Tải bản đầy đủ (.pdf) (222 trang)

Luận án tiến sĩ Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của cơ quan giám sát triều nguyễn giai đoạn 1802 1885 (full)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.1 MB, 222 trang )

ML.1

MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cám ơn
Danh mục các chữ viết tắt
Mục lục
MỞ ÐẦU 1
Chương 1. CƠ QUAN GIÁM SÁT CỦA TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 –
1885 16
1.1. TIỀN ĐỀ LỊCH SỬ VÀ YÊU CẦU THỰC TIỄN TRONG VIỆC GIÁM SÁT BỘ
MÁY HÀNH CHÍNH, HỆ THỐNG QUAN LẠI CỦA TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN
1802 – 1885 16
1.1.1. Tiền đề từ lịch sử 16
1.1.1.1. Tổ chức giám sát dưới các triều đại quân chủ Việt Nam trước triều
Nguyễn 16
1.1.1.2. Cơ quan giám sát của triều Thanh, Trung Quốc 24
1.1.2. Yêu cầu thực tiễn đặt ra cho triều Nguyễn thành lập cơ quan giám sát 26
1.1.2.1. Yêu cầu trong việc giám sát hoạt động của chính quyền trung ương 26
1.1.2.2. Yêu cầu trong việc giám sát hoạt động của chính quyền địa phương 36
1.1.2.3. Yêu cầu trong việc giám sát hoạt động của hệ thống quan lại từ trung
ương đến địa phương 42
1.2. CƠ QUAN GIÁM SÁT CỦA TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 – 1885 44
1.2.1. Quá trình ra đời và kiện toàn cơ quan giám sát của triều Nguyễn giai
đoạn 1802 – 1885 44
1.2.2. Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ 50
1.2.3. Chế độ thăng bổ và thuyên chuyển của triều Nguyễn đối với cơ quan
giám sát 58
1.2.4. Chế độ đãi ngộ, khen thưởng và kỷ luật 60
1.2.4.1. Chế độ đãi ngộ 60


1.2.4.2. Chế độ khen thưởng và kỷ luật 63
Chương 2. CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN GIÁM SÁT TRIỀU
NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 – 1885 68
ML.2

2.1. CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG ĐỘC LẬP 68
2.1.1. Độc lập trong việc can gián vua và hoàng thân quốc thích 68
2.1.2. Độc lập trong các hoạt động hội triều và nghe chính sự 73
2.1.2.1. Trách nhiệm của Đô sát viện 73
2.1.2.2. Trách nhiệm của các Cấp sự trung và Giám sát ngự sử 75
2.1.3. Độc lập trong giám sát hoạt động của các bộ, nha 78
2.1.3.1. Đối với hoạt động của các bộ 78
2.1.3.2. Giám sát hoạt động của các nha 81
2.1.4. Độc lập trong giám sát hoạt động của hệ thống quan lại và các đạo 83
2.1.4.1. Đối với hoạt động của hệ thống quan lại 83
2.1.4.2. Đối với hoạt động của các đạo 86
2.1.5. Độc lập trong một số hoạt động khác 90
2.2. CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG PHỐI HỢP 92
2.2.1. Phối hợp trong nội bộ cơ quan giám sát 92
2.2.1.1. Phối hợp giữa Cấp sự trung các khoa 93
2.2.1.2. Phối hợp giữa Cấp sự trung với Giám sát ngự sử 94
2.2.1.3. Phối hợp giữa các Giám sát ngự sử 95
2.2.2. Tam Pháp ty: Thiết chế phối hợp giữa Đô sát viện, bộ Hình và Đại lý tự 97
2.2.2.1. Triều Nguyễn với việc thành lập và vận hành Tam Pháp ty 97
2.2.2.2. Vai trò của Đô sát viện trong Tam Pháp ty 101
2.2.2.3. Đóng góp của Tam Pháp ty 103
2.2.3. Phối hợp trong hoạt động kinh lược sứ 107
2.2.3.1. Quy định của triều Nguyễn và vai trò của cơ quan giám sát trong hoạt
động kinh lược 107
2.2.3.2. Những đóng góp của hoạt động kinh lược 109

2.2.4. Phối hợp thực hiện một số nhiệm vụ khác 112
2.2.4.1. Hội đồng trong hoạt động thanh tra 112
2.2.4.2. Hội đồng giám sát, kiểm xét việc thu, chi ở các kho 116
2.2.4.3. Hội đồng giám sát, kiểm xét trường thi 117
2.2.4.4. Hội đồng kiểm tra, giám sát hoạt động ở các lăng tẩm 119
2.2.4.5. Hội đồng trong một số hoạt động khác 119
ML.3

Chương 3. NHỮNG ĐÓNG GÓP, HẠN CHẾ TRONG CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ
THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN GIÁM SÁT TRIỀU NGUYỄN
GIAI ĐOẠN 1802 – 1885 123
3.1. NHỮNG ĐÓNG GÓP VÀ HẠN CHẾ TRONG CƠ CẤU TỔ CHỨC 123
3.1.1. Đóng góp 123
3.1.2. Hạn chế 126
3.2. NHỮNG ĐÓNG GÓP VÀ HẠN CHẾ QUA THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG 127
3.2.1. Đóng góp 127
3.2.1.1. Góp phần xây dựng và bảo vệ nền quân chủ chuyên chế 128
3.2.1.2. Trên lĩnh vực quốc phòng – an ninh 133
3.2.1.3. Trên lĩnh vực văn hóa – xã hội 135
3.2.1.4. Trên lĩnh vực kinh tế, thuế khóa và trị thủy 141
3.2.2. Hạn chế 143
KẾT LUẬN 147
CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 154
TÀI LIỆU THAM KHẢO 155
PHỤ LỤC PL.1 – PL.54





MỞ ÐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sau nhiều biến cố thăng trầm, đến năm 1802 Nguyễn Ánh giành được chiến
thắng trước nhà Tây Sơn lập ra vương triều Nguyễn, mở đầu giai đoạn trị vì kéo dài
143 năm của triều đại quân chủ cuối cùng ở Việt Nam. Trong thời gian trị vì, 4 vị
vua đầu của triều Nguyễn, từ Gia Long, Minh Mạng đến Thiệu Trị, Tự Đức đã dày
công xây dựng bộ máy nhà nước quân chủ tập quyền vững mạnh. Kết quả, so với
các triều đại quân chủ Việt Nam trước đó, dưới 4 vị vua đầu triều Nguyễn đã xây
dựng được bộ máy nhà nước khá hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương. Bộ máy
nhà nước của triều Nguyễn được xây dựng trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các bộ
máy nhà nước quân chủ Việt Nam trước đó và nhà Thanh (Trung Quốc) đương thời.
Trải qua quá trình hoạt động, bộ máy nhà nước của triều Nguyễn giai đoạn 1802 –
1885 đã có những đóng góp nhất định. Một trong những nguyên nhân góp phần cho
triều Nguyễn có được những đóng góp trên đó là triều đại này đã xây dựng, vận
hành một hệ thống giám sát khá hoàn chỉnh và hiệu quả.
1.1. Trong quá trình ra đời, tồn tại và phát triển, cơ quan giám sát của triều
Nguyễn như: Đô sát viện, lục khoa và Giám sát ngự sử của 16 đạo đã có những
đóng góp lớn, góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa
phương cũng như ổn định xã hội và phần nào đảm bảo quyền, lợi ích của dân
chúng.
1.2. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, nhất là trong những thập niên gần
đây, nghiên cứu về các chúa Nguyễn và triều Nguyễn luôn là đề tài được nhiều học
giả quan tâm. Tuy nhiên, đến nay cơ quan giám sát của triều Nguyễn vẫn là vấn đề
chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều, các kết quả nghiên cứu chủ yếu chỉ dừng lại
ở mức độ khảo tả, tư liệu rời rạc chưa hệ thống, chưa đánh giá được những đóng


góp và hạn chế về tổ chức và thực tiễn hoạt động của cơ quan giám sát triều Nguyễn
giai đoạn 1802 – 1885.

1.3. Nghiên cứu về cơ quan giám sát sẽ cho chúng ta những kinh nghiệm trong
việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống tư pháp, thanh tra, giám sát nói riêng và bộ máy
nhà nước của Việt Nam nói chung trong giai đoạn hiện nay. Đây là một trong những
khoảng trống trong nghiên cứu về triều Nguyễn cũng như nghiên cứu về cơ quan
giám sát dưới chế độ quân chủ ở Việt Nam cần phải sớm được khắc phục, nhất là
khi Việt Nam đang hướng đến xây dựng và hoàn thiện hệ thống tư pháp, thực thi
nền thanh tra, giám sát mạnh và minh bạch.
1.4. Trong những năm qua, việc bảo tồn, trùng tu, phục dựng và phát huy giá
trị các công trình kiến trúc của triều Nguyễn được quan tâm đầu tư rất lớn và đã thu
được những đóng góp đáng kể. Tuy nhiên, có một số công trình kiến trúc, trong đó
có các công trình, cơ sở làm việc của cơ quan tư pháp, giám sát đã xuống cấp trầm
trọng, thậm chí di tích không còn nữa nhưng chưa được quan tâm nghiên cứu, trùng
tu, phục dựng. Do vậy, nghiên cứu này chính là một trong những kênh thông tin để
chính quyền địa phương, cơ quan hữu quan và các nhà chức trách thấy được việc
trùng tu, tôn tạo các di tích như Đô sát viện, Tam Pháp ty, trống Đăng văn… là cần
thiết trong giai đoạn hiện nay.
Chính vì những lý do trên đây, chúng tôi đã quyết định chọn vấn đề “Cơ cấu
tổ chức và cơ chế hoạt động của cơ quan giám sát triều Nguyễn giai đoạn 1802 –
1885” làm đề tài Luận án Tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam, mã số:
62.22.03.13.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Đến nay, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về triều Nguyễn nói
chung và bộ máy nhà nước triều Nguyễn nói riêng. Trong đó, có nhiều công trình đã
tìm hiểu, nghiên cứu về cơ quan giám sát của triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885.
Có thể điểm lại một số kết quả nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài như sau:


2.1. Trước năm 1975: Do một số yếu tố khách quan và chủ quan, tình hình
nghiên cứu về triều Nguyễn trước năm 1975 ở trong nước không nhiều. Nhất là, cơ
quan giám sát hầu như chưa được quan tâm nghiên cứu.

Qua khảo sát bước đầu, Luận án Tiến sỹ Luật khoa của Nguyễn Sĩ Hải (1962,
Sài Gòn), với đề tài Tổ chức chính quyền trung ương thời Nguyễn sơ: 1802 - 1847
là một trong những công trình đầu tiên có nghiên cứu về cơ quan giám sát dưới triều
Nguyễn. Đây là công trình nghiên cứu khá công phu và có nhiều đóng góp trong
việc khảo cứu về cơ quan giám sát triều Nguyễn. Đối với cơ quan giám sát, tác giả
đã dành 2 phần để trình bày, đó là phần cơ cấu tổ chức và phần giám sát đoàn.
Trong đó, tác giả Luận án đã khái quát về cơ quan giám sát dưới các triều đại quân
chủ ở Việt Nam, đồng thời trình bày khá chi tiết về cơ cấu tổ chức và chức năng,
nhiệm vụ của Đô sát viện, lục khoa và Giám sát ngự sử các đạo của triều Nguyễn.
Phải khẳng định rằng, đây là công trình mà Luận án của chúng tôi đã kế thừa được
kết quả nghiên cứu về quá trình ra đời và kiện toàn của cơ quan giám sát dưới thời 3
vị vua đầu của triều Nguyễn (Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị). Tuy nhiên, đây
là công trình nghiên cứu tổng thể về tổ chức bộ máy chính quyền (của triều Nguyễn
giai đoạn 1802 – 1847), do đó kết quả nghiên cứu cũng mới chỉ dừng lại việc liệt
kê, khảo tả về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan giám sát dưới 3
triều vua đầu. Tác giả chủ yếu nghiên cứu về cơ quan giám sát dưới triều Minh
Mạng còn một số thay đổi dưới triều vua Tự Đức, tác giả không nghiên cứu. Hơn
nữa, đây là công trình nghiên cứu về tổ chức chính quyền trung ương nên tác giả
cũng chưa đi sâu nghiên cứu và đánh giá cụ thể về cơ cấu cơ quan giám sát cũng
như thực tiễn hoạt động của nó.
2.2. Từ sau năm 1975 đến nay: Cũng như tình hình nghiên cứu trước năm
1975, cho đến những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, tình hình nghiên cứu về
triều Nguyễn nói chung và cơ quan giám sát của triều đại này nói riêng hầu như bị
“bỏ ngỏ”. Một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên đó là năm 1983, Vũ Thị
Phụng đã cho xuất bản (Nxb Khoa học Xã hội) cuốn Giáo trình “Lịch sử nhà nước
và pháp luật Việt Nam”. Công trình này tác giả đã đề cập sơ lược về cơ quan Đô sát


viện với vai trò là một cơ quan giám sát trong tổ chức bộ máy nhà nước triều
Nguyễn. Năm 1996, Nguyễn Minh Tường đã cho ra đời cuốn “Cải cách hành chính

dưới triều Minh Mạng”. Công trình này là một bước đột phá sâu hơn trong vấn đề
nghiên cứu cơ cấu tổ chức, hoạt động của cơ quan giám sát dưới triều Minh Mạng.
Trong đó, tác giả đã trình bày khá chi tiết về quá trình cải cách, kiện toàn cơ quan
giám sát dưới triều Minh Mạng và kết luận cải cách hành chính dưới triều Minh
Mạng mang lại hiệu quả là củng cố và tăng cường chế độ giám sát toàn bộ tổ chức
bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương. Trong thời gian này, Đỗ Bang đã
chủ biên công trình “Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn (1802 – 1884)” (thuộc
đề tài độc lập cấp Nhà nước về triều Nguyễn). Năm 1997, công trình này được Nhà
xuất bản Thuận Hóa xuất bản. Tập sách này tác giả đã dành riêng một phần để
nghiên cứu về cơ quan giám sát của triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1884, trên
tất cả các lĩnh vực tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan giám sát: Đô sát viện,
lục khoa, Giám Sát ngự sử của 16 đạo.
Một tác giả có khá nhiều nghiên cứu về bộ máy hành chính triều Nguyễn đó là
Trần Thị Thanh Thanh. Trong thời gian gần đây, tác giả này đã có các bài báo khoa
học công bố như: “Về pháp luật dành cho quan lại thời Nguyễn (1802-1883)”, báo
cáo tại Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ I, Trung tâm KHXH&NV quốc gia
(1998), “Hội đồng trong triều chính nhà Nguyễn thời kỳ 1802-1883”, tạp chí Xưa và
Nay (1999), ““Phiếu nghĩ”- Một thể thức tham mưu và giám sát trong triều chính
nhà Nguyễn”, tạp chí Xưa và Nay (2000)… Nhìn chung, các nghiên cứu của Trần
Thị Thanh Thanh chủ yếu tập trung vào hệ thống pháp luật của triều Nguyễn.
Năm 2006, tại Hội thảo 700 năm Thuận Hóa – Phú Xuân – Thừa Thiên Huế
(đến năm 2010 Kỷ yếu này được Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản với tên
Thuận Hóa – Phú Xuân – Thừa Thiên Huế: 700 năm hình thành và phát triển) hai
tác giả là Đỗ Bang và Phan Tiến Dũng đã có 2 báo cáo có liên quan đến cơ quan
giám sát của triều Nguyễn. Trong đó, bài “Các biện pháp chế tài để điều tiết cực
quyền của bộ máy nhà nước tập quyền triều Nguyễn”, tác giả Đỗ Bang tiếp tục khái
quát một cách khá đầy đủ về quá trình ra đời, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ


của cơ quan giám sát dưới triều Nguyễn. Bài viết đã cho biết triều Nguyễn đã thành

lập một hệ thống cơ chế giám sát cơ quan công quyền cùng quan lại chặt chẽ và có
hiệu quả [9:140-145]. Tác giả Phan Tiến Dũng với báo cáo “Các biện pháp phòng
chống tham nhũng của triều Nguyễn trong việc xây dựng Kinh đô Huế, tác dụng và
bài học kinh nghiệm” đã cho biết vai trò của cơ quan giám sát (Đô sát viện) trong
việc phòng chống tham nhũng của triều Nguyễn khi xây dựng Kinh đô Huế. Tác giả
nhận xét việc giám sát về quy trình và thủ tục xây dựng là chặt chẽ; triều đình đã tạo
điều kiện cho cơ quan giám sát hoạt động, tôn trọng cơ chế động viên và bảo vệ
người tố cáo những vấn đề liên quan đến tham nhũng trong quá trình xây dựng
[17:23]. Đồng thời, thuộc viên của cơ quan giám sát đã đề nghị thực thi các biện
pháp xử phạt nghiêm minh, kịp thời đối với các hành vi tham nhũng. Việc thực hiện
tốt công tác giám sát và thi hành xử phạt tham nhũng đã có tác dụng tích cực trong
xã hội
Cũng trong năm 2006, tác giả Bùi Huy Khiên với bài viết “Tuyển chọn, kiểm
tra, giám sát đội ngũ quan lại dưới triều Minh Mạng”, đăng tải trên tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, đã khái quát về Đô sát viện dưới triều Minh Mạng cũng như
nhiệm vụ của cơ quan này. Đồng thời, tác giả cũng cho biết tổ chức này có những
quyền như: quyền đàn hặc, quyền can gián vua, quyền nghe chính sự, khoa, đạo có
quyền tâu thẳng lên nhà vua, quyền kiểm tra hoạt động của cơ quan khác, quyền
phúc duyệt các bản án dân sự Tác giả cũng đã nghiên cứu về vai trò của cơ quan
giám sát trong hoạt động Kinh lược đại sứ [33:19-23]. Gần đây nhất là công trình
“Nghiên cứu pháp luật hành chính và quân sự triều Nguyễn (1820 – 1884)” (đề tài
Khoa học và Công nghệ cấp Bộ, thực hiện tại Đại học Sư phạm, Đại học Huế, năm
2011), của Huỳnh Công Bá. Trong công trình này tác giả đã dành một phần để khai
quát về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Đô sát viện và Tam Pháp ty. Đặc biệt, tác
giả cũng đã đi sâu nghiên cứu việc triều Nguyễn vận hành Đô sát viện và Tam Pháp
ty là một trong những biện pháp chế ước trong bộ máy công quyền.


Trên website của viện Khoa học Thanh tra
1

, Phạm Thị Huệ công bố bài
“Phòng, chống tham nhũng xưa và nay”. Với bài viết này, tác giả đã cho biết “Năm
1804, dưới triều Nguyễn, ngay sau khi lên ngôi, vua Gia Long đặt các chức Đô ngự
sử và Phó Đô ngự sử. Năm 1827, vua Minh Mạng đặt thêm các chức Cấp sự trung
và Giám sát ngự sử. Đến năm 1832, ông chính thức đặt Đô sát viện với một quy chế
đầy đủ bao gồm lục khoa và Giám sát ngự sử các đạo” [136]. Tác giả cũng đã khải
quát về nhiệm vụ của Đô sát viện dưới triều Nguyễn là: “giám sát hành vi của các
quan lại trong triều kể cả hoàng thân quốc thích để phát hiện ra những hành vi
khuất tất, không công bằng, không giữ phép, dối trá, bưng bít, chuyên quyền đều
phải tham hặc” và “Giám sát cả việc thi cử tuyển chọn nhân tài cho đất nước nhằm
đảm bảo sự công bằng trong thi tuyển, lựa chọn được người hiền tài giúp nước,
giúp vua” [136]. Đồng thời, để thi hành công vụ, Đô sát viện “có một hệ thống giám
sát đoàn, Giám sát ngự sử 16 đạo” “có nhiệm vụ giám sát dưới địa phương để phát
hiện quan lại có tệ tham ô, tham hặc, những việc không công bằng, không giữ
phép” [136]. Ngoài ra, còn có một số công trình khác như: “Thanh tra, giám sát và
khảo xét quan lại thời phong kiến ở nước ta” của Thái Hoàng, Bùi Quí Lộ, đăng
trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử (1995); Lược khảo và tra cứu về học chế, quan chế ở
Việt Nam từ 1995 trở về trước (1997) của Lê Trọng Ngoạn và một số người khác;
Một số vấn đề quan chế triều Nguyễn (1998) của Phan Đại Doãn; Việc đào tạo và
sử dụng quan lại của triều Nguyễn (1802 - 1885) (1998) của Lê Thị Thanh Hòa
Trong thời gian qua, sinh viên khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa học (Đại
học Huế) cũng đã thực hiện một số khóa luận tốt nghiệp như: Tìm hiểu hoạt động
của cơ quan tư pháp triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1883 của sinh viên Võ Thị Lý
(2002); Tổ chức và hoạt động cơ quan giám sát của triều Nguyễn (1802 - 1885) của
Trịnh Thị Quyên (2005), Tìm hiểu chế độ trung ương tập quyền triều Nguyễn (1802
– 1885) của Nguyễn Thị Thủy (2005)… Trong các nghiên cứu này, khoá luận của
Trịnh Thị Quyên (2005) là một đề tài có một số đóng góp nhất định cho việc nghiên
cứu về cơ quan giám sát triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885. Trong khuôn khổ của



1
.


một khóa luận cử nhân, tác giả đã khái quát về quá trình ra đời, kiện toàn cũng như
cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của cơ quan giám sát dưới
triều Nguyễn qua các triều vua từ Gia Long, Minh Mạng đến Thiệu Trị, Tự Đức.
Nhìn chung, công trình này chưa hệ thống đầy đủ về mặt tư liệu, mới chỉ dừng lại ở
mức độ khảo tả, việc đi sâu phân tích thực tiễn hoạt động cũng như đưa ra các đánh
giá, nhận định về đóng góp, hạn chế của của cơ quan giám sát triều Nguyễn giai
đoạn 1802 – 1885 Dẫu vậy, đây chính những kết quả nghiên cứu đã giúp cho
chúng tôi biết được phần nào về tình hình nghiên cứu cơ quan giám sát của triều
Nguyễn cũng như đóng góp và hạn chế của các nhà nghiên cứu đi trước.
Cũng như tình hình ở trong nước, nghiên cứu về triều Nguyễn là một trong
những vấn đề được học giả là người nước ngoài quan tâm nhiều nhất trong tất cả
các nghiên cứu về chế độ quân chủ Việt Nam. Theo chúng tôi được biết, đến nay có
hai công trình nghiên cứu sớm nhất về cơ quan giám sát triều Nguyễn đó là “Kinh
thành Huế bản đồ học
2
” của H. Cosserat và “Kinh thành Huế địa danh học
3
” của
L.Cadière trong Những người bạn Cố đô Huế
4
, tập XX (tiếng Pháp, xuất bản năm
1933; đến năm 1996, Hà Xuân Liêm dịch và Nxb Thuận Hóa xuất bản). Mặc dù cả
hai nghiên cứu của H. Cosserat và L.Cadière đều xuất bản sau năm 1885 nhưng các
tác giả này đã có một cái nhìn tổng thể về địa danh và vị trí cũng như quá trình thay
đổi của các di tích trong Kinh thành Huế, đặc biệt là vị trí và quá trình thay đổi của
các di tích như: Đô sát viện, Tam Pháp ty, trống Đăng văn [13:5-110], [10:111-

188]. Tuy nhiên, cả hai nghiên cứu này mới chỉ dừng lại việc xác định vị trí và quá
trình thay đổi của Đô sát viện, Tam Pháp ty, trống Đăng văn, còn các vấn đề về cơ
cấu tổ chức và cơ chế, thực tiễn hoạt động của cơ quan giám sát chưa được các tác
giả này nghiên cứu.
Tiếp đến, năm 1971, tác giả Alexander Barton Woodside đã cho xuất bản cuốn
Vietnam and the Chinese model: A comparative study of Nguyễn and Ch’ing civil


2
Tiếng Pháp: “Le Citadelle de Hue: Cartographie”.
3
Tiếng Pháp: “Le Citadelle de Hué: Onomastique”. Năm 1996, Nxb Đà Nẵng đã dịch và xuất bản nghiên cứu
này, với tên Kinh thành Huế: Địa danh bằng cả tiếng Pháp và tiếng Việt.
4
Tiếng Pháp: Bulletin des Amis du Vieux Hué.


government in the first half of the nineteenth century
5
, do nhà xuất bản Đại học
Harvard (Mỹ) ấn hành. Với sản phẩm này, Alexander Woodside đã đi sâu nghiên
cứu và đối sánh về tổ chức bộ máy, hệ thống quan lại và các chế độ tuyển bổ, thi
cử… của triều Nguyễn. Về cơ quan giám sát, tác giả đã dành hơn 2 trang (từ trang
71 đến trang 73) để mô tả sơ lược về cơ quan giám sát của triều Nguyễn và cho biết
triều Nguyễn đã kế thừa kinh nghiệm của nhà Thanh (Trung Quốc) để xây dựng cơ
quan giám sát. Đó là, cơ quan giám sát của triều Nguyễn và triều Thanh đều có Đô
sát viện (với các chức Tả đô ngự sử và Hữu đô ngự sử), lục khoa và Giám sát ngự
sử các đạo (triều Thanh có 12 Giám sát ngự sử, triều Nguyễn có 16 Giám sát ngự
sử). Tuy nhiên, tác giả cũng cho biết sự tiếp thu, kế thừa của các vị vua đầu triều
Nguyễn là không máy móc và có sự thay đổi nhất định để phù hợp với điều kiện của

Việt Nam lúc bấy giờ. Thứ nhất, cơ quan giám sát (Đô sát viện và lục khoa) của
triều Thanh có số lượng quan và lại nhiều gấp hai lần so với cơ quan giám sát của
triều Nguyễn. Thứ hai, lục khoa của triều Nguyễn có vai trò và quyền lực nhỏ hơn,
hạn chế hơn so với lục khoa của triều Thanh. Đặc biệt, các thuộc viên cơ quan giám
sát của triều Nguyễn được triều đình tránh không cho thực hiện nhiệm vụ khi có
quan hệ họ hàng, thân thuộc, trong khi triều Thanh không quy định… [127:71-73].
Nhìn chung, so với tất cả các học giả nghiên cứu về cơ quan giám sát của triều
Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885, cuốn Vietnam and the Chinese model của
Alexander Barton Woodside đã có cái nhìn khá tổng quan về cơ quan giám sát của
triều Nguyễn cũng như đánh giá được sự kế thừa, tiếp thu có sáng tạo của triều
Nguyễn khi xây dựng cơ quan giám sát cho triều đại mình. Đây cũng là công trình
mà chúng tôi đã kế thừa được một số tư liệu để thực hiện đề tài này.
Ngoài ra, còn có một số sản phẩm khác như L'Empire vietnamien face à la
Chine et à la France (1847-1885)
6
, Luận án Tiến sĩ của Yoshiharu Tsuboi
(Trường Cao đẳng thực hành về khoa học xã hội, Paris) năm 1982. Đến năm
1987, Nhà xuất bản L’Harmanttan (Pháp) đã xuất bản nghiên cứu này cũng với


5
Tạm dịch: Việt Nam và mô hình Trung Hoa: Một nghiên cứu so sánh của chính phủ dân sự Nguyễn và nhà
Thanh trong nửa đầu thế kỷ XIX.
6
Tạm dịch: “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa (1847 – 1885)”.


tên trên và năm 1993, cuốn sách này đã được Nhà xuất bản Tri thức xuất bản
bằng tiếng Việt (do các dịch giả Nguyễn Đình Đầu, Bùi Trần Phượng và Tăng
Văn Hỷ dịch). Về nội dung, các công trình trên đều tập trung nghiên cứu các vấn

đề như nước Việt Nam trước năm 1847, người Pháp và người Hoa đối với Việt
Nam, thái độ và chính sách đối ngoại của triều Tự Đức đối với Pháp Còn các
lĩnh vực như tổ chức bộ máy, cơ quan giám sát của triều Nguyễn hầu như không
được nghiên cứu. Từ một Luận án Tiến sĩ, năm 1993, Li Tana đã công bố công
trình “Vùng đất Nam Bộ dưới triều Nguyễn
7
”, do Institute of Southeast Asian
Studies Heng Mui Keng Terrece Pasir Panjang (Singapore) xuất bản. Một nghiên
cứu nữa đó là Luận án Tiến sĩ của Choi Byung Wook với đề tài “Vùng đất Nam
Bộ dưới triều Minh Mạng
8
(1820 – 1841)”, bảo vệ tại Đại học Quốc gia
Australia năm 2004. Sau đó, Luận án này được Cornell Southeast Asia Program
xuất bản. Cả hai nghiên cứu này chủ yếu đề cập đến chúa Nguyễn ở Đàng Trong
và các vấn đề như quyền lực của Gia Định thành, nhất là Lê Văn Duyệt, chính
sách của vua Minh Mạng đối với vùng đất Nam Bộ còn cơ quan giám sát chưa
được các tác giả nghiên cứu.
Tóm lại, từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, nghiên cứu về cơ
quan giám sát triều Nguyễn là đề tài đã và đang được quan tâm nghiên cứu. Tuy
nhiên, tất cả các nghiên cứu chủ yếu là các bài viết chuyên biệt về một lĩnh vực
nhất định trong hệ thống cơ quan giám sát; gần như chưa có các đề tài, công
trình nghiên cứu chuyên sâu hay các hội thảo, diễn đàn học thuật tổng thể, quy
mô bàn về cơ quan giám sát của triều Nguyễn. Mặc dầu vậy, kết quả nghiên cứu
của các học giả đi trước chính là những nguồn tư liệu, kinh nghiệm quý báu giúp
chúng tôi thực hiện Luận án này.
3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu về “Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của cơ quan giám sát
triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885” có những mục tiêu chính sau đây:



7
Tiếng Anh: Southern Vietnam under the Nguyen.
8
Tiếng Anh: Southern Vietnam under the Reign of Minh Mang.


3.1. Hệ thống hóa một cách đầy đủ về quá trình ra đời, kiện toàn và khái quát
về chức năng, nhiệm vụ cơ quan giám sát của triều Nguyễn.
3.2. Nghiên cứu về cơ chế độc lập và cơ chế phối hợp trong thực tiễn hoạt
động giữa cơ quan giám sát với nhau và giữa cơ quan giám sát với cơ quan khác.
3.3. Nghiên cứu, đánh giá về những đóng góp và hạn chế của cơ quan giám sát
trong quá trình hoạt động. Đồng thời, tìm hiểu về một số vị quan giám sát tiêu biểu
triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885
9
.
3.4. Luận án sẽ đưa ra những bài học kinh nghiệm cho việc xây dựng, hoàn
thiện và vận hành hệ thống thanh tra, giám sát hiện nay của Việt Nam. Luận án
cũng sẽ có những kiến nghị để các nhà chức trách, chính quyền địa phương quan
tâm đầu tư nghiên cứu về cơ quan giám sát cũng như việc bảo tồn, trùng tu, phục
dựng các công trình liên quan đến cơ quan giám sát của triều Nguyễn giai đoạn
1802 – 1885.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ
và thực tiễn hoạt động của cơ quan giám sát (Đô sát viện, lục khoa và Giám sát ngự
sử của 16 đạo dưới triều Nguyễn) Tuy nhiên, kể từ sau cuộc cải cách hành chính
của vua Minh Mạng, bộ máy hành chính nói chung và cơ quan giám sát nói riêng là
đầy đủ và khá hoàn chỉnh. Thành quả này được 2 vị vua sau là Thiệu Trị, Tự Đức
tiếp tục kế thừa và không thay đổi nhiều. Chính vì vậy, trong quá trình nghiên cứu
về cơ quan giám sát cũng như tổ chức bộ máy nhà nước, Luận án chủ yếu tập trung

nghiên cứu dưới thời vua Minh Mạng.
Bên cạnh đó, để có cơ sở nhìn nhận một cách khách quan cũng như đối sánh,
đánh giá về cơ quan giám sát của triều Nguyễn, Luận án còn khái quát về cơ cấu tổ
chức, chức năng, nhiệm vụ của các chức quan, cơ quan giám sát của các triều đại
Việt Nam trước triều Nguyễn cũng như cơ quan giám sát của nhà Thanh (Trung
Quốc) đương thời.


9
Tuy nhiên, để đảm bảo sự phù hợp về bố cục của luận án, phần này được kết cấu trong phần Phụ lục.


Trong quá trình hoạt động, cơ quan giám sát của triều Nguyễn còn được triều
đình giao cho phối hợp với một số tổ chức, cơ quan khác để thực thi chức năng,
nhiệm vụ chung. Do vậy, Luận án còn nghiên cứu thêm một số cơ quan khác của
triều Nguyễn như: Tam Pháp ty, Đại lý tự, bộ Hình
Một đối tượng quan trọng cũng được Luận án quan tâm nghiên cứu nữa đó là
những vị quan tiêu biểu đã từng đảm đương chức vụ cơ quan giám sát hoặc liên
quan đến hoạt động của cơ quan giám sát.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Không gian nghiên cứu của đề tài là ở Việt Nam, trong đó tập trung nghiên
cứu về cơ quan giám sát của triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885 ở Huế.
Về mặt thời gian, Luận án nghiên cứu vấn đề trong khoảng thời gian từ năm
1802 khi Nguyễn Ánh thành lập triều Nguyễn đến năm 1885. Như chúng ta đã biết,
với sự kiện thất thủ Kinh đô của triều đình Huế trước âm mưu xâm lược của thực
dân Pháp vào đêm mùng 04/7/1885 rạng sáng ngày 05/7/1885, thực dân Pháp chính
thức xác lập quyền đô hộ và biến triều đình Huế thành tay sai. Từ đây, thực dân
Pháp bắt đầu cải tổ bộ máy nhà nước của triều Nguyễn theo ý đồ xâm lược của
chúng, “chế độ phong kiến Việt Nam với ý nghĩa là một vương triều độc lập đã sụp
đổ” [46:222], cơ quan giám sát của triều Nguyễn bắt đầu được thực dân Pháp thay

đổi về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và hoạt động theo mục đích của chúng.
5. NGUỒN TƯ LIỆU
5.1. Nguồn tư liệu quan trọng nhất được tác giả đặc biệt chú ý là nguồn tư liệu
của Nội các và Quốc Sử quán triều Nguyễn như bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự
lệ (15 tập) do Nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành năm 1993, bộ Đại Nam thực lục (10
tập) do nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 2007, Châu bản triều Nguyễn hiện
được lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 1 (Hà Nội) và bộ Mục lục châu bản
triều Nguyễn 122 tập của triều Nguyễn (dưới triều vua Gia Long, Minh Mạng,
Thiệu Trị và Tự Đức) do Viện Đại học Huế và Ủy ban phiên dịch sử liệu học Việt
Nam của Huế dịch từ năm 1962, hiện bản thảo còn được lưu trữ tại Thư viện trường
Đại học Khoa học (Đại học Huế)…


5.2. Về tài liệu là sản phẩm khoa học có một số luận án, cuốn sách điển hình
như: Luận án Tiến sỹ Tổ chức chính quyền trung ương thời Nguyễn sơ:1802 – 1847
của Nguyễn Sĩ Hải; cuốn Vietnam and the Chinese model: A comparative study of
Nguyễn and Ch’ing civil government in the first half of the nineteenth century của
Alexander Barton Woodside (Harvard University Press, 1971); Cải cách hành chính
dưới triều Minh Mạng của Nguyễn Minh Tường (Nxb KHXH, 1996); Tổ chức bộ
máy Nhà nước triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1884 và cuốn Khảo cứu kinh tế và tổ
chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn: những vấn đề đặt ra hiện nay của tác giả Đỗ
Bang (Nxb Thuận Hóa, Huế, 1997 và 1998); cuốn Một số vấn đề quan chế triều
Nguyễn của nhà nghiên cứu Phan Đại Doãn (Nxb Thuận Hóa, Huế, 1998), Báo cáo
đề tài khoa học Nghiên cứu pháp luật hành chính và quân sự triều Nguyễn (1802 –
1884), của tác giả Huỳnh Công Bá… Bên cạnh đó là các bài viết được công bố trên
các tạp chí chuyên ngành có uy tín hay trên các kỷ yếu hội thảo khoa học lớn của
một số tác giả như: Đỗ Bang, Phan Tiến Dũng, Bùi Huy Khiên, Vũ Thị Phụng, Trần
Thị Thanh Thanh Ngoài ra, tác giả Luận án còn tham khảo một số khoá luận tốt
nghiệp có liên quan trực tiếp đến đề tài của sinh viên khoa Lịch sử, trường Đại học
Khoa học Huế như đã trình bày.

5.3. Luận án còn sử dụng nguồn tư liệu từ internet. Đối với nguồn tư liệu này,
tác giả chủ yếu sử dụng các sản phẩm là bài báo, báo cáo khoa học, hình ảnh của
các học giả, nhà nghiên cứu đã được công bố trên các website.
5.4. Ngoài ra, tác giả cũng đã trực tiếp khảo sát thực địa, chụp ảnh các di tích
liên quan đến Luận án như: Đô sát viện, lục khoa, Tam Pháp ty tại thành phố Huế.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Là một đề tài thuộc chuyên ngành lịch sử nên phương pháp nghiên cứu chính
là phương pháp lịch sử và phương pháp logic trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã sử dụng các phương
pháp chuyên ngành của khoa học lịch sử như phương pháp đồng đại, phương pháp
lịch đại, phương pháp điền dã… nhằm tái hiện cơ quan giám sát dưới chế độ quân
chủ ở Việt Nam, chế độ quân chủ ở Trung Quốc nói chung và cơ quan giám sát
triều Nguyễn nói riêng. Đặc biệt, Luận án đã dựng lại một cách khá đầy đủ bức


tranh về thực tiễn hoạt động của cơ quan/chức quan giám sát dưới triều Nguyễn.
Chẳng hạn, khi sử dụng phương pháp lịch đại, Luận án đã có được cái nhìn khá đầy
đủ về quá trình ra đời, phát triển và hoàn thiện của cơ quan giám sát dưới chế độ
quân chủ ở Việt Nam, nhất là quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ quan giám sát
dưới triều Nguyễn từ triều Gia Long, Minh Mạng đến triều Thiệu Trị và Tự Đức.
Về phương pháp điền dã, tác giả Luận án đã tiến hành điền dã, quan sát, chụp ảnh
các di tích liên quan đến cơ quan giám sát của triều Nguyễn. Ngoài ra, Luận án còn
sử dụng một số phương pháp khác như: phương pháp thống kê, phương pháp so
sánh - đối chiếu
Trong quá trình thực hiện Luận án, các phương pháp nghiên cứu trên đây
không chỉ được sử dụng đơn lẻ, độc lập mà đối với một số vấn đề, Luận án đã có sự
lồng ghép các phương pháp với nhau để có được kết quả nghiên cứu đầy đủ và
chính xác. Chẳng hạn, khi nghiên cứu về cơ cấu cơ quan giám sát của triều Nguyễn,
Luận án đã kết hợp giữa phương pháp đồng đại, phương pháp lịch đại, phương pháp
đối chiếu, so sánh và phương pháp thống kê để phác họa lại cơ cấu cơ quan giám

sát của triều Nguyễn nói riêng cũng như quá trình phát triển của cơ quan giám sát
dưới các triều đại quân chủ ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc
7. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
Nghiên cứu đề tài “Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của cơ quan giám sát
triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885” nếu thành công sẽ có những đóng góp khoa
học và thực tiễn sau:
7.1. Trên cơ sở hệ thống hóa, khái quát hóa các công trình, bài viết của các
học giả đi trước, với cách nhìn độc lập, Luận án sẽ góp phần hệ thống hóa một cách
toàn diện và đầy đủ về quá trình ra đời, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và cơ
chế hoạt động của cơ quan giám sát triều Nguyễn trong mối tương quan với triều
đình và bộ máy nhà nước triều Nguyễn và trong mối liên hệ, so sánh với cơ quan
giám sát của các triều đại quân chủ ở Việt Nam trước triều Nguyễn và triều Thanh ở
Trung Quốc.


7.2. Nghiên cứu về cơ quan giám sát của triều Nguyễn còn giúp cho người đọc
thấy được tính kế thừa có chọn lọc và sáng tạo của triều Nguyễn trong quá trình xây
dựng bộ máy nhà nước nói chung và cơ quan giám sát nói riêng. Đồng thời, khẳng
định vai trò của cơ quan giám sát cũng như ảnh hưởng của vua, triều đình và hệ
thống bộ máy nhà nước đối với tổ chức này.
7.3. Từ nghiên cứu về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, Luận án sẽ đi sâu
phân tích về thực tiễn hoạt động của cơ quan giám sát triều Nguyễn, từ đó sẽ có
những nhận định, đánh giá về đóng góp và hạn chế trong quá trình triều Nguyễn xây
dựng và vận hành tổ chức này.
8. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Luận án được trình bày trong 3 chương và được kết cấu với các nội dung
nghiên cứu như sau:
- Mở đầu (15 trang, từ trang 1 – trang 15).
- Chương 1. Cơ quan giám sát của triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885 (52
trang, từ trang 16 – trang 67).

Chương này có hai nội dung nghiên cứu chính đó là: kinh nghiệm lịch sử và
yêu cầu trong việc giám sát bộ máy hành chính, đội ngũ quan lại đặt ra cho triều
Nguyễn thành lập cơ quan giám sát; quá trình ra đời, cơ cấu tổ chức, chức năng,
nhiệm vụ của cơ quan giám sát triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885.
- Chương 2. Cơ chế hoạt động của cơ quan giám sát triều Nguyễn giai đoạn
1802 – 1885 (54 trang, từ trang 68 – trang 121).
Trong chương này, Luận án sẽ đi sâu nghiên cứu hai nội dung chính là cơ chế
độc lập và cơ chế phối hợp trong thực tiễn hoạt động của cơ quan giám sát. Trong
đó, cơ chế độc lập được nghiên cứu thông qua các hoạt động như: can gián vua và
hoàng thân, giám sát hoạt động của các nha, bộ và giám sát hoạt động của hệ thống
quan lại giữa các cấp, các chức quan giám sát với nhau và giữa cơ quan giám sát
với cơ quan khác trong tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn. Cơ chế phối hợp đó
là sự phối hợp trong nội bộ cơ quan giám sát và giữa cơ quan giám sát với cơ quan


khác của triều Nguyễn Đặc biệt, cơ chế này còn được nghiên cứu bằng các hoạt
động cụ thể như: hoạt động của Tam Pháp ty, hoạt động Kinh lược
- Chương 3. Những đóng góp, hạn chế trong cơ cấu tổ chức và thực tiễn hoạt
động của cơ quan giám sát triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1885 (25 trang, từ trang
122 – trang 146).
Nội dung chính của chương này là đánh giá những đóng góp và hạn chế về cơ
cấu tổ chức và thực tiễn hoạt động của cơ quan giám sát triều Nguyễn giai đoạn
1802 – 1885.
- Kết luận (07 trang, từ trang 147 – trang 153).
- Các công trình nghiên cứu của tác giả đã công bố liên quan đến nội dung
Luận án (1 trang, trang 154).
Tài liệu tham khảo (09 trang, từ trang 155 – trang 163).
Phụ lục (53 trang, từ trang PL.1 – trang PL.53).


×