Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢI TOÁN có lời văn CHO học SINH lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.32 KB, 30 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay giáo
dục luôn là quốc sách hàng đầu cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Trong thư gửi các cháu thiếu niên nhi đồng ngày khai trường đầu
tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Bác Hồ viết: “Non sông
Việt Nam được vẻ vang sánh vai các cường quốc năm châu hay không
? Chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”.
Câu nói đó của Bác đó trở thành chân lí của mọi thời đại và hoàn
toàn phù hợp với qui luật phát triển của thời đại. Sự tồn tại và phát
triển của một đất nước phù thuộc rất lớn vào nền giáo dục. Nhận thức
đúng đắn vai trò của việc dạy và học trong thời kì mới, nhất là trong
những năm gần đây chúng ta đang hướng tới mục tiêu xây dựng đất
nước giàu đẹp, xã hội văn minh, Đảng và Nhà nước ta đó coi giáo dục
là quốc sách hàng đầu.
Măng non kế tiếp tre già, thế hệ trẻ hôm nay sẽ là chủ nhân
tương lai của đất nước ngày mai. Đất nước có được phồn vinh thì phải
có một nền công nghệ tiên tiến hiện đại, một nền giáo dục tiên tiến,
một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu được những tinh hoa
tiên tiến nhất của loài người. Giáo dục có nhiệm vụ quan trọng trong
quá trình giáo dục và xây dựng xã hội chủ nghĩa. Muốn nâng cao được
chất lượng giáo dục đào tạo nhân tài thì "người thầy giáo phải là người
mẫu mực nhất trong những người mẫu mực" (lời nói của cố Thủ tướng
Chính phủ Phạm Văn Đồng). Muốn đạt được những mong muốn đó
người thầy giáo phải là những nhà sư phạm, phải nghiên cứu khoa học
giáo dục, nghiên cứu những tinh hoa tinh tế nhất của loài người.
Nghiên cứu giáo dục là con đường tốt nhất để người thầy giáo nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và phát triển năng lực sư phạm
của mình. Nghiên cứu khoa học để góp phần xây dựng nên một nền
giáo dục tiên tiến của đất nước.
Trên cơ sở nhận thức tầm quan trọng của việc nghiên cứu khoa
học giáo dục và nhiệm vụ của người giáo viên giảng dạy trực tiếp ở


trường Tiểu học. Từ thực tế đã làm trong những năm học trước và
nhất là năm học 2014 - 2015 tôi đã nghiên cứu đề tài này nhằm góp
phần vào việc nâng cao chất lượng "Dạy giải toán có lời văn cho học
sinh lớp 1" ở trường Tiểu học Tràng An.
Trong thời gian nghiên cứu đề tài với sự cố gắng vươn lên của
bản thân và được sự giúp đỡ tận tình của Ban Giám hiệu nhà trường,
1
cùng bạn bè đồng nghiệp. Song thời gian có hạn nên việc nghiên cứu
có phần hạn chế, vì vậy tôi rất mong những nhận xét đánh giá bổ sung
của các cấp lãnh đạo để hoàn thiện thêm đề tài này.
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN
CHO HỌC SINH LỚP I
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
* Tầm quan trọng của môn Toán
Môn Toán có vị trí quan trọng trong các môn học khác ở Tiểu
học. Những kiến thức, kĩ năng của môn toán có nhiều ứng dụng trong
đời sống của con người. Nó cùng với môn học khác góp phần giáo dục
học sinh phát triển trở thành con người toàn diện, phát huy trí thông
minh, óc sáng tạo và suy nghĩ độc lập, linh hoạt trong qúa trình chiếm
lĩnh kiến thức. Môn toán ở Tiểu học còn bồi dưỡng cho các em có tính
trung thực, cẩn thận, tinh thần hăng say lao động, học tập góp phần
xây dựng và hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của con
người lao động mới.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay nhiệm vụ trung tâm của
giáo dục là đào tạo thế hệ trẻ thành con người mới. Đó là con người có
ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khoẻ và
lao động giỏi. Sống có văn hoá và tình nghĩa, giàu lòng yêu nước và
tinh thần quốc tế chân chính.
* Tầm quan trọng của việc giải toán có lời văn ở lớp 1

Một trong những mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học môn
toán ở Tiểu học là nhằm cung cấp cho học sinh những cơ sở ban đầu
về toán, bao gồm: Các yếu tố số học, đại cương và đo đại lượng, các
yếu tố hình học và giải toán có lời văn.
Như vậy việc giải toán có lời văn được xem là một trong những
nội dung chính của môn toán ở Tiểu học, nó có vị trí quan trọng trong
chương trình toán ở phổ thông. Học sinh Tiểu học được làm quen với
"toán có lời văn" ngay từ đầu lớp 1 và được học liên tục cho đến lớp 5
và học cao hơn nữa ở các cấp học trên. Toán có lời văn cùng với nội
dung khác góp phần rèn luyện trí tuệ cho học sinh Tiểu học. "Toán có
lời văn" thực chất là những bài toán thực tế, cụ thể gần gũi với các em
2
hàng ngày. Nội dung bài toán được thông qua những câu văn nói về
những quan hệ tương quan và phụ thuộc, có sự liên quan tới cuộc sống
thường xảy ra hàng ngày. Toán có lời văn không chỉ là khái niệm ban
đầu về cách giải toán mà nó còn giúp cho học sinh làm quen với các
khái niệm thuật ngữ về "thêm, bớt, cho, tặng". Từ đó còn giúp cho học
sinh biết cách tập sử dụng các đồ dùng học tập để hình thành một số kĩ
năng thực hành như phân tích tổng hợp để tóm tắt bài toán và trình
bày bài giải một cách khoa học.
Thông qua hoạt động giải toán có lời văn học sinh được rèn
luyện khả năng quan sát, so sánh, tổng hợp, thực hành khả năng học
tập, năng lực diễn đạt bằng ngôn ngữ nói và viết. Thông qua các hoạt
động thực hành và dựa vào kiến thức tiếp thu được qua việc học về
giải toán có lời văn, học sinh sẽ tích luỹ được những kỹ năng cần thiết
phục vụ đời sống thực tiễn.
Trong những năm gần đây, phong trào đổi mới phương pháp dạy
học trong trường Tiểu học được quan tâm và đẩy mạnh không ngừng
để ngay từ cấp Tiểu học, mỗi học sinh đều cần và có thể đạt được
trình độ học vấn toàn diện, đồng thời phát triển được khả năng của

mình về một môn nào đó nhằm chuẩn bị ngay từ bậc Tiểu học những
con người chủ động, sáng tạo đáp ứng được mục tiêu chung của cấp
học và phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước.
Dạy toán ở tiểu học vừa phải đảm bảo tính hệ thống chính xác
của toán học vừa phải đảm bảo tính vừa sức của học sinh. Kết hợp yêu
cầu đó là một việc làm khó, đòi hỏi tính khoa học và nhận thức, tốt về
cả nội dung lẫn phương pháp. Trong chương trình dạy toán 1 thì việc
dạy học giải toán có lời văn nhằm giúp học sinh biết cách vận dụng
những kiến thức về toán, được rèn luyện kĩ năng thực hành với những
yêu cầu được thể hiện một cách đa dạng, phong phú. Nhờ việc dạy
học giải toán có lời văn mà học sinh có điều kiện rèn luyện và phát
triển năng lực tư duy, rèn phương pháp suy luận và những phẩm chất
của người lao động mới.
Đồng thời với việc trau dồi kiến thức, kĩ năng toán học cơ bản
cho học sinh, môn toán còn giúp cho học sinh phương pháp suy luận,
phương pháp lao động tốt, phương pháp tự học, phương pháp giải
quyết các vấn đề, từ đó học sinh có phương pháp tự học và phát triển
trí thông minh sáng tạo.
3
Qua hoạt động học toán, học sinh được rèn luyện tính cẩn thận,
phân biệt rõ ràng đúng, sai. Môn toán còn có tác dụng trau dồi cho học
sinh óc thẩm mĩ: giúp các em thích học toán, thể hiện trong lợi ích của
môn toán, trong hình thức trình bày.
Ngoài ra, tôi còn chú ý học hỏi, dự giờ đồng nghiệp trong và
ngoài trường để vận dụng sáng tạo cho phù hợp và ngày càng có hiệu
quả cao trong việc giảng dạy của mình.
Tóm lại: Giải toán có lời văn với vai trò là một trong những nội
dung cơ bản của môn toán ở Tiểu học. Nó góp phần xây dựng những
cơ sở ban đầu của giải toán ở lớp học trên. Vị trí của việc giải toán có
lời văn ở Tiểu học nói chung và với toán lớp 1 nói riêng có tầm quan

trọng như vậy nên vịêc tìm hiểu và lựa chọn phương pháp dạy học cho
phù hợp nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Nội dung này là một
trong những việc làm cần thiết đối với mỗi giáo viên Tiểu học Nhận
thức được tầm quan trọng của việc dạy học giải toán ở Tiểu học nhất
là ở khối lớp 1- khối đầu cấp nên tôi chọn đề tài: "Giải toán có lời
văn" để nghiên cứu.
2. Mục đích nhiệm vụ của của đề tài
- Tìm hiểu về phương pháp dạy học, giải toán có lời văn.
- Tìm hiểu những hạn chế của giáo viên và học sinh thường mắc
phải khi giảng dạy phần này.
- Qua nghiên cứu, tìm hiểu tôi muốn góp phần nâng cao chất
lượng dạy và học nói chung, dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp
1 nói riêng.
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Phương pháp dạy học về vấn đề giải toán có lời văn ở lớp 1
theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh.
- Học sinh khối lớp 1 của trường tiểu học Tràng An về việc giải
toán có lời văn.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Nội dung môn toán ở Tiểu học bao gồm năm chủ đề lớn, tôi đi
sâu vào phần nghiên cứu: Giải toán có lời văn
5. Phương pháp nghiên cứu:
4
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu. Đọc tài liệu giáo trình, các
tạp chí giáo dục có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát: Thông qua dự giờ.
- Phương pháp điều tra: Tìm hiểu thực trạng dạy giải toán có lời
văn ở lớp 1.
- Phương pháp đàm thoại: Trao đổi với giáo viên lớp 1 về khó
khăn và thuận lợi trong dạy học và sử dụng phương pháp mới.

- Phương pháp thực nghiệm: Để kiểm định tính khả thi và các
tác dụng của vấn đề nghiên cứu, qua đó để điều chỉnh cho hợp lý.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Quá trình giáo dục thực chất là một quá trình rèn luyện, đưa trẻ
vào những quan hệ xã hội có thực, là quá trình tổ chức cho trẻ theo
nguyên tắc đạo đức của xã hội. Vì vậy trong quá trình giáo dục người
giáo viên phải chú ý đến đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi học sinh
lớp mình đang dạy, ngoài ra người giáo viên còn phải hiểu biết những
đặc tính chung nhất, phổ biến nhất của lứa tuổi học sinh Tiểu học.
Hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi này tức là chúng ta đó
hiểu được cơ sở khoa học của công tác giảng dạy trong nhà trường.
Học sinh Tiểu học là một giai đoạn phát triển tất yếu của đời
người. Ở lứa tuổi này trẻ có những đặc điểm riêng đó là: hồn nhiên
tiềm tàng, khả năng phát triển, là những nhân cách đang hình thành
mang nặng màu sắc cảm tính. Nhìn chung trẻ em ngày nay thông minh
và có sự phát triển tâm lý tốt hơn trẻ em xưa kia.
Trẻ em ở lớp 1 thường hay hiếu động, dễ hưng phấn, khó tập
trung chú ý lâu, hay hướng tới những hoạt động cụ thể, dễ thấy kết
quả, không thích những hoạt động kéo dài thời gian,. Khó thấy kết quả
nhất là đối với đối tượng trìu tượng, ít hấp dẫn. Do tư duy phê phán
chưa phát triển nên các em dễ bắt chước, dễ vui lòng làm theo hướng
dẫn của người lớn, dễ chịu ảnh hưởng của môi trường nhất là việc bắt
chước thầy cô giáo. Các em hành động vì tin yêu thầy cô, muốn nghe
lời thầy cô nhiều hơn là hiểu sâu sắc ý nghĩa của việc làm. Từ đó ta
hiểu tại sao những lời lý thuyết dài dòng, khô khan, trìu tượng lại
không có tác dụng bằng một tấm gương cụ thể. Chính vì vậy những gì
ta đưa đến cho trẻ phải được chọn lọc, đảm bảo sự đúng đắn và lành
mạnh. Từ đó ta đưa ra phương pháp giáo dục phải đúng, phải phù hợp
5

với đặc điểm tâm lý của trẻ thì mới đem lại hiệu quả giáo dục cao
nhất.
Học và làm theo lời Bác Hồ dạy: “Vì lợi ích mười năm trồng
cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Nếu ở lớp 1 mà các em không
được rèn luyện làm tốt các phép tính cộng, trừ trong phạm vi 10 và
các bài toán đơn thì lên các lớp trên thì càng khó rèn cho các em làm
tính toán và giải các bài toán phức tạp hơn. Các em học sinh lớp 1
cũng như cái cây non, muốn trở thành cái cây vững chắc thì phải
được uốn nắn cho kịp thời ngay từ những buổi đầu làm toán. Nhận
thức được điều đó phụ huynh học sinh mới quan tâm tạo điêu kiện cho
con em mỡnh học hỏi toán ngay từ buổi đầu làm quen với việc làm
toán nói chung và giải toán có lời văn nói riêng.
2. Thực trạng
Qua 20 năm giảng dạy ở trường Tiểu học Tràng An tôi nhận thấy
nhà trường có nhiều giáo viên giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, giảng
dạy nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ, truyền thụ kiến thức có hệ thống và
phát huy tốt vai trò chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập.
Giáo viên giảng dạy dễ hiểu, tạo được không khí vui vẻ, tích cực hứng
thú học tập của học sinh. Mặt khác nhà trường còn có đồng chí Hiệu
trưởng có chuyên môn vững vàng chỉ đạo xuyên suốt đội ngũ giáo
viên thực hiện giảng dạy đúng chương trình Bộ giáo dục đào tạo qui
định. Trong quá trình giảng dạy luôn bám sát vào chuẩn kiến thức kĩ
năng, hình thành cho học sinh ý thức tự giác tich cực học tập không
trông chờ vào người khác,tự chiếm lĩnh kiến thức một cách độc lập và
sáng tạo.
Bên cạnh đó nhiều giáo viên vẫn còn gặp phải khó khăn trong
giảng dạy, nhiều khi có những bài toán khó giáo viên chưa nghiên cứu
kĩ cách giải đó chùn bước nghĩ rằng những bài toán khó chỉ dành riêng
cho học sinh giỏi, và đánh đố học sinh. Nhưng theo đánh giá chủ quan
của bản thân tôi thì qua nhiều năm được trực tiếp giảng dạy ở khối lớp

1và là người trực tiếp bồi dưỡng học sinh giỏi môn toán của nhà
trường, giải toán trên mạng internet thì không có gì là khó mà ngược
lại rất dễ đối với học sinh. Học sinh rất thích học, rất thích làm toán
nhất là những bài toán có lời văn. Qua đó tôi thấy học toán đối với học
sinh nói chung và giải toán có lời văn nói riêng cũng không có gì là
quá khó. Tất cả đều có thể làm được và làm rất tốt nếu mỗi giáo viên
chúng ta có biện pháp và phương pháp giáo dục tối ưu nhất thì sẽ thu
được kết quả cao nhất.
6
a) Sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học
việc dạy Toán ở trường Tiểu học của nước ta là một quá trình phát
triển lâu dài. Trong quá trình đó những năm gần đây với sự cố gắng
chung của đội ngũ giáo viên, các phương pháp dạy học đó vận dụng
và thường xuyên được cải tiến cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của
nhà trường Tiểu học Việt Nam. Tuy nhiên trong thực tiễn ở Tiểu học
phương pháp dạy học toán là cơ bản không được đổi mới, không đáp
ứng những đổi mới về mục tiêu, nội dung giáo dục. Phương pháp này
giáo viên thường chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đó có sẵn
trong sách giáo khoa, sách hướng dẫn giảng dạy. Giáo viên thường ít
quan tâm đến việc phát huy khả năng sáng tạo của học sinh.
Trong giai đoạn hiện nay là đổi mới cách lựa chọn nội dụng dạy
học sao cho chọn lọc được một lượng kiến thức tối thiểu nhất, cập
nhật tính hợp lại để nâng cao chất lượng của nội dung bắt buộc cho
mọi học sinh. Đồng thời dạy cho học sinh phương pháp tự học, tự phát
hiện vấn đề mới tự tìm ra cách giải quyết và ứng dụng theo năng lực
của mình.
Thực tế để thể hiện nội dung trên người giáo viên phải chủ động
lựa chọn nội dung theo từng đối tượng học sinh, tức là "Cá thể hoá"
dạy học. Là người tổ chức, hướng dẫn quá trình học tập, điều này
không có nghĩa là làm giảm đi vai trũ của giáo viên mà chính là làm

tăng vai trò chủ động, sáng tạo của giáo viên, kéo theo sự thay đổi
hoạt động học tập của học sinh. Mục đích của việc làm này làm nhằm
tạo điều kiện cho mọi người học sinh có thể học tập tích cực, sáng tạo,
chủ động theo năng lực của mình ở từng lĩnh vực. Cách dạy này gọi là
"Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh". Như vậy, cần phải đổi
mới giáo dục một cách toàn diện cả về nội dung và phương pháp dạy
học.
Nghị quyết Trung ương IV về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo
dục đào tạo (01/1993) có nêu "Đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả
các cấp học, bậc học áp dụng các phương pháp dạy học hiện đại để
bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết
vấn đề "Do đó chúng ta có thể nói rằng đổi mới phương pháp dạy
học nói chung và phương pháp dạy học môn toán ở Tiểu học nói riêng
là việc làm cần thiết và cấp bách.
b) Các quan điểm chỉ đạo và định hướng đổi mới phương pháp
dạy học ở Tiểu học
7
* Các quan điểm chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu
học:
Hội thảo quốc gia về đổi mới phương pháp ở Tiểu học (11/1995)
đó đề ra các quan điểm chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu
học, cụ thể là:
Quán triệt và vận dụng hợp lý mục tiêu của giáo dục Tiểu học
trong mọi hoạt động dạy học ở trường Tiểu học. Trong mọi hoạt động
dạy học phải đảm bảo sự bình đẳng về cơ hội phát triển năng lực và sở
trường của từng học sinh. Nói cách khác là quan điểm dạy học "cá thể
hoá"
Hiệu quả của việc dạy học là giúp cho học sinh hoạt động tích
cực để "tự phát hiện" ra kiến thức khái quát của bài học, chuyển thành
năng lực của mình để có thể giải quyết các tình huống trong cuộc

sống.
Hệ thống các quan điểm trên chỉ đạo việc lựa chọn phương pháp
dạy học ở trường Tiểu học đòi hỏi giáo viên phải từ bỏ dần các
phương pháp dạy học có tính chất áp đặt, rập khuôn, máy móc. Giáo
viên phải là người tổ chức hướng dẫn học sinh học tập, giúp học sinh
chiếm lĩnh kiến thức mới bằng cách tìm tòi, khám phá. Tổ chức hoạt
động thông qua hoạt động thực hành, tuy nhiên cũng không yêu cầu
học sinh tự khám phá ra tất cả các nội dung mới mà vấn đề quan trọng
là giáo viên vẫn giúp học sinh tháo dỡ dần các đầu mối khó khăn trong
nội dung bài học. Theo cách học này, học sinh phải chủ động tích cực
hoạt động nhờ đó tăng cường tiềm lực, trí tuệ của các em.
* Định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học
Trong quá trình dạy học giáo viên là người tổ chức và hướng dẫn
hoạt động của học sinh, mọi học sinh đều hoạt động học tập để phát
triển năng lực cá nhân (phương pháp dạy học môn toán ở Tiểu học -
Đại học Sư phạm 1 - Hà Nội). Định hướng trên đó xác định được vai
trò của giáo viên - học sinh. Đó là "Thày là người tổ chức hướng dẫn,
chỉ đạo, trò tích cực chủ động tham gia vào quá trình dạy học, học tập
sáng tạo. Khác với trước đây, giáo viên áp đặt kiến thức còn trò bị
động tiếp thu.
Phân hoá trong quá trình dạy học khác với quan điểm dạy học
đồng loại trước đây. Định hướng này thể hiện ở sự đổi mới trong kỹ
thuật dạy học. Có nghĩa là giáo viên nói, làm mẫu ít, nhưng lại thường
xuyên làm việc với từng nhóm học sinh. Cách làm việc như vậy đòi
8
hỏi giáo viên phải ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để
đáp ứng kịp thời với các tình huống có thể xảy ra. Phân hoá phải được
thể hiện sự tác động khác nhau đến trình độ khác nhau của cá nhân
học sinh đều có thể phát huy được năng lực của mình trong quá trình
dạy học.

Dạy học phải tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh, có
nghĩa là mọi học sinh đều tham gia vào quá trình học tập một cách tự
giác, tích cực hứng thú để mỗi học sinh dưới sự dẫn dắt của giáo viên
tự đạt được mục đích, yêu cầu của quá trình dạy học. Từ đó tạo niềm
tin khoa học và thói quen làm việc độc lập tự giác cho học sinh.
Đổi mới phương pháp dạy học không phải là sự xoá bỏ các
phương pháp dạy học cũ mà là sự kế thừa các ưu điểm, những sáng
tạo của quá trình cải tiến phương pháp cũ. Định hướng này đòi hỏi
giáo viên phải biết phối kết hợp vận dụng hợp lý các phương pháp
mới và cũ để khai thác tối đa các ưu điểm của từng phương pháp để tổ
chức cho học sinh hoạt động học tập theo kiểu mới.
c) Một số giải pháp triển khai đổi mới phương pháp dạy học ở
Tiểu học
Xuất phát từ quan điểm chỉ đạo và định hướng đổi mới phương
pháp dạy học ở Tiểu học, có nhiều giải pháp để triển khai một cách có
hiệu quả việc đổi mới phương pháp dạy học.
Trong khuôn khổ đề tài này tôi xin trình bày một số giải pháp có
liên quan đến vấn đề nghiên cứu, cụ thể là: Dạy học cá nhân, dạy học
theo nhóm, trò chơi học tập Dù ở hình thức nào thì giáo viên vẫn là
người đóng vai trò chỉ đạo, điều khiển tổ chức hoạt động. Còn học
sinh dưới sự dẫn dắt của giáo viên sẽ tìm kiếm chiếm lĩnh những tri
thức mới theo khả năng của mình. Từ đó phát triển tư duy sáng tạo,
năng lực kiểm tra và đánh giá.
Từ sự thay đổi về mục tiêu giáo dục nói chung, mục đích của
môn toán nói riêng dẫn tới sự đổi mới trong quá trình đánh giá hoạt
động học tập của học sinh. Điều này làm xuất hiện các hình thức đánh
giá mới như thế nào "Test" . Ngoài ra học sinh còn học cách tự đánh
giá và đánh giá lẫn nhau thông qua phương tiện dạy học là các phiếu
học tập. Từ đó các em điều chỉnh lại và rút ra được kinh nghiệm cho
bản thân. Cũng thông qua phiếu học tập, giáo viên thu thập được

thông tin ngược để điều chỉnh phương pháp dạy học của mình và kịp
9
thời động viên khuyến khích học sinh tiếp tục nỗ lực hơn trong quá
trình học tập.
Theo cấu trúc nội dung chương trình toán thì giải toán có lời văn
nằm rải rác, xen kẽ với những nội dung khác. Điều này thể hiện tính
thống nhất và quan điểm tích hợp và cấu trúc nội dung. Nên được coi
là một ưu thế, tuy nhiên cũng tạo ra một số khó khăn cho cả giáo viên
lẫn học sinh trong quá trình truyền đạt và lĩnh hội kiến thức có lôgíc
chặt chẽ nhưng sắp xếp không liên tục học sinh sẽ gặp khó khăn nhất
định trong việc liên hệ giữa kiến thức cũ và mới. Như vậy dạy một tiết
về giải toán có lời văn không đơn thuần có thể kiểm tra bài cũ và
truyền thụ kiến thức mới mà mỗi người giáo viên phải mất thời gian
nhắc lại.
Chúng ta đều biết rằng, đặc điểm của học sinh Tiểu học là tư duy
cụ thể vẫn còn chiếm ưu thế. Chính vì vậy các em thường gặp khó
khăn trong việc chiếm lĩnh kiến thức mới, giải toán mang tính trừu
tượng mới mẻ, các em còn ngại giải toán và còn lúng túng trong việc
trình bày lời giải của một bài toán. Đây chính là khó khăn chung trong
việc giải toán.
Để giải quyết khó khăn đó đòi hỏi người giáo viên trong quá
trình dạy học phải không những có trình độ kiến thức tốt về giải toán
mà phải có lòng say mê nghề nghiệp, còn phải biết sử dụng hợp lý các
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho hợp lý nhất. Có
như vậy kết quả của quá trình dạy học mới được nâng cao.
Trên thực tế, do thói quen hoặc trình độ còn hạn chế nên nhiều
giáo viên chỉ sử dụng các phương pháp truyền thống áp đặt kiến thức
một chiều tới học sinh và coi đó là phương pháp tối ưu trong quá trình
dạy học nội dung này. Cách dạy đó dẫn tới tình trạng học sinh lĩnh hội
kiến thức giải toán một cách gò bó, máy móc, chưa phù hợp với xu thế

đổi mới mà mục tiêu giáo dục hiện nay đề ra.
Để nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời văn nói chung
và đặc biệt là đối với lớp 1 nói riêng thì việc đổi mới phương pháp dạy
học là thiết thực và cần thiết. Để đổi mới nội dung và phương pháp
dạy học ở Tiểu học, chương trình môn toán Tiểu học trong những năm
gần đây đó xây dựng nhằm giải quyết những bức xúc của giáo viên
Tiểu học làm cho chương trình dạy học phù hợp với mục tiêu đào tạo
trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đầu thế kỷ
XXI. Chương trình này có tính khả thi cao và đang được Bộ Giáo dục
10
và đào tạo cho phép thực hiện trên toàn quốc từ năm học 2002 cho đến
nay.
Hiện nay sách giáo khoa và vở bài tập toán 1 phần 1, phần 2 và
các sách giáo khoa Toán 2, 3, 4, 5 đang được thực hiện trong các nhà
trường tiểu học. Do vậy việc đổi mới phương pháp dạy học giải toán
nói chung và giải toán có lời văn ở lớp 1 nói riêng là một vấn đề rất
cần thiết.
Thực tế ở trường Tiểu học Tràng An đã từng bước áp dụng các
phương pháp dạy học mới nhằm phát huy tính tích cực hoạt động của
học sinh. Đây là một việc làm thiết thực, phù hợp với xu thế đổi mới
phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay.
Muốn sử dụng các phương pháp mới một cách có hiệu quả thì
bắt buộc phải có phương tiện dạy học hay công cụ, đồ dùng dạy học
một cách phù hợp để nâng cao chất lượng dạy học.
Một trong những phương tiện phù hợp với "Dạy học cá thể hoá,
dạy học tự phát hiện " (Theo yêu cầu của giai đoạn chỉ đạo đổi mới
phương pháp). Đó là giao bài cho học sinh là phiếu học tập, phiếu
kiểm tra, học sinh tự đánh giá bài của mình, đánh giá bài của bạn, đổi
chéo bài để kiểm tra lẫn nhau.
Tóm lại: những giải pháp đổi về hình thức dạy học, phương tiện

dạy học về kiểm tra, đánh giá nêu trên sẽ có tác dụng tích cực nhằm
nâng cao chất lượng dạy học ở Tiểu học nói chung và việc giải toán có
lời văn ở lớp 1 nói riêng.
3. Các giải pháp để nâng cao chất lượng dạy giải toán có lời
văn cho học sinh lớp 1
3.1. Mục tiêu của dạy giải toán có lời văn
Thông qua việc giải toán giúp học sinh nắm được các biểu
tượng, các khái niệm ban đầu về cách giải toán để từ đó hình thành
các kỹ năng trong giải toán.
Sử dụng các đồ dùng học tập, tranh minh hoạ trong sách giáo
khoa để hình thành đề toán, sau đó các em phân tích, tổng hợp toán và
có cách giải hay nhất và trình bày giải khoa học.
Thông qua hoạt động tính toán để từ đó rèn luyện kỹ năng cần
thiết cho đời sống, đồng thời các em biết vận dụng các kiến thức đó để
giải quyết các tình huống mà các em vẫn gặp hàng ngày.
11
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện việc giảng dạy giải toán có
lời văn Giải toán là một hoạt động gồm những thao tác: xác lập được
mối liên hệ giữa các dữ liệu, giữa cái đó cho và cái phải tìm trong điều
kiện của bài toán, chọn phép tính thích hợp trả lời đúng câu hỏi của
bài toán.
3.3. Điều kiện thực hiện cho việc giải toán có lời văn
Điều chủ yếu của việc dạy học giải toán là giúp học sinh tự tìm
hiểu được mối quan hệ giữa cái đó cho và cái phải tìm trong điều kiện
bài toán mà thiết lập các phép tính số học tương ứng, phù hợp. Để tiến
hành được điều đó, việc dạy toán diễn ra theo 3 mức độ.
- Mức độ thứ nhất: Hoạt động chuẩn bị cho việc giải toán.
- Mức độ thứ hai: Hoạt động làm quen với việc giải toán.
- Mức độ ba: Hoạt động hành thành kĩ năng giải toán.
Để học sinh nắm vững được các bước của quá trình giải toán

tôi đó tiến hành như sau:
* Hoạt động chuẩn bị cho việc giải toán
Trước mỗi giờ toán tôi thường nghiên cứu kĩ bài toán tìm xem
đồ dùng nào phù hợp với bài như các nhóm đồ vật, các mẫu hình,
tranh vẽ.
Mỗi học sinh có 1 bộ đồ dùng học toán theo yêu cầu của giáo
viên, học sinh được rèn luyện các thao tác trên tập hợp các nhóm
đồ vật, các mẫu hình.
Phần lớn các bài toán đều có chủ đề liên quan tới các đại
lượng và mối quan hệ giữa các đại lượng trong bài toán. Vì thế việc
rèn kĩ năng thao tác qua việc học về phép đo đại lượng là rất cần
thiết cho việc giải toán.
* Hoạt động làm quen với việc giải toán: Tiến hành theo 4
bước.
Tìm hiểu nội dung bài toán
Tìm cách giải bài toán
12
Thực hiện cách giải bài toán.
Kiểm tra cách giải bài toán.
+ Tìm hiểu nội dung bài toán
Việc tìm hiểu nội dung bài toán (đề toán) thường thông qua việc
đọc đề toán (dù bài toán cho dưới dạng lời văn hoàn chỉnh hoặc bằng
dạng tóm tắt, sơ đồ) học sinh cần phải đọc kĩ, hiểu từ bài toán cho biết
cái gì, cho biết điều kiện gì, bài toán hỏi gì? Khi đọc bài toán học sinh
phải hiểu thật kĩ một số từ, thuật ngữ quan trọng chỉ từ tình huống
toán học được diễn đạt theo ngôn ngữ thông thường, chẳng hạn: "bay
đi"; "thưởng hai bớt cho"; "bị vỡ chai"; “bán”; “tặng”; “trong đó”
Nếu trong bài toán có thuật ngữ nào học sinh chưa hiểu từ, tôi
hướng dẫn học sinh hiểu được nội dung và ý nghĩa của từ đó trong bài
toán đang làm. Sau đó học sinh thuật lại bằng lời vắn tắt bài toán mà

không cần đọc lại nguyên văn bài đó.
+ Tìm cách giải toán
Hoạt động tìm cách giải bài toán gắn liền với việc phân tích các
dữ kiện, điều kiện và câu hỏi của bài toán nhằm xác định mối liên hệ
giữa chúng và tìm được các phép tính số học thích hợp.
Hoạt động này thường diễn ra như sau:
Cách minh hoạ bài toán bằng tóm tắt đề toán, dùng sơ đồ, mẫu
vật, tranh vẽ.
Ví dụ bài toán:
"Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 3 con gà. Hỏi nhà An có
tất cả bao nhiêu con gà ?"
Đầu tiên tôi cho học sinh đọc lại đề bài toán nhấn mạnh các từ
ngữ quan trọng như:
- An - 5 con gà - thêm 3 con gà - Tất cả có bao nhiêu con gà ?
Sau đó tôi hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán bằng cách hỏi:
13
GV hỏi: - Có mấy con gà? HS trả lời: Có : 5 con gà
- Thêm mấy con gà? Thêm : 3 con gà
- Bài toán hỏi gì? Tất cả có:…. con gà?
Sau khi hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán tôi hướng dẫn học
sinh:
Lập kế hoạch giải toán nhằm xác định trình tự giải quyết, thực
hiện các phép tính số học bằng việc đi từ câu hỏi của bài toán đến số
liệu hoặc ngược lại đi từ số liệu đến các câu hỏi của bài toán.
Ví dụ:
Với bài toán trên ta có thể xuất phát từ câu hỏi của bài toán đến
các dữ kiện:
- Bài toán hỏi gì? (Hỏi tất cả có bao nhiêu con gà?)
- Muốn tìm xem tất cả có bao nhiêu con gà thì phải làm tính gì?
(Phải làm tính cộng 5 con gà + với 3 con gà)

+ Thực hiện cách giải bài toán:
Hoạt động này bao gồm việc thực hiện các phép tính đó nêu
trong kế hoạch giải toán và trình bày bài giải. Mỗi bài đều có câu lời
giải, phép tính, đáp số. Đối với học sinh lớp 1 bước đầu làm quen với
việc giải toán có lời giải nên tôi không áp đặt học sinh làm theo ý
mình mà để các em nêu câu lời giải theo sự hiểu biết của học sinh.
Theo ví dụ trên học sinh có thể có lời giải như:
- An có số con gà là:
- Tất cả có số con gà là:
- An có tất cả là:
Sau khi tìm được lời giải, học sinh căn cứ vào từ khoá ở câu hỏi
để chọn phép tính thích hợp cho bài toán, phép tính viết theo quy ước
có ghi tên đơn vị, ghi đáp số kèm theo đơn vị.
14
Các bước hoàn chỉnh của phần giải bài toán theo ví dụ trên:
Bài giải
An có tất cả là:
5 + 3 = 8 (con gà)
Đáp số: 8 con gà
Không phải ngay từ đầu học sinh đó quen với cách giải này,
để giúp học sinh nắm vững các bước giải tôi giúp học sinh nắm
vững các bài toán mẫu, tôi ra nhiều bài toán có dạng tương tự để
học sinh được luyện tập thành thạo.
+ Kiểm tra cách giải bài toán
Việc kiểm tra này nhằm xem cách giải đúng hay sai chỗ nào
để sửa chữa, sau đó nêu cách giải đúng, ghi đáp số.
Ví dụ: Cũng có bài toán có chữ nhiều hơn như: Mẹ 36 tuổi,
mẹ nhiều hơn con 30 tuổi. Hỏi con bao nhiêu tuổi?
Có học sinh máy móc làm phép cộng vì thấy “nhiều hơn”,
được kết quả là 66 tuổi.

Phần kiểm tra cách giải bài toán này sẽ giúp các em hiểu
được mình làm đúng hay sai.
Tôi giúp các em phân tích bài toán qua thực tế cuộc sống như:
Mẹ bao giờ cũng hơn tuổi con.
Bài toán nói: Mẹ hơn tuổi con có nghĩa là con kém tuổi mẹ.
Đến đây học sinh có thể tìm cách giải dễ dàng hơn, sau đó so
sánh tuổi con với mẹ xem đó hợp lí chưa.
Nhờ có phần kiểm tra này mà học sinh lớp tôi ít nhầm lẫn
trong các dạng toán này.
3.4. Kết quả nghiên cứu
15
Qua nhiều năm được trực tiếp giảng dạy và học tập tại trường
Tiểu học Tràng An, qua tìm hiểu thực tế của trường, tôi nhận thấy:
Trường Tiểu học Tràng An nằm ngay sát đường Quốc lộ, có nhiều
thuận lợi về giao thông đi lại trong xã, thuận tiện, an ninh trật tự tốt.
Đặc biệt là địa phương rất quan tâm đến hoạt động giáo dục. Học sinh
chủ yếu là con em nông dân nằm rải rác ở bảy đội sản xuất trong xã và
một số con em bộ đội thuộc đơn vị Kho KV4 và các em học tập trung
ở khu trường chính, con em cán bộ công chức Nhà nước chiếm tỷ lệ
rất ít. Do đó dẫn đến sự nhận thức của các em không đồng đều giữa
các thôn đội sản xuất. Trường có tổng số 419 học sinh và chia làm 14
lớp, sĩ số ở các lớp tương đối đều nhau. Mỗi khối có 03 lớp, mỗi khối
có 01 lớp chọn (Riêng khối lớp 1 chưa có lớp chọn). Tổng số cán bộ,
giáo viên của trường là 27 đồng chí. Trong đó có nhiều giáo viên đạt
trình độ cao đẳng và đại học, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, giảng
dạy nhiệt tình, truyền đạt kiến thức có hệ thống nhằm phát huy chủ
động sáng tạo, tích cực hoạt động trong quá trình học tập của học sinh.
Trường Tiểu học Tràng An không phải là trường trọng điểm của
huyện nhưng là một trong những trường có đội ngũ giáo viên giỏi về
chuyên môn nghiệp vụ, học sinh có nề nếp tốt, chất lượng học tập cao.

Đối với cỏn bộ, giáo viên của trường chủ yếu là các đồng chí sinh
sống trong xã, kinh tế gia đình tương đối ổn định hăng say với công
tác giảng dạy của mình, có ý thức trách nhiệm cao, giờ giấc lên lớp
đảm bảo đúng quy định. Trường nhiều năm liền luôn đạt trường tiên
tiến cấp huyện, năm nào cũng có học sinh dự thi học sinh giỏi cấp
huyện, tỉnh và đạt kết quả cao. Năm học 2013 – 2014 vừa qua trường
có nhiều học sinh tham gia các cuộc thi của huyện, của tỉnh như: Giao
lưu Toán tuổi thơ lớp 5 có 03 em dự thi cấp huyện đạt 01 giải ba, 01
giải khuyến khích. Trường có 14 học sinh tham gia dự thi giải Toán
trên mạng internet ở khối lớp 5, đó có 14/14 em đạt được giải (03 em
giải nhất, 07 em giải nhì, 03 em giải ba, 01em giải khuyến khích). Kết
quả xếp khuyến khích trong toàn huyện.
Từ việc tìm hiểu thực tế ở trường, tôi đó tiến hành dự giờ thăm
lớp và rút ra được thực trạng của việc giảng dạy bộ môn toán trong
nhà trường và đặc biệt là giải toán có lời văn ở lớp 1 như sau:
3.4.1. Thực trạng giảng dạy của giáo viên
a) Ưu điểm
16
Giáo viên được đào tạo trình độ chuẩn, có đầy đủ tài liệu của
chương trình toán từ lớp 1 đến lớp 5.
Có đầy đủ tư liệu, tài liệu tham khảo cũng như sách hướng dẫn
dạy bộ môn toán từ lớp 1 đến lớp 5. 100% giáo viên được học tập nội
dung, phương pháp giảng dạy môn toán một.
Các bài dạy về giải toán có lời văn thì giáo viên đó chuẩn bị sẵn
các hình vẽ, tranh minh hoạ, sơ đồ, đồ dùng học tập để hướng dẫn cho
học sinh quan sát làm cơ sở cho vịêc dạy học kiến thức mới.
b) Tồn tại
Ở từng phần, từng bài khi học sinh làm bài tập, hầu hết giáo viên
thường yêu cầu học sinh làm và chữa từng bài một, dẫn đến tình trạng
những học sinh khá, giỏi phải chờ bạn làm xong mới chuyển sang làm

bài tập tiếp theo. Như vậy hạn chế khả năng hoạt động của học sinh,
đồng thời làm giảm hứng thú học tập của các em.
Trong lúc dạy học thường chưa kiểm soát được hoạt động của
một số đông học sinh trong lớp, chưa dành thời gian hợp lý cho các
em tự hoạt động từ tìm ra kiến thức lĩnh hội kiến thức theo khả năng
của mình.
c) Nguyên nhân
Việc nghiên cứu nội dung bài dạy chưa được kỹ nên chưa hiểu
hết được tác dụng ý đồ của sách giáo khoa và sách hướng dẫn giảng
dạy để từ đó lựa chọn phương pháp và nội dung học một cách thích
hợp.
Chưa biết kết hợp được phương pháp truyền thống và phương
pháp hiện đại nên vẫn hạn chế khả năng tích cực hoạt động của học
sinh.
3.4.2. Thực trạng học tập của học sinh
a) Ưu điểm
Các em có đầy đủ dụng cụ, đồ dùng học tập, có đủ sách giáo
khoa, vở bài tập toán.
Nhìn chung học sinh nắm được những kiến thức cơ bản và cần
thiết về cách nêu đề toán, tìm hiểu đề toán và trình bày lời giải của bài
toán.
Bước đầu có kỹ năng giải toán và thích toán.
b) Tồn tại
17
Khả năng hiểu ngôn ngữ toán học còn hạn chế, cách diễn đạt các
ký hiệu còn lúng túng, gượng gạo, khả năng tư duy và suy luận còn
hạn chế.
c) Nguyên nhân
Một số nguyên nhân có khả năng nhận thức và sự tập trung chú ý
chưa được cao, không quen sử dụng hình vẽ làm phương tiện trực

quan để giải toán.
Sau khi trao đổi với các đồng chí giáo viên giảng dạy khối lớp 1
về nội dung và phương pháp về việc học tập của học sinh, tôi đó đi dự
giờ ở các lớp một lần nữa để khẳng định thực trạng việc giảng dạy,
học tập của giáo viên, học sinh của trường.
Qua các tiết dự giờ môn Toán của trường Tiểu học Tràng An tôi
nhận thấy: Giáo viên giảng dạy nhiệt tình, truyền đạt hết nội dung
trong sách tới học sinh, giáo viên có đầy đủ đồ dùng, sách giáo khoa,
sách hướng dẫn, trong một giờ dạy đó biết phối kết hợp nhiều về
phương pháp giảng dạy để giúp học sinh làm bài được tốt hơn.
Về phía học sinh thì các em có đầy đủ sách vở, đồ dùng để học
tập, các em biết vận dụng những kiến thức đó học để làm bài thực
hành tốt, các em đó có bước đầu biết cách giải toán và trình bầy một
số lời giải có đầy đủ. Câu trả lời, phép tính và đáp số. Bên cạnh đó thì
số học sinh giỏi chưa tận dụng hết khả năng sẵn có của mình đó là các
em làm bài xong thì ngồi chơi do đó làm hạn chế khả năng học tập,
giảm hứng thú học tập giờ học.
3.4.3. Một số biện pháp góp phần nâng cao chất lượng dạy toán
có lời văn ở lớp 1
Trong quá trình dạy và học toán có lời văn ở lớp 1 thường gặp
khó khăn ở những nội dung sau: Giáo viên chưa hướng dẫn học sinh
tìm hiểu kỹ đề toán dẫn đến các em hiểu sai lệch yêu cầu và dẫn đến
có lời giải sai. Ví dụ như bài toán sau:
Lớp 1B có 35 bạn, trong đó có 20 bạn nữ. Hỏi lớp 1B có bao
nhiêu bạn nam?
Hoặc tương tự như: Tổ em có 9 bạn, trong đó có 5 bạn nữ. Hỏi tổ
em có mấy bạn nam ?
Nguyên nhân dẫn đến những khó khăn trên là phần lớn học sinh
chưa phân biệt được cái đó cho và cái phải tìm của bài toán. Các biểu
18

tượng về hình học đối với học sinh Tiểu học là khá trừu tượng vì giáo
viên khó diễn đạt trên hình vẽ hoặc gợi ý của sách giáo khoa. Do vậy
các em khó hình dung được biểu tượng này sau khi giáo viên đưa ra
các bài tập.
Ví dụ: Một sợi dây dài 13cm, đó cắt đi 2cm. Hỏi sợi dây còn lại
dài bao nhiêu xăng-ti-mét?
Từ những khó khăn trên, trong quá trình giảng dạy theo tài liệu
hướng dẫn giáo dục toán 1 thì mỗi nội dung, mỗi giai đoạn tôi muốn
đưa vào một số biện pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy và
học về giải toán có lời văn dưới hình thức phiếu học tập, khi xây dựng
phiếu học tập phải dựa trên một số nguyên tắc sau.
Phiếu phải được xây dựng chính xác về kiến thức, ngôn ngữ,
phải dễ hiểu, ký hiệu dễ nhớ.
Phiếu đảm bảo tính vừa sức chung và chú ý khuyến khớch sở
trường riêng của học sinh. Những yêu cầu nêu trong phiếu cần có mức
độ dễ, khó khác nhau để phù hợp với từng đối tượng học sinh. Giáo
viên cần chuẩn bị sẵn các câu hỏi gợi mở, đồ dùng trực quan hoặc bài
tập phụ giúp cho học sinh tự rút ra kết luận cần thiết đảm bảo mọi học
sinh từ trung bình trở lên đều nắm được kết thức cơ bản theo tiêu
chuẩn tối thiểu của bài học, đồng thời vẫn tạo điều kiện cho học sinh
khá giỏi, có thể phát triển yêu cầu cao hơn.
Phiếu phải đảm bảo tính trực quan, tạo chỗ dựa cho hoạt động
nhận thức. Kiến thức về các loại toán là khá trường tượng đối với học
sinh. Do vậy trong nội dung cần thể hiện được sự hỗ trợ của các
phương tiện trực quan như hình vẽ, sơ đồ, đồ vật, mô hình nhằm giúp
học sinh tri giác các biểu tượng hay hoạt động trực tiếp với đồ dùng
trực quan làm cơ sở để dạy học chuyển từ trực quan sinh động sang tư
duy trừu tượng.
Một số biện pháp khắc phục trong việc góp phần nâng cao chất
lượng giải toán có lời văn ở lớp 1, thông qua giáo án dạy thực nghiệm

tại lớp chủ nhiệm do tôi trực tiếp giảng dạy. Sau đây là giáo án thử
nghiệm (lược trình).
Tiết 116: CỘNG, TRỪ (không nhớ) TRONG PHẠM VI 100
I. Mục tiêu
1. Kiến thức: Giúp học sinh:
19
- Củng cố kỹ năng làm tính cộng, trừ các số trọng phạm vi 100
(Cộng trừ không nhớ)
- Tiếp tục củng cố giải toán có lời văn
2. Kỹ năng:
- Rèn luyện kỹ năng làm tính nhẩm.
- Nhận biết bước đầu (thông qua các ví dụ cụ thể) về quan hệ
giữa hai phép tính cộng, trừ.
3. Thái độ:
- Yêu thích học môn toán, rèn tính tỉ mỉ, kiên trì, tự giác trong
giờ học.
II. Chuẩn bị
- Bảng phụ để làm bài tập.
- Nội dung trò chơi.
III. Các hoạt động dạy học
Hoạt động của thầy Hoạt động của trò
1. Bài cũ (5 phút)
- Gọi 2 em lên bảng làm bài
- Kiểm tra dưới lớp
- Một tuần lễ có mấy ngày? là
những ngày nào?
- Em đi học vào thứ mấy?
- Em được nghỉ vào ngày nào?
2. Bài thực hành (30 phút)
a) Giới thiệu bài

b) Hướng dẫn học sinh làm bài
tập
Bài 1: Tính nhẩm.
Tính nhẩm
12 + 25 = 49 - 32 =
32 + 45 = 85 - 41 =
- Học sinh trả lời: Một tuần lễ có 7
ngày là: Chủ nhật, Thứ hai, Thứ
ba, Thư tư, Thứ năm, Thứ sáu,
Thứ bảy.
Thứ hai, Thứ ba, Thư tư, Thứ
năm, Thứ sáu
- Thứ bảy, Chủ nhật.
- Học sinh yêu cầu làm bài bằng
SGK
20
80 + 10 = 30 + 40 = 80 + 5
=
90 - 80 = 70 - 30 = 85 - 80
=
90 - 10 = 70 - 30 = 85 - 5 =
- Quan sát thấy học sinh làm xong
giáo viên giao thêm bài cho học
sinh giỏi làm vào phiếu tính: Tính
nhẩm.
20 + 10 = 60 + 7 =
80 - 20 = 89 - 9 =
- Giáo viên cùng học sinh chữa
bài (kết hợp chữa bài cho học
sinh)

Bài 2: Đặt tính rồi tính
- Hướng dẫn HS lấy vở ô ly làm
bài.
- Giao thêm bài cho học sinh giỏi
làm
- Đặt tính rồi tính
32 + 51 = 69 - 45 =
81 + 3 = 85 - 5 =
Bài 3: Gọi học sinh đọc bài toán
- Giáo viên nêu câu hỏi, tóm tắt
bài toán cho biết gì ?
- Bài toán hỏi gì?
- Giáo viên giới thiệu đọc là gộp
lại, có tất cả.
- Giáo viên nêu: Bài toán hỏi gì ?
Muốn biết cả hai bạn có bao
nhiêu que tính các em đi giải bài
- 3 Học sinh lên bảng làm bài.
- HS làm xong bài đổi chéo để
kiểm tra
- Học sinh nêu cách tính nhẩm số
tròn chục.
- Nêu: Lấy 2 số cộng lại thì được
kết quả, lấy kết quả trừ số thứ nhất
được số thứ hai, lấy kết quả trừ đi
số thứ 2 được số thứ nhất.
- HS làm bài vào vở ô ly
- 2 em lên bảng làm
- Lớp theo dõi, so sánh kết quả.
- 2 - 3 em đọc bài toán

Hà có: 35 que tính. Hỏi que tính
Lan có: 43 que tính
- Học sinh giải bài vào vở ô ly
- 1 học sinh lên bảng làm bài.
Bài giải:
Hà và Lan có tất cả số que tính là:
35 + 43 = 78 (que tính)
Đáp số: 78 que tính.
21
toán này.
- Em nào có cách trả lời khác.
- Học sinh nêu các ý kiến.
- Giáo viên nhận xét câu trả lời
của học sinh và chốt lại câu đúng
nhất là học sinh học tập.
- Giáo viên lưu ý: Trình bày bài
giải câu trả lời, phép tính, đáp số.
Bài 4: Tương tự bài 3
- Giáo viên hỏi và ghi tóm tắt
Bài toán cho biết gì
Bài toán cho biết gì nữa ?
Bài toán hỏi gì?
Gọi HS đọc tóm tắt bài toán.
Muốn biết Lan hái được bao
nhiêu bông hoa các em đi tự giải.
Học sinh làm xong, giáo viên giao
thêm bài để làm
BT: Lan có 20 quả vải, Lan cho
bạn 10 quả. Hỏi Lan còn lại mấy
quả?.

- Kết hợp học sinh làm bài, coi
đến từng em, chữa bài và nhận xét
bài học sinh làm.
- Chữa bài giao thêm cho học sinh
và nhận xét kết quả bài làm.
- Học sinh xét bài làm của bạn
- Cả hai bạn có tất cả là:
- Số que tính hai bạn có là:
Lan và Hà có số que tính là:
Học sinh đọc bài toán và tóm tắt.
Có tất cả : 68 bông hoa.
Hà có : 34 bông hoa.
Lan có bông hoa ?
- Học sinh nhìn vào tóm tắt đọc
thuộc lòng đề toán.
Học sinh giải bài toán ra vở ô ly.
- Học sinh đổi chéo bài để ktra
nhận xét.
Bài giải:
Số quả vải Lan còn lại là:
20 - 10 = 10 (quả vải)
Đáp số: 10 quả vải.
22
3. Củng cố, dặn dò (3 phút)
- Nhận xét bài học
- Dặn chuẩn bị cho giờ sau.
* Kết quả sau khi dạy thực nghiệm
Sau khi dạy tiết 116 theo phương pháp mới ở lớp chủ nhiệm, tôi
trực tiếp giảng dạy ở lớp 1B được nhà trường và các giáo viên trong
trường tham dự và được đánh giá là giờ dạy có chất lượng cao, chị em

đồng nghiệp phấn khởi học tập và học hỏi kinh nghiệm. Các giờ dạy
khác được tổ chuyên môn dự và xếp loại tốt. Học sinh được học tập
thoải mái, hăng say và tích cực hoạt động có sáng tạo trong quá trình
chiếm lĩnh kiến thức.
Qua các tiết dự giờ và các tiết dạy thực nghiệm môn Toán ở
trường, tôi có một vài đánh giá kết quả như sau:
- Học sinh được luyện tập nhiều qua các dạng toán nên các em
nắm vững các bước giải toán.
- Học sinh biết cách tóm tắt bài toán bằng lời và sơ đồ. Qua đó
giúp học sinh hình thành được phép tính thích hợp.
- Học sinh hiểu được ý nghĩa của bài toán.
- Học sinh biết cách trình bày bài toán một cách hợp lí, khoa học.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đó áp dụng trong việc
dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1 và đó được thể nghiệm qua
một số tiết dạy chuyên đề của trường, trường bạn dự giờ.
Những việc làm đó đó giúp đỡ tôi rất nhiều trong giảng dạy và
nhận thức của học sinh. Tôi trình bày để các đồng nghiệp tham khảo,
đóng góp ý kiến - giúp đỡ tôi trong công tác để tôi có thể nâng cao
hơn nữa trình độ chuyên môn. Tôi xin hứa sẽ tiếp tục học hỏi để có
các phương pháp giảng dạy phù hợp với học sinh.
Kết quả qua các đợt kiểm tra định kỳ môn Toán năm học 2014 -
2015 lớp 1B do tôi trực tiếp giảng dạy đạt như sau:
Số học sinh:
35
9 -10 7 - 8 5 - 6 Cộng % Dưới 5
23
Cuối kỳ I 25 7 3 35 100 0
Cuối kỳ II
Qua kết quả trên tôi nhận thấy vấn đề giải toán có lời văn không
còn là vấn đề khó khăn với các em lớp 1. Mà nó giúp các em thích học

toán và ham học toán thông qua việc giải toán có lời văn.
Với việc vận dụng những phương pháp dạy học tích cực, qua
kiểm tra sơ bộ kết quả học tập của học sinh với bộ môn toán ở khối
lớp 1 cho thấy học sinh cú ý thức, tinh thần và thỏi độ học tập có sự
tiến bộ rõ rệt. Học sinh ham học, yêu thích môn học được thống kê
như sau:
Năm học Thích Không
thích
Học được Học khó
2012 - 2013 85% 5% 7% 3%
2013 - 2014 90% 5% 3% 2%
2014 - 2015 90% 4% 4% 2%

Kết quả học tập của học sinh lớp tôi trực tiếp giảng dạy được thông kê
đến hết học kỳ 1 năm học 2014 - 2015 như sau:
Năm học Dưới TB
(điểm 0 - 4)
Trên TB
(điểm 5 - 6)
Khá giỏi
(điểm 7 - 10)
2012 - 2013 0% 12,6% 87,4%
2013 - 2014 0% 13% 87%
2014 - 2015 0% 10% 90%
24
3.4.4. Bài học kinh nghiệm.
Để có được kết quả dạy và học như trên người giáo viên phải có
tâm huyết với nghề, có lòng nhiệt tình, có tình yêu thương đối với học
sinh. Coi các em như con đẻ của mình. Luôn phải thay đổi hình thức
dạy học mới lôi cuốn được học sinh vào việc học tập. Luôn lấy học

sinh làm nhân vật trung tâm, cho học sinh tự phát hiện và chiếm lĩnh
kiến thức một cách tự nhiên, nhẹ nhàng. Giáo viên chỉ gợi mở, hướng
dẫn học sinh vận dụng làm bài khi học sinh chưa hiểu bài và củng cố
những kỹ năng cơ bản Nhận thức được yêu cầu phát triển của giáo
dục nói chung và phát triển về mọi mặt của xã hội núi chung. Nên đòi
hỏi việc đầu tư tốt cho một tiết học bằng cách áp dụng những phương
pháp dạy học tích cực phù hợp với đối tượng học sinh của mình. Bên
cạnh đó còn cần sự hỗ trợ của chuyên môn nhà trường, gia đình, các
đoàn thể xã hội để giáo dục học sinh phát triển về đức, trí, thể, mĩ
III. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua phần nghiên cứu cơ sở lý luận, tìm hiểu thực tế dự giờ thăm
lớp trong việc dạy và học giải toán có lời văn ở lớp 1 năm học 2014 -
2015 là phần nội dung có tính thực tiễn cao. Việc dạy và học như thế
nào để học sinh nắm vững về bản chất, các biểu tượng, khái niệm về
thêm, bớt, cho, biếu, tặng ở giải toán có lời văn là vấn đề mà được
các nhà giáo dục quan tâm vì hơn nữa toán 1 là chương trình mà đó sử
dụng thực nghiệm trong nhiều năm học, được Bộ Giáo dục - Đào tạo
tiến hành phổ cập đại trà trong toàn quốc. Vì thế mà tôi chọn đề tài
này để đi tìm hiểu phân tích một số khó khăn, tồn tại của giáo viên và
học sinh. Khi dạy, học phần này để có một số "Giải pháp nâng cao
chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1" nhằm làm phương
tiện dạy học cá thể hoá và phát huy tính tích cực chủ động học tập của
học sinh.
Toàn bộ những giải pháp tôi đó trình bày khá chi tiết tại ba phần
của nội dung của đề tài. Thực hành thử nghiệm các tiết dạy ở lớp 1
theo một số giải pháp đó đề ra và thu được kết quả khá cao, bước đầu
chứng tỏ tính khả thi và hiệu quả nhất định của đề tài.
Qua quá trình nghiên cứu đề tài tôi cũng mạnh dạn đưa ra một số
kết luận như sau:

Muốn dạy học theo hướng cá thể hoá và phát huy tính tích cực
chủ động của học sinh thì phải có điều kiện về cơ sở vật chất, thiết bị
25

×