Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TÀI NGUYÊN NƯỚC Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (843.49 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HÒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ - PHÁT TRIỂN
LỚP KINH TẾ HỌC
BÀI TIỂU LUẬN:
TÀI NGUYÊN NƯỚC Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
GVHD: Trần Võ Hùng Sơn.
Nhóm thực hiện: Lê Thị Kiều Nga
Nguyễn Thị Mộng Thu
Hoàng Phước Quyền
Lê Quốc Đăng
Nguyễn Văn Hiếu
Ngô Minh Thành
Nguyễn Ngọc Phương
Bố cục bài tiểu luận:
I.Thực trạng tài nguyên nước ở TP.Hồ Chí Minh.
1. Vài nét về tài nguyên nước ở TP. Hồ Chí Minh.
2. Thực trạng tài nguyên nước ở TP. Hồ Chí Minh.
II.Hậu quả của việc ô nhiễm nguồn nước ở Tp. Hồ Chí Minh.
1.Hết tầng nước an toàn.
2.Nguy cơ mắc các bệnh do ô nhiễm nguồn nước.
III.Nguyên nhân gây ô nhiểm nguồn nước và tụt mức nước ngầm.
1. Ảnh hưởng do hoạt động của con người.
2. Ảnh hưởng do việc phát triển nông nghiệp.
3. Ảnh hưởng do việc phát triển công nghiệp và dịch vụ.
4. Ảnh hưởng do một số nguyên nhân khác.
IV. Hậu quả được nhìn theo khía cạnh kinh tế.
V. Một số giải pháp cải thiện chất lượng nguồn nước.
TÀI NGUYÊN NƯỚC Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
I.Thực trạng tài nguyên nước ở TP.Hồ Chí Minh
1.Vài nét về tài nguyên nước ở TP.Hồ Chí Minh
a. Nước mặt:


Thành phố Hồ Chí Minh có mạng lưới sông ngòi kênh rạch rất đa dạng,với tổng diện tích
mặt nước 35.500 ha... Sông Ðồng Nai bắt nguồn từ cao nguyên Lâm Viên, hợp lưu bởi nhiều sông
khác, có lưu vực lớn, khoảng 45.000 km². Với lưu lượng bình quân 20–500 m³/s, hàng năm cung
cấp 15 tỷ m³ nước, sông Đồng Nai trở thành nguồn nước ngọt chính của thành phố. Sông Sài Gòn
bắt nguồn từ vùng Hớn Quản, chảy qua Thủ Dầu Một đến Thành phố Hồ Chí Minh, với chiều dài
200 km và chảy dọc trên địa phận thành phố dài 80 km. Sông Sài Gòn có lưu lượng trung bình vào
khoảng 54 m³/s, bề rộng tại thành phố khoảng 225 m đến 370 m, độ sâu tới 20 m. Nhờ hệ thống
kênh Rạch Chiếc, hai con sông Đồng Nai và Sài Gòn nối thông ở phần nội thành mở rộng. Một
con sông nữa của Thành phố Hồ Chí Minh là sông Nhà Bè, hình thành ở nơi hợp lưu hai sông
Đồng Nai và Sài Gòn. Ngoài các con sông chính, Thành phố Hồ Chí Minh còn có một hệ thống
kênh rạch chằng chịt: Láng The, Bàu Nông, rạch Tra, Bến Cát, An Hạ, Tham Lương, Cầu Bông,
Nhiêu Lộc-Thị Nghè, Bến Nghé, Lò Gốm, Kênh Tẻ, Tàu Hũ, Kênh Ðôi...,dài khoảng7.880km.
b. Nước dưới đất:
Riêng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, trữ lượng tiềm năng nước dưới đất tại các tầng chứa
nước là: 2.501.059m3/ngày. Phân bổ như sau:
Trữ lượng nước dưới đất trong các tầng chứa nước
(đơn vị tính:1000m3/ngày)
Nhờ trầm tích Pleistocen, khu vực phía Bắc Thành phố Hồ Chí Minh có được lượng nước ngầm
khá phong phú. Nhưng về phía Nam, trên trầm tích Holocen, nước ngầm thường bị nhiễm phèn,
nhiễm mặn. Khu vực nội thành cũ có lượng nước ngầm đáng kể, tuy chất lượng không thực sự tốt,
vẫn được khai thác chủ yếu ở ba tầng: 0–20 m, 60–90 m và 170–200 m (tầng trầm tích Miocen).
Tại Quận 12, các huyện Hóc Môn và Củ Chi, chất lượng nước tốt, trữ lượng dồi dào, thường được
khai thác ở tầng 60–90 m, trở thành nguồn nước bổ sung quan trọng.
2. Thực trạng tài nguyên nước ở TP.Hồ Chí Minh
a. Chất lượng môi trường nước dưới đất.
- Tại thành phố Hồ Chí Minh, nguồn nước dưới đất chủ yếu bị ô nhiễm nitơ (NH3, NO3), kim
loại nặng (Ni, As), độc chất (Phenol) và nhiễm mặn (CL-).
- Nhiễm mặn: do khai thác nhiều nên mực nước hạ thấp gây hiện tượng xâm nhập mặn tầng chứa
nước, một số khu vực gần biển mặn ở Bình Chánh, Bình Tân có hàm lượng Cl - tăng hàng năm.
theo bà Hồ Thị Khánh, Trưởng ban Kiểm nghiệm Nhà máy nước Thủ Đức Nếu như vài năm trước

đây, độ mặn chỉ vào khoảng 20 - 25mg/l thì trong những ngày Tết Tân Mão vừa qua đã vọt lên tới
150mg/l. So với tiêu chuẩn của Việt Nam, độ mặn tối đa chỉ được khoảng 250mg/l, thì con số này
chưa vượt, song sự gia tăng này cần phải được lưu tâm”.
- Nhiễm bẩn (Nitơ): nhiễm bẩn hiện nay chỉ ở mức độ cục bộ, qua một số điểm giếng khảo sát, ô
nhiễm chủ yếu ở khu vực sản xuất, dân cư, những nơi tập trung xả thải. Nguyên nhân của các ô
nhiễm này đều do nguồn tại chỗ. Qua kiểm tra cho thấy rất nhiều giếng khoan không đảm bảo vệ
sinh, xung quanh giếng ẩm thấp, gần khu vực xả thải. Ngoài ra còn nguyên nhân gây nhiễm bẩn là
do kết cấu giếng không đảm bảo cách ly nước mặt, nguồn nhiễm bẩn từ nước mặt có thể thấm qua
giếng xuống tầng chứa nước, đặc biệt là khi khai thác lớn, mực nước hạ thấp nhiều làm tăng khả
năng thấm nước mặt xuống giếng.
- Nhiễm kim loại nặng (As và Ni): Một số giếng ở Thủ Đức tại các khu vực gần khu công nghiệp
có dấu hiệu nhiễm kim loại nặng chủ yếu là As và Ni. Cũng như nhiễm bẩn, ô nhiễm kim loại
nặng chỉ ở mức cục bộ, nguyên nhân là từ các nguồn nhiễm từ mặt đất. Riêng về As có khả năng
là ô nhiễm tự nhiên như đã xảy ra ở khu vực các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long.
- Ô nhiễm độc chất (Phenol; cyanua): Trước đây tại khu vực Hóc Môn có một số giếng có phát
hiện hàm lượng Phenol; tuy nhiên đến nay các giếng này dã không còn sử dụng, đã được lấp hủy.
Kết quả quan trắc khu vực Tp. Hồ Chí Minh quí I/2007 cho thấy chất lượng nước tầng Pliestocen
còn khá tốt đạt tiêu chuẩn cho phép TCVN 5944 - 1995 ở một số quận nội thành TP. Hồ Chí Minh
như Phú Nhuận, Bầu Cát, Phú Thọ và khu vực Tân Phú Trung (Củ Chi), Thới Tam thôn (Hóc
Môn). Tuy nhiên, so với cùng thời điểm màu khô năm 2006, có sự gia tăng ô nhiễm hữu cơ (nồng
độ TOC tăng 2-4 lần) có dấu hiệu ô nhiễm vi sinh ở khu vực bãi rác trạm có nồng độ Nitrat giảm
so với cùng kỳ năm 2006 là các tramk Đông Thạnh, Gò Vấp, Tân Tạo.
Tầng chứa nước Pliocen: các giếng quan trắc tần pliocen phân bố ở các trạm Tân Phú Trung, Thới
Tam Thôn và Tân Tạo hầu hết bị ô nhiễm hữu cơ và có nồng độ Fe khá cao. Đặc biệt ở các trạm
Tân Tạo có nồng độ Fe tổng đặc biệt cao và có dấu hiệu ô nhiễm vi sinh.
Nước ngầm ở Thành Phố Hồ Chí Minh đang bị sụt giảm nghiêm trọng .Trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh hiện có trên 200.000 giếng khai thác nước ngầm, đa số khai thác tập trung ở tầng chứa
nước Pleistocen và Pliocen. 56,61% tổng lượng nước khai thác dùng cho mục đích sản xuất, còn
lại dùng trong sinh hoạt. Các chuyên gia đến từ ĐH Bách Khoa TP.HCM nhận định, tình trạng
khai thác sử dụng nước ngầm tại TP.HCM hiện nay đã vượt mức 600.000 m3/ngày, trong khi

lượng nước bổ sung dưới 200.000 m3/ngày dẫn đến việc mực nước dưới đất của các tầng chứa
nước ngày càng bị hạ thấp. Đặc biệt là tại các khu vực thuộc quận nội thành và vùng ven, nơi có
lưu lượng nước ngầm được khai thác rất lớn phục vụ ăn uống, sinh hoạt hằng ngày. Kết quả điều
tra chất lượng nước ngầm năm 2008 đã cho thấy, nhiều mẫu nước ở khu vực quận Gò Vấp có hàm
lượng hợp chất nitơ cao vượt tiêu chuẩn nước ăn uống; xung quanh các khu vực chôn lấp rác thải
tập trung của thành phố như Đông Thạnh, Gò Cát, nguồn nước ngầm có hàm lượng nitrat cao và
có dấu hiệu bị nhiễm vi sinh Coliform và E.coli. Mức độ ô nhiễm nước ngầm tại nhiều khu vực
khác cũng đã lan sâu đến tầng thứ 3 với độ sâu trên dưới 4m.
Mật độ giếng khoan tập trung quá dày ở nhiều khu vực nội và ngoại thành đã tạo thành các phễu
nước dày đặc, khai thác nước quá mức, gây mất cân đối trong việc bổ sung trữ lượng nước ngầm,
làm hạ thấp mực nước ngầm và nhất là gây ra tình trạng các tầng nuớc ngầm bị thấm và nhiễm
bẩn, nhiễm mặn ngày càng nhanh hơn. Cụ thể như hàm luợng hợp chất ô nhiễm nitơ, clo, hữu cơ...
đang tăng lên ở nhiều khu vực ngoại thành, nhất là gần các bãi rác lớn của Thành phố như bãi rác
Đông Thạnh.
Bên cạnh đó việc quản lý các đơn vị khoan giếng và các đối tượng khai thác của Thành phố chưa
chặt chẽ nên việc khai thác nước ngầm đang diễn ra tràn lan và khối lượng nước ngầm bị khai thác
quá lớn dẫn đến tình trạng mực nước ngầm của TP.HCM bị tụt xuống gần 1 mét mỗi năm, cụ thể
như huyện Củ Chi ở khá xa các nhà máy khai thác nước ngầm lớn của Thành phố, nhưng mực
nước ngầm cũng bị tụt xuống từ 0.4 đến 0,74 mét/năm.
b.Nước mặt .
-Nguồn nước ở TP. Hồ Chí Minh đang bị ô nhiễm nghiêm trọng bên cạnh đó là tình trạng ngập lụt
trong trung tâm thành phố đang ở mức báo động cao, xảy ra cả trong mùa khô. Diện tích khu vực
ngập lụt khoảng 140 km
2
với 85% điểm ngập nước nằm ở khu vực trung tâm. Thiệt hại do ngập
nước gây ra ước tính 8 tỷ đồng mỗi năm. Nguyên nhân là do hệ thống cống thoát nước được xây
cách đây 50 năm đã xuống cấp. Ngoài ra, việc xây dựng các khu công nghiệp và đô thị ở khu vực
phía nam – khu vực thoát nước của thành phố này đã làm cho tình hình ngập càng nghiêm trọng
hơn. Tại cụm công nghiệp Tham Lương, nguồn nước bị nhiễm bẩn bởi chất thải công nghiệp với
tổng lượng nước thải ước tính 500.000 m³/ngày

- Sông Sài Gòn - Đồng Nai
Kết quả phân tích chất lượng nước từ năm 2001 đến 9 tháng đầu năm 2009 cho thấy chất lượng
nước tọa các trạm quan trắc trên Sông Sài Gòn bị ô nhiễm hữu cơ, đặc biệt là ô nhiễm dầu và vi
sinh. Nồng độ oxy hòa tan (DO) dao động từ 0,7 đến 2,7mg/l, không đạt tiêu chuẩn chất lượng
nước mặt dùng làm nguồn cấp nước sinh hoạt (<4 mg/l). Hàm lượng dầu dao động khoảng
0.03mg/l, trong khi tiêu chuẩn quy định không cho phép có dầu trong nguồn cung cấp nước sinh
hoạt. Ô nhiễm vi sinh ở mức cao vượt từ 3 đến 168 lần đầu tiêu chuẩn cho phép.
Tại các trạm thượng nguồn sông Sài Gòn và Đồng Nai (so với tiêu chuẩn TCVN 5942 - 1995 loại
A, dùng để cấp nước cho sinh hoạt), kết quả quan trắc nồng độ dầu và Cloriform trong 5 tháng đầu
năm 2009 cao hơn tiêu chuẩn cho phép. Trong đó nồng độ dầu đo được là 0,03 - 0,09mg/l (cao
hơn 3 lần so với cùng kỳ năm 2006) và hàm lượng Cloriform cao hơn tiêu chuẩn từ 1,5 - 74 lần
(không cao hơn so với cùng kỳ năm 2006
Tại các trạm còn lại thuộc hệ thống sông Sài Gòn - Đồng Nai (so với tiêu chuẩn TCVN 5942 -
1995 loại B, dùng cho các mục đích khác), kết quả quan trắc trong 5 tháng đầu năm 2009 đa số
đều đạt tiêu chuẩn cho phép đối với các chỉ tiêu DO và BOD5 và nồng độ dầu. Tuy nhiên, hàm
lượng Cloriform tại đa số các trạm đều vượt tiêu chuẩn cho phép (cao hơn 1,6 - 4,2 lần), ngọai trừ
4 trạm Tam Thôn Hiệp, Vàm Sát, Vàm Cỏ và Nhà Bè, so với cùng kỳ năm 2006, nồng độ dầu tăng
cao 2-3 lần ở các trạm, tuy nhiên mức độ ô nhiễm hữu cơ (DO và BOD5) giảm so với cùng kỳ
năm trước ( 1,2- 2 lần).
- Khu vực Nhà Bè - Cần Giờ (sau hợp lưu sông Sài Gòn và Đồng Nai)
Kết quả quan trắc từ năm 2001 đến 9 tháng đầu năm 2009 cho thấy chất lượng nước sông tại khu
vực Nhà Bè - Cần Giờ không có dấu hiệu ô nhiễm hữu cơ. Nồng độ ôxy hòa tan dao động từ 3,0
đến 4,1mg/l, đạt tiêu chuẩn chất lượng nguồn nước loại B (2mg/l). Nhu cầu ôxy sinh hóa BOD5
dao động từ 1 đến 3mg/l đạt tiêu chuẩn chất lượng nguồn nước loại B (<25mg/l). Mức độ ô nhiễm
dầu có xu hướng giảm trong những năm gần đây. Ô nhiễm vi sinh vẫn ở mức cao và có sự gia tăng
trong 9 tháng đầu năm.
II.Hậu quả của việc ô nhiễm nguồn nước ở Tp. Hồ Chí Minh
1.Hết tầng nước an toàn
Vào năm 1998, biến dạng mặt đất bắt đầu lan rộng ở hàng loạt quận huyện trên địa bàn thành phố,
với giá trị ghi nhận cao nhất là 155mm từ năm 1998. Từ năm 2002 – 2010, không phát triển thêm

vùng lún mới, nhưng giá trị lún tăng nhanh tại các vùng có sự hạ thấp mức nước ngầm, với giá trị
cao nhất là 309mm.
"Hố tử thần" xuất hiện trên địa bàn TP do một phần khai thác nước ngầm
Theo báo cáo dự án quan trắc biến dạng mặt đất khu vực TP.HCM của sở Tài nguyên và môi
trường, diễn tiến lún mặt đất diễn ra tập trung tại các khu công nghiệp như: Tân Bình, Tân Tạo,
Vĩnh Lộc. Kết quả quan trắc cho thấy: 79/116 tuyến ngập triều trên thành phố bị ảnh hưởng bởi
lún mặt đất
Một trong các nguyên nhân khiến bề mặt của mặt đất thành phố bị biến dạng là tình trạng khai thác
nước ngầm vô tội vạ hiện nay. Theo báo cáo, do khai thác nước một cách tập trung với lưu lượng
lớn ở phần phía tây nam thành phố, hiện chúng ta đã khai thác hết trữ lượng khai thác an toàn và
đã bắt đầu khai thác vào trữ lượng tĩnh. Đồng thời, việc khai thác nước ngầm hiện nay còn đã làm
cho mực nước tầng 3, 4 có xu hướng giảm so với cân bằng nước.
2. Nguy cơ mắc các bệnh do ô nhiễm nguồn nước.
Trung tâm Y tế dự phòng TP.HCM khi lấy mẫu nước giếng ở 107 hộ dân tại 6 quận, huyện
ngoại thành (TP.HCM) xét nghiệm, phát hiện có đến 52% mẫu bị nhiễm vi sinh với nồng độ rất
cao. Đặc biệt, mẫu nước bị nhiễm vi sinh ở 2 huyện Bình Chánh và Nhà Bè lên đến 95%. Bà
Hoàng Thị Ngọc Ngân, trưởng Khoa Sức khỏe cộng đồng, Trung tâm Y tế Dự phòng TP cho biết
theo tiêu chuẩn, nước uống không được nhiễm vi sinh nhưng qua kiểm tra, đã phát hiện có mẫu
nước giếng vi sinh lên đến 3.700 con/100 mml. Với mức ô nhiễm như trên, nếu người dân uống
nước trực tiếp không đun sôi thì sẽ rất dễ bị bệnh về đường ruột.
Nước sinh hoạt tại nhiều quận, huyện TP.HCM vừa được xác định nhiễm vi sinh vật ở mức độ nặng. Cơ
quan nông nghiệp và y tế TP.HCM cho biết: Kiểm tra 107 mẫu nước tại 107 gia đình thuộc các quận,
huyện: 9, Nhà Bè, Bình Chánh, Hóc Môn, Củ Chi,Thủ Đức, cơ quan chức năng xác định chất lượng nước tại
các khu vực như xã Phong Phú (Bình Chánh); Hiệp Phước, Long Thới, Phước Kiểng (Nhà Bè) đều bị nhiễm
vi sinh (E.coli, Coliform, Coliform faecal) với nồng độ rất cao (từ 2.100 – 28.000 MPN/100 ml), trong khi
theo quy định của Bộ Y tế thì các thành phần vi sinh nói trên không được phép tồn tại trong nước sinh
hoạt.
III.Nguyên nhân gây ô nhiểm nguồn nước và tụt mức nước ngầm
1. Ảnh hưởng do hoạt động của con người
- Các dòng nước mặt (sông, kênh rạch…) đặc biệt là ở vùng đô thị đều bị ô nhiễm trầm trọng bởi

rác thải, nước thải sinh hoạt từ các khu dân cư xả vào kênh rạch chưa qua xử lý. Tình trạng lấn

×