào năm 1989.
Phát hiện gây sửng sốt nhất đó là vào tháng 6 năm 1989, 44% người hành nghề mãi dâm tại các
nhà chứa của thành phố miền Bắc Thái Lan là Chieng Mai có HIV(+), thông tin được tiết lộ cho
báo giới bởi các chuyên gia dịch tễ học của chính phủ, những người đã dũng cảm phản đối cấp
trên về sự bảo thủ của nhà cầm quyên. Thông tin lan nhanh trên toàn lãnh thổ Thái Lan và có
ảnh hưởng mạnh mẽ đến hành vi tình dục của đàn ông Thái.
Các phát hiện tại Chiang Mai cũng đã làm sững sờ người dân Thái bởi vì họ phát hiện rằng HIV
đang tồn tại trong mạng lưới mãi dâm rộng khắp vùng miền Bắc Thái Lan. Một quan chức chính
phủ đã nói với các nhà nghiên cứu:"Đại dịch bùng nổ ở các nhà chứa, nơi khách làng chơi hầu

hết là người Thái, đã trở thành tác nhân hàng đầu làm chuyển hướng chính sách phòng chống
HIV/AIDS sang đàn ông Thái thay vì nhắm vào các “khu đèn đỏ”vốn dành cho khách hàng là
người nước ngoài".
Lo ngại về các phát hiện tại Chiang Mai cuối cùng đã dẫn đến các chương trình phòng chống
HIV/AIDS dành cho người hành nghề mãi dâm, phân phát bao cao su miễn phí tại các nhà chứa,
và chính phủ Thái ban hành công khai chính sách buộc sử dụng “100 phần trăm bao cao su” tại
các nhà chứa.
Số liệu điều tra thu thập từ các nhóm phụ nữ mang thai, nam giới đã được chữa trị bệnh lây
truyền qua đường tình dục, những người hiến máu, những người tiêm chích ma túy và hành nghề
HIV/AIDS tại Thái Lan
Nghiên cứu trường hợp



7
mãi dâm, đã giúp nhóm chuyên gia đánh giá của Tổ chức Y thế giới thực hiện những ước tính
chính xác đầu tiên số người nhiễm HIV tại Thái Lan vào đầu những năm 1990. Năm 1990, ước
tính có đã có khoảng 100.000 ca nhiễm mới HIV và chỉ trong vòng 3 năm sau đó con số này đã
nhảy vọt lên khoảng 1.000.000 người và giảm xuống còn 12.000 người vào năm 2009
4
.
Khi số liệu điều tra và ước tính cho thấy rõ ràng HIV/AIDS đã lan rộng nhanh chóng trong cộng
đồng dân cư, quan điểm của chính phủ của Thủ tướng Cha-ti-chai Choon-ha-ven đã thay đổi, lúc
này chính phủ thừa nhận sự trầm trọng của vấn đề và công khai hơn. Dù vậy, ông cũng đã ngưng
việc đẩy mạnh phòng chống HIV/AIDS và hạn chế những hỗ trợ vô điều kiện của mình (bởi nó
đụng chạm đến quyền lợi kinh tế của nhiều bè phái chính trị).
Chỉ đến trước khi rời quyền lực không lâu, thủ tướng Cha-ti-chai đã ra tuyên bố chính sách về
AIDS rằng phòng chống HIV/AIDS sẽ là ưu tiên hàng đầu của chính phủ ông. Dưới thời Cha-ti-
chai, Thái Lan trở thành quốc gia Châu Á đầu tiên xây dựng kế hoạch kiểm soát AIDS (1988-
1990). Mặc dầu, phần lớn nguồn tài trợ là từ các nhà tài trợ song phương và quốc tế, chính phủ

đã tăng cam kết tài trợ cho HIV/AIDS từ $400,000 đôla Mỹ (năm 1989) lên 2.63 triệu đôla Mỹ
(năm 1990). Kể từ năm 1991, hỗ trợ của chính phủ cho phòng chống và chăm sóc HIV/AIDS ở
Thái Lan đã vượt tài trợ của quốc tế
Từ năm 1991, ngân sách của chính phủ cấp cho chăm sóc và phòng chống HIV/AIDS đã vượt
tài trợ của nước ngoài. Từ năm 1992 đến năm 1996, chương trình AIDS quốc gia đã nhận được
những khoản tài trợ lớn (năm tài chính thường niên 1996 chương trình nhận được 80 triệu đôla
từ chính phủ). Tuy nhiên, kể từ năm 2000 trở lại đây, các khoản tài trợ này đã bị cắt giảm đáng
kể, các chương trình can thiệp chỉ nhận được khoảng 8% trong tổng ngân sách quốc gia dành
cho HIV/AIDS vào năm 2000. Năm 2001 nguồn kinh phí trong nước dành cho phòng chống
HIV chỉ còn vào khoảng 1 nửa so với năm 1997 (tức là tương đương khoảng 30 triệu đô la Mỹ).
(xem Hình 3).

4
„Thailand‟s new condom crusade‟. Access on />010610/en/index.html
HIV/AIDS tại Thái Lan
Nghiên cứu trường hợp



8

Hình 2: Kinh phí của chính phủ và các nhà tài trợ quốc tế dành cho phòng chống HIV/AIDS
5


3. Chính phủ hành động
Rất nhiều số liệu được công bố trong 2 năm 1989 và 1990 đã mở đường cho một giai đoạn đặc
biệt của các hoạt động của chính phủ lâm thời Anand Panyarachun nhằm phòng chống
HIV/AIDS. Thủ tướng được chỉ định sau cuộc đảo chính của quân đội tháng 2 năm 1991 -
Anand đã lựa chọn một nội các gồm các nhà hoạt động kỹ trị (kỹ thuật-chính trị) trong đó có

một nhà hoạt động về AIDS nổi tiếng (Mechai Viravaidya), người được giao nhiệm vụ đặc trách
vấn đề AIDS.
Bổ nhiệm của Anand xảy ra đồng thời với nhận thức của người dân về sự bùng nổ đại dịch
HIV/AIDS tại Thái Lan. Trớ trêu thay, chính phủ được bổ nhiệm đã có những chính sách tiến bộ
hơn hẳn chính quyền được bầu cử một cách dân chủ trước đó của
Chatichai. Bởi vì, Anand và rất nhiều đồng sự của mình không phải là
chính trị gia, họ không bị miễn cưỡng phải chiều lòng các bè phái
chính trị khác nhau.
Không giống như các chính quyền tiền nhiệm, chính phủ của Anand
đã cho công khai các số liệu về HIV/AIDS và phối hợp chặt chẽ với

5
UNDP (2004), Thailand‟s response to HIV/AIDS: Progress and Challenges

Học sinh tham gia
vào dự án giáo dục
HIV/AIDS.
HIV/AIDS tại Thái Lan
Nghiên cứu trường hợp



9
các phương tiện truyền thông đại chúng để nâng cao nhận thức của người dân về đại dịch
HIV/AIDS (Các thông điệp phòng chống AIDS được phát hàng giờ trên 488 kênh truyền hình và
phát thanh thuộc sở hữu nhà nước trên toàn quốc, các trường học được yêu cầu giảng dạy về
phòng chống AIDS. Bài hát 'Jingle Bells' đã được cải biênthành một bài hát về tình dục an
toàn). Các chương trình đã phản đối những chính sách và qui định về HIV/AIDS mang tính phân
biệt đối xử được ban hành bởi chính quyền tiền nhiệm, do vậy một quyết định bãi bỏ các điều
luật cấm nhập cư đối với người nhiễm HIV/AIDS được ban hành.

Ba phương sách của chính phủ Anand đã được duy trì trong chính sách AIDS của Thái Lan đến
tận ngày nay đó là: (1) Thủ tướng đứng đầu Ủy ban AIDS quốc gia (chương trình kiểm soát
AIDS được chuyển từ Bộ Y tế Công cộng sang Văn phòng Chính phủ nhằm tăng cường các ảnh
hưởng chính trị);(2) Kế hoạch AIDS quốc gia được lồng ghép vào kế hoạch phát triển quốc gia
giai đoạn 5 năm;(3) Và một khoản tài chính hỗ trợ đáng kể của chính phủ cho chương trình
AIDS được tính theo thu nhập bình quân đầu người xấp xỉ 1đôla/năm (dân số Thái Lan ước tính
là 65 triệu người, như vậy trung bình hàng năm chương trình AIDS của Thái Lan sẽ có khoảng
65 triệu đôla từ ngân sách nhà nước so với năm 1988 chỉ là 180.000 đôla).

III. CHÍNH SÁCH PHÒNG NGỪA VÀ KIỂM SOÁT HIV TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY
Kể từ năm 2000, việc điều trị cho người nhiễm HIV bằng thuốc ARV đã bắt đầu được quan tâm
trong các chính sách của Thái Lan.Trong những năm tiếp theo, tỷ lệ người nhiễm HIV được tiếp
cận với thuốc ARV tăng lên một cách nhanh chóng và điều đó đã làm giảm tỷ lệ bệnh nhân
chuyển sang giai đoạn AIDS. Năm 2001, chính phủ Thái Lan cam kết đảm bảo điều trị đầy đủ
cho tất cả người nhiễm HIV và đặt các mục tiêu về nâng cao việc tiếp cận điều trị trong các
chương trình phòng chống HIV. Từ giữa những năm 2000, Hiệp hội Dược phẩm Thái Lan đã đạt
được hiệp định trong sản xuất thuốc điều trị HIV giá rẻ cho tất cả các trường hợp nhiễm HIV ở
Thái với mức giá điều trị mang tính ước lệ chưa đến 1 đôla Mỹ. Để có thể đảm bảo cung cấp
thuốc kháng virus (ARV) miễn phí cho những người sống chung với HIV, chính phủ Thái Lan
đã có một loạt các chính sách liên quan tới việc tăng cường sản xuất và sử dụng thuốc generic
giá rẻ (thuốc mang tên gốc, đã hết bản quyền). Việc sử dụng các loại thuốc generic giá rẻ đã làm
số lượng người nhiễm HIV tiếp cận được thuốc ARV tăng gấp 8 lần từ năm 2001 đến 2003,
HIV/AIDS tại Thái Lan
Nghiên cứu trường hợp



10
trong khi đó chỉ tăng 40% kinh phí. Theo báo cáo mới nhất của UNAIDS Thái Lan, hiện nay đã
có khoảng 225.272 người nhiễm HIV/AIDS được tiếp cận thuốc ARV (tương đương 64.6%).

Kể từ khi Thủ tướng Abhisit Vejjajiva được bầu vào tháng 12 năm 2008, chính phủ của ông đã
tái tập trung vào dự phòng lây nhiễm HIV. Chính quyền Abhisit được ghi nhận với sự tập trung
sự chú ý tới AIDS và đã hồi sinh chiến dịch dự phòng lây nhiễm HIV bằng cách khởi động lại
chương trình phân phối bao cao su miễn phí vốn bị “bỏ quên” trong một thập kỷ kể từ năm 1997
do cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á
6
, mà nền kinh tế Thái Lan đã phải hứng chịu những tổn
thất nặng nề. Thời kỳ này Thái Lan nhận được một khoản ngân sách tài trợ trị giá 98 triệu đô la
Mỹ từ Chương trình cứu trợ khẩn cấp về phòng chống HIV/AIDS của Tổng thống Hoa Kỳ
(PEPFAR) cho các hoạt động dự phòng và điều trị HIV/AIDS.

IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Các Kế hoạch/Chiến lược quốc gia về phòng ngừa và kiểm soát HIV/AIDS của Thái Lan
Trong quá trình xây dựng, thực hiện chính sách phòng chống HIV/AIDS của Thái Lan
trong hơn 30 năm qua, tuy ở mỗi giai đoạn các chính sách này đều có những thăng trầm
nhất định do tác động của bối cảnh chính trị, văn hoá và xã hội mang tính đặc thù của
Thái Lan, nhưng nó cũng đã kế thừa thành quả của giai đoạn trước và điều chỉnh cho phù
hợp với tình hình lây nhiễm HIV mới và số lượng người nhiễm chuyển sang giai đoạn
AIDS (Bảng 2).


6
Khủng hoảng tài chính châu Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 ở Thái Lan rồi
ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả của những tài sản khác ở vài nước
châu Á, nhiều quốc gia trong đó được coi như là "những con Hổ Đông Á".
HIV/AIDS tại Thái Lan
Nghiên cứu trường hợp




11
Bảng 2: Tổng hợp kế hoạch/chiến lược quốc gia về phòng ngừa và kiểm soát HIV/AIDS
của Thái Lan từ năm 1997-2012
Giai đoạn
Mục tiêu
Chiến lược/giải pháp thực hiện
Kế hoạch quốc gia
về phòng ngừa và
kiểm soát
HIV/AIDS từ 1997
– 2001
1. Giảm tỷ lệ mắc mới HIV ở
người trưởng thành xuống dưới
1% vào giai đoạn kết thúc
chiến lược.
2. Cung cấp dịch vụ và chăm
sóc y tế cho 80% số người sống
chung với AIDS và những cá
nhân bị ảnh hưởng khác.
3. Lập kế hoạch và thực hiện
việc phòng chống HIV/AIDS,
giảm kỳ thị đối với người có
AIDS tại các đơn vị hành chính
công quyền và tổ chức cộng
đồng.

1. Phát triển năng lực của cá nhân, gia đình và cộng đồng để ngăn ngừa và
giảm nhẹ vấn đề HIV / AIDS cũng như tăng cường nhận thức của cộng
đồng về HIV / AIDS, phát huy tinh thần tương trợ lẫn nhau, và bảo tồn văn
hóa cộng đồng để giúp cải thiện vấn đề.

2). Tạo môi trường xã hội thuận lợi cho công tác phòng chống và giảm lây
nhiễm HIV / AIDS, phát triển môi trường kinh tế - xã hội tích cực bằng
cách thúc đẩy và tăng cường hoạt động kinh doanh mà không ảnh hưởng
đến văn hóa truyền thống và lối sống của người Thái.
3). Nhấn mạnh sự phục hồi và phát triển tâm lý xã hội của người nhiễm
HIV/AIDS để họ có thể sống một cuộc sống bình thường trong xã hội mà
không có sự phân biệt đối xử.
4). Sửa đổi/điều chỉnh các thành phần cơ bản của hệ thống xã hội và kinh tế
có hiệu quả hơn trong việc đối phó với các vấn đề AIDS. Điều này bao gồm
thúc đẩy các dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là giáo dục, dịch vụ chăm sóc
và tư vấn cho những người bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS
5). Triển khai các dự án nâng cao sức khỏe và các dịch vụ chăm sóc y tế.
Chiến lược này nhấn mạnh việc cung cấp các dịch vụ y tế phù hợp với
người nhiễm HIV / AIDS, khuyến khích chăm sóc tại nhà.
6). Sử dụng kiến thức hiện có, và xúc tiến các nghiên cứu liên quan. Chiến
lược này nhấn mạnh việc quy hoạch và thực hiện các dự án nghiên cứu, trao
đổi kiến thức trong nước và quốc tế.
HIV/AIDS tại Thái Lan
Nghiên cứu trường hợp



12
7). Tăng cường hợp tác quốc tế
8). Rà soát và củng cố các quy trình quản lý và các cơ chế liên quan, tạo ra
cách tiếp cận toàn diện để quản lý chương trình phòng chống HIV/AIDS từ
cấp quốc gia đến địa phương.
Kế hoạch quốc gia
về phòng ngừa và
kiểm soát

HIV/AIDS từ 2002
– 2006
1. Giảm tỷ lệ mắc mới HIV ở
người trưởng thành xuống dưới
1% vào giai đoạn kết thúc
chiến lược.
2. Cung cấp dịch vụ và chăm
sóc y tế cho 80% số người sống
chung với AIDS và những cá
nhân bị ảnh hưởng khác.
3. Lập kế hoạch và thực hiện
việc phòng chống HIV/AIDS,
giảm kỳ thị đối với người có
AIDS tại các đơn vị hành chính
công quyền và tổ chức cộng
đồng.

1. Tổ chức, gia đình và cá nhân phải nhận thức được vai trò của mình trong
việc phòng chống và giảm thiểu kỳ thị đối với HIV/AIDS.
2. Các dịch vụ và cơ sở y tế công sẽ được thiết lập để phòng chống
HIV/AIDS.
3. Phát triển các nghiên cứu song song với chiến lược truyền thông kết quả
nghiên cứu.
4. Hợp tác quốc tế.
5. Phát triển hệ thống quản lý chương trình toàn diện sẽ để kết hợp nhiệm
vụ phòng chống HIV/AIDS và giảm thiểu kỳ thị
HIV/AIDS tại Thái Lan
Nghiên cứu trường hợp




13
Kế hoạch quốc gia
về phòng ngừa và
kiểm soát
HIV/AIDS từ 2007
– 2011
1. Giảm ít nhất một nửa ca mắc
mới vào năm 2011.
2. Người bị nhiễm HIV và bệnh
nhân AIDS cần được điều trị
bằng thuốc kháng virus có thể
tiếp cận được việc điều trị.
3. Ít nhất 80% người bị nhiễm
HIV/AIDS, gia đình của họ và
những người bị ảnh hưởng bởi
AIDS cần các dịch vụ xã hội có
thể tiếp cận các hỗ trợ xã hội.
1. Quản lý việc tích hợp các hoạt động phòng chống HIV/AIDS vào các đơn
vị
2. Tích hợp công tác phòng chống, chăm sóc, điều trị và giảm thiểu tác động
cho mỗi nhóm đối tượng đích
3. Bảo vệ quyền của người nhiễm HIV/AIDS
4. Theo dõi và đánh giá; nghiên cứu và phát triển về kiến thức phòng chống
và giảm tác hại của HIV/AIDS

Kế hoạch quốc gia
về phòng ngừa và
kiểm soát
HIV/AIDS từ 2012-

2016

Tầm nhìn: Để không có ca
nhiễm HIV mới
Mục tiêu đến 2016:
 Tỷ lệ nhiễm mới HIV giảm
hai phần ba
 Tỷ lệ lây truyền dọc HIV ít
hơn 2%
1.Mở rộng các dịch vụ dự phòng toàn diện, trong đó cân nhắc yếu tố nhạy
cảm về giới và các quyền cho nhóm có hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV cao
nhất.
2. Mở rộng môi trường pháp lý và xã hội cần thiết cho dự phòng và chăm
sóc đối với người có HIV.
3. Tạo ý thức sở hữu ở cấp địa phương trong việc mở rộng công tác dự
phòng và kiểm soát AIDS
4. Thực hiện một thế hệ thông tin chiến lược mới nhằm thông báo và hướng
dẫn ứng phó quốc gia ở tất cả các cấp hành chính.
5. Hài hòa và tối ưu hóa các biện pháp can thiệp và chương trình tập trung
vào: Phòng ngừa từ mẹ sang con (PLTMC), Dự phòng lây nhiễm HIV trong
nhóm vị thành niên, thanh niên, Các chương trình sử dụng bao cao su, An
toàn máu, Điều trị, chăm sóc và hỗ trợ, Kỳ thị và phân biệt đối xử, Truyền
thông hướng đến cộng đồng
HIV/AIDS tại Thái Lan
Nghiên cứu trường hợp



14
2. Mảng khuyết của chương trình phòng ngừa và kiểm soát HIV/AIDS ở Thái Lan

Thái Lan đã đạt được thành tựu vô cùng ấn tượng trong chương trình phòng ngừa và kiểm soát
HIV/AIDS. Tỷ lệ sử dụng bao cao su trong các nhà chứa đã tăng hơn 90%, số ca tham vấn về
bệnh lây truyền qua đường tình dục tại các cơ sở y tế giảm 90%, và tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm
thanh niên khám tuyển nghĩa vụ quân đội giảm một nửa chỉ trong một vài năm (cuối thập niên
90). Các mô hình dịch tễ học của Nhóm chuyên gia dự báo HIV/AIDS cho thấy số ca nhiễm mới
HIV hàng năm đạt đỉnh điểm vào đầu những năm 1990 nay đã giảm hơn 80% (từ 32%/năm
xuống còn dưới 4%/năm
7
vào cuối những năm 1990). Kể từ năm 1993, ước tính ít nhất có
khoảng 200.000 người tránh khỏi bị nhiễm HIV nhờ vào hiệu quả của những chương trình can
thiệp phòng chống HIV/AIDS. Tuy nhiên, những hiệu quả đạt được này chủ yếu là trong khuôn
khổ ngành “công nghiệp tình dục” của Thái Lan. Các quan chức trong lĩnh vực y tế công cộng
Thái Lan xác nhận rằng chương trình đã làm được rất ít để khuyến khích người dân Thái Lan sử
dụng bao cao su trong quan hệ tình dục (phi thương mại)
8
. Quan hệ tình dục không sử dụng bao
cao su rất phổ biến, đặc biệt là ở giới trẻ, những người không còn nhớ tới cuộc khủng hoảng lây
nhiễm HIV ở Thái Lan vào đầu những năm 1990
9
. Điều này cho thấy HIV sẽ vẫn tiếp tục lây lan
qua quan hệ tình dục khác giới và đồng tính nam. Ngoài ra, vì can thiệp tập trung vào lây truyền
HIV qua quan hệ tình dục (đường lây truyền phổ biến nhất ở Thái Lan), do vậy các can thiệp
trong nhóm tiêm chích ma túy, chẳng hạn như điều trị methadone hay trao đổi bơm kim tiêm
cũng chỉ ở một phạm vi hẹp mà không bao phủ ở tầm quốc gia, khiến cho tỷ lệ hiện nhiễm mới
HIV ở nhóm này tiếp tục gia tăng và hiện là 50%
10
.
3. Bài học kinh nghiệm

7

HIV transmission rates in Thailand: evidence of HIV prevention and transmission decline. Park LS,
Siraprapasiri T, Peerapatanapokin W, Manne J, Niccolai L, Kunanusont C. Departments of Chronic Disease,
Epidemiology and Microbial Diseases, Yale School of Public Health, New Haven, CT 06520-8034, USA.

8
Chitwarakorn A. HIV/AIDS and sexually transmitted infections in Thailand: lessons learned and future
challenges. In Narain JP, ed. AIDS in Asia: The Challenge Ahead. New Delhi, India: Sage Publications;
2004.
9
World Bank. Thailand‟s response to AIDS: building on success, confronting the future. Thailand Social
Monitor V. Available at: . Accessed January 12, 2007.
10
Chitwarakorn A. HIV/AIDS and sexually transmitted infections in Thailand: lessons learned and future
challenges. In Narain JP, ed. AIDS in Asia: The Challenge Ahead. New Delhi, India: Sage Publications;
2004.
HIV/AIDS tại Thái Lan
Nghiên cứu trường hợp



15
Kinh nghiệm về xây dựng và thực hiện chính sách phòng ngừa và kiểm soát HIV/AIDS ở Thái
Lan cho thấy hành động phản ứng của quốc gia trong huy động chính phủ, khối tư nhân, và các
tổ chức phi chính phủ hướng tới nhóm mục tiêu nguy cơ lây truyền HIV/AIDS cao nhất có thể
đạt được hiệu quả làm giảm mức độ lây truyền ngay cả khi các hành động này bị trì hoãn (Xem
hộp 2).
Hộp 2: Kinh nghiệm xây dựng và thực hiện chính sách phòng ngừa HIV/AIDS giai đoạn 1980 –
2000.
AIDSCAP tin rằng kinh nghiệm dưới đây của Thái Lan có thể là rất hữu ích cho các quốc gia khác đặc
biệt là những nước ở Châu Á.

1. Kinh nghiệm của Thái Lan cho thấy các mối quan tâm về chính trị và kinh tế ở các cấp quốc gia và
địa phương có ảnh hưởng như thế nào đến chính sách quốc gia về phòng chống HIV/AIDS. “Những
mối quan tâm này có thể thay đổi cùng với những bằng chứng mới và các tổ chức/cá nhân chính trị
mới” – Bill Rau, Phó giám đốc AIDSCAP phụ trách về chính sách đã phát biểu như vậy.
2. Nỗ lực của chính phủ và các tổ chức phi chính phủ để thực hiện hệ thống giám sát và phối kết hợp
các nhóm làm việc đa ngành nhằm công khai các thông tin đã giúp duy trì vai trò và uy tín của chính
phủ, cũng như cung cấp các khuyến nghị mang tính thực tiễn cho các nhà hoạch định chính sách.
3. Công bố các kết quả giám sát điểm trên các phương tiện thông tin đại chúng là một trong những chất
xúc tác quan trọng nhất cho sự phát triển của chính sách phòng chống HIV/AIDS ở Thái Lan.
4. Công bố câu chuyên của Cha-on trên thông tin đại chúng (với sự đồng ý của anh ta) là một phương
pháp rất hữu hiệu để xây dựng chính sách mang tính hỗ trợ và thông cảm hơn là chính sách mang
tính trừng phạt.
5. Kinh nghiệm của Thái Lan cũng ủng hộ quan điểm là các quan chức của chính phủ nên phối hợp với
các đại diện của các tổ chức phi chính phủ - những người có kinh nghiệm thực tế trong phòng, và
chăm sóc người có HIV - để xây dựng chính sách. Sự hợp tác giữa những nhà vận động cho chính
sách HIV/AIDS ở bên trong và bên ngoài chính phủ trong thời kỳ cầm quyền của Anand cho thấy
“chính sách HIV/AIDS hiệu quả ra đời nhanh nhất khi các nguồn lực của chính phủ và phi chính phủ
được kết hợp với nhau”.

Những đối sách đó là: mở rộng mạng lưới dịch vụ thăm khám các bệnh lây truyền qua đường
tình dục, chương trình kế hoạch hóa gia đình thành công trong thúc đẩy sử dụng bao cao su
HIV/AIDS tại Thái Lan
Nghiên cứu trường hợp



16
trước đại dịch AIDS, các cán bộ dịch tễ học được đào tạo bài bản, hệ thống y tế cơ sở với đội
ngũ nhân viên có trình độ, các quyết định chính sách dựa trên bằng chứng, xây dựng các tổ chức
xã hội dân sự vững mạnh với một mạng lưới các tổ chức phi chính phủ quốc gia. Một số yếu tố

góp phần cho sự thành công của chính sách có thể có tính ứng dụng rộng lớn hơn cho các quốc
gia khác trong khu vực là: lãnh đạo quốc gia và cam kết chính trị ở cấp cao nhất của chính phủ;
Hệ thống giám sát dịch tễ học tốt làm công cụ quan trọng trong nâng cao nhận thức cộng đồng
và vận động cam kết chính trị; Các dự án thí điểm hiệu quả làm tiền đề cho chính sách ban hành
đạt hiệu quả cao do dựa trên các thông tin/bằng chứng có chất lượng; Vai trò của các tổ chức phi
chính phủ, xã hội dân sự khác trong việc đảm bảo không phân biệt đối xử, tôn trọng quyền con
người và tham gia vào đối thoại chính trị về AIDS; Sự đóng góp của các dịch vụ thăm khám
bệnh lây truyền qua đường tình dục làm tăng tỷ lệ sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục
thương mại; và cuối cùng là chương trình phòng ngừa và kiểm soát HIV/AIDS ở cấp địa phương
với sự tham gia liên ngành, đi đôi với đối thoại và xây dựng đồng thuận liên ngành ở cấp quốc
gia.



HIV/AIDS tại Thái Lan
Nghiên cứu trường hợp



17
CÂU HỎI THẢO LUẬN: Sử dụng “Khung cơ sở trong phân tích chính sách y tế” (Hình 19,
trang 117, Tài liệu giảng dạy môn Chính sách Y tế) và nghiên cứu trường hợp “Ba mươi năm
Chính cách HIV/AIDS tại Thái Lan” hãy thảo luận theo nhóm (4-6 sinh viên) để trả lời các câu
hỏi sau:
Bối cảnh:
1. Các yếu tố tình huống, cơ cấu/cấu trúc và văn hóa nào đã ảnh hưởng tới quá trình phát
triển chính sách HIV/AIDS của Thái Lan?
Quá trình:
2. Tại sao vào những năm 80 vấn đề HIV/AIDS lại không được đưa vào chương trình nghị
sự (không được bàn tới) ở Thái Lan?

3. Tại sao sau đó HIV/AIDS lại trở thành vấn đề thời sự (trở thành vấn đề ưu tiên trong
chương trình nghị sự của chính phủ)?
4. Những bằng chứng nào trong nghiên cứu trường hợp thể hiện là chính phủ Thái Lan đã
làm để tạo điều kiện cho việc thực hiện thành công chính sách HIV/AIDS? Gợi ý: Về
nguồn lực tài chính, nhân lực, qui định, ủng hộ về mặt chính trị/ý chí chính trị?
5. Các bài học chính được đúc rút qua nghiên cứu quá trình phát triển chính sách
HIV/AIDS ở Thái Lan là gì? Phân tích tính phù hợp của các bài học đó với Việt Nam?
Người/tổ chức tham gia vào quá trình phát triển chính sách:
6. Người/tổ chức nào đóng vai trò quan trọng (cả tiêu cực và tích cực) trong quá trình phát
triển chính sách HIV/AIDS của Thái Lan? Mô tả vai trò cụ thể của những người/tổ chức
đó?
Nội dung:
7. Một số nội dung quan trọng về chính sách HIV/AIDS được trình bày trong nghiên cứu
trường hợp là gì?
HIV/AIDS tại Thái Lan
Nghiên cứu trường hợp



18
CÂU HỎI THAM KHẢO
Sau khi đọc bản “Chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS ở Việt Nam đến năm 2020
và tầm nhìn 2030” anh/chị có nhận xét gì về những vấn đề sau đây:
8. Cấu trúc của bản chiến lược gồm những phần chính gì? Có logíc, thuyết phục và dễ hiểu
không?
9. Bàn luận về giải pháp thực hiện: tính toàn diện, khả thi và phù hợp? Có gợi ý gì về xếp
thứ tự ưu tiên của các giải pháp và tại sao lại ưu tiên như vậy? Những điều kiện tiên
quyết nào sẽ đảm bảo cho việc thực hiện thành công những mục tiêu đã đề ra trong chiến
lược này?

×