Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Quá trình xây dựng và phát triển KTTT ở Việt Nam dưới góc nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.15 KB, 20 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đề Cương:
A. Đặt vấn đề
B. Nội Dung
I. Cơ sở lý luận của quan điểm lịch sử cụ thể với phát triển kinh tế thị trường
(KTTT)
1. Quan điểm lịch sử cụ thể và cơ sở khách quan của quan ta điểm lịch sử cụ thể
1.1 Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể
1.2 Nguyên tắc nhận thức của quan điểm lịch sử cụ thể
1.3 Ý nghĩa của phương pháp luận quan điểm lịch sử cụ thể
2. Tại sao phải vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình xây dựng KTTT định
hướng XHCN ở Việt Nam
II. Những vấn đề cơ bản về KTTT định hướng XHCN ở nước ta
1. Sự cần thiết khách quan phát triển KTTT ở Việt Nam
1.1 Sự cần thiết khách quan
1.2 Khái niệm KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
1.3 Đặc trưng và bản chất của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
2. Vai trò của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
III. Quá trình xây dựng và phát triển KTTT ở Việt Nam dưới góc nhìn của quan
điểm lịch sử cụ thể
1. Những điều kiện cụ thể ảnh hưởng đến quá trình xây dựng KTTT định hướng
XHCN ở Việt Nam
1.1. Điều kiện trong nước
1.2. Những điều kiện thế giới và khu vực
2. Quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
Những thành tựu đạt được
Nguyên nhân
3. Những giải pháp để phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
C. Kết Luận
A. Đặt Vấn Đề
Bước vào thiên nhiên kỉ mới, loài người đã và đang có những bước tiến quang trong


công cuộc trinh phục thế giới. Những thành thành tịu trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật
nói riêng và trong mọi mặt của đời sống xã hội nói chung đã nâng dần loài người lên một
tầng cao mới. Trong sự chuyển biến manh mẽ đó, VIỆT NAM chúng ta cũng không
ngừng biến đổi vận động. Tính đến nay nước ta đã thực hiện công cuộc đổi mới được hơn
một thập kỉ, bên cạnh những thành tịu đã đật được, những vấn đề của nền kinh tế luôn
đặt ra những thách thức cho các nhà kinh tế. So với thế giới, nước ta vẫn là một nước
nghèo, nền kinh tế còn yếu kém, chậm phát triển những tàn dư của nền kinh tế tập trung
quan lieu bao cấp vẫn còn tồn tại đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.
Với tình hình như vậy Đại hội Đại biểu lần thứ VI (tháng 12-1986), để khôi phục
và phát triển kinh tế -xã hội đảng ta đã ra đường lối đổi mới toàn điện đất nước, trong đó
thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá, nền kinh tế thị trường, và đề ra
chủ trương: phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa – đó chính là nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trải qua các kỳ đại hội, đảng luôn luôn nhấn mạnh đến phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, và đến nay, thực tiễn đã cho thấy vai trò quan
trọng của nền KTTT trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đât
nước. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu, nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta vẫn
tồn tại nhiều mặt hạn chế. Chính vì thế chúng ta phải nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng
đắn cho nền kinh tế phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, phù hợp với khu vực, thế
giới và với thời đại, tức là chung ta phải phân tích các yếu tố kinh tế trong tổng thể các
mối quan hệ, trong sự vận động và phát triển.
Do vậy việc vận dụng quan điểm lịch sử- cụ thể của triết học Mác-Lênin vào quá
trình đổi mới nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là quá trình xây dựng và phát triển nền
KTTT định hướng XHCN ở nước ta là rất cần thiết. Vì vậy trong bài tiểu luận của mình
em đã chọn đề tài “Quan điểm lích sử - cụ thể với quá trình xây dựng và phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”.
2
B. Nội Dung
I. Cơ sở lý luận của quan điểm lịch sử cụ thể với phát triển KTTT định hướng

XHCN
1. Quan điểm lịch sử cụ thể và cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể
1.1 Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là cơ sở hình thành
quan điểm lịch sử cụ thể. Mọi sự vật hiện tượng cua thế giới đều tồn tại, vận động và phát
triển trong những điều kiện không gian và thời gian có ảnh hưởng trực tiếp tới tính chất,
đặc điểm của sự vật. Cùng một sự vật nhưng nếu tồn tại trong những điều kiện không
gian và thời gian cụ thể khác nhau thì tính chất, đặc điểm của nó sẽ khác nhau, thậm trí
có thể thay đổi hoàn toàn bản chất của sự vật. .
1.2 Nguyên tắc nhận thức của quan điểm lịch sử cụ thể
Nguyên tắc lịch sử-cụ thể được V.I.Lênin nêu rõ : “xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm
sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó
đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự phát
triển đó để xét xem hiện nay nó đã trở thành như thế nào”
1
. Bản chất của nguyên tắc này
nằm ở chỗ, trong quá trình nhận thức sự vật, hiện tượng, trong sự vận động, trong sự
chuyển hoá qua lại của nó, phải tái tạo lại được sự phát triển của sự vật hiện tượng ấy, sự
vận động của chính nó, đời sống của chính nó

. Nguyên tắc nhận thức của quan điểm lịch
sử cụ thể thể hiện:
Thứ nhất: Nguyên tắc lịch sử-cụ thể yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính phổ
biến, là phương thức tồn tại của vật chất, nghĩa là phải nhận thức được sự vận động làm
cho sự vật, hiện tượng xuất hiện, phát triển theo những quy luật nhất định và hình thức
của vận động quyết định bản chất của nó:phải chỉ rõ được những giai đoạn cụ thể mà nó
trải qua trong quá trình phát triển của mình; phải biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn thì mới có thể hiểu, giải thích được những
thuộc tính, những mối liên hệ tất yếu, những đặc trung chất và lượng vốn có của sự vật.
3

Thứ hai: Nguyên tắc lịch sử-cụ thể yêu cầu phải chỉ ra được các quy luật khách quan
quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiẹn tượng, quy định sự tồn tại hiện thời và
khả năng chuyển hoá thành sự vật, hiện tượng mới thông qua sự phủ định; chỉ ra được
rằng, thông qua phủ định của phủ định, sự vật, hiện tượng mới là sự kế tục sự vật, hiện
tượng cũ; là sự bảo tồn sự vật, hiện tượng cũ trong dạng đã được lọc bỏ, cải tạo cho phù
hợp với sự vật hiện tượng mới.
Thứ ba: Nguyên tắc lịch sử-cụ thể đòi hỏi phải xem xét các sự vật hiện tượng trong
mối liên hệ cụ thể của chúng. Việc xem xét các mặt, các mối liên hệ cụ thể của sự vật,
hiện tượng trong quá trình hình thành, phát triển cũng như diệt vong của chúng cho phép
nhận thức đúng đắn bản chất các sự vật, hiện tượng và từ đó mới có định hướng đúng cho
hoạt động thực tiễn của con người.
1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.39, tr. 78.
2. Tại sao phải vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình xây dựng KTTT
định hướng XHCN ở Việt Nam
Trước hết cần khẳng định rằng KTTT định hướng XHCN cũng là một dạng vật chất.
Nền kinh tế Việt Nam là một dạng vật chất xã hội theo sự phân loại của triết học Mác-
Lênin. Chính vì thế nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam cũng tồn tại, vận động,
phát triển theo những nguyên lý, quy luật của triết học Mác-Lênin. Mà cụ thể là những
điều kiện không gian, thời gian theo quan điểm lịch sử-cụ thể .
Sự ra đời và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hơn 10 năm qua đã góp phần
làm thay đổi bộ mặt của đất nước ta, nâng cao đời sống của nhân dân, phát triển kinh tế
đất nước. Tuy nhiên đó chưa phải là cái đích cuối cùng của Đảng và nhân dân ta, mặc dù
đã có sự phát triển trong thời gian qua, tuy nhiên nước ta về cơ bản nền kinh tế nước ta
vẫn là một nền kinh tế chậm phát triển. Khi chúng ta chuyển từ nền kinh tế tập chung
quan liêu vao cấp sang nền cơ chế thị trường, từ một nền kinh tế yếu kém lạc hậu với hệ
thống sản xuất, hệ thống quản lý với những cán bộ mang nặng tư tưởng ỷ nại, do đó khi
4
chuyển sang nền KTTT với tính chất năng động đã không tránh khỏi những sai lầm.
Thêm nữa thời điểm chúng ta bắt đầu đổi mới, chuyển sang nền KTTT là quá muộn so
với những nước trên thế giới và khu vực khi mà những nước tư bản như Mĩ, Nhật,… đã

tiến hành cơ chế thị trường và vượt xa ta hàng trăm năm. Nhờ sử dụng triệt để KTTT, chủ
nghĩa tư bản đã đạt được những thành tựu về kinh tế-xã hội, phát triển lực lượng sản xuất,
nâng cao năng xuất lao động, quản lý xã hội đã đạt được về văn minh hành chính, văn
minh công cộng…tuy nhiên KTTT của chủ nghĩa tư bản, với bản chất tư hữu về tư liệu
sản xuất đã không tránh khỏi những tiêu cực và hạn chế như: cạnh tranh gay gắt dẫn đến
tình trạng “cá lớn nuốt cá bé”, tình trạng phân hoá giàu nghèo diễn ra phổ biến, ô nhiễm
môi trường, tệ nạn xã hội… Với nước ta, là một nước đi sau và phát triển theo con đường
XHCN chúng ta có cơ hội phát triển và kế thừa những thành tựu của nhân loại mà trước
hết đó là những văn minh của KTTT, loại bỏ những khuyết tật của nó để xây dựng
CNXH có hiệu quả hơn.
Chính vì lẽ đó chúng ta cần phải vận dụng quan điểm lịch sử-cụ thể vào việc nghiên
cứu trong quá trình xây dựng và phát triển KTTT định hướn XHCN ở Việt Nam.
II. Những vấn đề cơ bản về KTTT định hướng XHCN ở nước ta
1. Sự cần thiết khách quan phát triển KTTT ở Việt Nam
1.1 Sự cần thiết khách quan
Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế -xã hội mà trong đó sản phẩm sản xuất ra
để trao đổi, để bán trên thị trường. Mục đích của sản xuất trong kinh tế hàng hoá không
phải để thoả mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra sản phẩm mà nhằm để bán, tức
là để thoả mãn nhu cầu của người mua đáp ứng nhu cầu của xã hội.
KTTT là trình độ phát triển cao hơn của kinh tế hàng hoá, trong đó các yếu tố “đầu
vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường. Như vậy KTTT là trình độ phát
triển cao hơn của kinh tế hàng hoá, do đó điều kiện tồn tại, phát triển của kinh tế hàng
hoá c ũng là điều kiện tồn tại và phát triển của KTTT đó là hai điều kiện:
5
Thứ nhất: có sự phân công lao động xã hội
Thứ hai: có sự tách biệt về mặt kinh tế của người sản xuất
Trong thời kỳ quá độ, ở nước ta có đầy đủ hai điều kiện để tồn tại và phát triển của
kinh tế hàng hoá do đó nền KTTT tồn tại và phát triển ở nước ta đó là một tất yếu, khách
quan. Hai điều kiện đó là:
Thứ nhất: phân công lao động xã hội hiện nay trong nền kinh tế ở nước ta không những

tồn tại mà ngày càng phát triển cả về chiều sau và chiều rộng: nền sản xuất phát triển
thành nhiều nghành nghề sản xuất khác nhau và nhiều ngành nghề mới không ngừng
được ra đời, phát triển do đó dẫn đến sản phẩm hàng hoá đa dạng, dồi dào, phong phú và
nhiều sản phẩm hàng hoá mới không ngừng ra đời và phát triển. Phân công lao động ngày
càng phát triển trong từng ngành nghề, địa phương thống nhất trên cả nước và không
ngừng mở rộng phân công lao động hợp tác quốc tế.
Thứ hai: Trong nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở hữu toàn
dân; sở hữu tập thể; sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ và sở hữu tư bản
tư nhân), sở hữu hỗn hợp. Do đó, tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng, nên
quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá-tiền tệ.
Như vậy kinh tế thị trường ở nước ta là một tồn tại tất yếu, khách quan.
1.2 Khái niệm KTTT định hướng XHCN
Đến nay, chúng ta có thể khẳng định, kinh tế thị trường là một thành tựu chung của văn
minh nhân loại chứ không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị
trường là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội đạt ở trình độ cao, phản ánh trình độ văn minh
của nhân loại và là kết quả của sự phát triển của lịch sử xã hội loài người. Nhờ kinh tế thị
trường chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, đem lại sự
phồn thịnh cho các nước tư bản phát triển.
Vậy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hiểu như thế nào? Đây chưa
là một tiền lệ trong các nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, đến nay chưa có ai đưa ra khái
niệm về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa một cách khái quát. Tuy nhiên,
6
qua những cách mô tả về bản chất, mục đích của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Trung Quốc và Việt Nam có thể thấy rằng, mô hình kinh tế thị trường này vừa
bao hàm những nhân tố của kinh tế thị trường, lại vừa có những nhân tố định hướng xã
hội chủ nghĩa, với mục đích cuối cùng là phát triển kinh tế đạt hiệu quả cao nhưng vẫn
đảm bảo thực hiện công bằng xã hội ngày một tốt hơn, nhằm nâng cao đời sống cho nhân
dân, thực hiện dân chủ, công bằng xã hội, xây dựng đất nước văn minh và thịnh vượng.
Vì vậy, về khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có thể đưa ra như
sau: “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một phạm trù kinh tế chính trị,

phản ánh bản chất và mục đích của nền sản xuất xã hội, đó là nền kinh tế vận động dựa
trên cơ sở các quy luật khách quan, đặc biệt là các quy luật của thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước, để xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiến bộ nhằm đạt mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
1.3 Đặc trưng và bản chất của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta, một mặt vừa có những tính chất chung của
nền kinh tế thị trương: Một là, các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong
sản xuất, kinh doanh; Hai là, giá cả do thị trường quyết định , hệ thống thị trường được
phát triển đầy đủ và nó có tác dụng cơ sở cho việc phân phôi các nguồn lực kinh tế vào
các ngành , các lĩnh vực của nền kinh tế. Ba là, nền kinh tế vận động theo những quy luật
vốn có của KTTT như quy luật giá trị, quy luật cung- cầu, quy luật cạnh tranh…sự tác
độgn cảu các quy luật đó hình thành nên cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế. Bốn là, nếu là
nền kinh tế hiện đại thì có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua pháp luật kinh tế, kế
hoạch hoá, các chính sách kinh tế. mặt khác KTTT định hướng XHCN của Việt Nam còn
dựa trên cơ sở được dẫn dắt, chi phôi bởi nguyen tắc và bản chất của XHCN. Do đó,
KTTT định hướng XHCN có những đặc trung bản chất sau:
Hệ thống mục tiêu và động lực: Đảng ta đã nêu lên mục tiêu xây dựng một xã hội "dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Chính mục tiêu đó sẽ quy định
phương tiện, công cụ, động lực của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và con
7
đường đạt tới mục tiêu. Đó là sử dụng kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển rút ngắn.
Chế độ sở hữu và thành phần kinh tế: Các hình thức sở hữu khác nhau như sở hữu xã
hội, sở hữu tập thể, sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân chỉ là những hình thức hay cấp độ
của sở hữu kinh tế. Bởi sở hữu như một phạm trù kinh tế luôn chứa các cực kinh tế đối
lập hay những mâu thuẫn xã hội hiện thực, bắt buộc phải thừa nhận lẫn nhau như những
chủ thể kinh tế riêng. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò
sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu xã hội sẽ có ý nghĩa ngày càng quan trọng để
đảm bảo tính kế hoạch và định hướng xã hội chủ nghĩa cho quá trình phát triển.
Cơ chế vận hành kinh tế: Đương nhiên cơ chế thị trường là cơ chế chủ yếu vận hành

kinh tế, nhằm đảm bảo phân bổ hợp lý các lợi ích và nguồn lực, kích thích phát triển các
tiềm năng kinh doanh và các lực lượng sản xuất, tăng hiệu quả và tăng năng suất lao động
xã hội. Tuy nhiên, điều đó không hề phủ nhận vai trò của "nhân tố mới" – Nhà nước xã
hội chủ nghĩa - trong việc quản lý, hiệu chỉnh những sai lệch và thất bại của cơ chế thị
trường. Trong trường hợp này, Nhà nước xã hội chủ nghĩa thông qua chức năng tổ chức
và quản lý vĩ mô, sử dụng tốt các công cụ hành chính – pháp lý và kinh tế, đặc biệt, công
cụ kế hoạch hoá và các chương trình mục tiêu quốc gia, các chiến lược phát triển trung và
dài hạn cũng như các kế hoạch ngắn hạn, các công cụ đòn bẩy, để quản lý nền kinh tế
phát triển đúng hướng.
Hình thức phân phối: Kết hợp phân phối theo lao động, theo đóng góp và cổ phần, trên
nguyên tắc ưu tiên phân phối theo lao động và hiệu quả, đồng thời đảm bảo phân phối
công bằng và hạn chế bất bình đẳng xã hội. Điều này vừa khác với phân phối theo tư bản
của kinh tế thị trường thông thường, lại vừa khác với phân phối theo lao động mang tính
bình quân trong chủ nghĩa xã hội kiểu cũ. Trong kinh tế thị trường hiện đại và kinh tế tri
thức, tiềm năng lao động - "tư bản con người" được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu và
có khả năng sáng tạo rất lớn. Việc đề cao con người cũng như nguyên tắc phân phối theo
lao động là phù hợp với xu thế và tính nhân văn của phát triển hiện đại. Mặt khác, bảo
8

×