MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, nhờ tiến trình cải tổ kinh tế, chính sách mở
cửa và đường lối phát triển kinh tế theo hướng đa phương hóa, tăng cường
mọi biện pháp để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã thiết lập và
mở rộng mối quan hệ với các nước trên thế giới về kinh tế, văn hoá, khoa
học, công nghệ, giáo dục....Trong quá trình đó, việc giao lưu và hợp tác
thương mại có thể được coi là điểm nổi bật, đặc biệt sau nhiều năm đàm
phán thương mại, Việt Nam chúng ta đã chính thức trở thành thành viên
thứ 150 của tổ chức thuơng mại thế giới (WTO). Điều đó cho thấy nền
kinh tế của chúng ta đang từng ngày thay đổi, dần hoàn thiện để có thể hoà
mình, hội nhập vào xu thế toàn cầu húa, khu vực húa trong lĩnh vực kinh
tế. Trước bối cảnh đó, nhu cầu nghiên cứu, giảng dạy và học ngoại ngữ nói
chung và ngoại ngữ chuyên ngành nói riêng đó trở thành một đũi hỏi thực
tế và cấp bỏch của xó hội. Việc học và sử dụng tiếng Anh ngày càng trở
nên cấp thiết. Vị thế của tiếng Anh ngày càng được nâng cao vì đây chính
là ngôn ngữ giao tiếp chủ yếu, là chiếc chìa khoá dẫn đến thành công,
giúp mở ra cánh cửa giao lưu kinh tế, văn hoá cũng như nhiều lĩnh vực
liên quan khác.
Song trên thực tế, trong quá trình học tập, làm việc cũng như kinh
doanh với các công ty nước ngoài, chúng ta đang gặp phải không ít những
khó khăn trong việc soạn thảo thư giao dịch tiếng Anh thương mại
(business correspondence). Và điều đó có nguyờn do từ việc cỏc sinh viờn
tốt nghiệp khối các Khoa cũng như các Trường kinh tế chưa được trang bị
hành trang kiến thức cơ bản và những thao tác cơ bản để có thể viết một
bức thư giao dịch một cách thực sự có hiệu quả. Các giáo trình dạy tiếng
Anh thương mại hiện nay chỉ mới cung cấp cho người dạy và người học
những mẫu câu và những tương đương đại thể giữa tiếng Anh và tiếng
1
Việt. Theo chúng tôi, chừng đó, có thể nói là hoàn toàn chưa đủ để giúp
cho người học có thể vận dụng và hiện thực hóa chúng trong việc soạn
thảo ra những bức thư giao dịch có hiệu quả kinh doanh cao nhất.
Số sinh viên ra trường thực sự có khả năng viết và hiểu về phong cách
thư từ giao dịch tiÕng Anh th¬ng m¹i nãi chung cßn rÊt h¹n chÕ. Những khó
khăn mà họ gặp phải trong quá trình soạn thảo thư từ giao dịch tiếng Anh
thương mại chính là việc lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ và điều này
đã gây ra không ít những rắc rối. Việc nhận thức được cách thức viết thư
hiệu quả có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp trong thế
giới kinh doanh, đối với sinh viên sắp tốt nghiệp, các giảng viên khối các
trường kinh tế nói chung và đặc biệt nói riêng đối với Trường Đại học
Ngoại thương. Đó chính là lý do để chúng tôi chọn đề tài: “Khảo sát kiểu
câu, ngôi xưng hô, tình thái trong thư từ giao dịch tiếng Anh Thương
mại trên dữ liệu tiếng Anh đối chiếu với tiếng Việt” làm nội dung nghiên
cứu cho luận văn của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Tên gọi của đề tài mà chúng tôi sẽ nghiên cứu : “Khảo sát kiểu câu,
ngôi xưng hô, tình thái trong thư từ giao dịch tiếng Anh Thương mại
trên dữ liệu tiếng Anh đối chiếu với tiếng Việt” đã thể hiện một cách hết
sức khái quát đối tượng và phạm vi nghiên cứu luận văn. Như có thể thấy
qua tên gọi, chúng tôi muốn tiến hành khảo sát, nghiên cứu ba phương
diện ngôn ngữ quan trọng dẫn đến thành công của một bức thư giao dịch
đó là kiểu câu, ngôi xưng hô và tình thái trong tiếng Anh và đối chiếu với
tiếng Việt.
Chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát nhiều loại thư khác nhau với tổng số là
250 bức thư và được chia thành 5 nhóm:
2
+ Nhóm 1: do người bản ngữ viết bằng tiếng Anh (English native
speakers)
+ Nhóm 2: do người nước ngoài (không phải bản ngữ như: Nhật, Hàn
Quốc, Malaysia, Trung Quốc...) viết bằng tiếng Anh
+ Nhóm 3: do người Việt nam làm việc tại doanh nghiệp trong nước
viết bằng tiếng Anh gửi cho các đối tác nước ngoài của các doanh nghiệp
trong và ngoài nước
+ Nhóm 4: do sinh viên năm cuối trường Đại học Ngoại thương Hà Nội
viết bằng tiếng Anh
+ Nhóm 5: do người Việt nam viết bằng tiếng Việt để giao dịch giữa
các doanh nghiệp trong nước.
Dựa trên những kết quả khảo sát, các con số thống kê và những biện
luận cụ thể, chúng tôi muốn làm rõ những loại nào được sử dụng rộng rãi,
phổ biến nhất và sử dụng loại nào thì có thể đem lại hiệu quả trong giao
dịch kinh doanh. Một điều không thể không nhắc đến là trên cơ sở đó, có
thể tìm ra những nét tương đồng và khác biÖt trong th tõ giao dÞch gi÷a hai
ng«n ng÷. Những kết quả nghiên cứu như vậy sẽ đưa đến những gợi mở,
giúp cho việc học, việc dạy cũng như việc soạn thảo những bức thư có tính
thực tế trong quá trình làm việc với các đối tác nước ngoài với hiệu quả
cao nhất có thể.
3. Mục đích và nội dung nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu và xác lập cơ sở lý luận cho các vấn đề lý thuyết có liên
quan đến đề tài: như kiểu câu, ngôi nhân xưng, tình thái, hành vi ngôn
ngữ, nguyên tắc lịch sự.
- Xác lập danh sách tương đối các kiểu câu, ngôi nhân xưng, các từ và
động từ biểu đạt tình thái được sử dụng trong các thư từ giao dịch thương
mại .
3
- Trên cơ sở phân tích, nêu các ví dụ minh hoạ về các kiểu câu, cách sử
dụng các đại từ nhân xưng, cơ chế hoạt động của các từ biểu thị tình thái
trong thư từ giao dịch TATM chúng tôi sẽ đối chiếu, so sánh với tiếng Việt
để tìm ra những nét tương đồng, khác biệt trong thư từ giao dịch giữa hai
ngôn ngữ.
- Vạch ra một số chiến lược để viết thư có tính hiệu quả cao.
- Xác định những khó khăn mà người Việt thường gặp trong quá trình
soạn thảo thư TATM và định hướng cách giải quyết phù hợp.
- Đề xuất một số gợi ý nhằm nâng cao tính hiệu quả trong việc giảng
dạy chuyên đề thư tín thương mại cho sinh viên năm cuối tại Trường Đại
học Ngoại thương.
4. Phương pháp nghiên cứu và tư liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu.
Trong luận văn này, để giải quyết nhiệm vụ đặt ra, chúng tôi sử dụng
nhiều thủ pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó đặc biệt quan trọng là các thủ
pháp:
- Thống kê phân loại: Đề tài đã sử dụng thủ pháp thống kê để thu thập
các bức thư giao dịch gồm các loại thư cơ bản khác nhau như thư chào hàng,
hỏi hàng, đặt hàng, khiếu nại..., sau đó xử lí chúng theo các phương diện như
tần xuất sử dụng của các kiểu câu, các cách xưng hô và các phương tiện thể
hiện tình thái.
- Mô tả phân tích: Chúng tôi sử dụng thủ pháp mô tả và phân tích định
tính để mô tả và phân tích đặc điểm của từng kiểu câu, các cách xưng hô và
các phương tiện thể hiện tình thái trong các bức thư được khảo sát.
- So sánh: Chúng tôi sử dụng thủ pháp so sánh để nêu lên thực trạng sử
dụng ngôn ngữ có liên quan đến ba phương tiện ngôn ngữ quan trọng đã nêu
4
trên. Đồng thời chúng tôi vận dụng thủ pháp này trong việc trình bày các hệ
thống quan niệm của các tác giả về các vấn đề có liên quan.
4.2 Nguồn tư liệu
Trong công trình này, để tiến hành khảo sát, tư liệu thực tiễn là rất quan
trọng nên chúng tôi đó cố gắng thu thập tư liệu nghiên cứu từ các nguồn sau:
- Các loại thư từ giao dịch TATM của các công ty Việt Nam và nước
ngoài viết như: thư chào hàng, thư hỏi hàng, đặt hàng, khiếu nại,... và các loại
thư phúc đáp.
- Khảo sát các bức thư về giao dịch TATM do sinh viên năm thứ 4, Khoa
Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế và Khoa tiếng Anh Thương mại Trường Đại
học Ngoại thương viết.
- Các mẫu thư của Phòng Thương mại Quốc tế.
Ngoài ra, chúng tôi còn phân tích một số ví dụ tiêu biểu trong các sách giáo
khoa tiếng Anh thương mại, các sách ngôn ngữ liên quan đến cơ sở lý thuyết
về câu, phát ngôn, ngôi xưng hô, quy chiếu, hành động ngôn từ, chiến lược
lịch sự, tình thái và vấn đề liên quan đến đề tài.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn của
chúng tôi bao gồm bốn chương:
1. Phần mở đầu
2. Phần nội dung chính của luận văn:
Chương I: Cơ sở lý thuyết
Chương II: Kiểu câu trong thư giao dịch TATM đối chiếu với Tiếng Việt
Chương III: Ngôi xưng hô trong thư giao dịch TATM đối chiếu với Tiếng
Việt
Chương IV: Tình thái trong thư giao dịch TATM đối chiếu với Tiếng
Việt
5
3. Phần kết luận
6
CHƯƠNG I:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI.
I. Vấn đề về câu:
1. Khái niệm câu
Theo quan điểm của ngữ pháp chức năng, câu không phải là đơn vị
thuộc ngôn ngữ mà là đơn vị thuộc lời nói, tức câu không phải là một đơn vị
có sẵn trong ngôn ngữ mà là đơn vị được tạo ra trong quá trình sử dụng ngôn
ngữ (Cao Xuân Hạo 1991). Trong đời sống hằng ngày, thường thường ai cũng
có thể biết được thế nào là một câu, ranh giới của một câu. Nhưng trong ngôn
ngữ học, các nhà nghiên cứu vẫn chưa có được một định nghĩa nhất trí về câu,
đặc biệt là rất sự không nhất trí đối với vấn đề xếp câu vào số các đơn vị của
lời nói (như ngữ pháp chức năng) hay số các đơn vị ngôn ngữ (cùng với âm
vị, hình vị, từ... như quan điểm của ngữ pháp truyền thống). Trong luận văn
này, chúng tôi xin dẫn ra một vài định nghĩa về câu của một số nhà nghiên
cứu:
- Viện sĩ V.V. Vi-nô-gra-đốp: “ Câu là đơn vị hoàn chỉnh của lời nói
được hình thành về mặt ngữ pháp theo các quy luật của một ngôn ngữ nhất
định, làm công cụ quan trọng nhất để cấu tạo, biểu thị và truyền đạt tư tưởng.
Trong câu, không phải chỉ có sự truyền đạt về hiện thực, mà còn có cả mối
quan hệ của người nói với hiện thực” [51; 140]. Theo quan niệm này, rõ ràng
câu không phải là đơn vị có sẵn của ngôn ngữ. Nó là những tổ hợp được hình
thành khi con người vận dụng ngôn ngữ để tư duy, giao tiếp hay truyền đạt tư
tưởng, tình cảm, cảm giác, ý chí, thái độ. Chính vì thế mà câu phải là một đơn
vị hoàn chỉnh. Tính hoàn chỉnh của câu không tách rời khỏi hoàn cảnh ngôn
ngữ, và xét một cách sâu xa thì không tách rời quy tắc ngữ pháp của một ngôn
7
ngữ. Việc tạo câu từ các đơn vị của ngôn ngữ phải tuân theo những quy tắc
ngữ pháp nhất định.
- Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến: “Câu là đơn vị
ngôn ngữ có cấu tạo ngữ pháp (bên trong và bên ngoài) tự lập và có ngữ điệu
kết thúc, mang một tư tưởng tương đối trọn vẹn có kèm thái độ của người nói,
hoặc chỉ biểu thị thái độ của người nói; giúp hình thành và biểu hiện, truyền
đạt tư tưởng, tình cảm với tư cách là đơn vị thông báo nhỏ nhất” [37; 285].
Theo quan niệm này, câu cũng không phải là một đơn vị có sẵn của ngôn ngữ
mà nó được tạo lập trong quá trình tư duy và giao tiếp,và thể hiện một ý
tương đối trọn vẹn, đồng thời thể hiện thái độ, tình cảm của người nói (người
viết). Nó là đơn vị nhỏ nhất có chức năng thông báo. Nó có cấu tạo ngữ pháp
nhất định và có một ngữ điệu kết thúc.
- Diệp Quang Ban: “Câu là đơn vị của nghiên cứu ngôn ngữ có cấu tạo
ngữ pháp (bên trong và bên ngoài) tự lập và ngữ điệu kết thúc, mang một ý
nghĩa tương đối trọn vẹn hay thái độ, sự đánh giá của người nói, hoặc có thể
kèm theo thái độ, sự đánh giá của người nói, giúp hình thành và biểu hiện,
truyền đạt tư tưởng, tình cảm. Câu đồng thời là đơn vị thông báo nhỏ nhất
bằng ngôn ngữ” [34; 107]. Định nghĩa này của Diệp Quang Ban cũng gần
tương tự như định nghĩa trên. Theo ông, một câu bao giờ cũng phải đảm bảo
được ba yếu tố: yếu tố hình thức “là đơn vị nghiên cứu của ngôn ngữ, có cấu
tạo ngữ pháp (bên trong và bên ngoài) tự lập và ngữ điệu kết thúc” và là đơn
vị có chức năng thông báo nhỏ nhất; yếu tố nội dung “mang một ý nghĩa
tương đối trọn vẹn hay thái độ, sự đánh giá của người nói, hoặc có thể kèm
theo thái độ, sự đánh giá của người nói”; yếu tố chức năng “giúp hình thành
và biểu hiện, truyền đạt tư tưởng, tình cảm”
- Nguyễn Minh Thuyết: “Câu là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có khả năng
thông báo một sự việc, một ý kiến, một tình cảm hoặc một cảm xúc” [41; 266].
8
Trên đây chúng tôi chỉ mới dẫn ra một số định nghĩa về câu, chưa phải
là tất cả. Nhưng chừng ấy định nghĩa cũng giúp ta thấy được những nét bản
chất nhất của câu. Chúng ta thấy rằng, mặc dù khái niệm về câu chưa được
thống nhất giữa các nhà nghiên cứu, song chung quy lại có thể đưa ra những
đặc điểm về câu như sau:
- Về mặt chức năng: Câu là một đơn vị có khả năng thông báo ( có thể
bao gồm thông tin về đối tượng, thông tin sự việc) và truyền đạt tình cảm,
cách đánh giá của người nói (người viết) đối với sự việc được nói đến.
- Về cấu tạo: Câu là đơn vị có cấu tạo ngữ pháp tự lập (khi nói có một
ngữ điệu kết thúc, khi viết thể hiện bằng dấu câu kết thúc).
Trong số các đơn vị có chức năng thông báo, câu là đơn vị nhỏ nhất.
Lấy ví dụ, nếu ta coi một đoạn văn hay cả một bài viết, một chương hay một
cuốn sách là những đơn vị thông báo thì đó là những đơn vị còn chia tách
được thành nhiều đơn vị thông báo nhỏ hơn, trong khi câu là đơn vị không thể
chia nhỏ hơn được nữa.
Trong khuôn khổ một luận văn cao học, chúng tôi thấy không thể và
không cần thiết phải đi sâu vào những tranh luận lí thuyết (hiện vẫn chưa ngã
ngũ giữa các nhà nghiên cứu) về tư cách của câu trong hệ thống các đơn vị
ngôn ngữ hay hệ thống các đơn vị lời nói. Chúng tôi thấy có thể chấp nhận
cách hiểu để làm việc trong luận văn này về câu như sau: “Câu là đơn vị
thông báo nhỏ nhất bằng ngôn ngữ, có cấu tạo ngữ pháp (bên trong và bên
ngoài) tự lập và có ngữ điệu kết thúc, mang một ý nghĩa tương đối trọn vẹn
hay thái độ, sự đánh giá của người nói, hoặc có thể kèm theo thái độ, sự đánh
giá của người nói, giúp hình thành và biểu hiện, truyền đạt tư tưởng, tình
cảm.”
9
2. Phân loại câu:
Sự phân loại câu trong ngôn ngữ học hiện nay khá phức tạp, dựa vào
những tiêu chuẩn rất khác nhau. Hiện nay, người ta thường dựa vào 3 căn cứ
sau đây để phân loại câu: phân loại câu theo cấu tạo ngữ pháp, phân loại câu
theo mục đích nói, phân loại câu căn cứ vào mối quan hệ với hiện thực,.
(1) Phân loại câu theo cấu tạo ngữ pháp cho ta 4 kiểu câu lớn: câu đơn
và câu ghép, câu phức và câu đặc biệt.
Ngữ pháp truyền thống lấy kết cấu C-V làm kết cấu cú pháp cơ bản, và
sự phân biệt 4 kiểu câu trên đây được diễn giải như sau:
a. Câu đơn: là câu có một cụm C-V. Ví dụ: Bé ngủ.
b. Câu ghép: là câu có từ hai cụm C-V trở lên ghép lại với nhau. Ví dụ:
Ông ăn chả, bà ăn nem.
c. Câu phức: là câu đơn có thành phần nào đó được mở rộng bằng cụm
C-V. Ví dụ: Người tôi gặp hôm qua là nhà văn.
d. Câu đặc biệt: là câu không có cụm C-V nào. Ví dụ: Mưa. Ôi!
(2) Phân loại câu theo mục đích nói thì có 4 kiểu câu: câu tường thuật
(câu kể), câu nghi vấn (câu hỏi), câu mệnh lệnh (câu cầu khiến), câu cảm thán
(câu cảm).
Câu tường thuật thường được dùng để xác nhận, kể lại, mô tả sự vật với
các đặc trưng nào đó hoặc một sự kiện với các chi tiết nào đó.
Ví dụ: Đêm nay, gió mát, trăng tròn và sáng hơn đêm qua.
Câu nghi vấn được dùng để nêu lên điều chưa biết hoặc còn hoài nghi
và chờ đợi sự trả lời, giải thích.
Ví dụ: - Bao giờ anh đi?
- Ngày mai.
10
- Ngày mai à?
Câu mệnh lệnh có mục đích bày tỏ ý muốn bắt buộc hoặc nhờ người
nghe thực hiện mệnh lệnh nêu lên trong câu.
Ví dụ: Đóng cửa lại!
Câu cảm thán được dùng khi cần thể hiện trực tiếp, ở một mức độ nhất
định, những tình cảm khác nhau hoặc thái độ của người nói.
Ví dụ: Ôi, trời mưa mất rồi!
(3) Phân loại câu căn cứ vào mối quan hệ với hiện thực: Theo sự phân
loại này, câu được chia làm hai loại là câu khẳng định và câu phủ định.
Câu khẳng định xác nhận sự có mặt của sự vật, sự kiện…hay đặc trưng
của chúng.
Câu phủ định xác nhận sự vắng mặt của sự vật, sự kiện…hay đặc trưng
của chúng.
Sự phân loại câu theo cấu tạo, theo mục đích nói và sự phân loại theo
câu theo quan hệ với hiện thực trên đây không loại trừ nhau mà có thể bổ
sung cho nhau. Ta có thể kết hợp các cách phân loại như vậy để có cùng một
lúc, chẳng hạn, câu tường thuật khẳng định, câu tường thuật phủ định, câu
đơn tường thuật, câu ghép tường thuật, câu đơn tường thuật khẳng định, câu
ghép tường thuật phủ định v.v.
Những cách phân loại câu nói trên góp phần cho thấy bản chất phức
tạp, nhiều chiều kích (cấu tạo, công dụng...) của câu. Trong luận văn này, do
đòi hỏi của đề tài, chúng tôi tập trung chú ý vào sự phân loại câu dựa theo hai
tiêu chí mục đích nói và quan hệ đối với hiện thực. Cụ thể chúng tôi chấp
nhận cách phân loại câu thành các tiểu loại như sau:
1. Câu trần thuật (câu tường thuật): là những câu dùng để kể, thuật lại,
thông báo về những hiện tượng, những hoạt động, trạng thái, tính chất trong
11
hiện thực khách quan, hoặc để thể hiện những nhận định, đánh giá của người
nói về một sự vật, hiện tượng nào đó.
Về mặt hình thức, so với các loại câu khác xét theo mục đích nói, câu
trần thuật không chứa đựng những dấu hiệu hình thức riêng trong cấu tạo. Khi
nói, ngữ điệu bình thường và hạ thấp dần ở cuối câu. Khi viết kết thúc bằng
dấu chấm.
Ví dụ: Đêm nay, gió mát, trang tròn và sáng hơn đêm qua.
Câu trần thuật lại được chúng tôi xem xét ở hai tiểu loại: trần thuật
khẳng định và trần thuật phủ định.
- Câu trần thuật khẳng định: là câu xác nhận hoạt động, trạng thái, tính
chất, quan hệ…của một đối tượng nào đó. Đây là loại câu thường không chứa
các từ phủ định (không, chưa, chẳng…). Tuy nhiên trong một số trường hợp,
câu khẳng định có thể chứa các từ không, chưa, chẳng nhưng dưới hình thức
“phủ định của phủ định” (khẳng định ở mức độ cao hơn)
Ví dụ: Anh ấy không thể không đến = Anh ấy chắc chắn sẽ đến.
- Câu trần thuật phủ định: là câu có chứa những từ ngữ phủ định, nhằm
xác nhận sự vắng mặt (không có) của sự vật, hiện tượng, hoạt động, trạng
thái, tính chất, quan hệ…được nêu trong câu.
Ví dụ: Mai mình không về quê.
2. Câu nghi vấn: là câu nêu lên điều chưa biết hoặc còn hoài nghi mà
người nói muốn người nghe trả lời, hoặc giải thích cho rõ thêm về đối tượng
hay đặc trưng của đối tượng.
Khác với câu tường thuật, mục đích của câu nghi vấn là để hỏi và yêu
cầu người nghe trả lời. Ngữ điệu của câu nghi vấn thường là sự lên giọng ở
cuối câu. Về mặt cấu tạo, câu nghi vấn khi viết thường được kết thúc bằng
dấu hỏi (?)
12
Khi biểu hiện những điều nghi vấn, ngoài ngữ điệu, người nói, người
viết thường sử dụng những công cụ hỗ trợ đắc lực, có tác dụng đánh dấu câu
nghi vấn, đó là các đại từ nghi vấn: ai, gì, nào, thế nào, bao giờ…; các từ tình
thái cuối câu: à, nhỉ, nhé, hả, hở…; các phụ từ thay cho từ để hỏi: có…(hay)
không? Có phải…(hay) không? Đã…(hay) chưa?
Ví dụ: Ai có kinh nghiệm về vấn đề này?
Chị đi họp à?
Anh có đi công tác hôm nay không?
Ngày mai?
Tuy nhiên, như lý thuyết hành động ngôn từ (the Theory of speech
acts) đã chỉ ra, xét về bản chất, câu nghi vấn ngoài giá trị hỏi (với mục đích
yêu cầu thông tin) là giá trị ngôn trung trực tiếp của nó, còn có thể có những
giá trị ngôn trung phái sinh khác như: cầu khiến, khẳng định, phủ định, cảm
thán, ngờ vực…Trong nhiều trường hợp giá trị ngôn trung phái sinh lại là
công dụng và mục đích duy nhất của câu nói, còn tính chất nghi vấn chỉ đóng
vai trò là hình thức thuần túy:
Ví dụ: Mày có câm mồm đi không?
Đây là một trường hợp của câu nghi vấn lựa chọn “có/ không”. Nó có
hình thức của câu nghi vấn nhưng lại mang ý nghĩa đích thực (ngôn trung) là
một mệnh lệnh.
Như vậy, câu nghi vấn không chỉ thực hiện giá trị ngôn trung điển hình
(về khái niệm này, xin xem Chương 8 cuốn “Ngữ nghĩa học dẫn luận” của
Lyons, bản dịch của Nguyễn Văn Hiệp) của nó là yêu cầu thông tin về “điều
chưa biết” mà còn thể hiện các giá trị ngôn trung phái sinh khác. Trong hoạt
động giao tiếp câu nghi vấn còn có khả năng đảm nhiệm việc thể hiện cả hai
giá trị khẳng định và phủ định. Khi đó ta có 2 loại câu: câu nghi vấn phủ định
và câu nghi vấn khẳng định.
13
- Câu nghi vấn có giá trị phủ định: đó là những câu có phương thức
biểu thị của câu nghi vấn nhưng thực chất lại nhằm phủ định lại một ý kiến
nào đó.
Ví dụ: Cơm cứng thế này thì ai ăn được?
Đây là loại câu hỏi không lựa chọn với đại từ nghi vấn “ai”. Nhưng
mục đích của người nói không phải hỏi để tìm hiểu “ai” là nhân vật nào mà là
để phủ định rằng: “chẳng ai ăn được cơm này”. Nghĩa là câu hỏi trên đã mang
ý nghĩa hàm ẩn phủ định.
- Câu nghi vấn có giá trị khẳng định: đó là những câu có phương thức
biểu thị của câu nghi vấn nhưng thực chất là nhằm mục đích khẳng định một
nội dung nào đó. Nội dung đó có thể người nói đã biết nhưng vẫn hỏi để
nhằm nhấn mạnh ý khẳng định của mình đối với người đối thoại. Các câu
nghi vấn loại này thường đi kèm với “ngữ khí từ”: chứ gì? Sao lại? ai? Nào?
Chứ còn gì?..
Ví dụ: Mua cả nửa chai cho tiện. Uống không hết thì còn đấy. Mất đi
đâu mà sợ?
(Rình trộm- Nam Cao)
Mục đích hàm ẩn của người nói trong phát ngôn này là muốn khẳng
định một cách quả quyết rằng: chắc chắn là không mất.
Có điều đáng chú ý là đa số các câu nghi vấn có giá trị khẳng định lại là
những câu nghi vấn có cấu tạo từ các câu phủ định. Tức là vấn đề đưa ra trong
câu hỏi loại này thường là phủ định nhưng mục đích hàm ẩn của người nói là
nhằm khẳng định. Và chính điều đó lại tăng hiệu lực khẳng định cho câu nói,
với tư cách là một kiểu câu có đánh dấu (markedness). Vì vậy sự phân chia
khẳng định hay phủ định trong một số trường hợp cũng chỉ là tương đối.
14
3. Câu cầu khiến: chứa đựng ý muốn, nguyện vọng hay mệnh lệnh của
người nói đối với người nghe nhằm mục đích yêu cầu người nghe thực hiện
những điều được nêu ra trong câu.
Khi viết, câu cầu khiến được kết thúc bằng dấu chấm than (!) hoặc dấu
chấm (.). Khi nói, câu cầu khiến có ngữ điệu nhấn mạnh ở các từ ngữ phục vụ
cho mục đích cầu khiến và động từ làm vị ngữ của câu.
Câu cầu khiến thường được cấu tạo bằng cách dùng một số từ ngữ phục
vụ cho mục đích cầu khiến: dùng các phụ từ mệnh lệnh- cầu khiến đặt trước
vị ngữ của câu: hãy, đừng, chớ, nên, không được…; dùng các tiểu từ tình thái:
nào, đi, nhé…đặt ở cuối câu; dùng các vị từ: đề nghị, yêu cầu, mong, xin…đặt
ở đầu câu; có trường hợp, câu cầu khiến chỉ gồm một từ hay một cụm từ với
ngữ điệu nhấn mạnh ở từ, cụm từ đó: Ra ngoài!
Ví dụ: Đừng ngồi chơi như thế!
Cháu ra ngoài đi!
Yêu cầu giữ trật tự!
4. Câu cảm thán: dùng để bộc lộ những cảm xúc, tình cảm, thái độ của
người nói, người viết đối với sự vật, hiện tượng được nói đến trong câu.
Khi viết câu cảm thán kết thúc bằng dấu chấm than (!), khi nói ngữ
điệu nhấn giọng ở những từ bộc lộ cảm xúc, thái độ.
Trong câu cảm thán, các từ tình thái (ôi, ôi chao, ồ, ô hay, than ôi, trời
ơi, trời đất ơi…) đóng một vai trò rõ rệt trong việc bộc lộ tình cảm và thái độ.
Ngoài ra, có thể sử dụng những từ biểu hiện mức độ của cảm xúc hoặc mức
độ đánh giá: thật, quá, lắm, ghê, cực kì…; hoặc có thể dùng từ thay trong cấu
trúc “vị từ + thay + danh từ”, ví dụ: “Thương thay cũng một kiếp người!”
(Nguyễn Du)
15
3. Câu và phát ngôn:
Câu và phát ngôn là hai thuật ngữ được giới ngôn ngữ học thường
xuyên sử dụng. Tuy nhiên cho đến nay, các nhà ngôn ngữ học vẫn chưa có
cách hiểu nhất trí về hai khái niệm này.
Từ điển Tiếng Việt [52] đưa ra định nghĩa về câu và phát ngôn như sau:
Câu là đơn vị cơ bản của lời nói, do từ tạo thành, có một ngữ điệu nhất
định, diễn đạt một ý trọn vẹn.
Phát ngôn là đơn vị cơ bản của giao tiếp bằng ngôn ngữ, do một lời nói
ra trong một hoàn cảnh cụ thể mang một nội dung tương đối trọn vẹn.
Hai định nghĩa trên chưa cho thấy có sự phân biệt thực sự rõ ràng giữa
câu và phát ngôn.
Tác giả Đỗ Hữu Châu [36; 31] phát biểu rõ hơn về câu và phát ngôn
như sau: “Một câu được làm đầy bằng những đơn vị từ vựng cụ thể có thể
được dùng ở những ngữ cảnh khác nhau, nhằm nhiều mục đích khác nhau. Lúc
này câu là phát ngôn.”
Chúng tôi muốn làm rõ hơn sự phân biệt giữa câu và phát ngôn, dựa
vào những tham số về ngữ cảnh, về mục đích phát ngôn, về quy chiếu. Chúng
tôi cho rằng, một câu chào như “Chào anh!” do bao nhiêu người nói ra trong
bao nhiêu ngữ cảnh khác nhau sẽ ứng với bấy nhiêu phát ngôn khác nhau.
Hoặc như câu “Em yêu anh!” không phải duy nhất chỉ có một chức năng biểu
hiện một sự tình mà có thể là lời tuyên bố, lời hứa hẹn, lời trách móc… tùy
theo hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Cứ mỗi lần thay đổi về chức năng là một lần
thay đổi về phát ngôn. Đó là chưa kể tùy theo ngữ cảnh khác nhau, quy chiếu
của “em” và “anh” thay đổi (tức ai nói với ai) mà các mệnh đề mà phát ngôn
biểu thị cũng khác nhau.
16
Như vậy, điểm mấu chốt ở đây là: câu không gắn với ngữ cảnh cụ thể,
còn phát ngôn gắn với những ngữ cảnh cụ thể. Cùng là một câu nhưng được
nói ra trong những ngữ cảnh khác nhau sẽ cho ta các phát ngôn khác nhau.
4. Nguyên lý lịch sự.
4.1. Khái niệm “lịch sự”
Khái niệm lịch sự thực sự rất trừu tượng, nhưng chúng ta phải thấy
rằng nó góp phần không nhỏ để giao tiếp của chúng ta đạt hiệu quả cao nhất.
Những nghiên cứu về ngữ dụng học thời gian gần đây đã khẳng định rằng
rằng quy tắc lịch sự chi phối mọi hành vi giao tiếp.
Xét trên khía cạnh văn hóa, lịch sự được xem như là: “ý tưởng của mọi
hành vi trong xã hội văn minh hoặc chính là nghi thức hay phép xã giao trong
một nền văn hóa nhất định” (the idea of polite social behaviour or etiqiette
within a culture) [30; 60]. Chính vì lẽ đó, các quy tắc lịch sự phản ánh rất rõ
nét khía cạnh văn hóa và đương nhiên sẽ rất khác nhau giữa các ngôn ngữ.
Từ rất lâu, ở nhiều dân tộc, nhiều nhà văn hóa đã đề cập tới phép lịch
sự dưới góc độ một chuẩn mực xã hội. Chẳng hạn, trong cuộc sống, không
phải bất cứ lúc nào người ta cũng có thể sử dụng hành động ngôn từ trực tiếp.
J.Lyons khi viết về các hành động ngôn ngữ (Chương 8:“Các hành động ngôn
từ và lực ngôn trung”) đã khẳng định: “Trong một số xã hội, cũng là bất lịch
sự khi đưa ra một nhận định không rào trước đón sau hay một mệnh lệnh
thẳng thừng. Căn nguyên và những lối dùng đa dạng, ít nhiều được quy ước
hóa của các hành động ngôn từ gián tiếp có thể được giải thích bởi những lý
do như vậy.” [18; 252)
Trong những năm 70, phép lịch sự được tiếp nhận dưới góc độ một
phương châm hội thoại. Các công trình của R.Lakoff (1973, 1989), G.Leech
(1983), W.Edmondson (1981) về sau đã nghiên cứu phương châm lịch sự
theo hướng này, theo đó các bên giao tiếp phải tôn trọng phương châm lịch sự,
17
và sự vi phạm các phương châm này cũng tạo ra các hàm ý. Chẳng hạn, trong
tiếng Việt, sự thay đổi đại từ xưng hô, chuyển từ “ông”, “tôi” sang “mày”,
“tao” sẽ đem lại cho phát ngôn những hàm ý nào đó.
Lakoff [ dẫn theo 31; 106] chỉ rõ: “ Khi một ai đó thực sự tham gia vào
đối thoại hay bất kỳ một diễn ngôn nào, trong đầu người đó nhất định phải có
một số mục đích cá nhân, và có lẽ đó chính là một sự thiên vị, ưu ái hay ước
muốn hết sức tinh tế và tế nhị và muốn được lòng đối tác. Đối với một số yêu
cầu này, bản thân những người tham gia có thể sẽ tán thành với nhau, và như
vậy cả đôi bên đều có lợi và họ đều là người chiến thắng (win-win
negotiation). Thế nhưng trong một số trường hợp khác, có thể sẽ xảy ra tình
huống một bên sẽ phải thất bại tuy nhiên là ở mức độ thấp nhất để nhường
phần thắng cho bên kia (win-lose negotiation). Một bên có thể sẽ phải nói ra
những điều mà họ biết rằng phía bên kia không muốn nghe. Một bên cũng có
thể phải từ chối những yêu cầu của đối tác. Hoặc thậm chí, một bên sẽ phải
sớm kết thúc cuộc đối thoại trong khi bên đối tác lại đang háo hức mong
muốn tiếp tục bàn bạc. Trong những trường hợp kiểu như thế này, sẽ xuất
hiện nguy cơ gây xúc phạm và hậu quả là phá vỡ cả quá trình đàm phán. Dựa
vào đó, Lakoff đưa ra định nghĩa: “ Lịch sự chính là một hệ thống các mối
quan hệ liên nhân nhằm mục đích tạo thuận lợi cho quá trình giao tiếp bằng
việc giảm thiểu những nguy cơ xung đột và đối đầu vốn có trong trong mọi
tình huống giao dịch” (a system of interpersonal relations designed to
facilitate interaction by minimizing the potential for conflict and
confrontation inherent in all human interchange) [31;21].
John, Gumperz và một số tác giả khác [5; 13] thì cho rằng: “Lịch sự là
mấu chốt cơ bản đối với sản phẩm của trật tự xã hội và là điều kiện tiên quyết
trong quá trình hợp tác lẫn nhau của con người” ( politeness as basic to the
production of social order, and a precondition of human cooperation).
Theo Leech (1983), chiến lược lịch sự nghĩa là tối đa hóa lợi ích cho
18
người đọc/người nghe và giảm thiểu hóa chi phí mà họ phải chịu. Chiến lược
lịch sự trong thư giao dịch TATM đặc biệt được trình bày thông qua chiến
lược “Quan điểm/thái độ của đối tác – You attitude” với mục đích hàng đầu
nhằm thuyết phục người đọc và như vậy, mọi lợi ích cũng là nhắm vào người
đọc.
Richchards et. al. (1995:222) đưa ra định nghĩa về tính lịch sự như sau:
“ Lịch sự là những vấn đề được thực hiện trong xã hội liên quan đến việc sử
dụng hành động ngôn từ như thế nào để diễn tả khoảng cách xã hội giữa các
vai giao tiếp, giữa các mối quan hệ cơ bản khác nhau và vấn đề liên quan đến
thể diện đó là những cố gắng để thiết lập, duy trì và giữ thể diện trong giao
tiếp” (how language express the the social distance between speakers and
their different role relationships; and how face-work; that is the attempt to
establish, maintain, and save face during conversation, is carried out in a
community).
Còn với Leech (1983;104) thì: “Lịch sự là những hành vi nhằm mục
đích thiết lập và duy trì sự lịch thiệp, lễ độ. Đó chính là khả năng của các bên
tham gia giao tiếp xã hội để có thể giữ được hòa khí” (politeness as those
forms of behaviour which are aimed at the establish and maintaince of
“comity”, that is, the ability of participants in a social communicative
interaction to engage in interaction in an atmosphere of relative hormony).
E.Gofman (1973), P.Browm và S.Levinson (1987) tiếp cận về lịch sự
như một hành vi giữ gìn thể diện (face). Tác giả cho rằng thể diện là một khái
niệm phổ quát. Rất nhiều ngôn ngữ có cụm từ giữ thể diện hay mất thể diện
(Ví dụ: tiếng Anh: to lose face; tiếng Pháp: perdre la face; tiếng Việt: mất
mặt). Thực chất, thể diện liên quan đến sự tồn tại về phương diện xã hội – tâm
lý của một cá nhân trong giao tiếp. Do vậy, trong giao tiếp mỗi người cần
tuân thủ một số nguyên tắc để các hành động của mình giữ được thể diện cho
mọi người, và thể diện của chính mình. P.Browm và S.Levinson (1987) đã
19
phân biệt hai phương diện của thể diện, đó là thể diện dương (positive face)
và thể diện âm (negative face) hay còn gọi là thể diện tích cực và thể diện tiêu
cực.
Thể diện dương là những điều mà mỗi người muốn mình được khẳng
định, được người khác tôn trọng. Nói một cách khác, thể diện dương thể hiện
ở chỗ mọi người luôn luôn hay có khuynh hướng tự đánh giá cao mình, muốn
người khác coi trọng mình.
Trong khi đó, thể diện âm lại là những gì mà theo đó, mỗi người muốn
mình được coi là người lớn (competent adult member), muốn được yên thân,
không bị ai cản trở trong hành động. Nói cách khác, thể diện âm là cái “không
gian cá nhân” được hiểu theo nghĩa rộng, đó là những không gian nội tại
không chỉ gồm thể xác mà còn cả tinh thần. Hiện nay, để chỉ khái quát thể
diện âm người ta dùng thuật ngữ “lãnh địa” (domain), còn thuật ngữ thể diện,
nếu không có định ngữ đi kèm, là để chỉ thể diện dương.
Trong luận văn này, sau khi tham khảo ý kiến của các nhà nghiên cứu
đi trước, chúng tôi tạm đưa ra khái niệm về lịch sự như sau: Lịch sự chính là
một hệ thống các mối quan hệ liên nhân nhằm mục đích tạo thuận lợi cho quá
trình giao tiếp bằng việc giảm thiểu những nguy cơ xung đột và đối đầu vốn có
trong trong mọi tình huống giao dịch, là những hành vi nhằm mục đích thiết
lập và duy trì sự lịch thiệp, lễ độ.
Khái niệm lịch sự như vậy sẽ giúp chúng tôi chọn lọc vấn đề và xử lí tư
liệu phù hợp với mục đích nghiên cứu của luận văn.
4.2. Nguyên tắc lịch sự:
Trong công trình logic và hội thoại (Logic and conversation) của mình,
Grice (1972) đã cho rằng: nguyên tắc lịch sự (politeness) là một nguyên tắc
quan trọng, điều khiển hoạt động giao tiếp, bên cạnh nguyên lý cộng tác trong
hội thoại (co-operation).
20
Nguyên tắc lịch sự quả thật là một nhân tố quan trọng tác động tới các
hiện tượng, quy luật hoạt động và cả cấu trúc ngôn ngữ. Chẳng hạn trong
tiếng Anh, khi yêu cầu ai đó làm gì, để giảm nhẹ mức độ áp đặt, chiến lược
thường được sử dụng là tránh dùng thời hiện tại, mà thay vào đó là một dạng
thức quá khứ nào đó. Vì thế mới có dạng thức quá khứ “Would you...”
Vì nguyên tắc lịch sự có ảnh hưởng rất mạnh tới diện mạo hiện thực
của các phát ngôn trong quá trình giao tiếp cho nên hầu như bất kỳ tài liệu
nào về ngữ dụng học cũng đề cập tới nguyên lý này. Nhiều nhà nghiên cứu đã
khảo sát vấn đề này theo các góc độ khác nhau.
B Fraser (1990) nhìn nhận phép lịch sự dưới góc độ của sự hợp tác hội
thoại, xem lịch sự như là một nhân tố quan trọng quy định việc lựa chọn các
yếu tố ngôn ngữ dùng trong giao tiếp. Để có thể giữ thể diện, tránh làm
phương hại đến thể diện của người khác, các bên tham gia giao tiếp cần dùng
các công cụ ngôn ngữ thích hợp, các biện pháp tu từ cần thiết, chảng hạn như
biết rào đón (hedge), nói vòng để làm giảm mức độ gay gắt, biết dùng những
tiểu từ tình thái (modal particles) làm nhẹ bớt những từ không lịch sự, tránh
đưa cái tôi của mình lên cao, tránh tự đề cao mình. Đó là “ phương sách làm
dịu” mức độ phương hại thể diện theo cách gọi của Fraser (1980). Cụ thể là:
- Dùng hệ thống đại từ, các từ xưng hô thích hợp tránh nói trống không.
- Dùng các từ tình thái để giảm nhẹ mức độ áp đặt.
- Dùng hành động ngôn từ gián tiếp thay cho hành động ngôn từ trực
tiếp. Chẳng hạn, dùng lối hỏi thay cho lối cầu khiến thẳng thừn, thay vì nói “
Tôi nhờ anh việc này”, nên nói: “ Tôi có thể nhờ anh việc này được không?”
hay “tôi nhờ anh một việc nho nhỏ nhé”.
- Dùng phương pháp nói bóng gió, xa xôi.
Dưới góc độ ngôn ngữ học xã hội, R.Lakoff cho rằng lịch sự là tôn
trọng nhau. Nó là một biện pháp dùng để giảm bớt trở ngại trong tương tác
21
giao tiếp giữa các cá nhân. Vì vậy, cần thực hiện những quy tắc sau: không áp
đặt (trong lễ nghi, ngoại giao); để ngỏ sự lựa chọn (trong giao tiếp thông
thường); làm cho người đối thoại cảm thấy thoải mái (trong trò chuyện thân
mật).
Theo G.Leech, phép lịch sự dựa trên khái niệm “tổn thất” và “lợi ích”
cho nên mục tiêu của nó, như một nguyên tắc, là tối thiểu hóa những lối nói
bất lịch sự (lịch sự tiêu cực), và tối đa hóa những lối nói lịch sự (lịch sự tích
cực). Từ đó tác giả đề ra những phương châm giao tiếp trong giao tiếp lịch sự:
khéo léo, hào hiệp, tán đồng, khiêm tốn, thiện cảm. Chẳng hạn, hãy giảm đi
những lời chê bai người khác và tăng lên những lời khen ngợi người đối thoại
(phương châm tán đồng), vì có vậy mới giữ được hòa khí. Hãy giảm đi lợi ích
của mình và sẵn sàng tăng thêm phần tổn thất cho mình (phương châm hào
hiệp), có vậy mới giữ được tình thân thiện v.v...
II. Vấn đề về ngôi xưng hô.
1. Xưng hô và quy chiếu.
1.1. Xưng hô và Ngôi xưng hô
Xưng hô là tự xưng mình và gọi người khác là gì đó khi nói với nhau
để biểu thị tính chất của mối quan hệ.
Ngôi là phạm trù ngữ pháp gắn với các loại từ như đại từ, động từ…
biểu thị vị trí của các nhân vật trong giao tiếp (người nói, người nghe hay
nhân vật được nói đến).
Như vậy, ngôi xưng hô là phạm trù ngữ pháp dùng để tự xưng mình và
gọi người khác khi giao tiếp với nhau để biểu thị vị trí của các nhân vật trong
giao tiếp hoặc để biểu thị tính chất của mối quan hệ của các bên giao tiếp với
nhau.
Tiếng Anh, cũng như phần lớn các tiếng Châu Âu, có hệ thống các từ
xưng hô (gọi là các đại từ nhân xưng) rất đơn giản. Trong khi đó, hệ thống
22
các từ xưng hô trong tiếng Việt hết sức phức tạp, bên cạnh những từ xưng hô
đích thực (như tao, tôi, mày, nó, họ...) còn có những từ xưng hô lâm thời,
mượn từ hệ thống các từ chỉ họ hàng thân thuộc (kinship) như: anh, chị, ông,
bà, cô ... Điều này mang lại nhiều sắc thái biểu cảm thú vị, nhưng cũng gây
không ít phiền toái. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong những chương sau.
1.2. Quy chiếu và phương thức quy chiếu
1.2.1. Quy chiếu
Thuật ngữ quy chiếu (reference) được dùng để chỉ phương tiện nhờ đó
khi phát ra một biểu thức ngôn ngữ, người nói nghĩ rằng biểu thức ngôn ngữ
đó sẽ giúp cho người nghe suy ra được một cách đúng đắn thực thể nào, đặc
tính nào, quan hệ nào, sự kiện nào đang được nói đến.
Quan hệ quy chiếu là sự tương ứng của các yếu tố ngôn ngữ (của các
tín hiệu) trong diễn ngôn với sự vật, hiện tượng đang được nói tới trong một
ngữ cảnh nhất định.
Quy chiếu là dấu hiệu đầu tiên thể hiện quan hệ giữa ngữ cảnh với diễn
ngôn.
1.2.2. Phương thức quy chiếu và Phạm trù xưng hô.
Phương thức quy chiếu là cách thức mà con người sử dụng để thực hiện
hành vi quy chiếu. Có 3 phương thức quy chiếu: dùng tên riêng, dùng miêu tả
xác định và dùng chỉ xuất.
Trong luận văn này, chúng tôi chỉ đi sâu vào phương thức dùng chỉ
xuất (chỉ xuất là phương thức quy chiếu bằng ngôn ngữ dựa trên hành động
chỉ trỏ), mà cụ thể hơn là đi sâu vào 1 trong 3 phạm trù chỉ xuất đó là phạm
trù xưng hô.
23
Phạm trù xưng hô bao gồm những phương tiện quy chiếu nhờ đó người
nói tự quy chiếu, tức tự đưa mình vào diễn ngôn (tự xưng) và đưa người giao
tiếp với mình (đối xưng) vào diễn ngôn.
Quan hệ vai giao tiếp là cốt lõi của việc xưng hô. Và nếu hệ thống xưng
hô chỉ quy chiếu vai giao tiếp thì rất đơn giản và tiện dụng. Tuy nhiên, trong
giao tiếp còn có quan hệ liên nhân, trong ngữ cảnh còn có ngữ vực (register)
và còn có sự chi phối của phép lịch sự. Ngoài cái cốt lõi vai, các từ xưng hô
còn đồng thời thể hiện vị thế xã hội, thể hiện các mức thân cận khác nhau,
đảm bảo sự lịch sự của người nói đối với những người cùng giao tiếp và phải
phù hợp với ngữ vực của cuộc giao tiếp. Bằng cách lựa chọn từ để tự xưng và
để “hô” người giao tiếp, người nói định một khung quan hệ liên nhân cho
mình và cho người đối thoại với mình. Như vậy, từ xưng hô không chỉ là
công cụ để người nói thực hiện việc đưa mình và người đối thoại với mình
vào diễn ngôn mà còn là công cụ để người nói tự mình bó buộc mình và bó
buộc người đối thoại trong khuôn khổ một kiểu quan hệ liên cá nhân nào đó.
Để xưng hô, tất cả các ngôn ngữ đều có hệ thống các từ xưng hô. Dưới
đây là một số nhân tố chi phối việc dùng các từ xưng hô trong giao tiếp người
Việt:
- Xưng hô phải thể hiện vai giao tiếp (vai nói, nghe).
- Xưng hô thể hiện quan hệ quyền uy. ( Ở Việt Nam, tuổi tác có áp lực
mạnh so với sự khác biệt về vị thế xã hội. Người già có quyền xưng hô với
người có địa vị xã hội trên mình bằng các từ xưng hô thân cận, người có địa
vị xã hội cao phải xưng hô đúng mực với người già cho dù mình ở địa vị nào
đi nữa. Xưng hô không tôn trọng người già bị xem là thiếu văn hóa)
- Xưng hô phải thể hiện được quan hệ thân cận.
- Xưng hô phải thích hợp với thoại trường (cuộc thoại kéo dài).
24
- Xưng hô phải thể hiện cho được thái độ, tình cảm của người nói đối
với người nghe.
Chính những nhân tố này đã góp phần quyết định trong việc lựa chọn
từ xưng hô sao cho phù hợp với mục đích và chiến lược giao tiếp và thích hợp
với sự chấp nhận của người nghe.
Nói chung, trong tiếng Anh, một ngôn ngữ có hệ thống đại từ nhân
xưng đơn giản, việc lựa chọn từ xưng hô không bị chi phối bởi các nhân tố
như trong tiếng Việt. Nếu so sánh với tiếng Anh, tiếng Pháp phức tạp hơn,
chẳng hạn sự lựa chọn đại từ xưng hô ngôi thứ hai TU/VOUS phải phù hợp
với quan hệ liên cá nhân giữa người nói và người nghe.
2. Các ngôi xưng hô.
Để biểu thị ngôi xưng hô, người Việt sử dụng nhiều phương tiện xưng
hô khác nhau. Dưới đây là một số phương tiện xưng hô điển hình:
1. Tên riêng
2. Các danh từ thân tộc: anh, chị, chú, bác, ông, bà…
3. Các từ chỉ chức nghiệp: bác sĩ, giáo sư, chủ tịch, giám đốc, thầy,…
4. Những từ chuyên dùng để xưng hô: ngài, lão,…
5. Đại từ xưng hô: tôi, chúng tôi, nó…
Trong tiếng Anh, người ta chủ yếu sử dụng các đại từ xưng hô trung
tính: I, we, You… Ngoài ra người ta cũng sử dụng tên riêng, các từ chức
nghiệp (professor, master…) và các từ chuyên dùng (mis, sir, madam…)
III. Vấn đề về tỡnh thỏi.
1. Khái niệm tình thái
Tình thái là một phạm trù rất cơ bản trong ngôn ngữ học. Các nhà
nghiên cứu đã dùng thuật ngữ này để nói đến những hiện tượng ngữ nghĩa
chức năng rộng lớn, đa dạng có nhiệm vụ phản ánh sự liên hệ của nội dung
25