Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

QUẢN lý THANH KHOẢN TRONG các NGÂN HÀNG THƯƠNG mại - NEU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.8 KB, 33 trang )

QUẢN LÝ THANH KHOẢN TRONG CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
Mc lc
A. CÁC VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ THANH KHOẢN
I. NHNG KHI NIM CƠ BN
1. CC KHI NIM CƠ BN VỀ THANH KHON
1.1Tính thanh khoản của tài sản – nguồn vốn – ngân hàng
1.1.1 Tính thanh khoản của tài sản: là khả năng chuyển tài sản thành tiền, được đo
bằng thời gian và chi phí.
- Tính thanh khoản của một tài sản phụ thuộc vào nhiều nhân tố, và có thể thay đổi
theo thời gian giữa các vùng, các nước.
- Ngân hàng nắm giữ danh mục tài sản với tính thanh khoản khác nhau. Kết cấu tài sản
với tính chất thanh khoản khác nhau tạo nên tính thanh khoản của nhóm tài sản hoặc
tổng tài sản. Tính thanh khoản của danh mục tài sản được đo bằng tỷ lệ của các tài sản
có tính thanh khoản cao trên tổng tài sản (hoặc trên tiền gửi của khách hàng tại ngân
hàng). Tỷ lệ này càng cao, tính thanh khoản của tổng tài sản càng lớn.
1.1.2 Tính thanh khoản của nguồn vốn:
- Ngân hàng huy động vốn để tạo lập nên các tài sản, trong đó có các tài sản có tính
thanh khoản cao. Như vậy, khả năng huy động tạo khả năng thanh toán của ngân
hàng, phản ánh tính thanh khoản của nguồn vốn.Tính thanh khoản của nguồn vốn
được đo bằng thời gian và chi phí để mở rộng nguồn khi cần thiết. Thời gian và chi
phí càng thấp, tính thanh khoản của nguồn càng cao.
- Tính thanh khoản của nguồn phụ thuộc vào nhiều nhân tố như sự phát triển của thị
trường tài chính, sự gia tăng thu nhập của dân cư và tính nhạy cảm của thu nhập đối
với lãi suất, vị trí và mạng lưới ngân hàng
1.1.3 Tính thanh khoản của ngân hàng :
- Tính thanh khoản của ngân hàng là khả năng của ngân hàng trong việc đáp ứng nhu
cầu thanh toán của khách hàng, được tạo lập bởi tính thanh khoản của tài sản và tính
thanh khoản của nguồn.
- Một ngân hàng có tính thanh khoản cao khi có nhiều tài sản thanh khoản hoặc có khả
năng mở rộng nguồn nhanh với chi phí thấp, hoặc cả hai, phù hợp với nhu cầu thanh


khoản.
1
1.2 Cung – cầu thanh khoản
1.2.1 Cung thanh khoản: chính là khả năng cung ứng tiền của một ngân hàng thương mại
nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hànơg, bao gồm việc giữ tài sản thanh khoản và
khả năng huy động mới.
Các nguồn cung thanh khoản:
- Tiền mặt và tiền gửi của ngân hàng.
-Thu từ việc chuyển đổi các tài sản phi tiền gửi thanh khoản thành tiền.
- Thu nợ đến hạn của khách hàng.
- Thu nhập từ các hoạt động khác.
-Thu lãi từ tiền gửi và tiền vay.
- Tiền gửi mới của khách hàng.
1.2.1 Cầu thanh khoản: là nhu cầu thanh toán của khách hàng của ngân hàng mà ngân hàng
có nghĩa vụ đáp ứng.
Các nguồn cầu thanh khoản:
- Khách hàng rút tiền từ tài khoản.
- Nhu cầu tín dụng của khách hàng tiềm năng.
- Tiền vay đến hạn trả.
- Chi phí bằng tiền và thuế xuất hiện trong quá trình sản xuất và cung cấp dịch
vụ.
- Thanh toán cổ tức bằng tiền mặt.
1.3Mua – bán thanh khoản :
- Việc ngân hàng bán các tài sản để đáp ứng nhu cầu thanh khoản gọi là bán
thanh khoản; việc mở rộng nguồn để đáp ứng nhu cầu thanh khoản gọi là mua
thanh khoản trên thị trường.
- Cả bán và mua thanh khoản đều gắn liền với chi phí: đó là tổn thất mà ngân
hàng phải chấp nhận khi bán tài sản với giá thấp hơn dự tính, và lãi suất cao
hơn mà ngân hàng phải trả để có nguồn mới. Chi phí này là cái giá mà ngân
hàng phải trả để có được thanh khoản.

1.4 Trạng thái thanh khoản ròng (Net liquidity position – NPL)
NPL = Cung thanh khoản – cầu thanh khoản.
Có ba khả năng có thể xảy ra sau đây:
2
- Thặng dư thanh khoản: Khi cung thanh khoản vượt quá cầu thanh khoản (NPL>0), ngân
hàng đang ở trạng thái thặng dư thanh khoản. Nhà quản trị ngân hàng phải cân nhắc đầu tư số
vốn thặng dư này vào đâu để mang lại hiệu quả cho tới khi chúng cần được sử dụng đáp ứng
nhu cầu thanh khoản trong tương lai.
- Thâm hụt thanh khoản: Khi cầu thanh khoản lớn hơn cung thanh khoản (NPL<0), ngân
hàng phải đối mặt với tình trạng thâm hụt thanh khoản. Nhà quản trị phải xem xét, quyết định
nguồn tài trợ thanh khoản lấy từ đâu, bao giờ thì có và chi phí bao nhiêu.
- Cân bằng thanh khoản: Khi cung thanh khoản cân bằng với cầu thanh khoản (NPL=0),
tình trạng này được gọi là cân bằng thanh khoản. Tuy nhiên, đây là tình trạng rất khó xảy ra trên
thực tế.
2. CC KHI NIM MỞ RỘNG VỀ THỊ TRƯỜNG
2.1Thị trường tiền tệ liên ngân hàng
2.1.1 Tại sao cần biết về thị trường tiền tệ liên ngân hàng:
Thị trường tiền tệ (TTTT) liên ngân hàng đóng một vai trò quan trọng đối với các ngân
hàng thương mại. Các ngân hàng vay vốn trên thị trường này nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu
thanh khoản tức thời của mình. Những biển đổi nhỏ nhặt nhất của lãi suất trên thị trường liên
ngân hàng (như lãi suất qua đêm …) biểu thị những vấn đề đáng quan tâm đến thanh khoản của
toàn hệ thống ngân hàng thương mại.
2.1.2 Các vấn đề cơ bản cần quan tâm:
TTTT liên ngân hàng hình thành trên cơ sở các ngân hàng có sự mất cân đối về kỳ hạn
trong hoạt động kinh doanh, nghĩa là các ngân hàng cùng nhau tạo lập nên một thị trường mà
qua đó có thể cho nhau vay vốn nhằm giải quyết vấn đề mất cân đối kỳ hạn của từng ngân hàng.
TTTT liên ngân hàng là một phần của thị trường tiền tệ trong thị trường tài chính. Được
hình thành qua quan hệ cung - cầu của các ngân hàng. Lãi suất cho vay trên thị trường tiền tệ
liên ngân hàng cũng được quyết định bởi quan hệ cung - cầu.
Đây là thị trường vốn ngắn hạn giữa các ngân hàng với nhau do ngân hàng trung ương tổ

chức để giải quyết nhu cầu vốn giữa các ngân hàng thương mại để bù đắp thiếu hụt trong thanh
toán bù trừ đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng.
* * *
Ngày 7/10/1992, thị trường liên ngân hàng ở Việt Nam đã ra đời theo chỉ thị số 07/CT-NH1
của Thống Đốc NHNN, cho phép các tổ chức tín dụng được thực hiện việc cho vay và đi vay
lẫn nhau.
Thành viên tham gia thị trường liên ngân hàng:
 Các ngân hàng thương mại.
 Các ngân hàng thương mại cổ phần.
3
 Tổ chức tín dụng khác.
 Ngân hàng nhà nước.
Môi trường pháp lý cho hoạt động của thị trường liên ngân hàng ngày càng được hoàn thiện.
* Chỉ thị số 07/CT-NH1 của Thống Đốc NHNN cho phép các tổ chức tín dụng được thực
hiện cho vay và đi vay lẫn nhau.
* Quyết định số 114/QD-MD14 ngày 21/6/1993 ban hành quy chế tổ chức và hoạt động
của thị trường liên ngân hàng.
* Quyết định số 190/ QĐ- NH14 ngày 6/10/1993 bổ sung sửa quy chế và hoạt động về
thị trường liên Ngân hàng.
* Quyết định số 189/QD-NH14 ngày 6/10/1993 ban hành bảo lãnh vay vốn trên thị
trường liên ngân hàng.
* Quyết định số 1310/2001/QD-NHNN ban hành vay vốn của các tổ chức tín dụng.
* * *
a. Phân loại thị trường tiền tệ liên Ngân hàng.
a.1 Thị trường nội tệ liên ngân hàng.
Thành lập và đi vào hoạt động từ năm 1993 dưới hình thức thị trường tập trung.
Thành viên: các tổ chức tín dụng giao dịch vốn và vay mượn lẫn nhau thông qua NHNN.
NHNN vừa là người tổ chức, giám sát và thành viên tham gia thị trường với vai trò
người cho vay cuối cùng trên thị trường liên ngân hàng dưới các hình thức:
+ cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán.

+ cho vay bổ sung vốn ngắn hạn.
+ bảo lãnh cho tổ chức tín dụng thành viên vay vốn của thành viên khác trên
thị trường.
Từ 2001 đến nay, thị trường nội tệ liên ngân hàng được chính thức tự do, toàn bộ các
giao dịch trên thị trường được thực hiện trực tiếp giữa các thành viên, NHNN chỉ thực hiện can
thiệp vào cung - cầu vốn và nhu cầu thanh khoản thông qua thị trường mở.
a.2 Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Thành lập và đi vào hoạt động từ năm 1994
Thành viên: các tổ chức được phép kinh doanh ngoại hối.
NHNN vừa là người điều hành thị trường vừa là người mua bán cuối cùng với khối
lượng lớn các loại ngoại tệ để can thiệp vào thị trường khi cần thiết.
4
Việc công bố tỷ giá chính thức dựa trên tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên
ngân hàng. Lãi suất ngoại tệ và lãi suất nội tệ được gắn kết với nhau thông qua nghiệp vụ
SWAP ngoại tệ làm cho việc kiểm soát điều hành lãi suất và tỷ giá được đặt trong mối quan hệ
chặt chẽ hơn, có cơ sở khoa học hơn, góp phần làm cho tỷ giá phản ánh chính xác hơn giá trị
thực của đồng Việt Nam.
b. Hoạt động của thị trường liên ngân hàng trong thời gian qua.
b.1 Doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng.
Từ năm 2002 đến nay doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng tăng khoảng
20%/năm đã phản ánh được phần nào vai trò của thị trường liên ngân hàng với tư cách là
“kênh” dẫn vốn quan trọng của tổ chức tín dụng:
+Tăng hiệu quả sử dụng vốn của tổ chức tín dụng.
+ Đảm bảo an toàn hoạt động kinh doanh toàn hệ thống.
b.2 Hình thức giao dịch trên thị trường liên ngân hàng.
Giữa các tổ chức tín dụng có 2 hình thức giao dịch:
+ Mở khoản tiền gửi lẫn nhau và giao dịch qua điện thoại, fax, mạng vi tính… về
điều khoản của món vay và thực hiện chuyển tiền.
+ Hoạt động mua bán lẫn nhau tại trung tâm thanh toán bù trừ của NHNN.
Giữa các tổ chức tín dụng, NHNN và tổ chức tín dụng khác thực hiện mua bán vốn

cũng dựa trên 2 hình thức:
+ Cho vay (tái cấp vốn).
+ Cho vay theo bộ hồ sơ khách hàng.
VD: Ở ngân hàng VIB bank đã cung cấp các hình thức giao dịch trên thị trường tiền tệ
liên ngân hàng các hình thức sau:
- Giao dịch mua bán ngoại tệ giao ngay.
- Giao dịch mua bán kỳ hạn.
- Giao dịch kết hợp giữa mua bán ngoại tệ và tiền gửi.
- Giao dịch trên thị trường tiền tệ.
- Các giao dịch khác theo yêu cầu của khách hàng.
Nhìn chung hình thức giao dịch trên thị trường liên ngân hàng khá nghèo nàn về mặt công
cụ và thời hạn.
b.3 Lãi suất liên ngân hàng trong thời gian qua.
Từ ngày 16/5/2008 áp dụng cơ chế lãi suất theo lãi suất cơ bản của NHNN.
5
* Năm 2008:
Mức cao nhất trong năm 2007 là 17%.
17/2 mức lãi suất này là 25%
19/2 mức lãi suất này đã lên đến mức không tưởng do:
+Nguồn cho vay bị hạn chế.
+ Xảy ra tình trạng đầu cơ tích trữ trong giá vàng.
+Ngân hàng ồ ạt công bố tăng lãi suất huy động bằng VND.
+ Nhu cầu tiền đồng của các ngân hàng là vô cùng lớn do ngân hàng cần tiền để
đảm bảo tính thanh khoản, để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ tài chính với nhà nước (17/3 phải
mua 20300 tỷ tín phiếu bắt buộc).
Ngày 16/9/2008 có quyết định: “ Các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi
suất huy động vốn và lãi suất cho vay) bằng VND đối với khách hàng không vượt quá 150% lãi
suất cơ bản do NHNN công bố”.
Bước sang năm 2009, do thực hiện gói kích cầu của Chính phủ: cho các doanh nghiệp
vay với mức lãi suất ưu đãi là 4%/năm nên lãi suất trên thị trường liên ngân hàng có xu hướng

giảm mạnh. Tuy nhiên, thời kì này không kéo dài được lâu do tính thanh khoản của các ngân
hàng thương mại còn kém. Chính vì thế cuối năm 2009 và đầu năm 2010 đã manh nha 1 cuộc
chạy đua lãi suất.
* Năm 2010:
- Đầu năm, lãi suất kỳ hạn qua đêm dao động từ 6,76%/năm đến 7,59%/năm, bình quân ở
mức 7,24%/năm, tăng 0,29%/năm; lãi suất bình quân các kỳ hạn từ 3 tháng và 6 tháng vẫn là
các kỳ hạn có mức bình quân cao nhất, lần lượt là 11,76%/năm và 11,83%/năm. Lãi suất các kỳ
hạn còn lại dao động từ 8,40%/năm đến 11,27%/năm (ngoại trừ lãi suất không kỳ hạn).
- Tuy nhiên, đến gần cuối năm 2010 thì lãi suất lại tăng khá nhanh khi mà các ngân hàng
có xu hướng chạy đua lãi suất. Đến ngày 8/12, lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên
ngân hàng bằng VND kỳ này tăng ở tất cả các kỳ hạn. Trong đó, tăng mạnh nhất là lãi suất giao
dịch bình quân qua đêm và 1 tuần với các mức tăng lần lượt là 2,39% và 1,19%. Các kỳ hạn
còn lại có các mức tăng từ 0,06% đến 0,79%. Lãi suất bình quân qua đêm ở mức 11,33%/năm,
tăng 2,39% so với kỳ trước. Lãi suất các kỳ hạn còn lại đều dao động quanh mức 13% và
13,5%. Lãi suất bình quân cao nhất trong tuần là kỳ hạn 3 tháng.
- Một điều tất yếu là sự can thiệp của NHNN và cuộc chạy đua lãi suất này. Ngày
14/12/2010, Ngày 14/12, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành văn bản số
9779/NHNN-CSTT yêu cầu các tổ chức tín dụng: ấn định lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt
Nam (lãi suất tiền gửi, lãi suất giấy tờ có giá ) của các tổ chức (trừ tổ chức tín dụng) và cá
nhân, bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức không vượt quá 14%/năm.
* Năm 2011:
6
- Bước vào những tháng đầu năm 2011, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng có xu
hướng giảm nhẹ, tuy nhiên tất cả các kì hạn lãi suất đều trên mức 13%/năm.
Cụ thể: Ngày 8/2, lãi suất qua đêm ở mức 13,19%/năm, giảm nhẹ so với ngày 29/1
(13,50%/năm). Các kỳ hạn giảm là lãi suất kì hạn 1 tuần, 2 tuần, 3 tháng lần lượt ở mức từ
13,50 %/năm xuống 13,42%/năm, từ 13,48%/năm xuống 13,18%/năm, từ 13,50%/năm xuống
13,33%/năm. Các kỳ hạn lãi suất 6 tháng, 12 tháng đều giữ nguyên ở mức 13,50%/năm. Riêng
kỳ hạn 1 tháng có sự gia tăng đáng kể từ mức 12,88%/năm lên 13,38%/năm.
- Thực trạng cần chú ý:

Thị trường tiền tệ liên ngân hàng được tổ chức nhằm nhu cầu chủ yếu đáp ứng nhu cầu
thanh khoản của ngân hàng. Thực tế hiện nay, tình trạng các tổ chức tín dụng (chủ yếu là các
ngân hàng nhỏ) vay vốn từ thị trường và sử dụng vào các mục đích (dùng để đầu tư, cho vay…)
đã gây ra những hậu quả xấu. Các khoản đầu tư, cho vay có chất lượng không cao dẫn đến khả
năng thu hồi thấp, thêm nữa khi nhu cầu thanh khoản thực xuất hiện, các ngân hàng này không
có khả năng đáp ứng được. NHTW đang thực hiện cuộc thanh tra những ngân hàng thuộc diện
nghi ngờ và có biện pháp xử lí nghiêm ngặt.
2.2 Thị trường của tài sản thanh khoản
Tại sao thị trường cho tài sản thanh khoản lại xuất hiện? Tạo lập một thị trường hiệu
quả cho tài sản thanh khoản sẽ thu hút được các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế tham gia,
tăng cường lượng cung - cầu. Tại một thời điểm bất kì sẽ luôn tồn tại nhu cầu mua (hoặc bán)
tài sản thanh khoản đó, ngân hàng có thể bán hoặc mua tài sản thanh khoản trong khi giảm thiểu
tối đa độ trễ và nguy cơ bị ép giá.
2.2.1 Đặc điểm của thị trường của tài sản thanh khoản:
- Đây là thị trường sẵn sàng để các tài sản thanh khoản có thể chuyển thành tiền mặt một
cách nhanh chóng.
- Giá của các tài sản phải ổn định, dù tài sản lớn như thế nào hay cần được bán nhanh ra
sao, thị trường vẫn đủ sâu để chấp nhận với mức giá thay đổi không đáng kể.
- Thị trường phải có khả năng đảo chiều để cho người bán tài sản có thể mua lại với mức
tổn thất không đáng kể.
Tài sản thanh khoản cũng được xác định dựa trên 3 đặc điểm trên. Những tài sản có tính
thanh khoản cao nhất của ngân hàng bao gồm: Tín phiếu kho bạc (trái phiếu chính phủ ngắn
hạn), tiền gửi tại ngân hàng trung ương ngân hàng khác, thương phiếu được chấp nhận thanh
toán (có thể tái chiết khấu với chi phí thấp)….
2.2.2 Giới thiệu một thị trường của tài sản thanh khoản:
- Một thị trường tài sản thanh khoản điển hình ứng với các loại giấy tờ có giá do NHNN
phát hành là Thị trường mở (Open Market Operation), viết tắt là OMO.
7
- Các thành viên tham gia thị trường mở tại Việt Nam bao gồm NHNN và các tổ chức tín
dụng có đủ điều kiện theo quy định của NHNN: (có tài khoản tiền gửi tại NHNN, có đủ phương

tiện cần thiết để tham gia OMO, và có đăng ký tham gia OMO).
- Thị trường mở là nơi NHNN và các đối tác của NHNN được chủ động tham gia mua bán
giấy tờ có giá (GTCG) với NHNN và lãi suất thực sự là mang tính thị trường. Thông qua thị
trường mở, các ngân hàng có thể sử dụng các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để đầu tư vào các
GTCG để thu được lợi tức và đáp ứng nhu cầu dự trữ thứ cấp. Khi cần thiết, các ngân hàng có
thể bán lại các GTCG này trên thị trường mở để giải quyết khó khăn về nguồn vốn. Các thành
viên tham gia thị trường mở thường là các đối tác có độ tin cậy cao, nên việc mua bán GTCG
trên thị trường mở có độ an toàn rất cao.
II. RỦI RO THANH KHOẢN.
1. RỦI RO THANH KHON LÀ GÌ?
Rủi ro thanh khoản là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản thực
tế vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến.
2. NGUYÊN NHÂN CỦA RỦI RO THANH KHON.
a. Nguyên nhân từ bên ngoài:
Đây là nhóm nguyên nhân khách quan đến từ thị trường không thể tránh khỏi: do khủng
hoảng nền kinh tế, khủng hoảng khu vực tài chính, các tin đồn thất thiệt
b. Nhóm nguyên nhân xuất phát từ phía các tổ chức tín dng:
Không dự tính trước nhu cầu tài trợ khoản cho vay, không đáp ứng nhu cầu rút tiền
ngay, thiếu đa dạng hóa các loại hình tài trợ, các loại tiền, mất cân đối về thời gian đáo hạn, rủi
ro thanh khoản cục bộ trong từng loại tiền tệ, giảm sút uy tín đối với công chúng… và còn rất
nhiều các nguyên nhân khác.
3. DIỄN BIẾN CỦA RỦI RO THANH KHON:
Ngân quỹ của ngân hàng suy giảm liên tục trong nhiều tháng do ngân hàng bị hạn chế trong
huy động, hoặc do ngân hàng có các tài sản chất lượng kém, không có khả năng thu hồi để hoàn
trả.
Dòng tiền lớn rút đột ngột do yếu tố mất ổn định vĩ mô, do thông tin bất lợi cho ngân hàng.
Khủng hoảng và hoảng loạn ngân hàng luôn dựa vào khủng hoảng tài chính. Phần lớn khủng
hoảng là do chu kỳ kinh tế: khi chu kỳ kinh tế đang đi lên, nhiều doanh nghiệp mở rộng vay,
khi chu kỳ kinh tế đi xuống, giá cả giảm, lợi nhuận giảm, các doanh nghiệp khó khăn trong việc
trả nợ ngân hàng, rủi ro tín dụng xảy ra. Các tổn thất này làm giảm thu nhập ròng của ngân

hàng, và nếu tổn thất với quy mô lớn, sẽ trực tiếp làm giảm vốn của ngân hàng. Khi mà các
khoản cho vay xấu được tích lũy lại, người gửi tiền trở nên dễ hoảng sợ, rút tiền hàng loạt, làm
cho ngân hàng mất khả năng chi trả, phải đóng cửa.
Có thể có ngân hàng kinh doanh chưa bị thua lỗ, song do tính lan truyền tâm lý giữa những
người gửi tiền mà tiền gửi cũng có thể bị rút rất lớn. Các ngân hàng nhỏ, khả năng dự trữ thấp
8
thường là đối tượng đầu tiên bị tàn phá bởi cơn hoảng loạn. Nếu khả năng cứu vãn của Ngân
hàng Trung ương thấp, tính trạng hoảng loạng có thể lan rộng trong toàn hệ thống, dẫn đến
khủng hoảng thanh khoản.
Ngân hàng từ giảm khả năng chi trả, đến mất khả năng chi trả trong ngắn hạn. Để thoát khỏi
sụp đổ, ngân hàng phải huy động hoặc vay mượn các nguồn tiền mới với chi phí đắt đỏ, hoặc
bán các tài sản hiện có với giá thấp (chịu thua lỗ). Mức nhẹ của rủi ro thanh khoản (không gắn
với khủng hoảng thanh khoản) là khả năng xảy ra tổn thất, làm giảm thu nhập của ngân hàng.
Cao hơn ngân hàng có thể bị phá sản.
4. NHNG VỤ RỦI RO THANH KHON NỔI TIẾNG.
a. TRÊN THẾ GIỚI:
i. Ngân hàng Barings Anh quốc:
Barings là ngân hàng đầu tư lâu đời nhất, danh tiếng và rất có uy tín tại Anh, được thành lập
năm 1762. Barings có uy tín tới nỗi Nữ hoàng Anh Elizabeth cũng là một trong những khách
hàng truyền thống của ngân hàng này.
Tuy nhiên, một biến cố lớn đã xảy ra với Barings khi Nick Lesson, Giám đốc chi nhánh
Barings tại Singapore bỏ trốn vào năm 1995. Lesson đã dùng 1.4 tỉ USD vốn của ngân hàng
đáng nhẽ được sử dụng cho các dự án trong tương lai vào đầu cơ mua cổ phiếu bất động sản tại
Thị trường chứng khoán Tokyo.
Có ai ngờ, trận động đất kinh hoàng tại thành phố Kobe, Nhật Bản cùng năm đó đã khiến
Lesson thua hết số tiền 1.4 tỉ USD chơi chứng khoán - tương đương với khoản lợi nhuận
Barings tích luỹ hàng năm. Khi Lesson bỏ trốn và sự việc bị tiết lộ, toàn bộ khách hàng của
Barings đã đổ xô tới rút tiền, dẫn tới việc ngân hàng phải tuyên bố phá sản vào ngày 26/2/1995.
Đây được coi là sự kiện không chỉ chấn động hệ thống ngân hàng Anh mà còn được nhiều ngân
hàng lớn trên thế giới lấy đó làm bài học kinh nghiệm.

ii. Rủi ro thanh khoản ở các NHTM Argentina năm 2001.
Argentina là nền kinh tế lớn thứ ba của khu vực Mỹ La tinh.
Điều gì đã xảy ra:
- Năm 2000: Argentina thông báo kế hoạch thắt lưng buộc bụng, cắt giảm chi tiêu và tìm
kiếm sự giúp đỡ từ phía IMF.
- Tháng 11 năm 2001: Những người Argentina hồ nghi đã rút khoảng 1,2 tỷ USD từ các
tài khoản ngân hàng của họ.
- Tháng 12 năm 2001: chính phủ can thiệp để ngăn cản các dòng tiền chảy khỏi ngân
hàng: ra hạn mức rút tiền là 1000 USD/tháng. Thay các khoản tiền gửi bằng trái phiếu 10
năm của chính phủ.
- Tháng 1 năm 2002: thả nổi tiền, Peso bị mất giá 29%; USD/peso = 1,4
9
- Tháng 12 năm 2002: USD/peso=2,6. Những người Argentina đã rút trên 100 triệu USD
khỏi ngân hàng mỗi ngày. Chính phủ đã ra hạn mức rút tiền mới là 500 USD/tháng.
- Tháng 3 năm 2002: Tài sản của ngân hàng được chuyển đổi sang tiền Peso trong khi các
khoản tiền gửi bằng USD. Các ngân hàng dự tính sẽ lỗ khoảng từ 10-20 tỷ USD do việc
chuyển đổi này. USD/peso = 3,75, các ngân hàng bắt đầu thiếu tiền mặt.
- Tháng 4 năm 2002: Argentina yêu cầu các ngân hàng đóng cửa vô thời hạn.
Các ngân hàng chịu tổn thất:
- HSBC tiết lộ rằng cuộc khủng hoảng ở Argentina đã làm mất 1850 triệu USD trong năm
tài chính 2001. Michael Smith, tổng giám đốc HSBC ở Argentina nói: “Điều này giống
như chết đi sống lại cả ngàn lần”.
- Scotia Bank dự định sẽ rút chi nhánh của mình khỏi Argentina vì không chịu nổi rủi ro.
iii. Rủi ro thanh khoản của các ngân hàng Nga năm 2004
Vào tháng 7 năm 2004, các ngân hàng của Nga đứng trước nguy cơ rủi ro thanh khoản rất
lớn.
- 9/7/2004: Một đại gia trong ngành Ngân hàng Nga - Guta Bank - thông báo tạm
khoá các tài khoản tiền gửi trên toàn quốc do chi trả trong tháng 6 vượt 10 tỷ rúp
(tương đương 345 triệu USD). Ngân hàng đã đóng cửa 76 chi nhánh và ngừng
hoạt động hơn 400 máy ATM

- 10/7/2001: Ngay sau khi Guta khoá các tài khoản tiền gửi, người dân đổ xô đi rút
tiền ở ngân hàng khác để đề phòng rơi vào hoàn cảnh tương tự
- 16/7/04: Các NH Nga đã từ chối cung cấp tín dụng cho nhau, lãi suất tiền gửi tăng
song khách hàng vẫn ồ ạt xếp hàng rồng rắn bên ngoài các toà nhà NH để chờ đến
lượt rút tiền.
- 17/7/04: Ngân hàng Alfa, đại gia thứ 4 trong ngành tài chính Quyết định áp dụng
biện pháp cấp bách là phạt 10% số tiền nếu khách hàng rút trước thời hạn. Cùng
lúc, báo chí trích lời một cơ quan quản lý tài chính Nga tuyên bố 10 ngân hàng
nữa có thể sẽ bị đóng cửa trong nay mai. Tuy nhiên, một số phương tiện thông tin
đại chúng lại tiết lộ họ có trong tay danh sách đen với 27 ngân hàng đang bên bờ
vực phá sản.
- 18/7/04: Thống đốc NHTW Sergei Ignatiev và tổng thống Putin tuyên bố không
hề có danh sách đen và khủng hoảng như vậy nhất thời là do tâm lý. Ông Sergei
Ignatiev Quyết định giảm các tỷ lệ dự trữ tiền mặt của các ngân hàng 7% từ
xuống 3,5% nhằm tăng khả năng thanh khoản, đồng thời áp dụng hàng loạt biện
pháp cứu Guta.
- 20/7/2004: Nhiều ngân hàng đã sụp đổ. Những người gửi tiền tràn đến các nhà
băng để rút tiền vì lo ngại cuộc khủng hoảng tài chính năm 1998 tái diễn và họ sẽ
10
mất những khoản tiền tiết kiệm dành dụm cả đời. Phản ứng của chính phủ bao
gồm kế hoạch để Vneshtorgbank của nhà nước mua lại Ngân hàng Guta.
- 27/7/2004: Phó chủ tịch Uỷ ban Tài chính Duma Nga Pavel Medvedev tuyên bố
trong tuần, các ngân hàng sẽ thoát khỏi tình trạng tồi tệ như hiện nay.
- 8/2004: Chính phủ đã mua lại các ngân hàng lớn với giá rẻ bất ngờ. Putin đã
thành công trong việc tăng cường vai trò và sở hữu của nhà nước đối với ngành
ngân hàng – vốn đã bị tư nhân hóa ồ ạt sau khi Liên Xô cũ sụp đổ.
b. TẠI VIT NAM:
i. Trường hợp của Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu năm 2003
- Được thành lập năm 1993, và được đánh giá là một trong những ngân hàng thương mại
cổ phần có uy tín cao, hoạt động lành mạnh (theo Thống đốc Lê Đức Thuý). Vào

4/10/2003, Tổ chức Chất lượng châu á Thái Bình Dương (APQO) đã tiến hành trao giải
thưởng chất lượng Châu  Thái Bình Dương hạng xuất sắc cho ngân hàng này.
- Từ đầu tháng 10/2003, một số kẻ xấu tung tin ông Phạm Văn Thiệt, tổng giám đốc ACB
tham lạm công quỹ bỏ trốn và bị bắt. Thậm chí, có kẻ còn gọi điện trực tiếp đến nhiều
khách hàng của ACB nói rằng ngân hàng này sắp phá sản.
- Từ 12/10 đến 14/10, lượng người kéo đến rút tiền tại ACB tăng vọt. Trong ngày 14 và
15/10, cán bộ ngân hàng ACB phải làm việc cả ngày đến tận 20h30. Tổng số tiền chi trả
trong hai ngày vượt con số 2000 tỷ VND.
- Ngày 14/10, ông Trần Ngọc Minh, giám đốc NHNN Thành phố HCM đã chủ trì cuộc
họp báo công bố chính thức bác bỏ tin đồn thất thiệt liên quan đến ACB.
- 17h30 ngày 14/10, thống đốc Lê Đức Thuý có mặt tại trụ sở ACB, thông báo về tin đồn
thất thiệt gây hậu quả nghiêm trọng và đảm bảo sự an toàn cho người gửi tiền.
- 14/10, NHNN đã điều về ACB 500 tỷ VNĐ và 5,6 triệu USD. Ngày 15/10, NHNN tiếp
tục điều thêm 450 tỷ VND, Vietcombank điều thêm 3,5 triệu USD.
- Từ 15/10, số người rút tiền tại ACB đã giảm, đã có người gửi lại.
- 16/10, sóng gió đối với ACB đã qua, mọi giao dịch trở lại bình thường. ACB thực hiện
chiến dịch hoàn lãi cho khách hàng nếu gửi lại và thưởng cho những khách hàng không
rút khỏi ACB trong giai đoạn trên. Thời gian hoàn lãi chỉ thực hiện đến hết 31/8/03.
ACB cũng treo giải thưởng 200 triệu nếu ai cung cấp nguồn tin cho cơ quan chức năng
tìm ra đối tượng tung tin thất thiệt.
ii. Rủi ro thanh khoản đối với ngân hàng TMCP nông thôn Ninh Bình
Vì tin đồn thất thiệt, nhiều người đến rút tiền ra khỏi Ngân hàng TMCP Nông thôn tỉnh
Ninh Bình. Số tiền rút ra đã lên tới hơn 20 tỷ đồng.Nguyên nhân khiến người dân hoang mang
chính là do tin đồn Ngân hàng có liên quan đến vụ án Nguyễn Đức Chi với khoản cho vay lớn
tới 10 triệu USD và bà Nguyễn Thị Huệ, giám đốc Ngân hàng, đã bỏ trốn.
11
Trước đó, hôm 11/7, Ngân hàng Nhà nước tỉnh Ninh Bình đó có thông báo số 153/NHNN-
NBI để gửi tới các khách hàng của Ngân hàng TMCP Nông thôn tỉnh Ninh Bình với nội dung
ghi là: "hoàn toàn không có chuyện ngân hàng này đã cho Công ty Đầu tư và Phát triển du lịch
(RUS-InvestTur) do Nguyễn Đức Chi làm Giám đốc vay 10 triệu USD để đầu tư dự án Rusalka

Nha Trang”.
Ông Bùi Khắc Sơn - Tổng giám đốc Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam - cho biết, với lượng vốn
huy động tiết kiệm trong dân cư không lớn (khoảng 80 tỷ đồng) trên tổng nguồn vốn huy động
178 tỷ đồng, nhưng hiện Ngân hàng này vẫn hoàn toàn có thể đáp ứng được nhu cầu chi trả cho
người gửi tiền.
Ngày 2/7/2005, một số cơ quan báo chí có đưa tin về vụ lừa đảo của Nguyễn Đức Chi với
dự án Rusalka Nha Trang. Các bài báo có nói về việc cơ quan chức năng sau khi khám xét nơi
làm việc của "siêu lừa" Nguyễn Đức Chi đó thu nhiều dấu giả và dấu chức danh của 3 quan
chức. Đó là chủ doanh nghiệp quản lý KCN lớn ở Hải Dương, nhà kinh doanh khu thể thao ở
Chí Linh và Chủ tịch hội đồng quản trị Ngân hàng TMCP Nông thôn tỉnh Ninh Bình.
Theo cơ quan điều tra vụ án, năm 2005, ba nhà doanh nghiệp trên lập Công ty Cổ phần đầu
tư phát triển công nghiệp và du lịch Ninh Thuận. Nguyễn Đức Chi đó được mời góp vốn và làm
Phó Tổng giám đốc phụ trách du lịch. Sau đó, Ngân hàng cổ phần thương mại Nông thôn Ninh
Bình đã đồng ý cho Nguyễn Đức Chi vay 10 triệu USD, với thế chấp là dự án khu nghỉ mát cao
cấp Rusalka. Nhưng do vụ án được phát hiện kịp thời nên việc giải ngân đó không xảy ra (nghĩa
là Ngân hàng TMCP nông thôn Ninh Bình chưa cho Nguyễn Đức Chi vay tiền). Lý do là trước
đó Chi đó dùng tài sản trên để vay một số ngân hàng khác lấy 30 tỷ đồng. Ngân hàng TMCP
nông thôn Ninh Bình sau đó cũng bị điều tra về nguyên nhân ký duyệt cho Nguyễn Đức Chi
vay tiền
III. NỘI DUNG VÀ CHIẾN LƯỢC QUẢN LÍ THANH KHOẢN
1. NỘI DUNG QUN LÍ THANH KHON
1.1 Tại sao các ngân hàng phải đối mặt với các vấn đề về thanh khoản.
p lực thanh khoản đối với ngân hàng nảy sinh từ một số nguồn gốc sau:
- Thứ nhất, ngân hàng huy động một lượng lớn tiền gửi và vay ngắn hạn từ cá nhân, doanh
nghiệp và tổ chức khác, sau đó chuyển chúng thành các khoản tín dụng với kì hạn dài
hơn. Do vậy, hầu hết các ngân hàng đều phải đối mặt với sự mất cân bằng giữa kì hạn
của tài sản và kì hạn của nguồn vốn. Rất hiếm khi dòng tiền từ tài sản của ngân hàng cân
đối hoàn toàn với dòng tiền cần thiết để đáp ứng việc thanh toán các nguồn vốn huy
động.
- Thứ hai là do sự nhạy cảm của ngân hàng trước những thay đổi trong lãi suất. Khi lãi

suất tăng, người gửi tiền sẽ rút vốn để gửi vào những nơi có thu nhập cao. Nhiều người
vay tiền có thể dừng yêu cầu vay mới, tăng cường rút vốn từ hạn mức tín dụng lãi suất
thấp. Như vậy, những thay đổi trong lãi suất tác động đồng thời cả nhu cầu gửi tiền và
nhu cầu vay vốn và cả hai điều này đều gây ra những tác động lớn tới thanh khoản NH.
12
Thêm nữa, lãi suất cũng tác động đến đến giá trị tài sản NH dự định bán nhằm tăng
cường thanh khoản, và tác động trực tiếp đến chi phí vay vốn trên thị trường tiền tệ.
- Vấn đề cuối cùng, vấn đề thanh khoản đồng nghĩa với lòng tin của công chúng vào ngân
hàng. Người gửi tiền có thể phản ứng rất dữ dội trước tình trạng không rút được tiền, từ
đó lan truyền đến các khách hàng khác, đã và sắp gửi tiền tại ngân hàng. Mối quan hệ
với các khách hàng tiềm năng (có lượng tiền gửi lớn, hạn mức tín dụng cao…) bị sứt mẻ
và chuyển sang các ngân hàng khác.
1.2 Bản chất của công tác quản lí thanh khoản trong ngân hàng
Hầu hết các vấn đề thanh khoản đều xuất hiện từ ngoài ngân hàng do những hoạt động tài
chính của khách hàng. Trên thực tế, các vấn đề về thanh khoản của khách hàng thường chuyển
về phía ngân hàng. Nếu khách hàng doanh nghiệp thiếu hụt dự trữ thanh khoản, sẽ thực hiện
vay vốn ngân hàng hoặc rút tiền ra khỏi tài khoản tiền gửi, tạo ra các vấn đề với cầu thanh
khoản của ngân hàng.
Bản chất của công tác quản lí thanh khoản trong ngân hàng có thể được đúc kết trong 2 nội
dung sau:
- Thứ nhất, rất hiếm khi tại một thời điểm tổng cầu thanh khoản bằng tổng cung thanh
khoản, do đó, ngân hàng thường xuyên phải đối mặt với thâm hụt thanh khoản hoặc
thặng dư thanh khoản.
- Thứ hai, giữa khả năng thanh khoản và khả năng sinh lời có sự đánh đổi. Ngân hàng
càng tập trung nhiều vốn để sẵn sàng đáp ứng yêu cầu thanh khoản thì khả năng sinh lời
dự tính của nó càng thấp.
Do vậy, đảm bảo khả năng thanh khoản hợp lí là một vấn đề không bao giờ kết thúc đối với
hoạt động quản lí. Nó liên quan đến nhiều vấn đề như chi phí, lợi nhuận… Những quyết định về
thanh khoản không thể được hình thành biệt lập với các lĩnh vực hoạt động khác và với các
phòng ban khác của ngân hàng.

1.3 Đường lối chung về quản trị thanh khoản
Một số nguyên tắc mang tính chỉ đạo sau cần được tôn trọng để quản trị thanh khoản một
cách hiệu quả:
Một là, nhà quản trị thanh khoản phải thường xuyên bám sát hoạt động của các bộ phận huy
động vốn và sử dụng vốn để điều phối hoạt động của các bộ phận này sao cho ăn khớp với
nhau. Chẳng hạn, khi một khoản tiền gửi lớn đến hạn trong vài ngày tới, thông tin này cần được
chuyển ngay đến nhà quản trị thanh khoản, để có quyết sách thích hợp chuẩn bị nguồn vốn đáp
ứng nhu cầu này.
Hai là, nhà quản trị thanh khoản cần phải biết ở đâu, khi nào khách hàng gửi tiền, xin vay
dự định rút vốn hoặc bổ sung tiền gửi hay trả nợ vay, nhất là các khách hàng lớn. Thực hiện tốt
nguyên tắc này sẽ giúp nhà quản trị thanh khoản dự kiến trước được phần thặng dư hay thâm
hụt thanh khoản và xử lý có hiệu quả từng trường hợp.
13
Ba là, nhu cầu thanh khoản của ngân hàng và các quyết định liên quan đến vấn đề thanh
khoản phải được phân tích trên cơ sở liên tục, tránh để kéo dài quá lâu một trong hai tình trạng
thặng dư hay thâm hụt thanh khoản. Thặng dư thanh khoản nên được đầu tư đúng lúc khi nó
xảy ra nhằm tránh một sự giảm sút trong thu nhập của ngân hàng; thâm hụt thanh khoản nên
được xử lý kịp thời để giảm bớt sự căng thẳng trong việc vay mượn hay bán tài sản.
2. XC ĐỊNH CUNG VÀ CẦU THANH KHON
Để có thể thực hiện các mục tiêu quản lý thanh khoản, nhà quản lý phải xác định cầu thanh
khoản, bao gồm các yếu tố tạo nên cầu thanh khoản, các nhân tố tác động tới cầu thanh khoản,
và ước lượng cầu thanh khoản.
2.1 Xác định cầu thanh khoản
2.1.1 Các nguồn cầu thanh khoản
Cầu thanh khoản xuất hiện từ hai nguồn chính: Khách hàng rút vốn khỏi tài khoản tiền gửi
và yêu cầu tín dụng từ những khách hàng mà ngân hàng mong muốn đáp ứng. Cụ thể cầu thanh
khoản hình thành từ các nguồn sau:
- Khách hàng rút tiền từ tài khoản.
- Yêu cầu vay vốn từ những khách hàng chất lượng tín dụng cao.
- Thanh toán các khoản vay phi tiền gửi.

- Chi phí bằng tiền và thuế xuất hiện trong quá trình sản xuất và cung cấp dịch vụ.
- Thanh toán cổ tức bằng tiền.
Các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu thanh khoản là:
- Thứ nhất là nhóm nhân tố tạo ra hoảng loạn trong khách hàng gửi tiền như bất ổn chính
trị, tham nhũng trong hệ thống tài chính, các khoản cho vay xấu dẫn đến mất khả năng
thanh toán của một ngân hàng, lan sang các ngân hàng khác
- Thứ hai là nhóm nhân tố liên quan đến thu nhập và nhu cầu chi tiêu của khách hàng, như
tính thời vụ sản xuất và tiêu dùng, mức thu nhập và hệ số tiết kiệm, mật độ dân số và
doanh nghiệp, sự đa dạng khách hàng gửi tiền và vay tiền
- Thứ ba là nhóm nhân tố cạnh tranh trên địa bàn hoạt động giữa các trung gian tài chính
như chính sách lãi suất huy động, chính sách tín dụng của mỗi tổ chức.
- Thứ tư là nhóm nhân tố tạo nên sức mạnh và uy tín của bản thân ngân hàng như cán bộ,
công nghệ, thị phần, uy tín Các nhân tố này có thể tác động nhu cầu thanh khoản tức
thời (ngắn hạn) và xu hướng (dài hạn).
2.1.2 Cách thức ngân hàng sử dng để quản lí cầu thanh khoản
Cách thức mà các ngân hàng áp dụng để quản lý cầu thanh khoản có ý nghĩa rất quan trọng
đối với sự an toàn của hệ thống. Sau đây là một số nội dung chính:
14
- Phân tích nhu cầu thanh khoản trong quá khứ để thấy nhưng biến động về nhu cầu này và
các nhân tố ảnh hưởng;
- Đo mối liên hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng và nhu cầu thanh khoản để xác định tần suất
và độ lớn trong thay đổi nhu cầu thanh khoản;
- Phân tích và định lượng nhu cầu thanh khoản đối với từng lại tiền gửi, từng nhóm khách
hàng, từng thời kỳ trong năm.
2.2 Xác định cung thanh khoản
2.2.1 Các nguồn cung thanh khoản
Để đáp ứng cầu về thanh khoản, ngân hàng có thể sử dụng một số nguồn cung thanh khoản
như sau:
- Tiền gửi của khách hàng
- Doanh thu từ việc bán các dịch vụ phi tiền gửi

- Thanh toán nợ của khách hàng
- Bán tài sản
- Vay từ thị trường tiền tệ
Trong đó nguồn cung quan trọng nhất là tiền gửi bổ sung của khách hàng trên tài khoản mới
cũng như trên các tài khoản hiện tại.
2.2.2 Cách thức ngân hàng quản lý cung thanh khoản
Ngân hàng phải duy trì khả năng đáp ứng nhu cầu thanh khoản của khách hàng, đó chính là
cung thanh khoản. Cung thanh khoản có thể được tạo ra từ hai phía: phía tài sản và phía nguồn
vốn (hoặc từ hai cách: duy trì dự trữ và khả năng huy động). Theo trường phái quản lý bên
trong, có thể đáp ứng nhu cầu thanh khoản từ phía tài sản thông qua chiến lược dự trữ. Quan
điểm này cho rằng, duy trì thanh khoản của các tài sản thông qua quản lý tài sản, có thể cung
cấp thanh khoản. Trên khía cạnh của rủi ro, điều đó có nghĩa là ngân hàng cần tạo nên tài sản
phù hợp về thời gian, khối lượng và cấu trúc của nguồn.
Một ngân hàng thường đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách bằng ngân quỹ: bao gồm Tiền
mặt trong két, tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác. Ngân quỹ gia tăng
(hoặc suy giảm) có thể do yếu tố khách quan như thời vụ, chu kỳ kinh doanh và thu nhập của
kháng hàng, thay đổi trong các quy định của các cơ quan quản lý, hoặc trong hệ thống hoặc
do ngân hàng quyết định gia tăng (hoặc giảm) ngân quỹ theo chiến lược dự trữ mà ngân hàng
đang theo đuổi. Gia tăng ngân quỹ (các điều kiện khác coi như không đổi) sẽ làm giảm thu nhập
của ngân hàng. Do vậy tối thiểu hóa ngân quỹ là mục tiêu mà các ngân hàng phải theo đuổi. Dự
trữ khác ngoài ngân quỹ bao gồm những tài sản có tính thanh khoản cao và khả năng sinh lời
cao hơn ngân quỹ: trái phiếu chính phủ, thương phiếu, khoản tín dụng chất lượng cao sắp mãn
hạn…
3. CHIẾN LƯỢC QUN LÍ THANH KHON CỦA CC NHTM:
15
3.1 Quản lý thanh khoản từ phía bên tài sản – Chiến lược dự trữ
Chiến lược này yêu cầu ngân hàng tích lũy thanh khoản bằng cách nắm giữ các tài khoản
thanh khoản (có tính thanh khoản cao) – Chủ yếu là tiền mặt và các chứng khoán dễ bán. Khi
yêu cầu thanh khoản xuất hiện, ngân hàng sẽ bán một số tài sản cho tới khi toàn bộ yêu cầu
được đáp ứng.

Đặc điểm của tài sản thanh khoản:
- Phải có một thị trường sẵn sàng để có thể chuyển được thành tiền nhanh chóng.
- Giá của tài sản phải ổn định.
- Thị trường của tài sản phải có khả năng đảo chiều để cho người bán có thể mua tài sản
với mức tổn thất không đáng kể.
Những tài sản có tính thanh khoản cao của ngân hàng bao gồm: tín phiếu kho bạc, mua
chứng khoán theo hợp đồng bán lại, tiền gửi tại ngân hàng khác, trái phiếu chính phủ, thương
phiếu chấp nhận thanh toán, giấy nợ ngắn hạn.
Chiến lược quản lý thanh khoản tài sản thuờng được những ngân hàng nhỏ áp dụng vì họ
thấy rằng chiến lược này ít rủi ro hơn việc quản lý thanh khoản dựa vào hoạt động vay nợ. Tuy
nhiên, chiến lược này cũng có một số nhược điểm như sau:
- Ngân hàng sẽ mất đi những khoản thu nhập từ tài sản trong tương lai nếu bán tài sản để
đảm bảo thanh khoản.
- Chi phí giao dịch cho việc bán tài sản.
- Bán tài sản để tăng cường thanh khoản sẽ làm cho hình ảnh của ngân hàng trên bảng cân
đối kế toán yếu đi bởi tài sản bán đi thường là chứng khoán ít rủi ro của Chính phủ, cái
tạo cho công chúng ấn tượng là ngân hàng lành mạnh về tài chính.
- Tài khoản thanh khoản thường có tỉ lệ thu nhập thấp nhất so với các tài sản tài chính
khác. Như vậy, ngân hàng sẽ bỏ lỡ tỷ lệ thu nhập cao từ các tài sản tài chính khác khi đầu
tư vào tài sản thanh khoản.
3.2 Quản lý thanh khoản từ phía bên nguồn – chiến lược huy động
Với sự phát triển của thị trường các công cụ nợ, các ngân hàng có thể phát triển việc huy
động để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Phương pháp này tạo cung thanh khoản từ phía bên
nguồn hay là chiến lược quản lý thanh khoản từ phía bên ngoài. Quản lý cung thanh khoản từ
phía bên nguồn bao gồm:
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến thời gian và chi phí huy động;
- Lựa chọn cung thanh khoản từ phía bên nguồn thông qua việc phân tích thời gian và chi
phí để mở rộng nguồn;
- Nghiên cứu các công cụ nợ mới nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí;
- So sánh chi phí nắm giữ tài sản thanh khoản và huy động mới.

16
Đây là chiến lược quản trị thanh khoản phổ biến được các ngân hàng lớn sử dụng vào những
năm 60 và 70 của thế kỷ trước. Trong chiến lược này, nhu cầu thanh khoản được đáp ứng bằng
cách vay mượn trên thị trường tiền tệ. Việc vay mượn chủ yếu là để đáp ứng nhu cầu thanh
khoản tức thời và chỉ thực hiện khi có nhu cầu thanh khoản phát sinh. Nguồn tài trợ cho chiến
lược này thường bao gồm: vay qua đêm, vay ngân hàng trung ương, bán các h1EE3 p đồng
mua lại, phát hành chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng mệnh giá lớn, Chiến lược quản
trị thanh khoản dựa trên tài sản “Nợ” được các ngân hàng lớn sử dụng rộng rãi và có thể lên đến
100% nhu cầu thanh khoản.
Nhược điểm của chiến lược này là ngân hàng bị phụ thuộc vào thị trường tiền tệ khi đáp ứng
nhu cầu thanh khoản (nhưng đồng thời cũng đem lại lợi nhuận cao nhất) do sự biến động về khả
năng cho vay và lãi suất trên thị trường tiền tệ. Hơn nữa, một ngân hàng vay mượn quá nhiều
thường bị đánh giá là có khó khăn về tài chính, khi thông tin này lan rộng ra, những khách hàng
gửi tiền sẽ rút vốn hàng loạt hoặc ngân hàng phải huy động vốn với chi phí cao gấp nhiều lần.
Cùng lúc đó, các định chế tài chính khác, để tránh rủi ro có thể gặp phải, sẽ thận trọng, dè dặt
hơn trong việc tài trợ vốn cho ngân hàng này để giải quyết khó khăn về thanh khoản.
• So sánh cung thanh khoản từ bên tài sản và bên nguồn:
Giả sử ngân hàng huy động 100 tỷ, tại sao ngân hàng cho vay 80 tỷ, còn để lại 20 tỷ? Hoặc
khi đối mặt với cầu thanh khoản, buộc phải bán các tài sản thanh khoản đã tích luỹ, tại sao ngân
hàng không phải đáp ứng toàn bộ cầu thanh khoản bằng cách bán hết tài sản.
Thứ nhất, nhà quản lý biết rằng, có thể vào ngày mai, một dòng tiền gửi lại đổ vào ngân
hàng mà ngân hàng chưa thể cho vay ngay được. Số tiền này sẽ làm tăng ngân quỹ và khả năng
thanh khoản cho ngân hàng.
Thứ hai, nếu dòng tiền gửi không đủ, ngân hàng có thể nhanh chóng huy động để đáp ứng
nhu cầu chi trả cấp bách.
Như vậy, các ngân hàng thương mại phải cân nhắc khả năng huy động nhanh (với các điều
kiện về lãi suất, thị phần, mạng lưới ) và việc nắm giữ tài sản thanh khoản cao. Nếu chi phí cơ
hội của việc giữ tài sản thanh khoản lớn hơn chi phí huy động nhanh, các ngân hàng có xu
hướng đáp ứng nhu cầu thanh khoản bằng huy động – tức là đáp ứng nhu cầu thanh khoản từ
phía bên nguồn.

3.3 Quản lý kết hợp: khe hở thanh khoản và rủi ro thanh khoản
Với xu hướng đa dạng hóa, sáp nhập, các ngân hàng cũng như các tổ chức tín dụng khác đều
tận dụng mọi khả năng đáp ứng thanh khoản cao nhất với chi phí thấp. Nếu như từ thế kỷ 19 trở
về trước, các ngân hàng tập trung đáp ứng nhu cầu thanh khoản từ phía bên tài sản với lý thuyết
cho vay thương mại, thì trong thế kỷ 20 các ngân hàng lớn đã chuyển sang lý thuyết quản lý nợ,
nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản từ phía bên nguồn. Chiến lược quản lý thanh khoản kết hợp
đã trở nên phổ biến, dựa trên duy trì thanh khoản của cả tài sản và nguồn vốn. Tùy từng thời kỳ,
từng vùng, mà mỗi ngân hàng sẽ lựa chọn chiến lược thích hợp.
Chiến lược quản lý thanh khoản kết hợp dựa trên quản lý dòng tiền: dòng tiền vào và dòng
tiền ra, bao gồm:
17
- Ước lượng dòng tiền vào: cung thanh khoản
- Ước lượng dòng tiền ra: cầu thanh khoản
- Ước lượng khe hở thanh khoản và các biện pháp xử lý chênh lệch dòng tiền vào và ra
Ngân hàng tính toán khe hở thanh khoản trong kỳ tới (liquidity gap) dựa trên dự đoán dòng
tiền vào và ra. Khe hở thanh khoản (chênh lệch cung và cầu thanh khoản) có thể được tính cho
từng ngày, tuần, tháng, năm. Các dự tính này được xây dựng dựa trên phân tích các nhân tố
hưởng như thời vụ, chu kỳ, tâm lý, cạnh trạnh
Nếu dòng tiền vào dự tính lớn hơn dòng tiền ra dự tính, (cung > cầu thanh khoản) ngân quỹ
của ngân hàng gia tăng (tăng tính thanh khoản của tài sản), nếu ngược lại, ngân quỹ của ngân
hàng sẽ suy giảm (giảm tính thanh khoản của tài sản).
Ngân quỹ của ngân hàng gia tăng có thể được chia thành hai trường hợp: thứ nhất, ngân
hàng chủ động gia tăng ngân quỹ nhằm đối phó với những khó khăn về nhu cầu thanh khoản
đột xuất trong kỳ tới. Trong trường hợp này, ngân hàng sẽ cân nhắc giữa chi phí nắm giữ ngân
quỹ cao kỳ này và chi phí có thể phải bỏ ra để đáp ứng nhu cầu thanh khoản kỳ tới. Thứ hai,
ngân hàng bị động buộc phải gia tăng ngân quỹ do khả năng cho vay thấp (xuất hiện tình trạng
dư thừa lớn dự trữ - ứ đọng bốn). Trường hợp này sẽ dẫn đến giảm thu nhập của ngân hàng.
Nhà quản lý cần có biện pháp để giảm tính thanh khoản của tài sản bằng cách gia tăng tài trợ,
hoặc giảm huy động.
Tương tự như thế, khi ngân quỹ của ngân hàng suy giảm, cũng sẽ có 2 khả năng: thứ nhất là

do ngân hàng cho vay quá nhiều, dẫn đến những rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải khi khách
hàng ồ ạt đến rút tiền. Đây là trường hợp rất hay xảy ra tại Việt Nam, nhất là vào thời điểm hiện
nay, khi mà hầu hết các ngân hàng đều gặp khó khăn trong thanh khoản. Thứ 2, khả năng này
rất hiếm trong thời gian qua, đó là ngân hàng chủ động giảm ngân quỹ do nhận thấy rằng lượng
tiền cần thanh toán không cần nhiều như dự trữ.
Như phân tích ở trên, cả hai chiến lược quản trị thanh khoản dựa vào tài sản “Có” và dựa
vào tài sản “Nợ” đều có hạn chế: chịu chi phí cơ hội khi bán các tài sản dự trữ hoặc bị phụ
thuộc quá nhiều vào thị trường tiền tệ. Do đó, chiến lược quản lí khe hở thanh khoản có thể giải
quyết được những hạn chế trên, hơn nữa có thể coi nó là tổng hợp ưu điểm của cả 2 chiến lược.
4. CC PHƯƠNG PHP ĐO LƯỜNG THANH KHON
4.1 Phương pháp tiếp cận nguồn vốn và sử dụng vốn:
Phương pháp này bắt nguồn từ hai thực tế đơn giản sau:
Một là, khả năng thanh khoản của ngân hàng tăng khi tiền gửi tăng và cho vay giảm.
Hai là, khả năng thanh khoản của ngân hàng giảm khi tiền gửi giảm và cho vay tăng.
Ngay từ đầu năm, ngân hàng ước lượng nhu cầu thanh khoản của các tháng, quý trong năm.
Bất cứ khi nào cung thanh khoản và cầu thanh khoản không cân bằng với nhau, ngân hàng có
một độ lệch thanh khoản. Độ lệch này được xác định như sau:
18
Khe hở thanh khoản (liquidity gap) = Tổng cung thanh khoản (1) - Tổng cầu thanh khoản
(2).
Khi (1) > (2): Độ lệch thanh khoản dương → Ngân hàng phải nhanh chóng đầu tư phần
thanh khoản thặng dư này để sinh lợi.
Khi (2) > (1): Độ lệch thanh khoản âm → Ngân hàng phải tìm kiếm kịp thời các nguồn tài
trợ khác nhau với chi phí thấp nhất.
Trên thực tế, các bước cơ bản trong phương pháp tiếp cận nguồn vốn và sử dng vốn
như sau:
Tiền vay và tiền gửi phải được dự báo trong khoảng thời gian hoạch định thanh khoản đã
cho (ngày, tháng, quý).
Những thay đổi về tiền vay và tiền gửi phải được tính toán cho cùng khoảng thời gian xác
định đó.

Nhà quản trị thanh khoản ước lượng trạng thái thanh khoản ròng của ngân hàng,
hoặc thặng dư hay thâm hụt dựa vào sự biến đổi của tiền gửi và cho vay.
Để xây dựng mô hình dự báo về tiền gửi và tiền vay trong tương lai, nhà quản trị có thể sử
dụng các kỹ thuật thống kê khác nhau cộng với kinh nghiệm của mình. Chẳng hạn, một mô
hình dự báo về sự thay đổi trong tiền gửi và tiền vay có thể như sau:
Thay đổi dự kiến của tiền vay ph thuộc vào các biến số sau:
Tốc độ tăng trưởng dự kiến của GDP.
Lợi nhuận doanh nghiệp dự kiến 
Tỷ lệ tăng trưởng về cung tiền của ngân hàng thương mại.
Tỷ lệ tăng trưởng của tín dụng thương mại.
Tỷ lệ lạm phát dự báo. 
 Tỷ lệ tăng trưởng của Doanh nghiệp hay hay ngành/lĩnh vực mà NH cho vay chủ
yếu.
Thay đổi dự kiến của tiền gửi ph thuộc vào các biến số sau:
Tăng trưởng về thu nhập cá nhân dự kiến.
Mức tăng bán lẻ dự báo.
Tỷ lệ tăng trưởng cung tiền của ngân hàng trung ương.
Lợi suất dự kiến của tiền gửi trên thị trường tiền tệ.
Tỷ lệ lạm phát dự kiến.
19
Sau khi xây dựng được mô hình dự báo nêu trên, ngân hàng có thể ước lượng nhu cầu thanh
khoản bằng cách tính:
Mức thặng dư (+) Thay đổi Thay đổi
hay thâm hụt (-) = dự kiến - dự kiến
thanh khoản của tiền gửi của tiền vay
4.2 Phương pháp tiếp cận cấu trúc vốn:
Phương pháp này được tiến hành theo trình tự hai bước:
Bước 1: Chia các khoản tiền gửi và các nguồn khác thành nhiều loại trên cơ sở ước lượng
xác suất rút tiền của khách hàng. Chẳng hạn, tiền gửi và các nguồn khác của ngân hàng có thể
chia thành ba loại:

Loại 1: Ổn định thấp.
Loại 2: Ổn định vừa phải.
Loại 3: Ổn định cao.
Bước 2: Xác định mức dự trữ thanh khoản cho từng loại tiền gửi trên cơ sở ấn định tỷ lệ dự
trữ thích hợp với trạng thái của chúng. Ví dụ:
Loại 1: 95%.
Loại 2: 30%.
Loại 3: 15%.
Như vậy, nhu cầu thanh khoản cho tổng các loại tiền gửi được tính như sau:
Dự trữ thanh khoản cho tài sản “Nợ” huy động
= 95% x (Loại 1 – DTBB) + 30% x (Loại 2 – DTBB) + 15% x (Loại 3 – DTBB).
Đối với nhu cầu vay vốn của khách hàng, ngân hàng phải sẵn sàng khi khách hàng có nhu
cầu và đảm bảo các điều kiện tín dụng tức là các khoản vay chất lượng cao. Trong trường hợp
này, nhu cầu thanh khoản cho các khoản cho vay là:
Dự trữ thanh khoản cho tài sản “Có” cho vay
= Dự trữ thanh khoản tài sản “Nợ” huy động+ Nhu cầu tiền vay tiềm năng
4.3 Phương pháp xác định xác suất mỗi tình huống
Phương pháp này được thực hiện theo trình tự hai bước:
Bước 1: Ngân hàng dự đoán khả năng xãy ra của mỗi trạng thái thanh khoản theo ba cấp độ:
 Khả năng xấu nhất khi: tiền gửi xuống thấp dưới mức dự kiến hoặc tiền vay lên cao
trên mức dự kiến.
20
 Khả năng tốt nhất khi: tiền gửi lên cao trên mức dự kiến hoặc tiền vay xuống thấp dưới
mức dự kiến.
 Khả năng thực tế: nằm ở cấp độ nào đó giữa hai cấp độ trên.
Bước 2: Xác định nhu cầu thanh khoản theo công thức:
Trong đó: Pi: Xác suất tương ứng với một trong ba khả năng.
SDi: Thặng dư hay thâm hụt thanh khoản theo mỗi khả năng.
4.4 Phương pháp tiếp cận chỉ số thanh khoản
Phương pháp này dựa trên cơ sở kinh nghiệm riêng có của ngân hàng và các chỉ số trung

bình trong ngành. Năm chỉ số thanh khoản sau thường được sử dụng:
4.4.1 Chỉ số về trạng thái tiền mặt
Chỉ số này càng cao chứng tỏ ngân hàng có khả năng xử lý các tình huống thanh khoản tức
thời. Trạng thái tiền mặt phụ thuộc vào:
 Các yếu tố mà ngân hàng có thể kiểm soát được:
- Nhóm yếu tố làm tăng quỹ tiền tệ: Bán chứng khoán, nhận lãi chứng khoán; vay qua đêm,
phát hành chứng chỉ tiền gửi hay nhận tiền gửi khách hàng; những khoản tín dụng đã đến hạn
thu hồi.
- Nhóm yếu tố làm giảm quỹ tiền tệ: Mua chứng khoán, trả lãi tiền gửi; khách hàng rút tiền
theo định kỳ; trả nợ vay đến hạn; cho vay qua đêm; thanh toán phí dịch vụ cho ngân hàng khác.
 Các yếu tố mà ngân hàng không thể kiểm soát được:
- Nhóm yếu tố làm tăng quỹ tiền tệ: Những khoản tiền nhận được từ nghiệp vụ thanh toán bù
trừ; các khoản thuế thu hộ, tiền mặt trong quá trình thu (tiền đang chuyển).
- Nhóm yếu tố làm giảm quỹ tiền tệ: Các khoản phải trả trong nghiệp vụ thanh toán tiền mặt;
thuế phải thanh toán cho ngân sách; khách hàng rút tiền gửi trước hạn.
4.4.2 Chỉ số về chứng khoán thanh khoản
Tỷ lệ này càng cao thì trạng thái thanh khoản của ngân hàng càng tốt.
Ngoài ra người ta còn tính chỉ số sau với tử số rộng hơn:
H6=(CK kinh doanh + CK sẵn sàng để bán)/Tổng tài sản “Có”
4.4.3 Vị trí thanh khoản cho vay qua đêm
21
Chỉ số này càng cao thì khả năng thanh khoản càng tốt.
4.4.4 Tỷ lệ chứng khoán cầm cố
Chỉ số này càng thấp thì khả năng thanh khoản càng tốt.
4.4.5 Tỷ số thành phần tiền biến động
Chỉ số này càng thấp thì cầu thanh khoản càng thấp.
4.4.6 Các chỉ số đo lường rủi ro khác
* Để phản ánh tình trạng thanh khoản và mức độ an toàn, người ta thường tính hệ số
an toàn và chỉ số thanh khoản trung bình:
Các hệ số, chỉ số bao gồm:

Chỉ số H4: Dư nợ/Tổng tài sản “Có”;
Chỉ số H5: Dư nợ/Tiền gửi khách hàng;
Chỉ số H7: Tiền gửi và cho vay TCTD/Tiền gửi và vay từ TCTD;
Chỉ số H8: (Tiền mặt+Tiền gửi tại TCTD)/Tiền gửi của khách hàng.
4.5 Tín hiệu thị trường
Đây là những tiêu chuẩn cuối cùng cho việc đánh giá quản lý thanh khoản. Các dấu hiệu sau
cần được các nhà quản lý thanh khoản chú ý:
- Lòng tin của công chúng
- Sự vận động trong giá cổ phiếu
- Phần bù rủi ro trên chứng chỉ tiền gửi và các khoản đi vay khác
- Tổn thất trong việc bán tài sản
5. CC LÝ THUYẾT VỀ THANH KHON
Dựa trên phân tích lý thuyết thanh khoản của các ngân hàng thương mại và các trung gian
tài chính khác, các nhà nghiên cứu đã xây dựng các lý thuyết quản lý thanh khoản. Các lý
thuyết này trình bày mối quan hệ biện chứng giữa quản lý cung, cầu thanh khoản và môi trường
hoạt động của ngân hàng.
5.1 Lý thuyết cho vay thương mại.
Lý thuyết cho vay thương mại hình thành dựa trên việc nghiên cứu thanh khoản của các
ngân hàng từ đầu thế kỷ 19 trở về trước. Trong điều kiện thị trường tài chính còn chưa phát
22
triển cao, nguồn vốn còn nghèo nàn, mối liên kết giữa các thị trường tài chính và các ngân hàng
chưa lớn, khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại chủ yếu dựa vào tính thanh
khoản của tài sản. Do cho vay là tài sản lớn nhất của ngân hàng, nên một ngân hàng muốn duy
trì tính thanh khoản của tài sản thì phải dựa vào việc nắm giữ ngân quỹ (mà chủ yếu là tiền mặt)
và các khoản cho vay của nó phải là các khoản cho vay thương mại. Lý thuyết này chứng minh
rằng, trong điều kiện các nguồn của ngân hàng phần lớn là ngắn hạn thì cho vay thương mại,
tức là tài trợ ngắn hạn cho tài sản lưu động của doanh nghiệp, sẽ đảm bao sự phù hợp về kỳ hạn
của tài sản và nguồn vốn của ngân hàng, tạo cho ngân hàng khả năng nhận được nguồn trả nợ
trong ngắn hạn do hàng hóa được bán, vì vậy sẽ là phương pháp tốt nhất đảm bảo thanh khoản.
Lý thuyết cho vay thương mại, bên cạnh việc phân tích tính thanh khoản của các khoản cho

vay thương mại, đã không chú ý tới tính chất của nguồn vốn của ngân hàng và tính thanh khoản
cho vay phi thương mại, từ đó cho rằng các khoản cho vay phi thương mại là không đảm bảo
tính thanh khoản và không thích hợp với ngân hàng thương mại.
Nguồn vốn của ngân hàng, dù có thể là toàn các khoản tiền gửi và vay ngắn hạn (kỳ hạn
danh nghĩa từ 12 tháng trở xuống), song luôn được nối tiếp nhau, tạo nên dòng tiền vào liên tục;
đồng thời luôn có rất nhiều khoản tiền gửi không bị rút ra khi đến hạn mà tiếp tục kỳ hạn mới.
Nhưng nguồn tiền như vậy, về bản chất cũng có giá trị như tiền gửi trung và dài hạn, và có thể
sử dụng để vay trung và dài hạn. Việc không (hoặc hạn chế) cho vay phi thương mại – tài trợ
cho bất đông sản, máy móc thiết bị, hàng tiêu dùng – đã hạn chế thu nhập của ngân hàng.
Lý thuyết cho vay thương mại đã có ảnh hưởng tới chính sách của ngân hàng trung ương đối
với các ngân hàng thương mại. Ví dụ như tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với nguồn ngắn hạn thường
cao hơn nguồn trung và dài hạn; quy định về tỷ lệ nguồn ngắn hạn được chuyển sang cho vay
trung và dài hạn, tỷ lệ ngân quỹ tính trên nguồn ngắn hạn
5.2 Lý thuyết về khả năng chuyển đổi của tài sản.
Cùng với sự phát triển của thị trường trái phiếu chính phủ, các ngân hàng đã có cơ hội mới
trong việc nắm giữ các tài sản sinh lời mà vẫn có thể chuyển thành tiền nhanh chóng với ít tổn
thất. Dựa trên việc phân tích số lượng các ngân hàng Anh và Mỹ bị phá sản trong khủng hoảng
1929-1933, các tác giả của lý thuyết này đã cho rằng, số lượng các ngân hàng Anh (chủ yếu cho
vay thương mại) bị phá sản chẳng kém gì các ngân hàng Mỹ (mở rộng cho vay đối với bất động
sản và người tiêu dùng). Như vậy cho vay thương mại cũng không đảm bảo an toàn thanh
khoản cho ngân hàng thương mại khi khủng hoảng xảy ra. Lý thuyết về khả năng chuyển đổi
của tài sản chứng minh vấn đề chính để đảm bảo an toàn thanh khoản và khả năng chuyển đổi
của tài sản. Với sự phát triển của thị trường chứng khoán, thị trường tài sản, nhiều tài sản cả
ngân hàng có khả năng chuyển đổi cao đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Do vậy các ngân hàng
hoàn toàn có thể thực hiện các khoản cho vay phi thương mại mà vẫn đảm bảo khả năng thanh
khoản của ngân hàng.
5.3 Lý thuyết về lợi tức dự tính
Tính thanh khoản của tài sản ngân hàng không chỉ được đo bằng khả năng chuyển đổi của
tài sản. Trên cơ sở phân tích thanh khoản của ngân hàng trên quan điểm dòng tiền, các tác giả
của lý thuyết lợi tức dự tính cho rằng các khoản thu từ tài sản không chỉ xảy ra khi tài sản đến

23
hạn, mà còn có được vào nhiều thời điểm trong suốt thời hạn của tài sản. Các khoản tài trợ
trung và dài hạn gắn liền với tài sản cố định của khách hàng. Các tài sản này tham gia nhiều chu
kỳ sản xuất hoặc tiêu dùng, bị hao mòn dần. Người vay (doanh nghiệp) sẽ thực hiện thu hồi dần
giá trị của tài sản dưới hình thức trích khấu hao. Nếu là người tiêu dùng vay để mua hàng hóa
lâu bền, thu nhập hàng tháng của họ sẽ là cơ sở để ngân hàng thu nợ. Do đó, nếu ngân hàng cho
vay trung và dài hạn, song thực hiện thu nợ theo nhiều kỳ hạn nợ (phù hợp với chu kỳ thu nhập
của khách hàng), thì thu dự tính sẽ làm tăng tính thanh khoản của tài sản.
Ví dụ, ngân hàng cho vay 300 triệu, trong thời hạn 4 năm, mỗi năm thu hồi 75 triệu. Lợi tức
dự tính đã làm cho kỳ hạn trung bình của tài sản là:
Theo ví dụ này ngân hàng có thể huy động nguồn với thời gian đến 2,5 năm để cho vay 4
năm. Lý thuyết này đặt nền tảng quan trọng trong việc nghiên cứu kỳ hạn của tài sản và nguồn
vốn, coi đó là nội dung chính để quản lý thanh khoản của tài sản. Xây dựng kế hoạch thu nợ,
thu lãi căn cứ vào lợi tức dự tính của tài sản là một biện pháp đảm bảo tính thanh khoản của
tài sản.
B. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP.
I. THỰC TRẠNG QUN LÝ THANH KHON TẠI CC NHTM VIT NAM.
1. Thực trạng thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam:
Từ sau khi mở cửa đến nay, ngành ngân hàng Việt Nam đã phát triển khá ổn định trong giai
đoạn từ năm 1991 đến năm 2007, tuy nhiên phần lớn các ngân hàng Việt Nam đều chưa được
thế giới đánh giá tốt về mặt chất lượng (trừ Vietcombank và ACB), bằng chứng là đánh giá
mức độ tín nhiệm tín dụng của các ngân hàng Việt Nam chưa ngân hàng nào đạt tiêu chuẩn
AAA theo đánh giá của các tổ chức tín dụng. Nguyên nhân là:
- Quy mô và hoạt động của các ngân hàng Việt Nam vẫn còn thuộc dạng nhỏ trên thế giới.
Phần lớn các ngân hàng Việt Nam là ngân hàng thương mại, mô hình ngân hàng đầu tư
còn chưa phát triển.
- Các hoạt động kinh doanh kém đa dạng, chưa phát triển nhiều loại dịch vụ hoặc các hoạt
động tài chính hiện đại
- Quản lý nguồn vốn và tài sản của các ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn, chưa đạt hiệu
quả cao nhất trong việc huy động và cho vay vốn.

- Cuối cùng là hoạt động quản lý thanh khoản của các ngân hàng Việt Nam vẫn tồn tại
nhiều rủi ro, việc tồn đọng vốn, gây mất thanh khoản cho các ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên ở đây chúng ta chỉ bàn đến vấn đề quản lý thanh khoản của các ngân hàng Việt
Nam:
24
- Từ năm 1991 đến năm 2007, tình hình thanh khoản của các ngân hàng Việt Nam vẫn ở
tình trạng khá tốt, tuy nhiên đã tiềm ẩn nhiều rủi ro thanh khoản của các ngân hàng Việt
Nam bao gồm:
o Thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản tăng trưởng quá nóng, dẫn
đến bong bóng chứng khoán và bong bóng bất động sản. Vốn đầu tư của nền kinh
tế tồn đọng quá nhiều ở các thị trường này.
o Tăng trưởng tín dụng quá nóng, trung bình tăng trưởng tín dụng của các ngân
hàng kể từ năm 2004 đến nay luôn ở mức khoảng 30%. Lượng cung tiền tăng
nhanh báo hiệu nguy cơ lạm phát cao.
o Tình trạng lấy các khoản huy động ngắn hạn cho vay dài hạn diễn ra khá phổ biến
ở các ngân hàng thương mại nhỏ và vừa. Phần lớn các ngân hàng này đều vượt
quá mức cho phép của ngân hàng nhà nước là 30%
- Từ năm 2007 đến năm 2011, hệ thống ngân hàng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng
hoảng, các ngân hàng gần như rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản, lãi suất liên
ngân hàng liên tục tăng cao, thậm chí đã lên đến gần 40%. Cho đến cuối năm 2009, khi
NHNN có quy định trấn lãi suất cho vay là 14% thì tình trạng này mới dịu đi, nhưng khả
năng thanh khoản của các ngân hàng mới có sự cải thiện đôi chút.
- Sau đây là tình hình thanh khoản trong năm 2008-2011.
 Tình hình thanh khoản 2008 :
Thanh khoản 2008 có liên quan mật thiết đến 3 vấn đề: Khủng hoảng kinh tế toàn cầu, siêu
lạm phát ở Việt Nam và tác động của chính sách tiền tệ quốc gia. 4 tháng đầu năm 2008, lạm
phát ở mức 11,6% và chạm đỉnh 22 % sau đó. Trước tình hình khá nghiêm trọng như vậy, Ngân
hàng Nhà nước thực hiện hàng loạt biện pháp mạnh như nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 11%,
phát hành tín phiếu bắt buộc tổng trị giá 20.300 tỷ đồng, thay đổi cơ chế điều hành và tăng lãi
suất cơ bản, lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn… Chính sách tiền tệ theo lối thắt chặt đã

gây ra sự thiếu hụt trầm trọng thanh khoản của các NHTM. Chính điều này đã dẫn đến cuộc
chạy đua tăng lãi suất huy động trong giới ngân hàng. Những kỉ lục về lãi suất liên tục được ghi
nhận, lãi suất huy động có nhiều thời điểm tăng đến 18-19%, lãi suất vay qua đêm trên thị
trường liên ngân hàng có lúc vượt qua con số 40%/năm, là mức tăng cao nhất chưa từng có
trong lịch sử thị trường liên ngân hàng Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Công điện
số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 khống chế trần lãi suất huy động là 12%/năm.
Mặc dù, các ngân hàng đều khẳng định khả năng thanh khoản của ngân hàng mình vẫn đảm
bảo. Nhưng cuộc chạy đua lãi suất không có điểm dừng không thể chỉ do chính sách thắt chặt
tiền tệ mạnh từ Ngân hàng Nhà nước. Đó là do vấn đề quản trị rủi ro kinh doanh nói chung,
quản trị rủi ro thanh khoản nói riêng chưa được coi trọng; các ngân hàng đã tăng trưởng tín
dụng quá nhanh, và đầu tư vào các lĩnh vực có rủi ro cao như chứng khoán, bất động sản. Khi
các thị trường này sụt giảm thì khả năng thu hồi các khoản cho vay đó bị ảnh hưởng.
25

×