Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Phân tích tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón ở việt nam từ năm 2007 đến năm 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.06 KB, 21 trang )

Phân tích tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón ở Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2009
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay khoa học - kỹ thuật ngày càng phát triển, nhu cầu của con người
cũng ngày một tăng lên, và kèm theo là sự thay đổi. Nhưng nhu cầu về lương thực
và thực phẩm là một nhu cầu thiết yếu không thay đổi được. Để đáp ứng đầy đủ
những nhu cầu thiết yếu này, bên cạnh việc đòi hỏi người nông dân phải lao động để
sản xuất ra lương thực, thực phẩm thì cần phải cung cấp cho họ những tư liệu sản
xuất như: hạt giống, dụng cụ lao động, máy móc thiết bị,…; và quan trọng hơn đó là
phân bón. Phân bón là một thành phần không thể thiếu cho bất kì loại cây trồng nào,
nó giúp cây trồng tăng trưởng và phát triển ổn định, giúp tăng năng suất lao động,
góp phần quan trọng vào việc đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của con người. Tuy
nhiên, người nông dân không phải bao giờ cũng được cung cấp đầy đủ về phân bón,
mà còn bị phụ thuộc vào trình độ khoa học kĩ thuật, khả năng sản xuất phân bón của
đất nước. Việt Nam hiện là nước đang phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật còn non
kém nên việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào công nghệ sản xuất phân bón của
đất nước là rất khó khăn; ngoài ra, việc áp dụng các giải pháp phân bón sinh học, vi
sinh học để nâng cao hiệu suất sử dụng phân bón cũng còn rất hạn chế.
Thực vậy, Việt Nam hiện là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới, mỗi
năm cung cấp cho thế giới một khối lượng gạo khổng lồ, đảm bảo an ninh lương
thực thế giới. Quá trình sản xuất để tạo nguồn hàng xuất khẩu này chủ yếu là dựa
vào chất làm cho cây lúa tăng trưởng tốt, năng suất ổn định,… góp phần nâng cao
chất lượng hạt gạo. Chất đó không gì khác ngoài “phân bón”. Nhưng hiện nay, Việt
Nam mỗi năm phải nhập khẩu một số lượng lớn phân bón đủ các loại, mới có thể
cung cấp đủ cho nhu cầu sử dụng của người nông dân. Tuy nhiên, đều đáng quan
tâm ở đây là mức giá mà người nông dân phải trả để có thể sử dụng được lượng
phân bón mà họ cần. Do các doanh nghiệp sản xuất phân bón chủ yếu là nhập khẩu
và bán lại nên mức giá phân bón là khá cao, không ổn định; lại phụ thuộc vào mức
giá nhập khẩu nên gây ra nhiều lo ngại cho người nông dân và cho cả các doanh
nghiệp nhập khẩu. Đây là một vấn đề hết sức cấp bách và cần thiết mà một đất nước
GVHD: Châu Thị Lệ Duyên 1 SVTH: Nguyễn Thị Vén


Phân tích tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón ở Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2009
đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng cần phải chú ý và quan tâm đáng
kể.
Chính vì những lý do này, việc “PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH NHẬP KHẨU
VÀ SỬ DỤNG PHÂN BÓN Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2009” là
vấn đề cần thiết và cấp bách, nhằm tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phân
bón và hạn chế việc nhập khẩu phân bón góp phần làm giảm chi phí sản xuất cho
người nông dân.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1 Mục tiêu chung:
Phân tích tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón ở Việt Nam từ năm 2007
đến năm 2009 để tìm ra giải pháp, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng và hạn chế việc
nhập khẩu phân bón.
2.2 Mục tiêu cụ thể:
Mục tiêu 1: Phân tích thực trạng nhập khẩu và sử dụng phân bón ở Việt Nam
từ năm 2007 đến năm 2009.
Mục tiêu 2: Phân tích những nguyên nhân của việc nhập khẩu phân bón ở
Việt Nam.
Mục tiêu 3: Đưa ra giải pháp thích hợp để nâng cao hiệu suất sử dụng và hạn
chế việc nhập khẩu phân bón ở Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu
3.1 Phạm vi về không gian
Đề tài được nghiên cứu ở Việt Nam.
3.2 Phạm vi về thời gian
Từ ngày 23/05/2010 đến ngày 30/06/2010
Thời gian lấy số liệu thứ cấp: từ năm 2007 đến tháng 4 đầu năm 2010
3.3 Phạm vi về nội dung
Đề tài được nghiên cứu tại Việt Nam.
GVHD: Châu Thị Lệ Duyên 2 SVTH: Nguyễn Thị Vén
Phân tích tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón ở Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2009

4. Phương pháp nghiên cứu
4.1 Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu thứ cấp được thu thập từ sách báo, tạp chí, internet, lấy số liệu trực
tiếp từ các nhà máy và các nguồn khác.
4.2 Phương pháp phân tích số liệu
Có rất nhiều cách để phân tích số liệu nhập khẩu phân bón của Việt Nam
nhưng thông thường là phương pháp so sánh
• Phương pháp số tuyệt đối :
Là phương pháp so sánh hai chỉ tiêu cùng loại hay khác nhau nhưng có liên hệ
nhau để đánh giá sự tăng lên hay giảm xuống của một chỉ tiêu nào đó qua thời gian
hoặc đánh giá mức độ hoàn thành kế hoạch của một doanh nghiệp hay các nhà quản
trị muốn đánh giá một thị trường nào đó ở hai thị trường khác nhau.Và sự so sánh
này bằng một con số cụ thể.
Ở đây ta nghiên cứu các chỉ số về giá , sản lượng, lợi nhuận:
0
1
p
p
i
p
=
;
0
1
q
q
i
q
=
q

1
: Sản lượng năm nghiên cứu
q
0
: Sản lượng năm gốc
p
1
: giá hàng hóa năm nghiên cứu
p
0
: giá hàng hóa năm gốc
• Phương pháp số tương đối :
Là tỉ lệ phần trăm (%) của chỉ tiêu kỳ phân tích so với chỉ tiêu gốc để thể hiện
mức độ hoàn thành hoặc tỉ lệ của số chênh lệch tuyệt đối so với chỉ tiêu gốc để nói
lên tốc độ tăng trưởng.
%100
0
1
×=
p
p
i
p
;
%100
0
1
×=
q
q

i
q
GVHD: Châu Thị Lệ Duyên 3 SVTH: Nguyễn Thị Vén
Phân tích tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón ở Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2009
PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
1.1 Một số khái niệm
Phân bón là các chất hữu cơ hoặc vô cơ chứa các nguyên tố dinh dưỡng cần thiết
cho cây trồng được bón vào đất hay hòa nước phun, xử lý hạt giống, rễ và cây con. Ở đây,
phân bón có thể hiểu là phân vô cơ được các nhà máy sản xuất hay nhập khẩu từ nước
ngoài về để bán cho người nông dân; cũng có thể gọi là phân khoáng hay phân hóa
học. Điển hình là: urê, lân, kali, DAP, ; ngoài ra còn có các loại phân vi lượng khác.
Nhập khẩu là việc quốc gia này mua hàng hóa và dịch vụ từ quốc gia khác;
hay nói khác hơn, đây chính là việc nhà sản xuất nước ngoài cung cấp hàng hóa và
dịch vụ cho người cư trú trong nước. Nhập khẩu phụ thuộc vào thu nhập của người
cư trú trong nước và tỷ giá hối đoái. Thu nhập của người dân trong nước càng cao,
thì nhu cầu của hàng đối với hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu càng cao. Tỷ giá hối
đoái tăng, thì giá hàng nhập khẩu tính bằng nội tệ trở nên cao hơn; do đó, nhu cầu
nhập khẩu giảm đi.
Hạn ngạch (quotas): là rào cản thương mại phi thuế quan quan trọng nhất.
Đây là biện pháp trực tiếp hạn chế số lượng hàng hóa được phép nhập khẩu hay xuất
khẩu vào quốc gia trong một thời kì nhất định nhằm cân đối cán cân xuất nhập khẩu
của đất nước.
Thuế xuất nhập khẩu hay thuế quan là tên gọi chung để gọi hai loại thuế
trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Đó là thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu. Thuế
nhập khẩu là thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu, còn thuế xuất khẩu là thuế đánh
vào hàng hóa xuất khẩu. Về mặt nguyên tắc, thuế xuất nhập khẩu phải được nộp
trước khi thông quan để người xuất khẩu có thể giao hàng hóa cho người chuyên
chở hay người nhập khẩu có thể đưa mặt hàng nhập khẩu vào lưu thông trong nội
địa, trừ khi có các chính sách ân hạn thuế hay có bảo lãnh nộp thuế, nên chúng có

thể coi là một trong những loại thuế dễ thu nhất, và chi phí để thu thuế xuất-nhập
khẩu là khá nhỏ.
1.2 Tầm quan trọng của phân bón và vai trò của việc sản xuất phân
bón trong nước
GVHD: Châu Thị Lệ Duyên 4 SVTH: Nguyễn Thị Vén
Phân tích tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón ở Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2009
- Phân bón góp phần làm tăng năng suất và sản lượng các loại cây trồng, làm
tăng sản lượng nông sản đạt quy cách chất lượng xuất khẩu, đặc biệt là cây lúa, đảm
bảo an ninh lương thực thế giới.
- Phân bón giúp cho người dân có đủ điều kiện sản xuất, tạo ra công ăn việc
làm ổn định, nâng cao đời sống vật chất cho người dân. Bên cạnh đó còn tạo tâm lý
ổn định để mọi người dân làm nông nói riêng và tất cả mọi người dân trong xã hội
nói chung sống và làm việc đạt hiệu quả hơn vì họ không phải lo lắng về vấn đề
phải chịu đói như trước đây đã từng xãy ra.
- Sản xuất phân bón làm tăng khối lượng phân bón đang có trong nước, đáp
ứng một phần nhu cầu sử dụng phân bón trong nước, hạn chế nhập khẩu từ nước
ngoài, làm giảm kim ngạch nhập khẩu, tiết kiệm ngoại tệ, tận dụng nguồn tài nguyên
trong nước, tạo việc làm cho người dân, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế quốc
gia.
- Sản xuất phân bón trong nước làm giảm một lượng chi phí vận chuyển, chi
phí thủ tục hải quan,… đáng kể mà người dân phải chịu khi nhập khẩu phân bón. Từ
đó, thúc đẩy nông nghiệp trong nước phát triển, tạo động lực cho việc tìm tòi và
phát minh ra các loại giống cây trồng mới lạ, các hình thức luân canh mới phù hợp
với những vùng đất mà trước đây chưa sử dụng hoặc có sử dụng nhưng chưa đạt
hiệu quả. Chẳng hạn như việc trồng xen cây cacao trong vườn dừa, trồng lúa kết hợp
với nuôi tôm càng xanh,…đều đòi hỏi phải có một lượng phân bón đủ lớn để cung
cấp đầy đủ cho các loại cây trồng phát triển tốt.
1.3 Tổng quan về tình hình xuất khẩu phân bón của các nước trên thế
giới vào Việt Nam
Cũng như các nước đang phát triển khác, Việt Nam là thị trường xuất khẩu

phân bón đem lại lợi nhuận cao cho các nước sản xuất phân bón với số lượng lớn
trên thế giới, trong đó có Trung Quốc. Với lợi thế giá rẻ, lại thuận lợi về mặt địa lý
nên Trung Quốc vẫn là nhà cung cấp phân bón hàng đầu vào Việt Nam hiện nay.
Trong năm 2009, tỷ trọng xuất khẩu phân bón từ Trung Quốc chiếm 51% tổng
lượng nhập khẩu phân bón của Việt Nam, đạt 1,95 triệu tấn, tăng 29,44% so với
năm 2008; bỏ khá xa so với nhà cung cấp lớn thứ hai là Nga với tỷ trọng chiếm
GVHD: Châu Thị Lệ Duyên 5 SVTH: Nguyễn Thị Vén
Phân tích tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón ở Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2009
10,26% tổng lượng nhập, đạt 394,8 ngàn tấn, tăng 14,10% so với năm 2008. Điều
này làm cho Trung Quốc trở thành nhà cung cấp duy nhất có lượng phân bón xuất
khẩu vào Việt Nam đạt trên 1 triệu tấn mỗi năm. Bên cạnh đó, lượng phân bón từ
Ucraina, Đài Loan, Mỹ, Hàn Quốc nhập vào Việt Nam trong năm 2009 cũng tăng
đáng kể. Cụ thể như Hàn Quốc: xuất khẩu vào Việt Nam đạt 355 ngàn tấn, tăng 2,1
lần so với năm trước; Mỹ: 154,7 ngàn tấn, tăng 140,6 lần so với năm trước; Ucraina:
189 ngàn tấn, tăng 126 lần; Philippin: 294 ngàn tấn, tăng 2,7 lần; Ấn Độ: 40,7 ngàn
tấn, tăng 2,3 lần; Tuy nhiên, do giá xuất khẩu đứng ở mức thấp nên mặc dù về
lượng tăng mạnh, kim ngạch xuất khẩu từ các nước vào Việt Nam đều giảm: Trung
Quốc giảm 17,21%, Nga giảm 29,45%, Hàn Quốc giảm 7,76%,…; duy chỉ có
Philippin và Ấn Độ tăng lần lượt 152,6%, và 86,22 %.
Trong khi đó, xuất khẩu phân bón vào Việt Nam từ một số thị trường lại
giảm mạnh so với năm 2008, như: Nhật Bản, Canada, Nauy, Bỉ, Malaixia. Cụ thể:
xuất khẩu từ Nhật Bản giảm 4,07% về lượng và 53,27% trị giá; Canada giảm
26,53% về lượng, 23,17% trị giá; Nauy giảm 87,42% về lượng, 92,27% trị giá; Bỉ
giảm 55,72% về lượng, 51,02% trị giá; còn Malaixia về lượng giảm 7,17%, trị giá là
31,78%.
Bảng 1: Thị trường xuất khẩu phân bón vào Việt Nam năm 2009
GVHD: Châu Thị Lệ Duyên 6 SVTH: Nguyễn Thị Vén
Phân tích tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón ở Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2009
Thị trường
Năm 2008 Năm 2009

Năm 2009 so với năm
2008
Lượng
(tấn)
Trịgiá
(USD)
Lượng
(tấn)
Trị giá
(USD)
Lượng
(%)
Trị giá
(%)
Trung Quốc 1.507.548 719.931 1.951.305 596.026 29,44 -17,21
Nga 346.054 156.197 394.840 110.201 14,10 -29,45
Hàn Quốc 161.649 79.040 355.073 72.904 119,66 -7,76
Philippin 80.525 45.561 294.260 115.085 265,43 152,60
Nhật Bản 199.241 55.092 191.137 25.746 -4,07 -53,27
Ucraina 1.500 585 189.306 55.137 12.520 9.325
Hoa Kỳ 1.109 2.836 154.712 62.033 13.851 2.087
Đài Loan 102.304 29.808 130.159 21.442 27,23 -28,07
Canada 138.507 79.192 101.755 60.847 -26,53 -23,17
Ấn Độ 17.476 9.420 40.742 17.542 133,13 86,22
Thái Lan 6.635 3.507 22.252 6.125 235,37 74,65
Malaixia 17.394 7.772 16.147 5.302 -7,17 -31,78
Bỉ 7.301 4.882 3.233 2.391 -55,72 -51,02
Nauy 22.176 16.413 2.789 1.268 -87,42 -92,27
Singapo 52.358 30.035 5,2 132,2 -99,99 -99,56
( Nguồn: www.tinthuongmai.vn )

(+): tăng;(-): giảm
Từ những số liệu trên, ta nhận thấy được Trung Quốc chiếm một tỷ lệ xuất
khẩu phân bón vào Việt Nam rất cao (51%). Đây là đều đáng lo ngại cho thị
trường phân bón của Việt Nam nếu Trung Quốc vì một nguyên nhân nào đó
không còn xuất khẩu phân bón nữa hoặc chấm dứt việc cung cấp phân bón cho
Việt Nam. Chính vì lý do đó, Việt Nam đang từng bước đa dạng hoá thị trường
nhập khẩu phân bón nhằm tránh sự phụ thuộc quá nhiều vào thị trường Trung
Quốc. Cụ thể, theo như thống kê, trong tháng 1/2010, thị phần của Trung Quốc
trong tổng kim ngạch nhập khẩu phân bón của Việt Nam đã giảm rất mạnh so với
cùng kỳ năm 2009 (giảm 8,4% về lượng và 13,2% về giá trị); ngược lại, các nước
khác lại có thị phần xuất khẩu phân bón vào Việt Nam tăng mạnh như: Hàn Quốc
tăng 11,9% về lượng và 11,2% về giá trị và Nga tăng 7,3% về lượng và 10,5% về
giá trị. Số thị trường xuất khẩu phân bón vào Việt Nam trong tháng 1/2010 đã tăng
lên con số 27, gồm các thị trường cũ và một số thị trường mới, trong đó có Belarus
và Iran,… Trong khi con số này của cùng kỳ năm 2009 chỉ khoảng 16.
GVHD: Châu Thị Lệ Duyên 7 SVTH: Nguyễn Thị Vén
Phân tích tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón ở Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2009
Nhìn chung, trong 3 tháng đầu năm 2010 nhập khẩu phân bón của Việt Nam
từ các thị trường trên đều sụt giảm, trong đó thị trường Hoa Kỳ giảm nhiều nhất, với
lượng nhập là 638 tấn, trị giá trên 1 triệu USD, giảm 97,13% về lượng và 87,27% về
trị giá so với cùng kỳ. Thị trường sụt giảm đứng thứ 2 sau Hoa Kỳ là Đài Loan, với
lượng nhập 20,8 nghìn tấn, trị giá 3,3 triệu USD, giảm 43,75% về lượng và 40,58%
về trị giá so với cùng kỳ. Tuy nhiên, bên cạnh những thị trường suy giảm vẫn có
những thị trường tăng trưởng như: Nhật Bản tăng 244,58% về lượng và 288,94% về
trị giá so với cùng kỳ, với lượng nhập 75,1 nghìn tấn đạt trên 11 triệu USD;
Malaxiai tăng 271,21% về lượng và 296,22% về trị giá so với cùng kỳ với lượng
nhập 28,1 nghìn tấn, trị giá trên 9 triệu USD; Bỉ tăng 116,84% về lượng và 48,85%
về trị giá so với cùng kỳvới lượng nhập 837 tấn, trị giá 374,9 nghìn USD. Đáng chú
ý là thị trường Nauy có sự tăng trưởng đột biến, tuy lượng nhập trong 3 tháng đầu
năm chỉ đạt 6,9 nghìn tấn, trị giá trên 3 triệu USD nhưng tăng gấp hơn 35 lần về

lượng và hơn 19 lần về trị giá so với cùng kỳ năm 2009. Thị trường Trung Quốc tiếp
tục dẫn đầu là thị trường chủ yếu nhập khẩu phân bón của Việt Nam từ đầu năm đến
nay. Tính chung 3 tháng đầu năm 2010, Việt Nam đã nhập khẩu 349,1 nghìn tấn
phân bón các loại từ thị trường Trung Quốc, đạt 109,7 triệu USD, giảm 23,49% về
lượng và 30,47% về trị giá so với cùng kỳ.
1.4 Dự báo về nhu cầu sử dụng phân bón ở Việt Nam từ năm 2010 đến
năm 2020
Trong thời gian gần đây, các nước phát triển có chiều hướng giảm việc sử
dụng phân bón, tập trung phát triển khoa học, công nghệ thông tin thì tại các nước
đang phát triển, trong đó có Việt Nam, chiều hướng sử dụng phân bón lại tăng
mạnh. Theo ước tính tổng diện tích gieo trồng ở Việt Nam trong năm 2010 vào
khoảng 12.285.500 hecta, trong đó cây có thời gian sinh trưởng hàng năm là
9.855.500 hecta và cây lâu năm khoảng 2.431.000 hecta. Để thoả mãn nhu cầu phân
bón cho các loại cây trồng trên các diện tích này, trong năm 2010 Việt Nam cần phải
cung cấp cho sản xuất nông nghiệp khoảng 8,9 - 9,1 triệu tấn, cụ thể như phải có
2.100.000 tấn phân Urê, 300.000 tấn phân DAP, 3.000.000 tấn phân NPK các loại,
1.400.000 tấn phân lân dạng super và nung chảy và 400.000 tấn phân Kali,…Tuy
GVHD: Châu Thị Lệ Duyên 8 SVTH: Nguyễn Thị Vén
Phân tích tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón ở Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2009
nhiên, sản lượng phân bón sản xuất trong nước năm nay dự kiến đạt khoảng 5,6
triệu tấn. Do vậy, Việt Nam cần phải nhập khẩu thêm khoảng 3,3 triệu tấn phân bón
các loại.
Hiện tại, mỗi năm Việt Nam phải chi một lượng lớn USD để nhập khẩu phân
bón, trong khi kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản thì không đáng kể. Đây
là điều đáng lo ngại cho người nông dân, cho Chính phủ và cho cả ngành nông
nghiệp Việt Nam. Theo dự báo từ nay đến hết năm 2020, trung bình mỗi năm Việt
Nam sẽ phải nhập khoảng trên 500.000 tấn phân bón urê, DAP, kali và việc nhập
khẩu chỉ có khả năng chấm dứt vào năm 2020 khi các nhà máy trong nước sản xuất
đủ lượng phân bón theo nhu cầu của thị trường. Thực vậy, Việt Nam ngày càng có
nhiều nhà máy sản xuất phân bón mọc lên nên nhu cầu nhập khẩu phân bón từ nước

ngoài sẽ ngày một giảm đi rất nhiều. Đó là một dấu hiệu đáng mừng cho nông
nghiệp Việt Nam.
2. Phân tích tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón ở Việt Nam từ
năm 2007 đến năm 2009
2.1 Thực trạng sản xuất phân bón ở Việt Nam
Như chúng ta đã biết, phân bón là một trong những nhân tố chính làm tăng
năng suất cây trồng để nuôi sống nhân loại trên thế giới. Tuy nhiên, nhiều nước
không có công nghệ sản xuất phân bón, nhưng ngoại tệ lại có hạn nên việc sử dụng
phân khoáng ở các nước có sự chênh lệch khá lớn. Sự chênh lệch này không phải do
tính chất đất đai khác nhau quyết định mà chủ yếu là do điều kiện tài chính cũng
như trình độ hiểu biết về khoa học dinh dưỡng cho cây trồng quyết định. Việt Nam
– một trong những nước đang phát triển đã và đang có nhu cầu sử dụng phân bón
với khối lượng lớn so với các nước ở Đông Nam Á Tuy nhiên, do ảnh hưởng của
chiến tranh kéo dài, công nghiệp sản xuất phân hoá học phát triển rất chậm và thiết
bị còn rất lạc hậu nên hiện tại Việt Nam chỉ sản xuất được khoảng 50% khối lượng
phân bón cung cấp cho nông nghiệp.
Bảng 2: Sản xuất phân bón ở Việt Nam từ năm 2007 - 2009
GVHD: Châu Thị Lệ Duyên 9 SVTH: Nguyễn Thị Vén
Phân tích tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón ở Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2009
( Nguồn: Tổng cục thống kê)
(+): tăng;(-): giảm
Mặc dù hiện tại, lượng phân bón trong nước cung cấp được khoảng 50% nhu
cầu phân bón trong nước; nhưng trước đó trong ba năm 2007, 2008 và năm 2009 sản
lượng phân bón sản xuất ra trong nước chỉ chiếm khoảng 40% tổng lượng nhập và
sản xuất trong nước, điều này sẽ được làm rõ ở phần sau. Tuy nhiên, để đạt được
mức sản lượng như vậy không phải là việc dễ dàng, Việt Nam cũng như các công ty
sản xuất phân bón nói chung và các công ty sản xuất phân bón lớn nói riêng như:
công ty phân bón Bình Điền, công ty phân bón Miền Nam, công ty CP Quốc Tế
Năm Sao, Đạm Phú Mỹ, Đạm Hà Bắc,… đã rất nổ lực trong việc tìm tòi phát triển
và ứng dụng kỹ thuật mới vào quy trình sản xuất phân bón. Trong số đó, công ty

phân bón Bình Điền với lợi thế là sản xuất phân hỗn hợp NPK đã đi đầu trong việc
nghiên cứu áp dụng công nghệ xanh để sản xuất ra các sản phẩm phân bón đạt chất
lượng cao, giảm chi phí sản xuất và vận chuyển đáp ứng được nhu cầu của người
nông dân. Chính nhờ công nghệ “xanh” này mà 2 loại phân bón Urê hạt vàng Đầu
Trâu 46A+ và NPK Đầu trâu +Agrotain đã xuất hiện giúp tiết kiệm được phân đạm
tới 30%, vừa tăng năng suất, nâng cao chất lượng lại vừa chống thất thoát và bảo vệ
môi trường. Và với công nghệ sản xuất NPK chất lượng cao người nông dân có thể
sử dụng thay thế được cho DAP nhập khẩu. Bên cạnh đó, các công ty sản xuất phân
bón khác cũng nổ lực rất nhiều trong việc đẩy mạnh phát triển sản xuất các loại
phân hữu cơ chất lượng cao và nâng cao năng suất các loại phân bón hiện công ty
đang sản xuất. Mới đây, để đáp ứng đầy đủ hơn nhu cầu của người nông dân cũng
như để đạt được mục tiêu ngưng nhập khẩu phân bón trong năm 2020, Tập đoàn
GVHD: Châu Thị Lệ Duyên 10 SVTH: Nguyễn Thị Vén
Năm
2007 2008 2009
Sản lượng (nghìn tấn) 2.423,6 2.524,0 2.386,5
Trị giá (triệu USD) 636,4 1.242,1 747,7
Mức tăng sản lượng (%) +1,04 -5,45
Mức tăng trị giá (%) +95,1 -39,8
Phân tích tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón ở Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2009
Công nghiệp Hoá Chất Việt Nam đã được thành lập với việc kinh doanh nhiều
ngành nghề quan trọng trong nền kinh tế đất nước, đặc biệt là sản xuất và kinh
doanh phân hóa học. Chính vì thế, công ty đã chỉ đạo các nhà máy sản phân bón
tăng sản lượng và tiến độ sản xuất để đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng phân bón cho
nông dân. Đặc biệt, đã đẩy nhanh tiến độ các dự án phân bón lớn như nhà máy DAP
Đình Vũ - Hải Phòng, đạm than Ninh Bình, mở rộng đạm Hà Bắc, supe lân tại Lào
Cai. Theo dự kiến, trong năm 2010 Việt Nam có thể sản xuất được khoảng
1.600.000 tấn phân Urê, 300.000 tấn phân DAP, 3.000.000 tấn phân NPK và
1.400.000 tấn phân lân các loại; và theo tính toán, mỗi tấn Urê sản xuất ra trong
nước sẽ giảm được cước vận chuyển, phí bảo hiểm và thủ tục hải quan nên giá

thành sẽ thấp hơn so với hàng nhập khẩu từ 110-120 USD/tấn.
2.2 Tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón ở Việt Nam
Nhìn chung từ năm 2007 đến nay, ngành sản xuất phân bón ở nước ta có
nhiều chuyển biến phức tạp. Và cũng như các nước đang phát triển trên thế giới,
Việt Nam hiện đang phải nhập khẩu phân bón với một số lượng khá lớn. Hàng năm,
số tiền nhập khẩu phân bón phải chi khoảng 1.271,5 triệu USD, chiếm khoảng 1,9%
tổng kim ngạch nhập khẩu trong nước.
Bảng 3: Nhập khẩu phân bón của Việt Nam từ năm 2007 - 2009
GVHD: Châu Thị Lệ Duyên 11 SVTH: Nguyễn Thị Vén
Năm
2007 2008 2009
Sản lượng (nghìn tấn) 3.793 2.987 4.306
Trị giá (triệu USD) 996 1.470 1.349
Mức tăng sản lượng (%) -21,2 +41,9
Mức tăng trị giá (%) +47,6 -8,4
Phân tích tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón ở Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2009
( Nguồn: Tổng cục thống kê)
(+): tăng;(-): giảm
Theo bảng số liệu trên, ta thấy sản lượng phân bón Việt Nam nhập về không
ổn định. Sản lượng phân bón nhập về năm 2008 giảm 806 ngìn tấn so với năm 2007,
ước tính giảm 21,2%; sản lượng phân bón nhập năm 2009 lại tăng 1.319 nghìn tấn,
ước tính tăng khoảng 41,9%. Nguyên nhân của sự tăng giảm không ổn định này là
do trong năm 2008, với chính sách khuyến khích của chính phủ, các nhà máy sản
xuất phân bón đẩy mạnh sản xuất, nâng cao trình độ kỹ thuật,…nên lượng phân bón
nhập khẩu giảm xuống một tỷ lệ đáng kể, trong đó phân urê giảm 26 nghìn tấn, ước
lượng giảm khoảng 2,3% so với năm 2007. Tuy nhiên trong 5 tháng đầu năm 2008,
giá dầu thô tăng cao và nhu cầu nhập khẩu phân bón của các nước tăng, kết hợp với
Trung Quốc đột ngột tăng thuế xuất khẩu phân bón và giảm mạnh nguồn cung làm
cho giá phân bón nhập khẩu các loại tăng hơn 90%. Từ đó làm cho tổng kim ngạch
nhập khẩu phân bón của Việt Nam năm 2008 tăng 47,6% so với năm 2007 với trị

giá nhập khẩu là 474 triệu USD, mặc dù sản lượng nhập năm 2008 so với năm 2007
giảm 21,2%. Trái ngược với năm 2008, trong những tháng cuối năm 2009 thuế xuất
khẩu phân bón của Trung Quốc giảm từ 130% xuống ở mức 0%, lại thêm giá phân
bón nhập khẩu giảm. Đây là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp Việt Nam xúc
tiến việc nhập khẩu và dự trữ phân bón làm cho tổng sản lượng nhập khẩu năm 2009
tăng đột ngột, nhưng tổng kim ngạch nhập khẩu lại giảm từ 1.470 triệu USD xuống
1.349 USD, ước tính giảm 8,4%.
Bảng 4: Bảng giá các loại phân bón chính từ năm 2007 đến năm 2009
( Đơn vị tính: USD/tấn )
Loại Phân bón Năm
2007 2008 2009 Dự báo 2010
Urê 271 408 323 300
DAP 86 130 630 400
Kali 200 300 250 225
( Nguồn: Tổng cục thống kê )
GVHD: Châu Thị Lệ Duyên 12 SVTH: Nguyễn Thị Vén
Phân tích tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón ở Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2009
Từ bảng số liệu trên, ta càng thấy rõ hơn về tình hình biến động của giá phân
bón từ năm 2007 đến năm 2009. Giá phân bón cao nhất vào năm 2008, nhưng lại
xuống mức rất thấp trong những tháng cuối năm 2009 làm mức giá phân bón bình
quân năm 2009 theo đó giảm mạnh. Nhưng đến năm 2010, mặc dù giá phân bón thế
giới được dự báo sẽ khó tăng do nguồn cung luôn vượt cầu; thậm chí, Ngân hàng
Thế giới (WB) còn nhận định rằng năm 2010, giá các loại phân DAP, Kali và Urê
sẽ lần lượt giảm khoảng 7,1%, 36,5% và 10% so với mức giá trung bình của năm
2009, xuống còn tương ứng là 300USD/tấn, 400USD/tấn và 225USD/tấn; giá phân
bón Việt Nam được dự báo ở mức tăng nhẹ. Cho dù tình hình phân bón của nước ta
hiện nay có nhiều ổn định, lượng phân bón cung cấp cho vụ đông xuân và vụ hè thu
có thể đủ do thời tiết khô hạn, đất bị xâm nhập mặn nên làm giảm nhu cầu sử dụng
phân bón. Nhưng theo nhận định của Hiệp hội Phân bón Việt Nam, giá phân bón
urê, NPK… vẫn có khả năng tăng trước tác động mạnh của việc nâng tỷ giá

VND/USD, tăng giá than, điện, lương cơ bản và lãi suất ngân hàng. Thực vậy, trước
áp lực từ nhiều phía giải pháp tăng giá là khó tránh khỏi để ổn định thị trường phân
bón trong nước.
Tuy nhiên, từ đầu năm 2010 đến nay tình hình sản xuất, nhập khẩu và sử
dụng đã có những bước chuyển theo chiều hướng tích cực. Tính chung trong quí
I/2010, cả nước đã nhập 1.123 nghìn tấn phân bón các loại đạt trị giá 348 triệu USD,
giảm 25% về lượng và giảm 25,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2009 với mức sản
lượng 1.498 nghìn tấn và trị giá đạt 466 triệu USD. Trong đó, hai loại phân bón
giảm nhiều nhất là phân urê và phân SA.
Bảng 5: Sản lượng nhập khẩu hai loại phân bón urê và SA trong quí I
năm 2009 và 2010
Mặt
hàng
Năm 2009 Năm 2010 Mức tăng (%)
Lượng
(nghìn tấn)
Trị giá
(triệu
USD)
Lượng
(nghìn tấn)
Trị giá
(triệu
USD)
Lượng
(nghìn tấn)
Trị giá
(triệu
USD)
Phân urê 489 148,4 402 121 -17,8 -18,5

Phân SA 479,7 68,6 232 31,84 -51,6 -53,6
( Nguồn : Tổng cục thống kê )
GVHD: Châu Thị Lệ Duyên 13 SVTH: Nguyễn Thị Vén
Phân tích tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón ở Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2009
3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng và hạn chế nhập khẩu
phân bón ở Việt Nam
3.1 Thuận lợi của việc sử dụng và nhập khẩu phân bón
3.1.1 Chính phủ ban hành chính sách tín dụng mới phát triển nông
nghiệp, nông thôn
Đây là chính sách khuyến khích, hỗ trợ việc cho vay đối với lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn thông qua các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, chính
sách xử lý rủi ro phát sinh trên diện rộng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và
các chính sách cụ thể khác trong từng thời kỳ. Theo như chính sách này, các cá
nhân, hộ sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có thể được xem xét cho vay không
có bảo đảm bằng tài sản tối đa đến 50 triệu đồng. Đồng thời các hộ kinh doanh, sản
xuất ngành nghề hoặc làm dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông thôn được xem xét
cho vay tối đa đến 200 triệu đồng; hợp tác xã, chủ trang trại được xem xét cho vay
tối đa đến 500 triệu đồng. Chính những chính sách này đã tạo điều kiện thuận lợi
cho người nông dân dễ dàng tiếp cận và năng cao khả năng sử dụng phân bón hơn;
các doanh nghiệp sản xuất và nhập khẩu phân bón có cơ hội mở rộng qui mô của
doanh nghiệp, tăng khả năng cung ứng phân bón cho người nông dân. Từ đó làm
tăng sản lượng nông sản phục vụ trong nước và xuất khẩu, góp phần nâng cao tổng
kim ngạch xuất khẩu, thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.
3.1.2 Tiến bộ của khoa học kỹ thuật
Tuy là một nước nông nghiệp lạc hậu, nhưng với làn sóng khoa học kỹ
thuật của thế giới ngày một dâng cao. Việt Nam không thể tránh khỏi việc phải chịu
ảnh hưởng. Chính nhờ vậy mà trình độ khoa học kỹ thuật của Việt Nam ngày một
tiến bộ hơn, ngày càng tiếp cận nhiều hơn với các quy trình sản xuất phân bón mới
từ nước ngoài. Ngoài ra, sự phát triển của khoa học thế giới cũng tạo động lực để
các nhà khoa học Việt Nam tìm tòi và sáng tạo những cái mới trong các lĩnh vực nói

chung và lĩnh vực sản xuất phân bón nói riêng. Từ đây có thể nâng cao sản lượng
phân bón sản xuất trong nước, hạn chế việc nhập khẩu từ nước ngoài, làm giảm kim
ngạch nhập khẩu; ngoài ra, chất lượng phân bón cũng ngày một cao hơn, mặt bằng
GVHD: Châu Thị Lệ Duyên 14 SVTH: Nguyễn Thị Vén
Phân tích tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón ở Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2009
giá phân bón trong nước cũng giảm mạnh sẽ góp phần làm giảm chi phí sản xuất
cho người nông dân, nâng cao hiệu quả sản xuất một cách đáng kể.
3.1.3 Các nhà máy, cơ sở sản xuất phân bón ngày càng nhiều
Với nhiều chính sách hỗ trợ và khuyến khích của Nhà nước mà các nhà
máy, cơ sơ sản xuất phân bón mọc lên ngày càng nhiều, với công suất ngày một
tăng. Chính vì vậy mà tận dụng được các nguồn tài nguyên sẵn có trong nước, giảm
sản lượng phân bón nhập khẩu, nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón, tiết kiệm được
một lượng ngoại tệ đáng kể cho quốc gia.
3.2 Khó khăn của việc sử dụng và nhập khẩu phân bón
3.2.1 Trình độ tiếp thu khoa học kỹ thuật của người nông dân
Ở nước ta hiện nay, tuy khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, người
nông dân ngày càng được tiếp cận với khoa học tiên tiến, tiếp cận với những loại
hình sản xuất đạt hiệu quả cao. Nhưng phần lớn người nông dân lại ít được tiếp xúc
với khoa học kỹ thuật và do trình độ học vấn còn kém nên khả năng tiếp thu còn rất
nhiều hạn chế. Chính lý do này đã gây rất nhiều khó khăn trong việc sử dụng phân
bón; do không phải bao giờ việc sử dụng cũng mang lại hiệu quả cao, mang lại lợi
ích cho người nông dân. Đôi khi sử dụng phân bón quá nhiều sẽ gây ảnh hưởng xấu
đến năng suất và chất lượng cây trồng, thậm chí là đất đai sẽ bị cằn cọi và biến
dạng; tính chất 2 mặt của việc sử dụng phân bón là vậy.
3.2.2 Giá phân bón thế giới không ổn định
Theo như dự báo, Việt Nam khoảng đến năm 2020 mới có thể chấm dứt
việc nhập khẩu phân bón. Công việc nhập khẩu phân bón của các công ty nhập khẩu
trong nước chỉ là để bán lại và thu lợi nhuận, nên việc quyết định giá bán phân bón
trong nước còn phụ thuộc rất nhiều vào giá nhập khẩu – giá phân bón của thế giới,
khi giá phân bón thế giới cao thì giá phân bón trong nước cũng sẽ cao; và ngược lại,

khi giá phân bón thế giới giảm thì giá phân bón trong nước cũng giảm. Bên cạnh đó,
sự lên xuống của giá phân bón thế giới cũng làm cho lượng phân bón nhập vào Việt
Nam không ổn định. Khi giá phân bón thế giới xuống thấp, các công ty nhập khẩu ồ
ạt nhập và dự trữ một khối lượng khổng lồ, chờ đến khi giá tăng để bán. Nhưng
công việc này sẽ làm tổn hao chi phí tồn kho của doanh nghiệp, chưa kể đến việc
GVHD: Châu Thị Lệ Duyên 15 SVTH: Nguyễn Thị Vén
Phân tích tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón ở Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2009
chất lượng phân bón sẽ bị hao hụt theo thời gian nếu giá phân bón không tăng và
doanh nghiệp không bán được hàng. Ngược lại, giá phân bón thế giới đột ngột tăng
lên, người nông dân phải chi một khoản tiền lớn để mua phân bón nhưng lại không
thu lại được từ bất kì khoản nào trong quá trình sản xuất; từ đó họ sẽ cắt giảm lượng
phân bón phải sử dụng, mặc dù năng suất không cao nhưng hiệu quả kinh tế vẫn cao
hơn so với việc sử dụng phân bón giá cao; từ đây, làm cho lượng phân bón nhập
khẩu giảm đáng kể, các công ty nhập khẩu phân bón hoạt động không hết công suất,
gây ra các biểu hiện xấu như giảm giờ làm, sa thải nhân công,…trong công ty, góp
phần làm cho tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Tuy trong thời gian qua, Chính phủ đã có
nhiều chính sách can thiệp nhằm hạn chế sự gia tăng giá bán phân bón trong nước,
nhưng đó chỉ là biện pháp tạm thời, ít có tác dụng lâu dài.
3.2.3 Sự giảm giá của các mặt hàng nông sản và các cây công nghiệp
Sản lượng và năng suất cây trồng có thể nói được quyết định bởi phân
bón, phân bón tạo điều kiện cho cây trồng phát triển và cây trồng biểu hiện chất
lượng phân bón bằng năng suất đạt được. Chính năng suất đạt được là động lực để
người nông dân tiếp tục sản xuất. Nhưng để động lực đó càng mạnh thì sản phẩm
làm ra từ người nông dân phải được tiêu thụ với giá cả hợp lí, và nếu giá càng cao
thì động lực thúc đẩy này càng mạnh hơn, đồng nghĩa với lượng phân bón được tiêu
thụ sẽ nhiều hơn. Ngược lại khi giá nông sản bị sụt giảm sẽ làm cho mức lợi nhuận
bị giảm xuống, tương đương với chi phí mà người nông dân phải chịu cao hơn.
Chính sự chênh lệch giữa chi phí và lợi nhuận ngày một cao do giá nông sản ngày
một giảm nên người nông dân cũng dần hạn chế việc sử dụng phân bón, gây thừa
phân bón ở các doanh nghiệp.

3.2.4 Sự xuất hiện của phân bón giả trên thị trường
Hiện nay, giá phân bón trên thế giới cũng như ở Việt Nam luôn biến động
theo chiều hướng ngày một tăng. Đây là nguyên nhân dẫn đến tình trạng sản xuất,
kinh doanh phân bón giả, phân bón kém chất lượng đang diễn ra ngày một phức tạp
hơn. Phần lớn số phân bón giả, kém chất lượng là NPK, do nhu cầu tiêu thụ lớn, dễ
pha trộn, làm giả và bán với giá rẻ. Sự xuất hiện của phân bón giả gây ảnh hưởng rất
lớn đến tâm lý của người nông dân làm họ sợ phải mua nhầm hàng giả, gây ảnh
GVHD: Châu Thị Lệ Duyên 16 SVTH: Nguyễn Thị Vén
Phân tích tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón ở Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2009
hưởng trực tiếp đến sản lượng phân bón bán ra. Ngoài ra, chính tâm lý lo sợ, không
sử dụng phân bón sẽ rất có hại cho năng suất cây trồng và thổ nhưỡng.
3.2.5 Phân bón nhập lậu ồ ạt tràn vào Việt Nam
Đây là hiện tượng làm cho nhiều nhà sản xuất và nhập khẩu phân bón
phải lo ngại. Khi một lượng lớn phân bón tràn vào Việt Nam bằng con đường nhập
lậu, nhằm trốn thuế nhập khẩu và được bán lại với giá rẻ hơn nhằm thu lại lợi nhuận
cao. Tuy rằng có thể có lợi cho nhà nông nghiệp do mua được giá rẻ, nhưng rất dễ
mua lẫn hàng giả, hàng kém chất lượng, gây tốn kém sức người và sức của. Đáng
nói hơn, nhà sản xuất và nhập khẩu phân bón trong nước phải chịu nhiều thiệt hại
hơn. Họ đã nhập một lượng phân bón có thể nói là đủ theo dự báo nhu cầu của
người nông dân nhưng hiện tại lại phải tồn kho do không bán được hàng, gây ứ
đọng với số lượng tỷ lệ thuận với lượng hàng nhập khẩu, chất lượng phân bón giảm,
tốn nhiều chi phí. Đôi khi nhà sản xuất phải bán với mức giá thấp để hạn chế thiệt
hại. Và dần dần lượng phân bón nhập khẩu chính thức sẽ giảm đi đáng kể. Bên cạnh
đó, Ngân sách Nhà nước sẽ bị thâm hụt do không thu được phần thuế nhập khẩu từ
những nhà buôn lậu, mà đôi khi lại phải hổ trợ vốn cho nhà sản xuất để họ có thể
tiếp tục hoạt động xuất nhập khẩu. Đó là những biểu hiện của một thị trường phân
bón rối loạn, khó kiểm soát, gây ảnh hưởng rất lớn đến ngành nông nghiệp Việt
Nam nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung.
3.3 Giải pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu và sử dụng phân bón
Nguyên tắc chung khi sử dụng phân bón là phải đạt hiệu quả, đồng nghĩa với

việc nhập khẩu phân bón cũng phải đạt hiệu quả không chỉ cho nhà nhập khẩu phân
bón mà cho cả người nông dân. Việc nhập khẩu phân bón cũng phải cân đối lợi ích
của 3 nhà: Nhà nước - nhà doanh nghiệp - nhà nông. Chính vì đều này, dưới đây là
những giải pháp hữu hiệu cần nên thực hiện:
- Vấn đề đặt lên hàng đầu là đẩy mạnh việc áp dụng các thành tựu khoa
học kỹ thuật của Việt Nam cũng như của thế giới đã được phát minh trong thời gian
qua vào công nghệ sản xuất phân bón của Việt Nam. Theo đó, giải pháp phân bón
sinh học, vi sinh học để nâng cao hiệu suất sử dụng phân bón, giảm chi phí sản xuất
cần được áp dụng rộng rãi hơn.
GVHD: Châu Thị Lệ Duyên 17 SVTH: Nguyễn Thị Vén
Phân tích tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón ở Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2009
- Hướng dẫn nông dân sản xuất để đạt hiệu quả sử dụng tốt nhất như: sử
dụng phân bón ngày càng hợp lí, khoa học hơn; luân canh cây trồng đúng hướng; sử
dụng nước tưới hiệu quả;…Chuyển giao các quy trình công nghệ một cách đơn giản,
dễ làm nhất cho người nông dân, giúp người nông dân giảm được chi phí, tăng năng
suất mà vẫn đảm bảo phát triển một cách bền vững.
- Các cơ quan chức năng cần tăng cường kiểm tra, đánh giá chất lượng
các loại phân bón nhập khẩu, đặc biệt là phân urê nhằm đảm bảo lợi ích cho người
nông dân.
- Cần trang bị cho người nông dân những kiến thức khoa học cần thiết về
những tính chất, đặc thù của từng loại phân bón, giúp họ biết được nhu cầu phân
bón của từng loại cây, từng giai đoạn sinh trưởng của cây trên từng loại đất, từng
mùa vụ để từ đó họ có thể tự quản lý đất đai và cây trồng của họ một cách hiệu quả
hơn; không có dư lượng đạm quá mức cho phép, không gây ô nhiễm môi trường,
đảm bảo cuộc sống tốt đẹp cho toàn xã hội.
- Chính phủ cần có những chính sách triệt để hơn chính sách can thiệp về
giá khi giá phân bón tăng quá cao hoặc khi giá giảm quá thấp, nhằm điều tiết thị
trường phân bón ngày càng ổn định hơn. Chẳng hạn như: đặt ra một mức hạn
nghạch cụ thể nào đó nhằm hạn chế nhập khẩu phân bón nhằm ổn định mức giá
phân bón trong nước tránh gây khủng hoảng thừa phân bón.

- Quan trọng hơn, Chính phủ cần đưa ra chiến lược phát triển dài hạn cho
thị trường phân bón Việt Nam, hỗ trợ các nhà sản xuất để giúp giảm giá thành sản
xuất, nâng cao sức cạnh tranh với các loại phân bón nhập khẩu. Bên cạnh đó, Nhà
nước cũng cần phải đưa ra những quy định pháp lí rõ ràng, những hình thức xử phạt
nghiêm ngặt hơn đối với các hành vi gây ảnh hưởng xấu cho ngành sản xuất phân
bón. Cơ quan nhà nước cần phải đứng ra điều tiết thị trường, điều tiết những hoạt
động sản xuất, nhập khẩu và dự trữ phân bón nhằm hạn chế sự thiếu bình ổn trong
thị trường phân bón, ổn định kinh tế nông nghiệp phát triển, tăng tổng thu nhập quốc
dân, góp phần phát triển kinh tế đất nước.
GVHD: Châu Thị Lệ Duyên 18 SVTH: Nguyễn Thị Vén
Phân tích tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón ở Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2009
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua quá trình tìm hiểu về tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón của Việt
Nam từ năm 2007 đến năm 2009, ta thấy được phân bón đã và đang có một vai trò
rất quan trọng trong nền kinh tế của các nước đang phát triển trên thế giới; còn riêng
đối với Việt Nam ta – một đất nước tồn tại và phát triển chủ yếu nhờ vào mặt hàng
nông sản thì phân bón lại càng quan trọng hơn, có vai trò quyết định đến nền kinh tế
của Đất nước. Từ những phân tích trên, nếu chúng ta nhìn tổng thể tình hình nhập
khẩu, sản xuất và sử dụng phân bón ở Việt Nam; chúng ta sẽ thấy tồn tại hai mặt
song song nhau và cho đến nay vẫn chưa chuyển biến hoàn toàn theo một hướng có
lợi. Đó là mặt mạnh và mặt yếu. Có thể tóm tắt ngắn gọn chúng như sau:
 Về mặt mạnh: Cũng như các nước đang phát triển khác trên thế giới,
Việt Nam ngày càng được tiếp cận và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào lĩnh vực sản
xuất phân bón. Kết quả đã làm xuất hiện được các nhà máy, cơ sở sản xuất phân bón
với phân bón được sản xuất ra đạt chất lượng cao, sản lượng ngày một cao hơn so
GVHD: Châu Thị Lệ Duyên 19 SVTH: Nguyễn Thị Vén
Phân tích tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón ở Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2009
với trước đây; đồng thời hạn chế việc nhập khẩu, tiết kiệm được chi phí tồn kho, giải
quyết được một lượng lớn lao động thất nghiệp trong nước. Bên cạnh đó, Chính phủ

ngày càng chú tâm hơn đến tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón nên nhiều
chính sách, nhiều nghị định mới đã được ban hành làm cho thị trường phân bón
ngày một ổn định hơn, phát huy được sức mạnh nông nghiệp của đất nước, thúc đẩy
nền kinh tế phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện
đại hóa Đất nước.
 Về mặt yếu: Bên cạnh những mặt mạnh, thị trường phân bón Việt Nam
còn gặp phải nhiều vướng mắc mà hiện nay vẫn chưa khắc phục được. Cụ thể là:
• Tình hình nhập lậu phân bón ngày một tăng, đặc biệt khi giá phân bón
trong nước có dấu hiệu tăng lên.
• Trình độ tiếp thu khoa học kỹ thuật còn chậm làm hạn chế tốc độ phát
triển sản xuất và hạn chế hiệu quả sử dụng phân bón.
• Giá nhập khẩu phân bón cũng như giá phân bón thế giới không ổn định
làm sản lượng phân bón nhập khẩu thay đổi theo, giá nhập khẩu càng cao thì sản
lượng phân bón nhập khẩu càng thấp và ngược lại giá nhập khẩu phân bón càng thấp
thì sản lượng nhập khẩu càng cao gây mất ổn định thị trường phân bón trong nước.
• Giá của mặt hàng nông sản và các cây công nghiệp giảm sẽ làm giảm
lượng phân bón được sử dụng. Mặc dù có thể hạn chế lượng nhập khẩu nhưng năng
suất cây trồng sẽ giảm, kéo theo là tổng thu nhập quốc dân giảm.
• Phân bón giả hiện vẫn còn đang xuất hiện làm rối loạn thị trường phân
bón Việt Nam, gây tâm lý lo lắng cho người nông dân khi sử dụng phân bón. Từ
đây, chúng ta có thể thấy lượng phân bón được sử dụng giảm xuống một cách đáng
kể, lại gây tâm lý hoang man cho nhà nhập khẩu, mối lo ngại cho Nhà nước.
Từ những phân tích trên, ta thấy việc khắc phục những mặt yếu và phát huy
những mặt mạnh là một công việc cần thiết và cấp bách. Tuy nhiên công việc nầy
không phải là đơn giản. Nó cần phải có sự đoàn kết và cố gắng nhiều hơn từ phía
Nhà Nước, nhà sản xuất và nhập khẩu phân bón, cũng như người nông dân không
những trong khâu nhập khẩu, sản xuất mà còn cả trong khâu sử dụng. Điều cần làm
là Việt Nam chúng ta phải ngày càng tiếp cận với khoa học kỹ thuật, gia tăng các
GVHD: Châu Thị Lệ Duyên 20 SVTH: Nguyễn Thị Vén
Phân tích tình hình nhập khẩu và sử dụng phân bón ở Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2009

nhà máy và cơ sở sản xuất phân bón; cố gắng tạo được thương hiệu chất lượng, lấy
được lòng tin của khách hàng trong nước, tạo cơ hội để có thể xuất khẩu phân bón
sang các nước đang phát triển khác trong thời gian tới với chất lượng ngang bằng
với các nước tiên tiến có trình độ khoa học kỹ thuật cao.
2. Kiến nghị
Để nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón cũng như hạn chế việc nhập khẩu phân
bón, một số kến nghị được đặt ra:
 Đối với người nông dân:
Không ngừng học hỏi, trang bị kiến thức cần thiết cho bản thân về việc sử
dụng phân bón cũng như những hiểu biết cần thiết về tính chất hai mặt (lợi và hại)
của phân bón để việc sử dụng đạt hiệu quả cao hơn.
 Đối với doanh nghiệp:
- Các doanh nghiệp sản xuất và nhập khẩu phân bón phải chú trọng đầu tư
vào sản xuất, năng cao chất lượng phân bón. Nâng cao sự hiểu biết về khoa học kỹ
thuật của các nước tiên tiến trên tế giới thông qua báo đài, tạp chí, tham quan thực
tế, hợp tác sản xuất với các doanh nghiệp trong nước cũng như các doanh nghiệp
nước ngoài,…
- Cần có những buổi giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm, hướng dẫn cách sử
dụng phân bón để đạt hiệu quả một cách tốt nhất.
- Các doanh nghiệp tư nhân cần có mối liên kết chặt chẽ với Nhà nước
nhằm định hướng, xác định được lượng phân bón sản xuất trong năm.
 Đối với Nhà nước:
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà sản xuất tiếp cận với khoa học kỹ
thuật tiên tiến trên thế giới.
- Cần đặt ra một mức hạn nghạch phù hợp với tình hình sản xuất và sử
dụng phân bón trong nước theo nhu cầu dự báo.
- Nghiêm khắc, triệt để xử lí các trường hợp vi phạm trong lĩnh vực mua
bán, sản xuất phân bón theo quy định của luật pháp.
GVHD: Châu Thị Lệ Duyên 21 SVTH: Nguyễn Thị Vén

×