Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

phân loại tội phạm đối với tội giết người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.8 KB, 9 trang )

ĐỀ BÀI SỐ 7
Vì ghen tuông, A có ý định giết B. A rủ B đi chơi, đến chỗ vắng, A rút dao đâm
B ba nhát. Tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi. Do được phát hiện và cấp cứu kịp thời, B
đã được cứu sống. Toà án xác định A phạm tội giết người theo khoản 2 Điều 93
BLHS. Hỏi:
1. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội giết người.
2. Hành vi phạm của A thuộc giai đoạn phạm tội nào? Giải thích tại sao.
3. Hãy chỉ ra đối tượng tác động của tội phạm và công cụ phạm tội trong vụ án.
4. Giả sử A mới đâm B một nhát, thấy B bị thương, máu ra nhiều A sợ quá bỏ đi
không tiếp tục đâm B đến chết, B bị thương tích với tỉ lệ thương tật là 21%. A có
phải chịu trách nhiệm hình sự không? Giải thích rõ tại sao.
5. Giả sử A đâm B ba nhát, tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi nhưng do được phát hiện
và cấp cứu kịp thời B đã được cứu sống. Toà án áp dụng khoản 2 điều 93 BLHS
tuyệt hình phạt đối với A là 13 năm tù thì hình phạt Toà quyết định đối với A có
đúng không? Giải thích rõ tại sao.
6. Giả sử A là người nước ngoài đang là nhân viên làm thuê cho một công ty liên
doanh ở Hà Nội. Hành vi nói trên của A xảy ra ở Hà Nội thì A có bị xử lí theo luật
Hình sự Việt Nam không? Giải thích rõ tại sao.
BÀI LÀM
1.Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội giết
người:
Tội phạm tuy có chung một số dấu hiệu nhưng những hành vi phạm tội khác nhau
thì có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Do có sự khác nhau này
mà vấn đề phân loại tội phạm đã được đặt ra. Việc phân biệt các loại tội phạm có ý
nghĩa nhiều đối với việc áp dụng các quy định của BLHS và còn có ý nghĩa đối với
cả việc áp dụng một số quy định của ngành luật liên quan đến vấn đề trách nhiệm
hình sự như luật tố tụng hình sự…
Để xác định hành vi phạm tội thuộc loại tội phạm nào, ta chỉ cần căn cứ vào mức
cao nhất của khung hình phạt đối với tội đó. Theo khoản 3 Điều 8 BLHS năm 1999
thì: “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt
đối với tội ấy là đến ba năm tù. Tội phạm nghiên trọng là tội pham mà mức cao nhất


của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù. Tội phạm rất nghiêm trọng là
tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm
tù. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm mà mức cao nhất của khung hình
phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”.
Điều 93 BLHS năm 1999 quy định: “Tội giết người:
1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
mười hai năm đếm hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Giết nhiều người;
b) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng
hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng;
g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
2
i) Để thực hiện tội phạm một cách man rợ;
k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
m) Thuê giết hoặc giết người thuê;
n) Có tính chất côn đồ;
o) Có tổ chức;
p) Tái phạm nguy hiểm;
q) Vì động cơ đê hèn;
2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 điều này, thì bị phạt tù
từ bảy đến mười lăm năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ
một năm đến năm năm”.
Đối chiếu tội giết người được quy định từ khoản 1 đến khoản 3 của Điều 93

BLHS năm 1999 với khoản 3 Điều 8 BLHS năm 1999 ta có:
- Khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là
đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình nên tội phạm quy định tại khoản 1
Điều 93 BLHS năm 1999 thuộc loại tội đặc biệt nghiêm trọng.
- Khoản 2 Điều 93 BLHS năm 1999 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là
đến mười lăm năm tù nên tội phạm quy định tại K2Đ93BLHS năm 1999 thuộc loại
tội rất nghiêm trọng.
- Khoản 3 Điều 93 BLHS là quy định về hình phạt bổ sung nên không phân loại tội
phạm.
Chúng ta có thể nhận thấy rõ, các quy định về tội giết người tại Điều 93 BLHS
năm 1999 không quy định về loại tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng mà chỉ quy
định về loại tội rất nghiêm trọng, và đặc biệt nghiêm trọng. Bởi tính chất và mức độ
nguy hiểm của loại tội phạm này cho xã hội là vô cùng lớn nên pháp luật phải trừng
trị nghiêm khắc những người phạm tội, nhằm hạn chế tội phạm xảy ra.
2. Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội nào? Giải thích rõ tại sao.
3
Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các mức độ thực hiện tội phạm cố ý, bao gồm
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành:
+ Chuẩn bị phạm tội: là giai đoạn trong đó người phạm tội có hành vi tạo ra
những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện
tội phạm đó.
+ Phạm tội chưa đạt: là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được
đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
+ Tội phạm hoàn thành: là trường hợp hành vi phạm tội đã thoả mãn hết các
dấu hiệu được mô tả trong Cấu thành tội phạm (CTTP).
Ở đây, A không những đã tạo ra điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm
đó là rủ B đi chơi mà A còn dùng dao đâm ba nhát vào B, tức là A đã thực hiện tội
phạm. Vậy hành vi của A không phải thuộc giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Do B được
phát hiện và đi cấp cứu kịp thời, hậu quả chết người chưa xảy ra, mà tội giết người
là tội có CTTP vật chất, nên hành vi của A cũng không thuộc giai đoạn tội phạm

hoàn thành. Xét các dấu hiệu của trường hợp phạm tội chưa đạt:
Thứ nhất: người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm: A đã thực hiện hành vi
rút dao đâm B ba nhát.
Thứ hai: người phạm tội không thực hiện được tội phạm đến cùng, nghĩa là hành
vi của họ chưa thoả mãn hết các dấu hiệu (thuộc mặt khách quan) của CTTP: A đã
đâm B ba nhát nhưng B không chết mà chỉ bị thương.
Thứ ba: người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến cùng là do những
nguyên nhân ngoài ý muốn của họ. Bản thân người phạm tội vẫn muốn tội phạm
hoàn thành: A có ý định giết B nên dùng dao đâm B ba nhát, tưởng B đã chết nên A
mới bỏ đi nhưng B được phát hiện và cứu sống kịp thời nên không chết, đó là điều
ngoài ý muốn của A.
Vậy, hành vi phạm tội của A đã thoả mãn cả ba dấu hiệu trên, do đó có thể kết luận
hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt.
Hơn nữa khoa học pháp lý còn chia phạm tội chưa đạt thành hai loại: phạm tội
chưa đạt đã hoàn thành và phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành. Phạm tội chưa đạt đã
4
hoàn thành là người phạm tội đã thực hiện đầy đủ những hành vi mà họ cho là cần
thiết để gây ra hậu quả, nhưng vì nguyên nhân khách quan hậu quả đó không xảy ra.
Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp người phạm tội vì nguyên nhân
khách quan, chưa thực hiện hết hành vi mà họ cho là cần thiết để gây ra hậu quả nên
hậu quả không xảy ra. Trong trường hợp này, A đâm B ba nhát và tưởng B đã chết
nên A mới bỏ đi, nhưng B đã được cứu chữa kịp thời nên B không chết. A đã thực
hiện hết các hành vi cần thiết để gây ra hậu quả chết người và A tin rằng hậu quả sẽ
xảy ra là cái chết của B nhưng B lại không chết, việc B còn sống là do nguyên nhân
khách quan, nằm ngoài ý muốn của A. Bởi vậy, hành vi phạm tội của A thuộc giai
đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành.
3.Hãy chỉ ra đối tượng tác động của tội phạm và công cụ phạm tội trong vụ án.
* Đối tượng tác động của tội phạm:
Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị hành
vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan

hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
Quan hệ xã hội tồn tại dưới dạng cấu trúc gồm ba phần: chủ thể QHXH, khách thể
QHXH, nội dung QHXH. Trong khoa học luật hình sự, các bộ phận này của xã hội
được coi là đối tượng tác động của tội phạm.
Bất cứ tội phạm nào cũng đều tác động làm biến đổi tình trạng của những đối
tượng tác động cụ thể. Sự làm biến đổi tình trạng này là phương thức gây thiệt hại
cho QHXH. Luật hình sự Việt Nam bảo vệ cho các QHXH thông qua việc bảo đảm
tình trạng bình thường cho các bộ phận cấu thành của các QHXH đó. Sự bảo vệ các
đối tượng tác động cụ thể luôn luôn có ý nghĩa bảo vệ các bộ phận của QHXH và
qua đó bảo vệ toàn bộ QHXH.
Trong tình huống này, hành vi phạm tội của A là trực tiếp tấn công và gây tổn hại
cho thân thể, sức khoẻ của B. Vì thế có thể khẳng định rằng đối tượng tác động của
hành vi phạm tội của A chính là con người, cụ thể là B.
* Công cụ, phương tiện phạm tội:
5

×