Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Luận văn một số mô hình định mức tín nhiệm áp dụng cho sở giao dịch ngân hàng công thương việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (566.45 KB, 101 trang )

Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng là hoạt động tài trợ của Ngân hàng
cho khách hàng (còn được gọi là tín dụng ngân hàng), bao gồm hoạt động cho
vay, cho thuê tài chính, chiết khấu, bảo lãnh và một số hoạt động khác do
Ngân hàng Nhà nước quy định. Tín dụng là hoạt động lớn nhất song rủi ro
cao nhất cho Ngân hàng. Khi tiến hành một hoạt động tín dụng, Ngân hàng sẽ
thu được lãi (lợi nhuận) từ hoạt động đó, lãi chính là phí mà khách hàng phải
trả cho Ngân hàng để được sử dụng khoản tín dụng mà ngân hàng tài trợ. Tuy
nhiên, Ngân hàng cũng phải đối mặt với rủi ro có thể khách hàng không trả,
hoặc không trả đúng hạn, hoặc không trả đầy đủ cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng.
Rủi ro này có rất nhiều nguyên nhân, đều có thể gây ra tổn thất, làm giảm thu
nhập của ngân hàng. Có nhiều khoản tài trợ mà tổn thất có thể chiếm phần lớn
vốn của chủ, đẩy Ngân hàng đến phá sản. Vì thế, quản lý và đánh giá rủi ro
vỡ nợ được đặt ra như một vấn đề trọng tâm trong hoạt động tín dụng của
Ngân hàng, các tổ chức tín dụng và các nhà đầu tư. Việc ước lượng chính xác
rủi ro vỡ nợ của khách hàng vay hoặc danh mục đầu tư có ý nghĩa rất lớn đối
với các nhà đầu tư, mỗi tổ chức ngân hàng và hệ thống tài chính. Rủi ro vỡ nợ
được ước lượng chính xác không chỉ có ý nghĩa cho việc định giá đúng cho
các khoản vay của mỗi doanh nghiệp mà còn góp phần tăng tính thanh khoản,
ngăn ngừa những khủng hoảng tài chính có thể xảy ra trong tương lai. Xếp
hạng tín nhiệm (XHTN) được xây dựng dựa trên việc chấm điểm tín nhiệm
(định mức tín nhiệm-ĐMTN) chính là căn cứ để cấp tín dụng, để “phân biệt
đối xử ” về lãi suất cho vay, để đầu tư vào một công ty hay quốc gia, để thiết
lập các mối quan hệ kinh doanh….
Có nhiều cách để xây dựng và cho điểm chỉ số XHTN, mỗi một tổ chức
Nguyễn Thị Thủy Toán Tài Chính 45
1
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
tín nhiệm có một cách riêng. Sở giao dịch I Ngân hàng Công Thương Việt
Nam (SGD I) hiện nay cũng đang sử dụng một hệ thống chấm điểm tín nhiệm


riêng đối với các tổ chức xin cấp tín dụng tại chi nhánh, đó là phương pháp
xây dựng thang điểm
Trong quá trình học tập tại trường kết hợp với thời gian thực tập tại Sở
giao dịch I Ngân hàng công thương Việt Nam và sự định hướng của thầy Ngô
Văn Thứ, em xin được đưa ra đề tài : “MỘT SỐ MÔ HÌNH ĐỊNH MỨC TÍN
NHIỆM ÁP DỤNG CHO SỞ GIAO DỊCH I NGÂN HÀNG CÔNG
THƯƠNG VIỆT NAM” , đề tài này nêu ra một số ý kiến nhỏ về phương pháp
định mức tín nhiệm công ty bằng phương pháp sử dụng một số mô hình, trong
đó cơ bản nhất là Mô hình đa nhân tố.
Ngoài Lời mở đầu, Phần Kết luận, Phần phụ lục và Danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý thuyết về định mức tín nhiệm công ty – Trình bày khái
quát về khái niệm, mục đích vai trò, nguyên tắc và tổng quan về phương pháp
định mức tín nhiệm.
Chương 2: Định mức tín nhiệm tại Sở giao dịch I Ngân hàng công
thương Việt Nam – Giới thiệu về Sở giao dịch I Ngân hàng công thương
Việt Nam cùng với phương pháp định mức tín nhiệm tại Ngân hàng.
Chương 3: Áp dụng Một số mô hình cho định mức tín nhiệm khách
hàng – Xem xét 2 mô hình là mô hình Định giá tài sản vốn (CAPM) và mô
hình Đa nhân tố.
Em xin chân thành cám ơn Ban giám đốc Ngân hàng cùng tập thể cán
bộ, nhân viên toàn Ngân hàng và đặc biệt cám ơn các cán bộ, chuyên viên
Phòng quản lý rủi ro đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thực
tập, để em có thể tìm hiểu sâu về nghiệp vụ Ngân hàng.
Em xin vô cùng biết ơn thầy Ngô Văn Thứ - khoa Toán Kinh Tế đã tận
Nguyễn Thị Thủy Toán Tài Chính 45
2
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong quá trình lựa chọn đề tài, xác định hướng
nghiên cứu, sửa chữa và hoàn thiện luận văn. Em cũng xin cảm ơn sâu sắc tới

PGS.TS Nguyễn Quang Dong, PGS.TS Hoàng Đình Tuấn, PGS.TS Nguyễn
Khắc Minh, Th.S Trần Chung Thủy, TS Trần Trọng Nguyên cùng các thầy cô
trong khoa Toán Kinh Tế đã dạy dỗ chỉ bảo em trong quá trình học tập tại
trường.
Nguyễn Thị Thủy Toán Tài Chính 45
3
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
CHƯƠNG I
LÝ THUYẾT VỀ ĐỊNH MỨC TÍN NHIỆM CÔNG TY
I. Hoạt động Ngân hàng và Định mức tín nhiệm công ty
1. Hoạt động Ngân hàng và yêu cầu khách quan về Định mức tín nhiệm
khách hàng
Ngân hàng thương mại (NHTM) là loại hình doanh nghiệp kinh doanh
hàng hóa đặc biệt, đó là tiền tệ. Một hoạt động đặc thù của ngân hàng là huy
động tiền gửi của các cá nhân, tổ chức và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng
cho những người đang có nhu cầu về vốn, nhằm mục đích thu lợi nhuận. Là
một trung gian tài chính, các NHTM phải đối mặt với nhiều rủi ro trên cả
phương diện huy động vốn và sử dụng vốn. Với hoạt động huy động vốn,
người gửi tiền đóng vai trò là chủ nợ (chủ nợ thứ nhất) và NHTM là con nợ.
Với hoạt động cấp tín dụng, NHTM lại đóng vai trò là chủ nợ (chủ nợ thứ hai)
và những khách hàng nhận tín dụng trở thành con nợ của ngân hàng. Tuy
nhiên, quyền của chủ nợ thứ nhất và thứ hai lại khác nhau cơ bản. Chủ nợ thứ
nhất, những người gửi tiền vào ngân hàng, có quyền hưởng lãi từ khoản tiền
gửi vào ngân hàng mà hầu như không phụ thuộc vào tình hình hoạt động kinh
doanh của ngân hàng, đồng thời có thể rút vốn bất kỳ lúc nào họ muốn dù
chưa đến hạn, NHTM chỉ có thể thu của họ một số tiền gọi là lãi phạt khi rút
vốn trước hạn mà không thể từ chối việc trả lại vốn cho khách hàng. Còn chủ
nợ thứ hai, chính là các NHTM, cũng có quyền thu lãi từ hoạt động cho vay
tín dụng song lại không thể thu hồi vốn về trước khi kết thúc hợp đồng tín
dụng nếu như khách hàng không vi phạm hợp đồng. Điều đó đòi hỏi ngân

hàng phải có dự trữ bắt buộc, dự trữ vượt quá (nếu thấy cần thiết) và đặc biệt
là phải tìm cách đạt hiệu quả tối đa trong sử dụng vốn. Nếu việc cấp tín dụng
Nguyễn Thị Thủy Toán Tài Chính 45
4
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
không hiệu quả khiến Ngân hàng không thu được gốc, lãi đầy đủ, đúng hạn
hoặc thậm chí mất vốn thì nó sẽ nhanh chóng đẩy Ngân hàng tới chỗ mất khả
năng thanh toán cho nhu cầu rút vốn của người gửi tiền. Như thế, rủi ro tín
dụng dễ dàng dẫn đến rủi ro thanh khoản cho Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng không trả hoặc không trả đúng
hạn hoặc không trả đầy đủ cả gốc và lãi cho Ngân hàng. Rủi ro tín dụng gắn
liền với hoạt động quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất của NHTM là tín
dụng. Khi tiến hành một hoạt động tài trợ cụ thể, các Ngân hàng đều phân tích
các yếu tố của người vay và theo lý thuyết, Ngân hàng có thể quyết định tài
trợ nếu thấy rằng rủi ro tín dụng sẽ không xảy ra. Tuy nhiên trong thực tế, rủi
ro tín dụng là không thể tránh khỏi, chỉ có thể đề phòng, hạn chế mà không
thể loại trừ.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng, các nguyên nhân này
thường được chia thành 3 nhóm sau:
+Những nguyên nhân bất khả kháng: là những nguyên nhân khách
quan không thể tránh khỏi hoặc khó tránh khỏi, vượt quá khả năng kiểm soát
của người vay lẫn ngân hàng như thiên tai, chiến tranh, những biến cố kinh tế,
chính trị, xã hội…những nguyên nhân này tuy ít song lại thường tác động
nặng nề tới người vay, làm suy giảm khả năng thanh toán gốc và lãi cho Ngân
hàng.
+Nguyên nhân thuộc về chủ quan của người vay: là những nguyên
nhân liên quan đến trình độ yếu kém của người vay khi triển khai phương án
sử dụng vốn trong thực tế; đến đạo đức của người vay khi cố ý lừa đảo Ngân
hàng, sử dụng tiền vay sai mục đích hoặc vào phương án chứa đầy rủi ro với
kỳ vọng thu được lợi nhuận rất cao hay cố tính chây ì không chịu trả nợ cho

Ngân hàng hòng quịt nợ hoặc chỉ đơn giản là chiếm dụng vốn. Đây là nhóm
nguyên nhân phổ biến nhất dẫn đến rủi ro tín dụng.
Nguyễn Thị Thủy Toán Tài Chính 45
5
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
+Nguyên nhân thuộc về Ngân hàng: Là những nguyên nhân liên quan
trực tiếp đến trình độ nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của nhân viên Ngân
hàng mà chủ yếu là các cán bộ tín dụng. Một cán bộ tín dụng trình độ thấp,
không am hiểu về khách hàng, về ngành nghề kinh doanh của họ, về môi
trường họ sống và làm việc thì anh ta không thể đưa ra những đánh giá chính
xác về khách hàng, phương án sử dụng tiền vay cũng như dự báo trước các
vấn đề có liên quan thì rủi ro tín dụng dễ dàng xảy ra. Không những thế, một
cán bộ tín dụng giỏi cũng có thể tiếp tay cho khách hàng để lừa đảo Ngân
hàng nếu anh ta không thắng được cám dỗ của tiền bạc, không giữ vững được
đạo đức của mình. Nhóm nguyên nhân này thường kết hợp với nguyên nhân
thứ hai, gây nên tổn thất cho Ngân hàng.
Như vậy có thể nói, đối với các Ngân hàng thì rủi ro tín dụng luôn
thường trực hơn nữa lại diễn biến hết sức phức tạp và khó phòng tránh. Bởi
vậy, để đạt được hiệu quả trong hoạt động cấp tín dụng, NHTM phải thực
hiện một quy trình phân tích tín dụng chặt chẽ với những bước phân tích tỉ mỉ
về các mặt tài chính, phi tài chính của khách hàng thông qua hệ thống chấm
điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng. Kết quả của quá trình này sẽ cho cán
bộ tín dụng thấy được hạng tín dụng của doanh nghiệp là tối ưu, loại ưu, tốt,
khá, trung bình hay yếu kém. Trên cơ sở đó, cán bộ tín dụng sẽ so sánh hạng
của doanh nghiệp đạt được với các mức phân hạng của Ngân hàng là ở vị trí
nào, có đủ điều kiện để cho vay hay không, và đặc biệt cán bộ có thể so sánh
hạng của hai doanh nghiệp cùng có nhu cầu vay vốn để lựa chọn một khách
hàng tốt hơn trong trường hợp nguồn tín dụng đã hạn chế. Không những thế,
thông qua hạng tín dụng của doanh nghiệp, cán bộ sẽ có chính sách tín dụng
cụ thể và phù hợp để giám sát và kiểm tra món vay. Mặt khác, một hệ thông

chấm điểm được tiêu chuẩn hóa và tự động hóa sẽ cho phép giảm bớt thời
gian và chi phí cho vay, do đó tạo điều kiện cho các Ngân hàng mở rộng vốn
Nguyễn Thị Thủy Toán Tài Chính 45
6
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
vay và khách hàng trên cơ sở an toàn. Đặc biệt nó còn cho phép giảm nhân sự
trong các Ngân hàng để tập trung nhiều hơn vào các khoản vay khó, và kết
quả là chấm điểm tín dụng sẽ giúp cho việc cho vay của các Ngân hàng
hướng vào các khách hạng có chất lượng. Đó chính là những ưu điểm vượt
trội của phương pháp định mức tín nhiệm so với những phương pháp thẩm
định tín dụng trước đây. Vì vậy mà định mức tín nhiệm có mục đích và vai trò
rất quan trọng đối với ngân hàng.
2. Sơ lược về Định mức tín nhiệm công ty
Định mức tín nhiệm là thuật ngữ bắt nguồn từ thuật ngữ tiếng Anh –
Credit Rating (Credit – sự tín nhiệm; Rating – sự định mức, sự xếp hạng).
Thuật ngữ này do John Moody đưa ra và công bố vào năm 1909 trong cuốn
cẩm nang chứng khoán đường sắt, trong đó ông phân tích, nghiến cứu và
công bố Bảng định mức tín nhiệm cho 1.500 loại trái phiếu của 250 công ty
theo một hệ thống ký hiệu hết sức đơn giản và dễ hiểu, với 3 chữ cái ABC
được xắp xếp lần lượt từ Aaa đến C. Chính những ký hiệu đó sau này đã trở
thành chuẩn mực quốc tế. Sau đó ông tiếp tục nghiên cứu và đưa ra Bảng định
mức tín nhiệm trái phiếu cho tất cả các nhà phát hành. Cùng với sự phát triển
đa dạng của thị trường chứng khoán, nhiều cách hiểu khác nhau về định mức
tín nhiệm cũng xuất hiện. Theo Bohn- john và công ty Moody’s “ Định mức
tín nhiệm là định mức về khả năng một nhà phát hành có thể thanh toán đúng
hạn cả gốc và lãi đối với một loại chứng khoán nợ trong suốt thời gian tồn tại
của nó”. Theo công ty chứng khoán Merrill Lynch, định mức tín nhiệm là
Định mức hiện thời của công ty định mức tín nhiệm về chất lượng tín dụng
của một nhà phát hành chứng khoán nợ, về một khoản nợ nhất định. Nói cách
khác, nó là định mức hiện thời về chất lượng tín dụng được xem xét trong

hoàn cảnh hướng về tương lai, phản ánh sự sẵn sàng và khả năng nhà phát
hành có thể thanh toán gốc và lãi đúng hạn.
Nguyễn Thị Thủy Toán Tài Chính 45
7
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
Như vậy: Định mức tín nhiệm là sự định mức hiện thời về mức độ sẵn
sàng và khả năng trả (gốc và lãi) đối với chứng khoán nợ của một nhà phát
hành trong suốt thời gian tồn tại của chứng khoán đó. Định mức tín nhiệm
tổng hợp tất cả các rủi ro về thanh toán gốc, lãi của các khoản nợ hiện tại và
tương lai của nhà phát hành. Định mức tín nhiệm công ty vì thế có thể xem là
thước đo vị thế của công ty trên thị trường vốn. Đối tượng của ĐMTN chính
là các doanh nghiệp, cá nhân hoặc các tổ chức đến vay vốn của Ngân Hàng.
2.1. Mục đích
Mục đích của ĐMTN là đưa ra những nhận xét đánh giá tình hình hoạt
động, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán trong hiện tại và tương lai của
doanh nghiệp nhằm hỗ trợ Ngân hàng trong việc:
- Ra quyết định cấp tín dụng: Cho vay hay không cho vay, xác định hạn
mức tín dụng của một khách hàng, số tiền cho vay/bảo lãnh, thời hạn, mức lãi
suất/phí, biện pháp bảo đảm cho khoản tín dụng,
- Giám sát và đánh giá khách hàng tín dụng khi khoản tín dụng đang
còn dư nợ, giúp Ngân hàng ngăn ngừa được rủi ro tín dụng có thể xảy ra, trên
cơ sở đó, thực hiện trích lập dự phòng rủi ro được chính xác khi khách hàng
không hoàn trả nợ đúng hạn.
Xét trên góc độ quản lý toàn bộ danh mục tín dụng, hệ thống ĐMTN
còn nhằm mục đích:
- Phát triển chiến lược Marketing nhằm hướng tới khách hàng có ít rủi
ro hơn,
- Ước lượng mức vốn đã cho vay sẽ không thu hồi được để trích lập dự
phòng rủi ro tín dụng.
2.2. Vai trò

- Đối với Doanh nghiệp: Các Ngân hàng thương mại với tư cách là
người cho vay, có thể đánh giá được tổng quan tình hình kinh doanh của
Nguyễn Thị Thủy Toán Tài Chính 45
8
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
khách hàng. Với những doanh nghiệp có xếp hạng cao, được đánh giá là rủi
ro thấp thì có thể được cho vay với các điều kiện ưu đãi về hạn mức tín dụng,
về lãi suất cho vay…. Ngược lại với các doanh nghiệp có thứ hạng thấp, tức
rủi ro mất khả năng thanh toán cao thì Ngân hàng sẽ thận trọng hơn trong việc
xem xét cho vay và có thể từ chối tài trợ nếu như thấy rằng rủi ro là quá lớn.
Do mục tiêu của Ngân hàng khi cho vay là lợi nhuận, song họ cũng rất quan
tâm đến rủi ro bị mất vốn, vậy nên họ sẵn sàng đầu tư vào các công cụ có lợi
nhuận thấp nhưng biết rằng khả năng trả nợ là chắc chắn. Các Ngân hàng
thương mại với tư cách là người đi vay, có thể dựa vào ĐMTN để tiếp xúc
được với các nguồn vốn một cách dễ dàng hơn, có thể nâng cao được uy tín
của mình, củng cố và xây dựng thương hiệu. Đặc biệt, với các Ngân hàng có
cổ phiếu niêm yết trên thị trường, ĐMTN còn giúp họ mở rộng thị trường.
Việc mở rộng thị trường đối với các Ngân hàng này giúp họ có thể tham gia
vào nhiều thị trường vốn khác nhau, bởi vì nhiều thị trường đòi hỏi Nhà phát
hành phải được Định mức tín nhiệm trước khi phát hành chứng khoán trên thị
trường. Không những thế, Định mức tín nhiệm còn giúp cho các Ngân hàng
này mở rộng các Nhà đầu tư tiềm năng, đây là một vấn đề quan trọng đối với
các Ngân hàng phát hành, vì Định mức tín nhiệm bảo vệ các Nhà đầu tư
thông qua việc đánh giá khả năng về thanh toán gốc và lãi của một Nhà phát
hành nhất định, do đó các đợt phát hành có công bố định mức tín nhiệm sẽ
kích thích các Nhà đầu tư tham gia mạnh mẽ hơn. Đặc biệt với các Nhà phát
hành lần đầu phát hành ra công chúng. Thông qua Định mức tín nhiệm, các
Ngân hàng phát hành có thể duy trì được thị trường huy động vốn trong mọi
hoàn cảnh, ngay trong trường hợp thị trường có nhiều biến động bất lợi đối
với việc huy động vốn, vì các Ngân hàng có Định mức tín nhiệm cao vẫn có

thể yên tâm về sự tham gia của các Nhà đầu tư vào đợt phát hành của mình.
- Đối với Nhà đầu tư: Trước khi quyết định đầu tư vào doanh nghiệp,
Nguyễn Thị Thủy Toán Tài Chính 45
9
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
nhà đầu tư phải nghiên cứu, xem xét tình hình hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp trong quá khứ và hiện tại dựa trên các tư liệu thu thập được để
từ đó dự đoán được tình hình hoạt động của doanh nghiệp, khả năng thu hồi
gốc, lãi trong thời gian tới. Đó cũng chính là công việc của công tác định mức
tín nhiệm, do đó các nhà đầu tư cũng có thể sử dụng kết quả của công tác
chấm điểm tín dụng mà không cần phải tốn thời gian đi thu thập, xử lý thông
tin để đánh giá doanh nghiệp, không bỏ lỡ mất cơ hội đầu tư. Đó lại là một
chỉ tiêu rõ ràng, đơn giản và dễ hiểu để xem xét quyết định đầu tư, vì với
những tài liệu liên quan đến tình trạng và tương lai của các nhà phát hành quá
chi tiết, quá phức tạp, một nhà đầu tư bình thường không thể tổng hợp, phân
tích để xác định một cách chính xác khả năng trả nợ của nhà phát hành- khả
năng thu hồi vốn đầu tư của mình. Đó còn là một nhân tố quan trọng trong
việc Định mức mối quan hệ rủi ro lợi nhuận thu được. Và đó còn là công cụ
quản lý danh mục đầu tư. Như chúng ta đã biết, nhà đầu tư mua chứng khoán
với mục đích thu lời từ hai nguồn chính bao gồm: Lãi cố định đối với trái
phiếu và cổ tức đối với cổ phiếu, lời trên vốn từ chênh lệch giá. Ngoài ra thì
đó còn là công cụ Định mức một số rủi ro có liên quan. Định mức tín nhiệm
chủ yếu được sử dụng cho các loại chứng khoán nợ, song Định mức tín nhiệm
cũng có tác dụng trong việc định mức rủi ro của Ngân hàng và các tổ chức
trung gian tài chính khác. Các Ngân hàng và các tổ chức trung gian tài chính
với tư cách là một nhà đầu tư sử dụng Định mức tín nhiệm làm một tiêu
chuẩn quan trọng trong quyết định cho vay, tài trợ dự án….
- Đối với các trung gian tài chính: Các trung gian tài chính chuyên
thực hiện việc bảo lãnh và giao dịch chứng khoán như Ngân hàng, công ty
chứng khoán, công ty đầu tư. Do có mối quan hệ thanh toán, tín dụng với các

doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng cũng hết sức quan tâm đến công tác Định
mức tín nhiệm bởi kết quả của quá trình này sẽ là cơ sở cho các trung gian tài
Nguyễn Thị Thủy Toán Tài Chính 45
10
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
chính đưa ra các quyết định liên quan đến việc cung cấp tín dụng cho doanh
nghiệp. Các trung gian tài chính không thể ra quyết định cho vay khi không
nắm rõ thông tin về doanh nghiệp, đặc biệt là các thông tin liên quan đến khả
năng trả nợ của khách hàng. Định mức tín nhiệm đóng vai trò quan trọng
trong hoạt động của các trung gian tài chính trong việc tránh rủi ro và tăng thu
nhập cho công ty. Nhà bảo lãnh căn cứ vào Định mức tín nhiệm của nhà phát
hành để dự đoán khả năng mua của các nhà đầu tư, khả năng tăng giá hoặc
giảm giá của công cụ chuẩn bị phát hành, từ đó xác định giá cả phù hợp nhằm
đảm bảo hiệu quả hoạt động kinh doanh. Đồng thời, các trung gian tài chính
cũng dựa vào sự thay đổi mức tín nhiệm của mỗi Nhà phát hành để dự đoán
nhu cầu các chứng khoán của Nhà phát hành đó trên thị trường để thực hiện
dịch vụ tư vấn đầu tư cho các khách hàng của mình. Chẳng hạn đối với Nhà
đầu tư không thích rủi ro thì họ sẽ có được lời khuyên nên mua các công cụ
có mức tín nhiệm cao và ngược lại. Khi mức tín nhiệm của một Nhà phát
hành bị đánh giá là giảm, người đầu tư sẽ nhận được lời khuyên nên bán các
trái phiếu của một Nhà phát hành tăng, Nhà đầu tư sẽ nhận được lời khuyên
nên nắm giữ số trái phiếu đó thêm một thời gian để chờ đợi giá của chứng
khoán này tăng hơn nữa.
- Đối với cơ quan quản lý thị trường vốn: Hoạt động Định mức tín
nhiệm hình thành và phát triển một cách tự phát trên cơ sở nhu cầu của thị
trường. Khi các công ty định mức tín nhiệm công bố mức tín nhiệm cho các
nhà phát hành, việc có sử dụng hay không hệ thống Định mức tín nhiệm này
hoàn toàn do lòng tin của các Nhà đầu tư. Tuy nhiên, việc phát triển mạnh mẽ
của Định mức tín nhiệm, nhất là trong mấy thập kỷ gần đây đã ngày càng
khẳng định vị trí, vai trò và sự cần thiết của Định mức tín nhiệm trong việc

phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán một cách an toàn và có hiệu
quả. Hệ thống tín nhiệm ngày càng được tín nhiệm đối với các Nhà đầu tư và
Nguyễn Thị Thủy Toán Tài Chính 45
11
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
các thành viên tham gia thị trường chứng khoán, họ sử dụng Định mức tín
nhiệm ngày càng nhiều hơn. Chính vì vậy, các cơ quan quản lý thị trường đã
bắt đầu sử dụng Định mức tín nhiệm làm công cụ để quản lý. Mục tiêu của
các cơ quan quản lý là đảm bảo được tính ổn định của thị trường. Thông qua
Định mức tín nhiệm, các cơ quan đảm nhiệm chức năng quản lý có thể sử
dụng các ĐMTN làm tiêu chí để xem xét tính lành mạnh và tình hình kinh
doanh của doanh nghiệp, dự báo trước xu hướng trên thị trường, xem xét, cho
phép phát hành chứng khoán, quy định các công cụ chứng khoán được phép
đầu tư đối với các tổ chức trung gian tài chính đặc biệt như Ngân hàng, Công
ty bảo hiểm. Đồng thời thông qua ĐMTN, các cơ quan quản lý cũng thấy
được những sai phạm để kịp thời điều chỉnh và có biện pháp xử lý, giảm thiểu
tính bất ổn của thị trường, giúp ngăn chặn và hạn chế hậu quả tiêu cực do các
doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả gây nên. Các cơ quan quản lý thị trường
đã bắt đầu sử dụng Định mức tín nhiệm làm một tiêu chuẩn kiểm tra sự lành
mạnh về tài chính của các công ty, một tiêu chí để xem xét cho phép phát
hành chứng khoán, quy định các công cụ chứng khoán được phép đầu tư đối
với các tổ chức trung gian tài chính đặc biệt như Ngân hàng, Công ty bảo
hiểm.
3. Nguyên tắc định mức tín nhiệm
Trong quá trình chấm điểm tín dụng, cán bộ tín dụng sẽ thu được điểm
ban đầu và điểm tổng hợp để xếp hạng khách hàng.
- Điểm ban đầu là điểm của từng tiêu chí chấm điểm tín nhiệm mà cán
bộ tín dụng đã xác định được sau khi phân tích tiêu chí đó.
- Điểm tổng hợp bằng điểm ban đầu nhân với trọng số.
- Trọng số là mức độ quan trọng của từng tiêu chí chấm điểm tín nhiệm

(chỉ số tài chính hoặc yếu tố phi tài chính) xét trên góc độ rủi ro tín dụng.
Trong quy trình chấm điểm tín dụng, cán bộ tín dụng sử dụng các bảng
Nguyễn Thị Thủy Toán Tài Chính 45
12
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
tiêu chuẩn đánh giá các tiêu chí chấm điểm tín dụng theo nguyên tắc:
- Đối với mỗi tiêu chí trên bảng tiêu chuẩn đánh giá các tiêu chí, chỉ số
thực tế gần với trị số nào nhất thì áp dụng cho xếp loại đó, nếu nằm giữa hai
trị số thì ưu tiên nghiêng về phía loại tốt hơn,
- Trong trường hợp khách hàng có bảo lãnh toàn phần (lớn hơn hoặc
bằng 100% giá trị khoản tín dụng) của một tổ chức có năng lực tài chính
mạnh hơn, thì khách hàng có thể được xếp hạng tín dụng tương đương hạng
tín dụng của bên bảo lãnh (nếu bên bảo lãnh cũng được ngân hàng cho vay
chấm điểm). Quy trình chấm điểm của bên bảo lãnh cũng giống như quy trình
áp dụng cho khách hàng. Trường hợp bảo lãnh một phần thì chỉ tiến hành
Định mức tín nhiệm cho chính khách hàng,
Sau khi chấm điểm tín nhiệm cho khách hàng, ngân hàng sẽ tiến hành
xếp hạng khách hàng, mỗi ngân hàng sẽ có một cách xếp hạng riêng nhưng
nhìn chung là chia thành 10 hạng mục có mức độ từ cao xuống thấp.
4. Các tổ chức Xếp hạng tín nhiệm
Trên thế giới có 3 công ty ĐMTN quốc tế đang thống lĩnh thị trường,
đều là công ty ĐMTN của Mỹ, gồm Moody’s; Standard and Poor và Fitch
Ratings. Trong khu vực châu Á, có một số công ty ĐMTN uy tín như Công ty
ĐMTN và thông tin quốc gia Hàn Quốc; Công ty Dịch vụ ĐMTN và thông tin
Thái Lan; Cơ quan ĐMTN Malaysia… Ban đầu, dịch vụ ĐMTN chỉ được sử
dụng để đánh giá khả năng sẵn sàng của một nhà phát hành trong việc thanh
toán đúng hạn cho một khoản nợ nhất định, hay nói cách khác dịch vụ này chỉ
phục vụ cho các chứng khoán nợ (trái phiếu). Tuy nhiên, hiện nay, ĐMTN
được hoàn thiện và mở rộng hơn để cung cấp đánh giá tổng quát về chứng
khoán nợ và chứng khoán vốn.

Hiện tại tất cả các nước trong khu vực (trừ Lào, Campuchia) đều đã
thiết lập công ty định mức tín nhiệm (CRA) trên dưới 15 năm. Khối ASEAN
Nguyễn Thị Thủy Toán Tài Chính 45
13
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
cũng đã thành lập Diễn đàn các doanh nghiệp định mức tín nhiệm như một tổ
chức doanh nghiệp ngành nghề của các nước Đông Nam Á. Hiệp hội các
CRA của châu Á đã được thiết lập với sự trợ giúp của Ngân Hàng Phát triển
châu Á (ADB).
Tại Việt Nam đang có 4 đối tượng cần được thực hiện ĐMTN để tăng
tính minh bạch, chất lượng hoạt động, đồng thời góp phần hỗ trợ đầu tư cho
công chúng.
Thứ nhất là các DN quy mô lớn, đã và đang tiến hành cổ phần hoá và
các DN niêm yết trên TTCK. Việc tiến hành ĐMTN đối với các DN này cần
được coi như một điều kiện bắt buộc nhằm bảo vệ công chúng đầu tư, vì đại
bộ phận nhà đầu tư chưa có kiến thức và kinh nghiệm trong đầu tư chứng
khoán,
Đối tượng thứ hai cần được ĐMTN là các Ngân hàng TMQD và ngân
hàng cổ phần tại Việt Nam. Kế hoạch cổ phần hoá các ngân hàng TMQD của
Chính phủ cùng với sự phát triển mạnh mẽ của mạng lưới Ngân hàng cổ phần
trong những năm gần đây khiến ngành Ngân hàng không chỉ là tâm điểm của
nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài, mà còn thu hút một lượng lớn nhà đầu tư
trong nước tham gia. Việc áp dụng ĐMTN đối với hệ thống Ngân hàng Việt
Nam nếu được triển khai sẽ tăng cường tính minh bạch của hệ thống Ngân
hàng, đồng thời tạo đà cho thị trường trái phiếu ngân hàng phát triển,
Đối tượng thứ ba cần ĐMTN là các tổ chức phát hành nợ dài hạn, như
Chính phủ, các chính quyền địa phương, các định chế tài chính Việc đánh
giá khả năng hoàn trả gốc và lãi vay của đối tượng này sẽ giúp nhà đầu tư
đánh giá đúng mức độ rủi ro cũng như mức độ hấp dẫn của khoản đầu tư. Đây
là điều kiện quan trọng để phát triển một thị trường trái phiếu chuyên nghiệp

tại Việt Nam,
. Đối tượng cuối cùng cần được ĐMTN là các DN vừa và nhỏ. Hiện số
Nguyễn Thị Thủy Toán Tài Chính 45
14
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
DN vừa và nhỏ chiếm đến 95% tổng số DN Việt Nam và đối tượng này được
coi là khu vực vừa có tiềm năng lớn, vừa có rủi ro cao. Việc ĐMTN đối với
loại DN này sẽ giúp các DN dễ dàng hơn trong việc huy động vốn, đồng thời
giúp công chúng giảm thiểu rủi ro khi đầu tư.
Thực tế, trên thị trường Việt Nam đã hình thành 3 tổ chức ĐMTN. Một
là Công ty Thông tin tín nhiệm DN C&R. Công ty này thành lập từ năm 2004
dưới dạng một công ty tư nhân nhưng thực tế công ty này đã hoạt động trong
lĩnh vực thông tin tín nhiệm từ năm 2000. Thị trường chủ yếu của C&R là các
doanh nghiệp trong và ngoài nước quan tâm đến việc đầu tư tại Việt Nam, thông
qua việc cung cấp các báo cáo tín nhiệm về các doanh nghiệp đang hoạt động tại
Việt Nam trong đó có đưa ra chỉ số tín nhiệm và thang điểm chung nhất cho các
công ty, mức độ phức tạp chưa cao. Doanh số hoạt động của C&R năm 2005
khoảng 3 tỷ đồng, chủ yếu từ các dịch vụ cung cấp thông tin. Tuy nhiên, hiện
C&R chưa cung cấp dịch vụ ĐMTN cho DN trên sàn và các loại trái phiếu.
Hai là Trung tâm Thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước- CIC.
Tổ chức này ra đời từ năm 1994, có chức năng lưu trữ thông tin trong lĩnh
vực tín dụng và đã xếp hạng cho khoảng 8.000 DN là các khách hàng thường
xuyên của các Ngân hàng thương mại. Cách xếp hạng của tổ chức này thiên
về lịch sử vay vốn chứ không phân tích chuyên sâu về khả năng cạnh tranh
của các ngành, các DN, cũng như những thay đổi, biến động của nền kinh tế.
Ba là Trung tâm Đánh giá tín nhiệm Vietnamnet Rating, ra đời với mục
đích trở thành tổ chức chuyên nghiệp đầu tiên của Việt Nam trong lĩnh vực
ĐMTN. Thị trường mà Trung tâm hướng tới là các doanh nghiệp có hoạt động
kinh doanh liên quan tới thị trường vốn và thị trường chứng khoán. Tuy nhiên,
do thị trường nhỏ bé lại thiếu sự quan tâm của cơ quan chức năng, nên Trung

tâm này đã tạm ngừng hoạt động.
Trong tương lai Trung tâm Thông tin tín dụng sẽ được tách ra khỏi
Nguyễn Thị Thủy Toán Tài Chính 45
15
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, trở thành một công ty định mức tín nhiệm
hoạt động độc lập. Song song với việc hoàn thiện tổ chức cũng như nghiệp vụ
tại các trung tâm trên, các công ty định mức tín nhiệm mới cũng được thành
lập.
Nhìn chung các tổ chức định mức tín nhiệm ở Việt Nam hiện nay mới
chỉ hoạt động như các tổ chức thông tin tín dụng, chứ chưa phải là các tổ chức
định mức tín nhiệm với vai trò xóa bỏ khoảng tối thông tin trên thị trường.
Việc định mức thường không linh hoạt để có thể đảm bảo thay đổi kịp thời
theo diễn biến thị trường và hơn nữa nó chưa phải là một tiêu chí đánh giá
chính xác về hoạt động sản xuất kinh của các doanh nghiệp được định mức.
II. Các phương pháp Định mức tín nhiệm công ty trên thế giới
hiện nay
1. Phương pháp truyền thống
Đa số các tổ chức đánh giá tín nhiệm sử dụng phương pháp truyền
thống để định mức tín nhiệm. Nguyên tắc cơ bản của phương pháp này là dự
đoán khả năng vỡ nợ và dự đoán giá trị hợp đồng tại những thời điểm có khả
năng vỡ nợ bằng việc phân tích các yếu tố đặc trưng. Nói chung về nguyên
tắc phương pháp của các công ty là tương đối giống nhau như một số mô hình
sau:
Standard& Poors: Chia lĩnh vực phân tích thành kiểu loại theo rủi ro
kinh doanh (bao gồm: đặc tính ngành, vị thế cạnh tranh, quản lý) và rủi ro tài
chính (bao gồm: tình hình, chính sách tài chính, lợi nhuận, cấu trúc vốn, dòng
tiền mặt, sự linh hoạt tài chính).
Moody: Đánh giá khả năng trả nợ của riêng công ty theo một số yếu tố
chính như: Khuynh hướng của ngành và của quốc gia; Chất lượng quản lý và

thái độ của nhà quản lý với rủi ro; Các hoạt động kinh doanh chủ yếu và vị
thế cạnh tranh; Tình hình tài chính và các nguồn tiền mặt; Cơ cấu của công ty;
Nguyễn Thị Thủy Toán Tài Chính 45
16
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
Các cam kết hỗ trợ tài chính của công ty mẹ; Các biến cố đặc biệt.
Một số mô hình khác: Phân tích ngành, phân tích tài chính và phân tích
những yếu tố phi tài chính như quản lý, ảnh hưởng từ nước ngoài và các ràng
buộc khác.
2. Phương pháp xây dựng thang điểm
Sử dụng bảng cho điểm, chia các yếu tố phân tích thành nhiều hạng mục
khác nhau, cung cấp một thang điểm cho tất cả các chỉ tiêu khi đánh giá một đối
tượng nhất định và được trình bày dưới hình thức các biểu tượng đơn giản để các
nhà đầu tư dễ hiểu và dễ nhận rõ. Chẳng hạn như các trái phiếu thường sắp hạng
từ AAA ( là những trái phiếu có rủi ro thanh toán thấp nhất) cho tới D ( là những
trái phiếu đang có rủi ro về thanh toán), phụ thuộc vào khả năng của nhà phát
hành về việc thanh toán nợ và lãi có đúng hạn hay không.
Tổ chức định mức tín nhiệm đưa ra các biểu tượng định mức để phân
biệt mức độ tín nhiệm đối với từng hạng và có đối chiếu, so sánh với các hạng
mục của các Tổ chức định mức tín nhiệm khác. Hệ thống bảng Định mức tín
nhiệm tiêu biểu nhất hiện nay là hệ thống ký hiệu của hai công ty Định mức
tín nhiệm hàng đầu thế giới Moody’s và S&P, được xây dựng trên khung ký
hiệu do John Moody đề nghị và trở thành tiêu chuẩn để xây dựng hệ thống ký
hiệu định mức tín nhiệm của hầu hết các công ty làm nhiệm vụ này trên thế
giới. Mức hạng của Standard & Poor có biên độ từ AAA đến D, của Moody
từ Aaa tới C, của Fitch từ AAA đến D. Duff & Phelps có biên độ từ AAA tới
CCC
Nguyễn Thị Thủy Toán Tài Chính 45
17
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế

Bảng 1.1. Ký hiệu sắp xếp hạng tín nhiệm của một số công ty định mức tín nhiệm
STT Tên công ty XHTN ngắn hạn XHTN dài hạn
1 Moody’s Investor P-1 tới P-3 Aaa tới C
2 Standard & Poor’s Corporation A-1 tới D AAA tới D
3 Duff & Phelps Duff-1 tới Duff-3 1 tới 17
4 Fitch Investors Service F-1 tới F-4 AAA tới D
5 Canadian Bind Rating Service A-1 tới A-4 A++ tới D
6 McCarthy, Crisanti & Maffei MCM-1 tới MCM-6 A tới D
7 Mikumi & Co N/A AAA tới D
8 Dominion Bond Rating Service R-1 tới U AAA tới C
9 Internationnal Bank Credit Analyisis - A tới E
10 Australian Ratings A.1 tới C.1 AAA tới D
11 Nippon Investors Service A-1 tới D AAA tới D
12 Japan Credit Rating Agency J-1 tới J-3 Aaa tới D
13 Agence d’Evaluation Financiere T-1 tới T-4 AAA tới D
14 Korean Investors Service A1 tới D AAA tới D
15 Credit Rating Services of India Ltd P-1 tới T-5 AAA tới D
Bảng định mức tín nhiệm được chia làm 2 loại: Bảng ký hiệu Định mức
tín nhiệm biểu hiện cho các công cụ nợ ngắn hạn và bảng ký hiệu Định mức
tín nhiệm biểu hiện cho các công cụ nợ dài hạn. Nhìn vào kí hiệu về Định
mức tín nhiệm được ấn định cho bất cứ một doanh nghiệp nào, nhà đầu tư đều
có thể biết được mức độ rủi ro đối với các công cụ vay nợ của doanh nghiệp
đó.
Bảng 1.2. Ký hiệu sắp xếp hạng tín nhiệm sử dụng cho nợ dài hạn
Moody S&P Diễn giải
Aaa AAA Chứng khoán được định mức loại này có chất lượng cao nhất, có độ rủi ro
thấp nhất, đây thường là các Chứng khoán vàng có khả năng trả nợ mạnh
nhất.
Aa AA Chứng khoán được định mức loại này có chất lượng cao, mức độ rủi ro thấp
Nguyễn Thị Thủy Toán Tài Chính 45

18
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
và do đó có khả năng trả nợ cao.
A A Đây là loại chứng khoán đạt trên mức trung bình các nhân tố đảm bảo về khả
năng trả nợ ngắn và dài hạn, tuy chưa thật chắc chắn nhưng có độ tin cậy cao.
Do đó chứng khoán này được xếp loại có khả năng trả nợ.
Baa BBB Đây là loại chứng khoán trung bình, mức an toàn và rủi ro không cao, không
thấp. Khả năng trả nợ gốc và lãi hiện thời không thật chắc chắn nhưng không
có dấu hiệu nguy hiểm. Tuy nhiên chứng khoán loại này có tính đầu cơ hơn là
đầu tư. Do đó khả năng trả nợ của loại chứng khoán này đạt mức trung bình.
Ba BB Chứng khoán loại này có nhiều tính đầu cơ, tương lai của loại chứng khoán
này khó xác định, do đó khả năng trả nợ gốc và lãi không thật chắc chắn và an
toàn như loại trên
B B Nhìn chung chứng khoán loại này thiếu sự hấp dẫn cho đầu tư. Sự đảm bảo về
hoàn trả gốc và lãi trong tương lai là rất nhỏ, do đó có tính đầu cơ cao.
Caa CCC Khả năng trả nợ thấp, dễ bị vỡ nợ.
Ca CC Mức đầu cơ cao nhất, thường bị vỡ nợ.
C C Đối với Moody, đây là định mức tín nhiệm thấp nhất
D Định mức tín nhiệm thấp nhất của S&P. Hai định mức tín nhiệm đạt C và D
thể hiện Nhà phát hành trong tình trạng sắp phá sản
Để định mức tín nhiệm chi tiết hơn, công ty Moody dùng thêm ký hiệu
1,2,3 vào sau mỗi mức tín nhiệm cơ bản nhằm chia mỗi mức cơ bản thành 3
mức nhỏ (ngoại trừ hai mức cao nhất và thấp nhất AAA và C). Ví dụ từ mức
tín nhiệm là Ba được chia thành Ba1, Ba2, Ba3 với mức tín nhiệm ngày một
giảm. Cũng cách làm như vậy, công ty S&P sử dụng “+” và “-” để chi tiết
hóa các mức tín nhiệm cơ bản
Bảng 1.3. Ký hiệu sắp xếp hạng tín nhiệm sử dụng cho nợ ngắn hạn
Moody S&P Diễn giải
P-1 A-1+ Khả năng trả nợ mạnh nhất
A-1 Khả năng trả nợ mạnh

P-2 A-2 Khả năng trả nợ đạt mức trung bình khá
P-3 A-3 Khả năng trả nợ đạt mức trung bình hay vừa đủ để được
định mức đầu tư
NP B Khả năng trả nợ yếu, mang tính đầu cơ
C Khả năng trả nợ yếu
Nguyễn Thị Thủy Toán Tài Chính 45
19
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
D Khả năng trả nợ rât yếu, thể hiện Nhà phát hành đang trong
nguy cơ bị phá sản
Giữa định mức tín nhiệm cho các công cụ nợ dài hạn và các công cụ nợ
ngắn hạn có mối quan hệ tương đối với nhau như sau:
Bảng 1.4. Quan hệ xếp hạng tín nhiệm ngắn hạn và dài hạn
S&P Moody
Dài hạn Ngắn hạn Dài hạn Ngắn hạn
AAA Aaa
A-1+
AA+ Aa1
AA Aa2
AA- Aa3
A+ A1
A A2
A- A3
BBB+ Baa1
BBB Baa2
BBB- Baa3
BB+ Ba1
3. Phương pháp đánh giá
Theo phương pháp này, Ngân hàng tiến hành phân tích, đánh giá các
khách hàng vay vốn thông qua hệ thống các chỉ tiêu. Trong đó các chỉ tiêu

chính là:
1. Dòng ngân lưu
2. Khả năng thanh khoản
3. Chất lượng tài sản
4. Lợi nhuận
5. Đòn bẩy tài chính.
Phương pháp này tập trung chủ yếu vào các chỉ tiêu tài chính của khách
hàng để dự đoán khả năng chi trả trong tương lai, nhưng lại thiếu đi các yếu
Nguyễn Thị Thủy Toán Tài Chính 45
20
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
tố định tính, không được tính toán dựa trên lịch sử vay vốn của khách hàng do
đó có thể không phản ánh được đầy đủ và toàn diện thông tin liên quan đến
khách hàng.
4. Phương pháp sử dụng các mô hình.
Theo phương pháp này, các tổ chức chấm điểm tiến hành chấm điểm và
xếp hạng các khách hàng của mình thông qua các mô hình.
+ Mô hình phân lớp tự động: Có thể thấy một điểm chung trong các
phương pháp Định mức tín nhiệm công ty chính là vấn đề cho điểm các tiêu
chí xếp hạng. Việc lựa chọn các tập tiêu chí và cách cho điểm các tiêu chí này
chủ yếu dựa trên kinh nghiệm của các chuyên gia. Sự phù hợp của các lựa
chọn có thể sẽ rất thấp nếu áp dụng cho một số thị trường cụ thể. Mô hình
phân lớp tự động cho phép khắc phục chính những nhược điểm này. Mô hình
này cho phép tùy ý trong việc lựa chọn các tiêu chí ban đầu. Việc giải mô
hình sẽ cung cấp cơ sở lựa chọn bộ tiêu thức cuối cùng. Mô hình này xếp
hạng công ty không theo một tiêu thức hiệu quả mà chỉ xếp những công ty
giống nhau vào cùng một lớp. Phán xét về mức tín nhiệm có thể do nhà đầu tư
quyết định. Mô hình như sau:
Xét một tập hợp các cá thể J = (1,2,3,…,m) – Các công ty. Gọi tập hợp
các chỉ tiêu phản ánh tình trạng của công ty là {X

1
,X
2
,…X
n
}. Ma trận X sau
đây mô tả mỗi dòng là một công ty và mỗi cột là một tiêu chí:
X=












mnmm
n
n
xxx
xxx
xxx





21
22221
11211
Tiến hành tách X thành k lớp hữu hạn, trong đó các công ty ở mỗi lớp
giống nhau tối đa, và các công ty ở các lớp khác nhau thì khác biệt tối đa.
+ Mô hình CAPM: Mô hình này xếp hạng tín nhiệm dựa trên hệ số rủi
Nguyễn Thị Thủy Toán Tài Chính 45
21
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
ro của lợi suất cổ phiếu do thị trường đánh giá. Bằng số liệu theo chuỗi thời
gian của lợi suất cổ phiếu mỗi công ty, mô hình sẽ đưa ra hệ số rủi ro và xếp
hạng tín nhiệm của các công ty tương ứng với mức độ rủi ro tìm được. Tuy
nhiên mô hình CAPM chỉ có thể áp dụng được đối với các công ty đã niêm
yết trên thị trường.
+ Mô hình điểm số Z: Được Edward I.Almtman (Mỹ) đưa ra, nhằm
đánh giá xếp hạng khách hàng dựa trên điểm số Z, là tổng điểm của 5 chỉ tiêu
thành phần. Điểm số Z chấm cho mỗi khách hàng được xác định theo công
thức sau:
Z = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 + 0,999X5.
Trong đó:
Các hệ số: thể hiện tầm quan trọng của từng chỉ tiêu đánh giá.
X1= Vốn lưu động / Tổng tài sản.
Chỉ tiêu này cho biết cơ cấu tài sản lưu động trên tổng tài sản. Chỉ tiêu
này càng thấp thì doanh nghiệp đang có dấu hiệu làm ăn thua lỗ.
X2= Lãi chưa phân phối / Tổng tài sản.
Chỉ tiêu này đo lường thu nhập để tái đầu tư. Chỉ tiêu này càng cao thì
khả năng phá sản càng thấp.
X3= Lợi nhuận sau thuế và lãi vay / Tổng tài sản.
Chỉ tiêu này đo lường khả năng sinh lợi từ tài sản. Đây là yếu tố quyết
định vận mệnh của doanh nghiệp.

X4= Giá trị thị trường của VCSH / Giá trị hạch toán của tổng nợ.
Chỉ tiêu này cho biết giá trị doanh nghiệp sụt giảm bao nhiêu trước khi
nợ vượt quá tài sản. Và như vậy, doanh nghiệp sẽ sớm bị phá sản.
X5= Doanh thu / Tổng tài sản.
Chỉ tiêu này đánh giá năng lực quản trị trong môi trường cạnh tranh.
Tổ chức định mức sẽ tiến hành tính toán số điểm của từng khách hàng, sau đó
Nguyễn Thị Thủy Toán Tài Chính 45
22
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
đưa ra quyết định của mình dựa vào sơ đồ sau, và theo đó, nếu điểm của
khách hàng trên 1,81 thì mới tiến hành xem xét cấp tín dụng.
1,81 2,99
Rủi ro cao, không cấp
tín dụng
Không có hoặc ít rủi
ro
Trị số Z càng cao, người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp, như vậy khi
trị số Z thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ để xếp hạng khách hàng và nhóm
có nguy cơ vỡ nợ cao.
Bên cạnh những ưu điểm, mô hình còn có một số hạn chế sau: Mô hình
chỉ cho phép phân biệt khách hàng thành 2 nhóm là “vỡ nợ” và “ không vỡ
nợ”, trong thực tế vỡ nợ được phân thành nhiều loại, từ không trả hay chậm
trễ trong việc trả lãi tiền vay, đến việc không hoàn trả lãi và gốc tiền vay. Mô
hình cũng không tính đến một số nhân tố quan trọng nhưng khó lượng hóa,
nhưng lại ảnh hưởng đáng kể tới mức độ rủi ro của Ngân hàng.
Thực ra có nhiều cách để lựa chọn các chỉ tiêu cho mô hình mà không
nhất thiết phải là 5 chỉ tiêu như trên, và với mỗi một nền kinh tế khác nhau,
mỗi thị trường khác nhau thì hệ số cũng khác nhau. Do đó có thể đưa vào mô
hình nhiều tiêu chí để xem xét mức độ ảnh hưởng của những tiêu chí đó tới
một tiêu chí cụ thể.

Việc xếp hạng khách hàng có thể dựa trên nhiều phương pháp khác
nhau, trên đây chỉ là một vài phương pháp trong số đó. Các phương pháp tuy
đa dạng, và mỗi phương pháp lại có những ưu nhược điểm nhất định, nhưng
tựu chung lại thì đều dựa vào kết quả phân tích các yếu tố định tính và định
lượng thông qua các thông tin thu thập về khách hàng từ nhiều nguồn khác
nhau.
Nguyễn Thị Thủy Toán Tài Chính 45
23
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
Đối với phương pháp phân tích theo mô hình điểm số, các ngân hàng
thường áp dụng trong trường hợp đánh giá khả năng phá sản của doanh
nghiệp để có các phương án xử lý cũng như thực hiện trích lập dự phòng cho
phù hợp. Phương án này thường được áp dụng tại các nước phát triển, ở Việt
Nam phương pháp này vẫn chưa được áp dụng. Trong khuôn khổ của bài luận
văn này, em xin được trình bày cách thức xếp hạng khách hàng dựa theo
phương pháp mô hình điểm số, được gọi là mô hình Đa nhân tố
Nguyễn Thị Thủy Toán Tài Chính 45
24
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
CHƯƠNG II
ĐỊNH MỨC TÍN NHIỆM TẠI SỞ GIAO DỊCH I NGÂN
HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM
I. Giới thiệu về Sở giao dịch I Ngân hàng công thương Việt Nam
(SGD I)
1. Cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ của SGD I.
Sở giao dịch I (SGD I) trụ sở chính tại số 10 Lê Lai- Quận Hoàn
Kiếm-Hà Nội, là một đơn vị lớn của Ngân Hàng Công Thương Việt Nam
(NHCT VN) được thành lập ngày 30/03/1995, là đại diện ủy quyền của
NHCT VN với nhiệm vụ chính được giao là: Huy động vốn; cho vay, đầu tư;
Bảo lãnh; Thanh toán và tài trợ thương mại; Ngân quỹ; Thẻ và ngân hàng

điện tử ; Các hoạt động khác. Tên giao dịch quốc tế của SGD I là: Industrial
and commercial Bank of Việt Nam – transaction office N
o
-1.
SGD I một mặt có chức năng như một chi nhánh của NHCT VN thực
hiện đầy đủ các hoạt động của một NHTM, mặt khác, nó thể hiện là một
Ngân hàng trung tâm của NHCT VN, nơi nhận các quyết định, chỉ thị đầu
tiên; Thực hiện thí điểm các chủ trương, chính sách của NHCT VN; Đồng
thời điều vốn cho các chi nhánh khác trong hệ thống NHCT VN. Theo quy
định của NHCT VN, SGD I là đầu mối cho các chi nhánh NHCT VN phía
Bắc trong nghiệp vụ thu chi ngoại tệ, tiền mặt, thanh toán Séc du lịch và một
số nghĩa vụ khác theo ủy quyền của NHCT VN.
SGD I là đơn vị hạch toán phụ thuộc của NHCT VN, thực hiện kế toán
tiền tệ, tín dụng, dịch vụ Ngân Hàng theo luật các Ngân Hàng Tín Dụng, điều
lệ NHCT VN, các quy định pháp luật của NHCT VN: SGD I là đại diện theo
ủy quyền của NHCT VN, có quyền tự chủ kinh doanh theo các chức năng
Nguyễn Thị Thủy Toán Tài Chính 45
25

×