Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

XÂY DỰNG GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.34 KB, 25 trang )


̣
GIA
́
O DU
̣
C VA
̀
ĐA
̀
O TA
̣
O
TRƯỜNG....................................
KHOA ......................................

BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: XÂY DỰNG GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Giảng viên hướng dẫn : ....................................
Sinh viên thực hiện : ....................................
Lớp : ....................................
Hà nội 2009
1
Phần 1
GIA ĐÌNH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN TỚI GIA
ĐÌNH
I. KHÁI NIỆM GIA ĐÌNH
1. Một số quan niệm chung về gia đình hiện nay
Gia đình là một tổ chức xã hội được hình thành từ khá sớm trong lịch


sử của loài người. Ngay từ buổi đầu của lịch sử, khi con người tách khỏi giới
loài động vật và tự tổ chức cuộc sống với tư cách là một cộng đồng độc lập,
thì cũng là lúc con người tự tổ chức cuộc sống theo các mô hình cộng đồng
nhỏ (hình thức sơ khai của gia đình). Lúc đầu gia đình chỉ bao gồm các
thành viên có quan hệ trực huyết với nhau, chủ yếu là những người mẹ cùng
các con, cháu (giai đình mẫu hệ). Sau đó gì được mở rộng bao gồm thêm các
thành viên khác có thể có cùng huyết thống song cũng có thể không cùng
huyết thống. Về quy mô ga đình, lúc đầu số lượng các thành viên gia đình
tương đối đông có khi lên tới hàng trăm người. Về sau, do yêu cầu thích ứng
với cuộc sống ngày càng phát triển của xã hội loài người nên số lượng các
thành viên gia đình giảm dần. Gia đình hiện đại ngày nay, số thành viên có
khi chỉ có từ 1 - 3. Cho đến nay đã có nhiều định nghĩa khác nhau về gia
đình, đồng thời các quan điểm cơ bản về gia đình dường như cũng chưa có
sự thống nhất, thậm chí có sự trái ngược nhau.
Theo từ điển tiếng Việt: “Gia đình là tập hợp những người cùng sống
chung thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan
hệ hôn nhân và dòng máu, thường gồm có vợ chồng, cha mẹ và con cái”.
Quan niệm này chỉ mới dừng lại ở một quan niệm phổ quát nhất về các loại
gia đình trong lịch sử, đồng thời cũng chưa bao gồm các hình thức gia đình
mới đang phát sinh trong các xã hội hiện đại ngày nay.

Nho giáo cho rằng: gia đình chính là một cái nước nhỏ. Vì thế, nếu
“một nhà nhân hậu thì cả nước nhân hậu. Một nhả lễ nhượng thì cả nước ăn
ở đều có lễ nhượng. Một người tham lam thì cả nước bị rối loạn” . Do đó,
một xã hội muốn thanh bình thì trước hết cần phải có những gia đình hòa
thuận. Gia đình hòa thuận là gia đình mà mọi thành viên luôn quan tâm đến
nhau, chăm lo cho nhau. Trong gia đình đó, vợ chồng sống hòa thuận thương
yêu nhau, cùng nhau chăm lo nuôi dưỡng dạy dỗ con cái nên người. Cha mẹ
2
phải luôn giữ gìn lời ăn tiếng nói cũng như tác phong làm việc của mình để

làm tấm gương cho con cái noi theo. Ngược lại, con cái phải luôn hiếu kính
với ông bà, cha mẹ, biết phụng dưỡng chăm sóc ông bà, cha mẹ, biết làm
cho ông bà, cha mẹ được rạng rỡ và không làm việc gì khiến cho ông bà, cha
mẹ phải tủi hổ với hàng xóm láng giềng. Một gia đình hoà thuận còn là một
gia đình mà anh em biết bảo ban nhau cùng tiến bộ, biết thương yêu đùm
bọc lẫn nhau, biết em ngã thì chị nâng.
Theo tác giả Levy Strauss: gia đình là một nhóm xã hội học được quy
định bởi 3 đặc điểm thường thấy:
+ Hôn nhân
+ Quan hệ hôn nhân
+ Các ràng buộc và trách nhiệm giữa các thành viên trong gia dinh.
Liên Hợp Quốc định nghĩa: gia đình là một nhóm người có quan hệ họ
hàng cùng sống chung và có ngân sách chung.
2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mac – Lê Nin về gia đình trong xã hội
Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biết, được hình thành,
duy trì và củng cố chủ yếu trên cơ sở hôn nhân và huyết thống. Đúng như
C.Mac đã từng nói: “ … Hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình,
con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi, nãy nở – đó là quan hệ
giữa chồng, và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”.
Cho nên yếu tố huyết thống và tình cảm là nét bản chất của gia đình.
Nhưng xét rộng ra và đầy đủ hơn, gia đình không chỉ là một đơn vị tình cảm
– tâm lý, mà còn là một tổ chức kinh tế – tiêu dùng ( sở hữu, sản xuất, thu
nhập và chi tiêu…), một môi trường giáo dục – văn hóa ( văn hóa gia đình
và cộng đồng), một cơ cấu – thiết chế xã hội ( có cơ chế và cách thức vận
động riêng)…
Tóm lại: Gia đình là một trong những hình thức tổ chức cơ bản trong
đời sống cộng đồng của con người, một thiết chế văn hóa – xã hội đặc thù,
được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan
hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục… giữa các thành viên.
II. VỊ TRÍ CỦA GIA ĐÌNH

3
1. Gia đình là “tế bào xã hội”.
Điều này trước hết chỉ ra rằng, gia đình và xã hội có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Trong mối quan hệ mật thiết ấy, trình độ phát triển về mọi
mặt của xã hội quyết định đến hình thức, tính chất, kết cấu và quy mô gia
đình. CMac nhiều lần lưu ý rằng: tôn giáo, gia đình, Nhà nước, pháp
quyền, đạo đức, khoa học, nghệ thuật… chi là những hình thức đặc thù
của sản xuất.
2. Gia đình là một thiết chế cơ sở, đặc thù của xã hội, là cầu nối giữa cá
nhân với xã hội
Trong hệ thống cơ cấu tổ chức của xã hội, gia đình được coi là thiết chế
cơ sở, đầu tiên, nhỏ nhất. Thông qua các hoạt động tổ chức đời sống
trong gia đình mỗi cá nhân tiếp nhận, chịu tác động và “phản ứng” lại đối
với những tác động của xã hội, thông qua các tổ chức, các thiết chế,
chính sách…của xã hội.
3. Gia đình là tổ ấm mang lại giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời
sống cá nhân của mỗi thành viên, mỗi công dân của xã hội
Từ lúc sinh ra cho đến khi kết thúc cuôc đời, mỗi thành viên được nuôi
dưỡng, chăm sóc để trở thành công dân của xã hội. Sự hạnh phúc của mỗi
gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng cho sự hình thành, phát triển
nhân cách của con người. Muốn xây dựng xã hội thì phải chú ý xây dựng
gia đình. Đây là trách nhiệm, bộ phận trong toàn bộ chỉnh thể các mục
tiêu phấn đấu của xã hội.
Thực tế lịch sử cho thấy, gia đình lần lượt biến đổi tương ứng với
những giai đoạn phát triển xã hội khác nhau. Theo Ăngghen, trong xã hội
công xã nguyên thủy, trình độ lực lượng sản xuất rất thấp, cá nhân không
tách rời tập thể, cuộc sống cộng đồng về nhiều mặt… đã tạo nên hình thức
gia đình tập thể – quần hôn. Mỗi bước tiến của xã hội cộng đồng nguyên
thủy và kết quả do đào thải tự nhiên lại đưa đến những dạng mới, mang sắc
thái tiến bộ hơn cho hình thái gia đình này. Giai đoạn đầu của xã hội cộng

đồng nguyên thủy có gia đình cùng dòng máu ( huyết thống ), các tập đoàn
hôn nhân đều phân theo thế hệ. Đến giai đoạn giữa của xã hội cộng đồng
nguyên thuỷ xuất hiện gia đình punaluna ( bạn thân), trong đó quan hệ tỉnh
giao giữa anh ẹm trai với chị em gái đã bị hủy bỏ. và giai đoạn cuối cùng
4
của xã hội này đã hình thành gia đình cặp đôi ( đối ngẫu), trong đó kết hôn
từng cặp đã tồn tại ( tuy còn lõng lẻo); trong số vợ rất đông của mình, người
đàn ông có một người vợ chính, và trong số nhiều người chồng khác, anh ta
lại là người chồng chính của người đàn bà ấy. Những kiểu trên cúa gia đình
tập thể – quần hôn đều có đặc trưng là: tính giao tập thể, kinh tế cộng đồng
nguyên thủy, chế độ mẫu hệ, không có áp lực và bất bình đẳng giữa các
thành viên.
Bước sang chế độ nô lệ, trong xã hội nãy sinh hình thức gia đình cá
thể – một vợ một chồng. Đó là kết quả trực tiếp của việc hình thành chế độ
sở hữu tư nhân và sự phân hóa giai cấp. Gia đình cá thể là “ hình thức gia
đình đầu tiên không dựa trên những điều kiện tự nhiên, mà dựa trên những
điều kiện kinh tế – tức là trên thắng lợi của sở hữu tư nhân đố với sở hữu
công cộng nguyên thủy và tự phát ( tất nhiên, kết quả vẫn do tác động của
quy luật đào thải tự nhiên, ngoài ra còn có thêm một nguyên nhân nữa là
nguyên nhân tình cảm, thể hiện ở người đàn ông nhất định).
Như vậy gia đình là sản phẩm của lịch sử. Nhưng với tư cách là tế bào của
xã hội, gia đình tác động tích cực đến tiến trình phát triển của xã hội. Ph.
Ăngghen nhận định: “ Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch
sử, quy đến cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản
thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt;
thực phẩm, quần áo, nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những
thứ đó; mặt khác là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi
giống.”
Trong hệ thống cơ cấu xã hội có nhiều bộ phận khác nhau ( dân tộc, giai cấp,
giới…); nhiều thiết chế lớn nhỏ ( Nhà nước, ngành, đoàn thể…) với tính là

tế bào của xã hội, gia đình là tổ chức cơ sở, là cơ cấu và thiết chế nhỏ nhất.
Cơ cấu thiết chế nhỏ nhất này lại đa dạng phong phú; trong quá trình vận
động, vừa tuân thủ theo những quy luật của cơ chế chung vừa theo tính quy
định và tổ chức riêng của mình.
III. CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH
1. Chức năng tái sản xuất ra con người
2. Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình
3. Chức năng giáo dục của gia đình
4. Chức năng thỏa mãn các nhu cầu tâm – sinh lý, tình cảm của gia đình
5
Trong thực tế, vị trí vai trò to lớn của gia đình với tính các là tế bào xã
hội được thể hiện ở các chức năng cơ bản như chức năng tái sản xuất ra con
người, chức năng kinh tế, chức năng tiêu dùng, chức năng giáo dục và chức
năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý của các thành viên trong gia đình.
Như vậy, gia đình là thiết chế đa chức năng. Trên đây là những chức
năng cơ bản nhất. Thông qua việc thực hiện những chức năng này mà gia
đình vẫn tồn tại và phát triển, đồng thời tác động đến tiến bộ chung của xã
hội. Các chức năng được thực hiện trong sự thúc đẩy, hổ trợ lẫn nhau. Việc
phân chia những nội dung của chúng chỉ là tương đối. Nhiều khi, các chức
năng được thể hiện tổng hợp trong một công việc hoặc nhiều hoạt động của
gia đình. Ở từng nơi và các giai đoạn lịch sử khác nhau nội dung và vị trí của
mỗi chức năng có sự biến đổi phù hợp
Phần 2
THỰC TRẠNG GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Nhìn nhận vấn đề gia đình ở Việt nam
Những biến đổi của gia đình Việt Nam thời gian qua đang tạo ra những
băn khoăn, lo lắng cho không ít người về sự tác động của toàn cầu hóa đối
với gia đình và văn hóa gia đình. Tuy nhiên, các nghiên cứu về gia đình cho
thấy, mặc dù có những vấn đề cần đặc biệt quan tâm và sớm có giải pháp
điều chỉnh, nhưng những biến đổi của gia đình Việt Nam hiện nay vẫn trong

khung cảnh tôn vinh và làm mới những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc,
tiếp nhận một cách chủ động những giá trị văn hóa của gia đình hiện đại.
a. Những mặt tốt
Vào những năm đầu đổi mới, “mở cửa”, với sự tác động mạnh mẽ của
cơ chế thị trường và sự du nhập ồ ạt lối sống, phương thức sinh hoạt của xã
hội phương Tây vào nước ta, trên các phương tiện thông tin đại chúng và
diễn đàn khoa học, không ít người đã lên tiếng báo động về nguy cơ “khủng
hoảng” của gia đình Việt Nam. Sự lo ngại ở thời điểm ấy không phải không
6
có cơ sở. Tuy nhiên, cho đến nay, sau 20 năm đổi mới, gia đình Việt Nam
không những không bị khủng hoảng mà ngày càng được củng cố và phát
triển. Đó là một thành tựu quan trọng của công cuộc đổi mới do Đảng ta
lãnh đạo.
Vào thời điểm hiện nay, con người Việt Nam vẫn coi hôn nhân là sự kiện
trọng đại, thiêng liêng và gia đình là phương thức sinh sống quan trọng nhất
của hầu như tất cả mọi người. Gia đình là một thiết chế xã hội. Nó là sản
phẩm của lịch sử. Vì thế, gia đình bị quy định bởi điều kiện kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội và tôn giáo… của một xã hội nhất định. Qua gia đình,
chân dung của xã hội hiện ra một cách sinh động và toàn diện cả về kinh tế,
chính trị, văn hóa, khoa học, tư tưởng, tôn giáo, lối sống, phong tục, tập
quán và tín ngưỡng… Gia đình là một nhóm xã hội đặc biệt được hình thành
một cách tự nhiên bởi quan hệ hôn nhân và huyết thống, mọi thành viên
cùng chung sống và có chung ngân sách.
Mặc dù chịu tác động nhiều chiều của cơ chế thị trường và toàn cầu hóa,
nhưng hiện tại, gia đình Việt Nam vẫn là một giá trị bền vững và có sức
sống mạnh mẽ. Nó vẫn là nền tảng, là tế bào của xã hội. Với tư cách là đơn
vị kinh tế, đơn vị tiêu dùng của xã hội, một mặt, gia đình trực tiếp tham gia
thúc đẩy sự phát triển của các quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông của
đời sống kinh tế; mặt khác, là nơi nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, nương
tựa của mỗi con người trong suốt cuộc đời. Gia đình cũng là nơi lưu giữ,

truyền thụ, chuyển giao và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống quý
báu của dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Gia đình Việt Nam đang trong bước chuyển đổi từ truyền thống sang hiện
đại trên nhiều phương diện và xu hướng khác nhau, cả tích cực và tiêu cực.
Đó là sự biến đổi mang tính toàn diện cả về cơ cấu, các quan hệ, các chức
năng và vai trò của người phụ nữ trong gia đình.
Sự biến đổi của gia đình Việt Nam hiện nay, trước hết, được thể hiện trong
biến đổi cơ cấu gia đình. Loại hình gia đình rất phong phú, nhưng gia đình
hạt nhân - loại hình gia đình tiên tiến, phù hợp với xã hội hiện đại - mang
tính phổ biến. Quy mô của gia đình rất đa dạng, nhưng số gia đình hai thế hệ
chiếm tỷ lệ cao nhất với số người trong gia đình trung bình là trên/dưới 4
người. Trong các mối quan hệ gia đình, quan hệ hôn nhân về cơ bản do tình
yêu của đôi nam - nữ quyết định. Hôn nhân được sự đồng ý của cha mẹ, sự
công nhận của pháp luật và được tổ chức cưới theo nghi thức đời sống mới.
Tuổi kết hôn của cả nam và nữ đều có xu hướng tăng cao và sau khi kết hôn,
7
đôi vợ chồng thường có nơi ở riêng và số con của mỗi cặp vợ chồng đa số
chỉ là trên/dưới 2 con. Mặc dù trong gia đình người đàn ông vẫn thường
được đề cao và cha mẹ vẫn có nhiều quyền uy với con cái nhưng nhìn
chung, các mối quan hệ trong gia đình hiện nay đã mang tính chất tự do, dân
chủ và bình đẳng.
Gia đình Việt Nam hiện nay, về cơ bản, vẫn là mô hình gia đình truyền
thống đa chức năng. Các chức năng cơ bản của gia đình như: chức năng kinh
tế; chức năng tái sản xuất con người và sức lao động; chức năng giáo dục -
xã hội hóa; chức năng tâm - sinh lý, tình cảm… được phục hồi, có điều kiện
thực hiện tốt hơn và có vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ đối với từng
thành viên gia đình mà còn tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của đời sống
kinh tế - xã hội đất nước. Chức năng của gia đình được đề cao cũng có nghĩa
gia đình đang có vai trò và vị thế quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội
của đất nước trong giai đoạn hiện nay.

Bình đẳng giới trong gia đình là một nét mới trong biến đổi của gia đình
Việt Nam và đã thu hút sự quan tâm, đồng tình thực hiện của cả xã hội. Đó
là người phụ nữ ngày càng có vai trò quan trọng trong sản xuất, tái sản xuất,
tiếp cận các nguồn lực phát triển, các quyết định, các sinh hoạt cộng đồng và
thụ hưởng các lợi ích, phúc lợi gia đình; đồng thời, các thành viên gia đình
và các dịch vụ xã hội cũng từng bước chia sẻ gánh nặng công việc nội trợ
gia đình đối với người phụ nữ, góp phần thiết thực tạo điều kiện và cơ hội
giúp phụ nữ phát huy mọi tiềm năng của mình trong hội nhập và phát triển.
Trong bối cảnh đổi mới và toàn cầu hóa hiện nay, gia đình Việt Nam đã biến
đổi một cách toàn diện và ngày càng trở thành một thực thể hoàn thiện -
năng động phù hợp với những điều kiện kinh tế - xã hội có nhiều biến động.
Sự biến đổi ấy chính là một quá trình liên tục bảo tồn, truyền thụ, phát huy
những giá trị của gia đình truyền thống; đồng thời, tiếp thu có chọn lọc và
cải biến những giá trị tiên tiến, những tinh hóa của gia đình hiện đại. Có thể
nói, gia đình Việt Nam hiện nay chính là sản phẩm của sự hiện đại hóa các
giá trị cao quý của gia đình Việt Nam truyền thống và truyền thống hóa
những giá trị, tinh hoa gia đình của các xã hội hiện đại.
Những giá trị truyền thống quý báu của gia đình Việt Nam truyền thống vẫn
được bảo tồn và phát huy như: tình yêu lứa đôi trong sáng; lòng chung thủy,
tình nghĩa vợ chồng; trách nhiệm và sự hy sinh vô tận của cha mẹ với con
cái; con cái hiếu thảo với cha mẹ; con cháu kính trọng, biết ơn và quan tâm
tới ông bà, tổ tiên; tình yêu thương, chăm lo và đùm bọc anh em, họ hàng;
8
đề cao lợi ích chung của gia đình; tự hào truyền thống gia đình, dòng họ.
Đồng thời, gia đình Việt Nam cũng tiếp thu nhiều tinh hoa, giá trị tiên tiến
của gia đình hiện đại như: tôn trọng tự do cá nhân; tôn trọng quan niệm và
sự lựa chọn của mỗi người; tôn trọng lợi ích cá nhân; dân chủ trong mọi
quan hệ; bình đẳng nam nữ; bình đẳng trong nghĩa vụ và trách nhiệm; bình
đẳng trong thừa kế; không phân biệt đối xử đẳng cấp, thứ bậc giữa con trai
và con gái, giữa anh và em... Đó chính là cùng với những đặc trưng của gia

đình truyền thống được phát huy, gia đình Việt Nam hiện nay đang được
củng cố và xây dựng theo xu hướng hiện đại hóa: dân chủ, bình đẳng, tự do
và tiến bộ.
b. Những hạn chế còn tồn tại
Cùng với những cơ hội và những điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát
triển tiến bộ, gia đình Việt Nam cũng đang đứng trước nhiều nguy cơ và
thách thức trong bối cảnh toàn cầu hóa nhiều biến động và bất trắc: đó là
tình trạng ly hôn có xu hướng tăng cao; sống chung không kết hôn; tình
trạng trẻ em nghiện hút; tệ nạn mại dâm; tình dục đồng giới; trẻ em lang
thang; buôn bán phụ nữ qua biên giới; bạo lực trong gia đình; bất bình đẳng
giới; ngoại tình; xu hướng đề cao tiền bạc trong quan hệ giữa người và
người... đang tấn công vào gia đình từ nhiều phương diện khác nhau.
Song song đó, khi mà cơ chế thị trường vận hành xã hội thì khả năng
thu nhập và giá trị của đồng tiền được đề cao. Thực tế đó đã tác động mạnh
mẽ đến từng gia đình, thu hút các thành viên theo dòng chảy xã hội. Người
ta bị hấp dẫn theo chiều hướng cực đoan, say sưa làm ăn để kiếm ra thật
nhiều tiền, giá trị gia đình bị coi nhẹ, đạo đức truyền thống bị lung lay trước
sức ép của cuộc sống tiêu thụ đô thị. Việc giáo dục con cái, phụng dưỡng
cha mẹ, chăm sóc giữa các thế hệ bị xao lãng và đặt xuống dưới nhu cầu
kinh tế. Sự thủy chung vợ chồng, lòng hiếu thảo đã bị phủ nhận. Hậu quả là
nhiều nơi đã xảy ra những xung đột trong quan niệm cũng như đụng độ
trong ứng xử giữa các thành viên; không ít gia đình phải ly tán, cha mẹ con
cái phải chia tay nhau.
Bên cạnh đó, cũng không tài nào tránh khỏi được những tai họa vô
cùng to lớn đang dần dần xâm phạm và kích thích một cách tiêu cực nhất
vào bản tính con người. Và đặc biệt nhất vẫn là tác động làm ảnh hưởng đến
sự lơi lỏng trong quan hệ “phạm vi gia đình” mà từ xưa nay vốn có truyền
thống yêu thương gần gũi, đùm bọc che chở nhau, là tính chất cơ động chưa
9
từng thấy trong đời sống hiện đại, là sự quan hệ của con người thuộc mọi lứa

tuổi.
Năm 2008, do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Thống kê,
Viện Gia đình và Giới, Quỹ nhi đồng LHQ cùng đứng tên công bố một bản
báo cáo kết quả điều tra Gia đình Việt Nam cho thấy những mặt còn tồn tại
của gia đình ở Việt nam:
Cha mẹ không có đủ thời gian cho con
Kết quả điều tra cho thấy, có tới 80% trẻ em trong độ tuổi 15-17 khi
được hỏi đã nói rằng cha mẹ cho phép chúng tự đưa ra quyết định về mọi
vấn đề liên quan tới cuộc sống của mình. Vì nhiều lý do, trong đó có việc
bận kiếm sống, 1/5 số ông bố và 7% số bà mẹ hoàn toàn không dành thời
gian cho việc chăm sóc, dạy dỗ con cái. Theo đánh giá của giới nghiên cứu,
sự thờ ơ của người lớn gây hậu quả xấu đối với sự phát triển về thể chất, trí
tuệ, tinh thần của trẻ em và không phải bao giờ, không phải ai cũng nhận
thấy ngay được hậu quả ấy.
Các cuộc điều tra dẫn đến sự nhìn nhận về vai trò của người phụ nữ đối với
vấn đề chăm sóc những đứa con dưới 15 tuổi: họ dành khoảng thời gian cho
con nhiều gấp 6 lần so với các ông bố. Nỗi lo thường xuyên của các ông bố,
bà mẹ hiện nay là việc trẻ hỗn láo, bỏ học, cờ bạc, sử dụng ma túy và đi chơi
qua đêm nhưng có đến 8,8% trong số họ làm ngơ trước lỗi lầm của con mình
và 0,5% cảm thấy hoàn toàn bất lực.

Tỷ lệ ly hôn và mâu thuẫn gia đình
Bản thông tin tóm lược về kết quả điều tra viết: “Hầu hết những người
trả lời phỏng vấn đã kết hôn và có con nhưng hiện tượng ly hôn đang tăng
lên. Tỷ lệ ly hôn theo kết quả điều tra là 2,6% số người trong độ tuổi 18-60,
và số phụ nữ đứng đơn ly hôn cao gấp 2 lần so với nam giới. Hầu hết trẻ em,
sau khi cha mẹ ly hôn, thường sống với mẹ”.
Mặc dù trong số đã ly hôn, 27,7% cho biết lý do dẫn đến ly hôn là “mâu
thuẫn về lối sống” và 25,9% đổ cho việc ngoại tình nhưng người ta nói rằng
nguyên nhân của việc ly hôn có nhiều hơn thế. Mối quan hệ vợ chồng ở Việt

Nam, nơi được đánh giá là có sự cải thiện rõ rệt về bình đẳng giới, vẫn tiềm
ẩn nguy cơ ly hôn dù hơn 90% số người được hỏi nói rằng họ hài lòng với
cuộc hôn nhân của mình. Mối nguy có từ sự bất hòa trong ứng xử, do khó
khăn kinh tế và bạo lực gia đình. Căn cứ theo các điều luật về phòng chống
bạo lực gia đình, đã có 21,2% số cặp vợ chồng cho rằng họ đã trải qua hình
thức bạo lực gia đình - từ đánh, mắng, nhục mạ đến buộc phải chấp nhận
quan hệ tình dục khi không có nhu cầu - chưa kể số trường hợp “bạo lực
10

×