Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

tiểu luận về thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.3 KB, 33 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT
LUẬT TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG – CHỨNG KHOÁN

CHỦ ĐỀ:
THỦ TỤC XÉT LẠI BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH ĐÃ CÓ HIỆU LỰC
PHÁP LUẬT
GVHD: Ths.Huỳnh Thị Nam Hải
Mục lục
Trang 1 / 33
LỜI MỞ ĐẦU
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành, Bộ luật tố tụng dân sự với những
nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố tụng như: trình tự, thủ tục khởi kiện, xét xử, sự
tham gia tố tụng dân sự của các chủ thể được quy định đều nhằm mục đích giải quyết
các vụ việc dân sự được chính xác, công bằng và đúng pháp luật. Tuy nhiên trong thực
tiễn , hoạt động xét xử có thể không tránh khỏi những sai sót khiến cho những phán quyết
của Tòa án không đúng với sự thật khách quan hoặc trái pháp luật.Những sai sót này có
thể xuất phát từ yếu tố chủ quan hoặc yếu tố khách quan nên dẫn đến việc có những bản
án, quyết định của Tòa án đã trải qua hai cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, thậm chí qua
nhiều vòng xét xử lặp đi lặp lại mà vẫn không đúng pháp luật. Do đó để khắc phục và sửa
chữa những sai lầm, thiếu sót nhằm đảm bảo tính pháp chế XHCN trong công tác xét xử
của tòa án cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự thì cần có một
thủ tục để xét lại bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự của Tòa án đã có hiệc lực
pháp luật.
Thủ tục giám đốc thẩm Nhóm 11
I. THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM
1. Khái niệm và ý nghĩa của giám đốc thẩm dân sự
1.1. Khái niệm
Giám đốc thẩm dân sự là việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án bị kháng nghị do phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật trong việc
giải quyết vụ án.


Thủ tục giám đốc thẩm là thủ tục đặc biệt được tiến hành trên cơ sở kháng nghị của
người có thẩm quyền khi phát hiện có sự sai lầm, vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong
quá trình giải quyết vụ án dân sự. Việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
theo thủ tục giám đốc thẩm do Tòa án có thẩm quyền thực hiện.
+ Nội dung: Tòa án kiểm tra tính hợp pháp của bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật kháng nghị
+Tính chất: Điều 282 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành(BLTTDSHH) quy định:
“Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật
nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải
quyết vụ án”.
- Theo quy định tại Điều 17 BLTTDSHH, Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử:
xét xử ở cấp sơ thẩm và xét xử ở cấp phúc thẩm. Vì vậy, giám đốc thẩm không phải là
một cấp xét xử mà chỉ là một thủ tục tố tụng đặc biệt có nhiệm vụ xét lại nhằm kiểm tra
tính hợp pháp và có căn cứ của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng
nghị do phát hiện có vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nhằm đảm
bảo việc xử lý vụ án được chính xác.
- Khác với phúc thẩm, thì thủ tục giám đốc thẩm chỉ được thực hiện khi bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp
luật mới được xem xét trong khi phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai, bản án sơ thẩm chưa có
Thủ tục giám đốc thẩm Nhóm 11
hiệu lực pháp luật có kháng cáo của đương sự, kháng nghị của Viện kiểm sát thì dù việc
xét xử sơ thẩm có vi phạm pháp luật hay không vi phạm pháp luật, bản án sơ thẩm đúng
hay sai, vụ án vẫn được xét xử lại. Do đó không phải trường hợp nào đương sự khiếu nại
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cũng được kháng nghị để xét xử
theo thủ tục giám đốc thẩm.
1.2. Ý nghĩa
Việc xét lại bản án hay quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục
giám đốc thẩm có ý nghĩa to lớn. Trước hết, nó làm cho kỷ cương pháp luật được tôn
trọng, sau đó nó giúp cho Tòa án cấp trên thấy được những sai lầm, thiếu sót của Tòa án
cấp dưới đối với những vụ án cụ thể và sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm đó, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Mặt khác, thông qua hoạt động giám đốc thẩm, Tòa án cấp trên có thể tổng kết, rút
kinh nghiệm công tác xét xử. Trên cơ sở đó, họ hướng dẫn Tòa án cấp dưới hiểu và áp
dụng đúng pháp luật. Vì vậy, kết quả của hoạt động giám đốc thẩm được coi như là
những kinh nghiệm; đồng thời là những định hướng hướng dẫn hoạt động xét xử của Tòa
án cấp dưới.
2. Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
2.1. Khái niệm
Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là hoạt động tố tụng của người có thẩm
quyền của Tòa án, Viện kiểm sát trong việc phản đối bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật và yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xét lại bản án, quyết định đó khi phát hiện
được sai lầm, vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
2.2. Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Để tiến hành kháng nghị, người có thẩm quyền kháng nghị phải dựa trên những căn
cứ nhất định do pháp luật quy định. Theo Điều 283 BLTTDSHH, bản án quyết định của
Thủ tục giám đốc thẩm Nhóm 11
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một
trong các căn cứ sau đây:
- Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ
án.
Các tình tiết khách quan của vụ án là những tình tiết tồn tại ngoài ý muốn của con
người. Tùy thuộc mỗi vụ án cụ thể, các tình tiết có thể nhiều ít khác nhau và tồn tại ở
những dạng khác nhau. Trên thực tế, những nguyên nhân khiến cho kết luận của Tòa án
không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án cũng khá nhiều. Thông thường
những nguyên nhân này có thể thể hiện dưới dạng Tòa án chưa thu thập đầy đủ các chứng
cứ, tài liệu để giải quyết vụ án nhưng Tòa án vẫn giải quyết dẫn đến quyết định của Tòa
án thiếu cơ sở ; Hoặc là Tòa án có thể đánh giá sai chứng cứ, tài liệu của vụ án nên quyết
định giải quyết vụ án sai.
- Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Thủ tục tố tụng là những quy định của pháp luật về những hoạt động của cơ quan,

người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ
án đúng pháp luật, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng là những vi phạm trong quá trình điều tra hoặc xét xử vụ án
mà chúng có thể tước bỏ hoặc hạn chế quyền của những người tham gia tố tụng hoặc làm
cho Tòa án xét xử không khách quan, không đúng pháp luật hoặc thiếu căn cứ.Trong thực
tế, việc vi phạm nghiêm trọng thủ tục được tiến hành trong quá trình Tòa án giải quyết vụ
án thường thể hiện dưới dạng như : Tòa án giải quyết vụ án sai thẩm quyền, thành phần
Hội đồng xét xử không đúng quy định của pháp luật, Tòa án xác định sai tư cách tố tụng
của đương sự….
- Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.
Các sai lầm trong việc áp dụng pháp luật thường thể hiện dưới dạng Tòa án đã áp
dụng văn bản pháp luật không đúng, không còn hiệu lực hoặc áp dụng không đúng điều
luật, không đúng nội dung quy định của điều luật. Trong đó, phổ biến nhất là việc Tòa án
Thủ tục giám đốc thẩm Nhóm 11
áp dụng sai điều luật hoặc không đúng nội dung quy định của điều luật vào việc giải
quyết vụ án dân sự.
2.3. Chủ thể có thẩm quyền kháng nghị
Chủ thể có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được quy định tại
Điều 285 BLTTDSHH.
Theo quy định này thì chỉ có Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp tỉnh
mới có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. (Việc kháng nghị có sự phân cấp
rõ ràng).
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có
quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của tòa án nhân dân các cấp, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao. Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của tòa án nhân dân cấp huyện.
2.4. Hình thức kháng nghị

Hình thức kháng nghị là phương diện để các chủ thể có thẩm quyền thể hiện quyền
kháng nghị của mình.
2.4.1. Phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét
lại theo thủ tục giám đốc thẩm
 Đơn đề nghị
Theo khoản 1 điều 284: “Trong thời hạn 1 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của
Tòa án có hiệu lực pháp luật, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định
đó thì đương sự có quyền đề nghị bằng văn bản với những người có quyền kháng nghị
quy định tại Điều 285 BLTTDSHH để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm”.
 Nội dung: Điều 284a BLTTDSHH; khoản 1 Điều 1 của Thông tư liên tịch
03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC; tham khảo Mẫu số 01.
Thủ tục giám đốc thẩm Nhóm 11
 Gửi đơn đề nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo (điều 2; khoản 1 điều 9 của Thông
tư liên tịch 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC)
 Nhận đơn đề nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo (điều 3; khoản 2,3 điều 9 Thông
tư liên tịch 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC)
 Xem xét, xử lý đơn đề nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo (Điều 4, 5, 6, 7, 8, 10
của Thông tư liên tịch 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC)
Lưu ý: Xử lý đối với đơn đề nghị trong trường hợp đã có văn bản thông báo về việc
không kháng nghị của Tòa án, Viện kiểm sát có thẩm quyền (điều 12 của Thông tư liên
tịch 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC).
 Văn bản thông báo
Theo khoản 2 điều 284 BLTTDSHH: “Trường hợp Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cá
nhân, cơ quan tổ chức khác phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì phải thông báo bằng văn bản cho người có quyền
kháng nghị quy định tại Điều 285 BLTTDS”.
 Nội dung văn bản thông báo: khoản 2 điều 1 của Thông tư liên tịch
03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC;
 Xử lý văn bản thông báo: điều 13 của Thông tư liên tịch 03/2013/TTLT-
TANDTC-VKSNDTC

Lưu ý: Hình thức, nội dung văn bản thông báo về việc không kháng nghị, quyết định
kháng nghị giám đốc thẩm (điều 11 của Thông tư liên tịch 03/2013/TTLT-TANDTC-
VKSNDTC).
2.4.2. Quyết định kháng nghị
Theo quy định tại Điều 287 BLTTDSHH thì quyết định kháng nghị phải có các nội
dung như: ngày tháng năm, tên, chức vụ của người ra quyết định kháng nghị, số hiệu bản
án, quyết định bị kháng nghị,…
Trong trường hợp để tránh việc giải quyết yêu cầu kháng nghị một cách không cần
thiết, pháp luật quy định việc thay đổi, bổ sung, rút lại kháng nghị. Thì Điều 289
BLTTDSHH quy định là người đã kháng nghị giám đốc thẩm có quyền thay đổi, bổ sung
quyết định kháng nghị, nếu chưa hết thời hạn kháng nghị. Và họ cũng có quyền rút một
Thủ tục giám đốc thẩm Nhóm 11
phần hoặc toàn bộ quyết định kháng nghị trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà giám
đốc thẩm.
2.4.3. Gửi quyết định kháng nghị (điều 290)
Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm phải được gửi ngay cho Tòa án ra bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, các đương sự, cơ quan thi hành án dân
sự có thẩm quyền và những người khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến nội dung
kháng nghị.
Theo Điểm e, khoản 1, điều 2 TTLT 04/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC thì trong
trường hợp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao hoặc Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh
kháng nghị thì quyết định kháng nghị cùng hồ sơ vụ án phải được gửi ngay cho Viện
kiểm sát cùng cấp ngay sau khi Chánh án tòa án ra quyết định kháng nghị. Viện kiểm sát
nghiên cứu hồ sơ trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án; hết
thời hạn đó, Viện kiểm sát phải chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền giám đốc
thẩm.”
Trong trường hợp, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh kháng nghị thì quyết định kháng nghị phải được gửi
ngay cho Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 286 BLTTDSHH thì người có thẩm quyền kháng

nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án (Chánh án TANDTC, Viện
trưởng VKSNDTC, Chánh án TAND cấp tỉnh và Viện trưởng VKSND cấp tỉnh) có quyền
yêu cầu hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành (toàn bộ hoặc một phần) bản án, quyết định để
xem xét việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Việc thi hành án được thực hiện
theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự. Việc tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án có thể được quyết định cùng với việc
kháng nghị (ngay trong kháng nghị đó) hoặc sau khi đã kháng nghị bằng văn bản riêng.
Thời hạn tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật tính từ ngày ra
quyết định cho đến khi có quyết định giám đốc thẩm.
Thủ tục giám đốc thẩm Nhóm 11
Lưu ý: Chủ thể có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có quyền yêu
cầu hoãn thi hành án một lần để xem xét kháng nghị nhằm tránh hậu quả không thể khắc
phục được. Thời hạn: không quá 3 tháng (Theo điều 48 Luật thi hành án dân sự 2008).
2.5. Thời hạn kháng nghị
Theo khoản 1 điều 288 BLTTDSHH thì:
Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được quyền kháng nghị
trong thời hạn ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự cho thấy, có nhiều trường hợp gần hết thời hạn
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, Tòa án, Viện kiểm sát mới nhận được đơn khiếu
nại của đương sự nên không có đủ thời gian để xem xét; có trường hợp đương sự gửi đơn
trong thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nhưng không được người có thẩm
quyền xem xét hoặc không kịp thời phát hiện các sai sót, do đó, khi phát hiện thì đã hết
thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, làm ảnh hưởng xấu đến quyền và lợi ích
chính đáng của đương sự.
Chính vì vậy, Khoản 2 Điều 288 BLTTDSHH quy định trường hợp đã hết thời hạn
kháng nghị ba năm, được kéo dài thời hạn kháng nghị thêm hai năm, kể từ ngày hết thời
hạn kháng nghị khi có các điều kiện sau đây:
- Thứ nhất, đương sự đã có đơn đề nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 284 của
BLTTDSHH là trong thời hạn một năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật và sau khi hết thời hạn quy định tại khoản 1 điều này đương sự vẫn tiếp tục có đơn

đề nghị.
- Thứ hai, bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật theo
quy định tại điều 283 của BLTTDSHH, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm phạm lợi ích của Nhà nước và phải kháng
nghị để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó.
Lưu ý: Tại Điều 1 Nghị quyết 02/2012/NQ-HĐTP có quy định chi tiết về vấn đề này.
Thủ tục giám đốc thẩm Nhóm 11
3. Xét xử giám đốc thẩm
Quá trình xét xử giám đốc thẩm gồm những nội dung sau:
3.1. Thẩm quyền giám đốc thẩm
Thẩm quyền giám đốc thẩm được xác định bởi tính chất giám đốc thẩm và căn cứ
vào cơ cấu hệ thống tổ chức của tòa án. Theo quy định tại Điều 291 BLTTDSHH, Tòa án
nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh mới có thẩm quyền giám đốc thẩm các bản
án, quyết định giải quyết vụ án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, cụ thể:
1. Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh giám đốc thẩm những bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện bị kháng nghị.
2. Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động của Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm
những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp tỉnh bị
kháng nghị.
3. Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của các Toà phúc thẩm, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động
của Toà án nhân dân tối cao bị kháng nghị.
4. Những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án dân sự thuộc
thẩm quyền của các cấp Toà án khác nhau thì Toà án có cấp trên có thẩm quyền giám đốc
thẩm toàn bộ vụ án.
Ví dụ: Sau khi xét xử sơ thẩm vụ án, phần bản án sơ thẩm của Tòa án cấp tỉnh H về chia
tài sản bị kháng cáo và đã được Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội xét xử. Sau khi phát
hiện bản án phúc thẩm của Tòa phúc thẩm TANDTC và bản án sơ thẩm (phần không bị
kháng cáo) của Tòa án cấp tỉnh H đều có vi phạm pháp luật nghiêm trọng nên Chánh án
TANDTC đã kháng nghị đối với cả hai bản án này. Trong trường hợp này, Hội đồng thẩm

phán TANDTC sẽ xét xử giám đốc thẩm đối với toàn bộ vụ án.
Thủ tục giám đốc thẩm Nhóm 11
3.2. Hội đồng giám đốc thẩm
Khi xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc
thẩm, vì đây là thủ tục đặc biệt, được giao cho các Tòa án khác nhau giải quyết nên thành
phần Hội đồng giám đốc thẩm là những Thẩm phán xét xử chuyên nghiệp, được quy định
phù hợp với Tòa án có thẩm quyền và phù hợp với Luật tổ chức Tòa án nhân dân (gồm
các Thẩm phán, không có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân tham gia). Thành phần Hội
đồng giám đốc thẩm được quy định tại Điều 54 BLTTDSHH cụ thể như sau:
- Hội đồng giám đốc thẩm Toà án nhân dân cấp tỉnh là Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân
cấp tỉnh. Khi Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh tiến hành giám đốc thẩm bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên
tham gia. Về các thành viên của Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh được quy
định tại Điều 29 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002.
- Hội đồng giám đốc thẩm Toà chuyên trách Toà án nhân dân tối cao gồm có ba Thẩm
phán.
- Hội đồng giám đốc thẩm Toà án nhân dân tối cao là Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao. Khi Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao tiến hành giám đốc thẩm bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên
tham gia. Về thành viên của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì được quy
định tại Điều 21 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002.
3.3. Những người tham gia phiên tòa GĐT (Điều 292 BLTTDSHH)
Để đảm bảo thủ tục giám đốc thẩm tiến hành đúng pháp luật, thì Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân cùng cấp phải tham gia tất cả các phiên tòa giám đốc thẩm để thực
hiện nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét lại bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật. Nếu đại diện Viện kiểm sát vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa.
Ngoài ra, việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám
đốc thẩm được tiến hành dựa vào hồ sơ vụ án nên những người tham gia tố tụng cũng
không buộc phải tham gia phiên tòa. Tòa án chỉ triệu tập những người tham gia tố tụng và
những người khác liên quan khi cần thiết cho việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu

lực pháp luật. Nếu người được triệu tập vắng mặt, thì Tòa án vẫn có thể tiến hành xét xử.
Thủ tục giám đốc thẩm Nhóm 11
Tùy từng trường hợp cụ thể, tòa án xác định những người cần triệu tập đến tham gia
phiên tòa. Trong trường hợp triệu tập ai đến tham gia phiên tòa thì Tòa án phải gửi giấy
triệu tập cho họ và trong giấy triệu tập phải ghi rõ ngày, giờ, địa điểm mở phiên tòa.
3.4. PHIÊN TÒA GIÁM ĐỐC THẨM
3.4.1. Thời hạn mở phiên tòa và chuẩn bị phiên tòa giám đốc thẩm
Để sớm sửa chữa những sai lầm trong các bản án, quyết định bị kháng nghị, tòa án
mở phiên tòa giám đốc thẩm càng sớm càng tốt. Điều 293 BLTTDSHH quy định phiên
tòa giám đốc thẩm phải được tiến hành trong thời hạn bốn tháng, kể từ ngày nhận được
kháng nghị kèm theo hồ sơ vụ án. Trong thời hạn này, tòa án tiến hành tất cả các công
việc cần thiết cho việc mở phiên toà giám đốc thẩm.
Việc chuẩn bị phiên tòa được tiến hành như sau:
Sau khi nhận được kháng nghị, tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm yêu cầu tòa án
đã ra bản án, quyết định bị kháng nghị chuyển hồ sơ vụ án cho tòa án mình nghiên cứu
chuẩn bị xét xử. Chánh án Tòa án hoặc Chánh án Tòa chuyên trách của TANDTC phân
công một thẩm phán là thành viên của Hội đồng xét xử chịu trách nhiệm chính trong việc
chuẩn bị xét xử. Thành viên này có nhiệm vụ nghiên cứu lại trước hồ sơ vụ án, bản án,
quyết định bị kháng nghị, bản kháng nghị, kết luận viết của Viện kiểm sát (nếu có) và làm
bản thuyết trình về vụ án. Các thành viên khác của hội đồng xét xử cũng tham gia nghiên
cứu hồ sơ vụ án, nắm vững nội dung vụ án để tham gia xét xử.
Nội dung bản thuyết trình phải tóm tắt được nội dung vụ án và các bản án, quyết
định của các cấp tòa án, nội dung của kháng nghị. Bản thuyết trình phải được gửi trước
cho thành viên hội đồng giám đốc thẩm chậm nhất là bảy ngày trước ngày mở phiên tòa
giám đốc thẩm. (Điều 294 BLTTDSHH).
3.4.2. Thủ tục tiến hành phiên toà giám đốc thẩm
Thủ tục giám đốc thẩm là một thủ tục đặc biệt nhằm xét lại bản án, quyết đã có hiệu
lực pháp luật nhưng phát hiện có sai lầm nghiêm trọng, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước nên phải được xem xét
Thủ tục giám đốc thẩm Nhóm 11

theo một trình tự chặt chẽ và có nhiều điểm khác biệt với phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm vì
nó được tiến hành trên cơ sở xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án là chủ yếu.
Bên cạnh đó, do giám đốc thẩm không phải là một cấp xét xử nên phiên tòa giám
đốc thẩm không phải là một phiên tòa công khai mà giống như một phiên họp và được
tiến hành trong phòng họp của Tòa án dưới sự điều hành của Chủ tọa phiên tòa.
Cụ thể, theo Điều 295 BLTTDSHH phiên tòa giám đốc thẩm diễn ra theo thủ tục cụ
thể như sau:
- Chủ tọa khai mạc phiên toà.
- Một thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quá trình
xét xử vụ án, quyết định của bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị
kháng nghị, các căn cứ, nhận định của kháng nghị và đề nghị của người kháng nghị.
- Trong trường hợp có người tham gia tố tụng hoặc người khác được Toà án triệu tập tham
gia phiên toà giám đốc thẩm thì họ được trình bày ý kiến của mình về quyết định kháng
nghị.
- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về quyết định kháng nghị.
- Các thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm thảo luận và phát biểu ý kiến của mình về
việc giải quyết vụ án.
- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.
- Hội đồng giám đốc thẩm biểu quyết về việc giải quyết vụ án theo trình tự tán thành,
không tán thành và ý kiến khác.
Quyết định giám đốc thẩm của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải được quá nửa tổng số thành viên của
Uỷ ban Thẩm phán hoặc Hội đồng Thẩm phán biểu quyết tán thành.
Trong trường hợp không được quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban Thẩm phán
Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao biểu quyết
tán thành thì phải hoãn phiên toà. Và trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày ra quyết
định hoãn phiên toà, Uỷ ban Thẩm phán, Hội đồng Thẩm phán phải tiến hành xét xử lại
với sự tham gia của toàn thể các thành viên.
Thủ tục giám đốc thẩm Nhóm 11
3.4.3. Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm

- Phạm vi giám đốc thẩm (Điều 296 BLDSHH)
Việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm
nhằm khắc phục, sủa chữa những sai lầm trọng các bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật. Về nguyên tắc, để khắc phục, sửa chữa những sai lầm trong các bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật thì Hội đồng giám đốc thẩm phải được xét lại toàn bộ nội
dung bản án, quyết định bị kháng nghị. Tuy vậy, để tránh làm mất tính ổn định của bản
án, quyết định, kéo dài việc giải quyết vụ án thì Hội đồng giám đốc thẩm chỉ xem xét lại
phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị hoặc có
liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị. Ngoài ra, Hội đồng thẩm phán có quyền
xem xét phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không bị kháng
nghị hoặc không có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị, nếu phần quyết
định đó liên quan đến lợi ích nhà nước, lợi ích của người thứ ba không phải là đương sự
trong vụ án.
- Quyền hạn của Hội đồng giám đốc thẩm
Để phù hợp với thực tiễn Việt Nam, phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế, Bộ
luật tố tụng dân sự không quy định cho Hội đồng giám đốc thẩm có quyền sửa bản án,
quyết định của Tòa án cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm mà chỉ quy định Hội đồng giám đốc thẩm có các quyền sau đây(Điều 297
BLTTDSHH):
1. Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật;
Đây là trường hợp mà Hội đồng giám đốc thẩm sau khi xem xét thấy rằng không
có sự vi phạm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án dân sự, không sai về thủ tục tố
tụng cũng như việc áp dụng pháp luật. Hội đồng giám đốc thẩm không chấp nhận kháng
nghị và giữ nguyên bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật khi những bản
án hay quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc phúc thẩm phù hợp với pháp luật, đúng
người và phù hợp với thực tế khách quan của vụ án dân sự và việc kháng nghị là không
có căn cứ.
Thủ tục giám đốc thẩm Nhóm 11
2. Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết

định đúng pháp luật của Tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa;
Theo điều 298 BLTTDSHH thì:
Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật bị kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định của Toà án cấp dưới xét xử đúng
pháp luật, nhưng đã bị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị huỷ bỏ
hoặc sửa đổi một phần hay toàn bộ.
Ví dụ: Khi xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm của Tòa
kinh tế TANDTC có thể hủy bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và giữ
nguyên bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện đã bị Tòa án nhân dân cấp
tỉnh sửa hoặc bị hủy.
3. Hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật để xét
xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại;
(Điều 299 BLTTDSHH)
4. Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã xét xử vụ án và đình chỉ giải quyết vụ án.
Hội đồng giám đốc thẩm quyết định huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật và đình chỉ giải quyết vụ án, nếu vụ án đó thuộc một trong các trường hợp quy định
tại Điều 192 của Bộ luật này.
Trường hợp quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với vụ trường hợp sự việc
không thuộc thẩm quyền của tòa án thì tòa án cần hướng dẫn đương sự yêu cầu cơ quan
có thẩm quyền để giải quyết.
3.4.4. Ra quyết định giám đốc thẩm
Khi xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tòa án ra quyết định giám
đốc thẩm. Quyết định giám đốc thẩm phải có các nội dung theo quy định tại khoản 2
Điều 301 BLTTDSHH. Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực thi hành ngày kể từ lúc
Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định (Điều 302 BLDSHH).
Như vậy, Quyết định giám đốc thẩm phải được thi hành và phải được mọi công
dân , cơ quan, tổ chức tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành. Tuy nhiên, Quyết định giám
đốc thẩm ( trừ Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán TANDTC) có thể bị
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm khi có các căn cứ quy định tại Điều
283 và 305 BLTTDSHH.

Thủ tục giám đốc thẩm Nhóm 11
Đối với quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao có thể
bị yêu cầu, kiến nghị hoặc đề nghị xem xét lại theo thủ tục đặc biệt trong các trường hợp
quy định tại điều 310a BLTTDSHH.
Sau khi ra quyết định giám đốc thẩm, theo quy định tại Điều 303 BLTTDSHH thì
trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định, Hội đồng giám đốc thẩm phải
gửi quyết định giám đốc thẩm cho đương sự và những người khác có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan theo quyết định giám đốc thẩm; Tòa án ra bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật bị kháng nghị; Viện kiểm sát cùng cấp và cơ quan thị hành án dân sự có thẩm
quyền.
(Việc gửi quyết định giám đốc thẩm được thực hiện theo quy định theo thủ tục
cấp, tống đạt, thông báo bằng văn bản tố tụng quy định tại các điều 146 đến156
BLTTDSHH).
Thủ tục tái thẩm Nhóm 11
II. THỦ TỤC TÁI THẨM
Thực tế, có nhiều trường hợp sau khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
mới phát hiện những tình tiết có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết vụ án nhưng
lúc ra bản án, quyết định các đương sự và tòa án đã không biết được. Đối với những bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật này vẫn cần xem xét lại. Khi phát hiện được
những tình tiết mới, người có thẩm quyền của tòa án cấp trên, Viện kiểm soát nhân dân
cấp trên có quyền kháng nghị yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xét lại bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của Toà án. Thủ tục này được gọi là thủ tục tái thẩm.
Thủ tục tái thẩm được quy định tại chương XIX (bao gồm 7 Điều từ Điều 304 đến
Điều 310) của BLTTDS
1. Khái niệm và ý nghĩa tái thẩm dân sự
1.1. Khái niệm tái thẩm dân sự
Theo Điều 304 BLTTDSHH quy định tính chất của tái thẩm, đồng thời cũng chính
là khái niệm pháp lý về tái thẩm: “Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay
đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Toà án, các đương sự không biết được

khi Toà án ra bản án, quyết định đó.”
Từ khái niệm trên ta thấy, cũng như Giám đốc thẩm, thủ tục tái thẩm là một thủ tục
đặc biệt của tố tụng dân sự. Tính chất của thủ tục tái thẩm cũng là “xét lại” khác với “xét
xử” trong thủ tục sơ thẩm hay “xét xử lại” trong thủ tục phúc thẩm. Tuy nhiên, việc xét
lại bản án, quyết định đã có hiệu lực này là dựa trên cơ sở mới phát hiện tình tiết quan
trọng của vụ án chứ không phải là trên cơ sở phát hiện sai lầm của Tòa án trong việc giải
quyết vụ án như trong giám đốc thẩm.
Như vậy, ta có thể hiểu rằng, trong thủ tục tái thẩm Tòa án không có nhiệm vụ xét
xử lại vụ án mà chỉ tiến hành kiểm tra, xem xét, đối chiếu với những quy định của pháp
Thủ tục tái thẩm Nhóm 11
luật xem bản án hoặc quyết định bị kháng nghị có căn cứ và hợp pháp không. Hay nói
cách khác, Hội đồng tái thẩm có quyền “xét” chứ không “xử”. Vì vậy, thủ tục tái thẩm
không được coi là một cấp xét xử trong hệ thống tư pháp Việt Nam.
1.2. Ý nghĩa tái thẩm dân sự
Tái thẩm dân sự có ý nghĩa quan trọng đối với cả việc giải quyết vụ án dân sự của
tòa án và việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Việc xét xử lại theo thủ tục
tái thẩm giúp:
 Tòa án khắc phục được những thiếu sót trong những bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật không phụ thuộc vào thời gian bản án, quyết đinh có hiệu lực pháp luật và được
thi hành từ bao giờ.
 Đảm bảo tính pháp chế xã hội chủ nghĩa của công tác xét xử.
 Bảo đảm cho bản án, quyết đinh cho tòa án có căn cứ và hợp pháp, từ đó có tác dụng bảo
vệ được các quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án.
Tóm lại, ngoài việc giúp cơ quan có thẩm quyền thực hiện đúng vai trò chức năng
của mình, thủ tục tái thẩm cũng mở ra một cơ hội mới về công lý, công bằng xã hội; thực
hiện tốt phương châm trong công tác xét xử của Tòa án là xử đúng người, đúng tội và
đúng pháp luật.
2. Kháng nghị theo thủ tục tái thẩm dân sự
2.1. Khái niệm kháng nghị theo thủ tục tái thẩm:
Trong trường hợp bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật mới phát

hiện được các tình tiết quan trọng làm thay đổi nội dung vụ án thì người có thẩm quyền
của Tòa án, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xét lại bản án, quyết
định đó. Hoạt động này được gọi là kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
Như vậy, kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là hoạt động của người có thẩm quyền
của Tòa án, Viện kiểm sát trong việc yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xét lại bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật do phát hiện được tình tiết mới làm thay đổi nội dung vụ án
tái thẩm dân sự.
Thủ tục tái thẩm Nhóm 11
2.2. Căn cứ kháng nghị tái thẩm
Cũng như thủ tục giám đốc thẩm, căn cứ tái thẩm là những cơ sở để một bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án được xét lại theo thủ tục tái thẩm đồng thời
kèm một số điều kiện cơ bản. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong bốn căn cứ được quy định tại Điều 305
BLTTDSHH như sau:
+ Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết
được trong quá trình giải quyết vụ án;
Khi xác định những tình tiết nào mới được phát hiện là căn cứ để kháng nghị theo thủ
tục tái thẩm thì phải xét tới các vấn đề sau:
• Tình tiết mới được phát hiện phải là tình tiết đã có vào lúc Tòa án giải quyết vụ
án mà Tòa án và đương sự đã không thể biết được. những tình tiết mới phát
sinh sau khi Tòa án giải quyết vụ án thì không phải là căn cứ kháng nghị theo
thủ tục tái thẩm, căn cứ đó có thể là căn cứ để khởi kiện một vụ án khác.
• Tình tiết mới được phát hiện phải là tình tiết quan trọng, liên quan đến vụ án,
làm thay đổi cả nội dung vụ án, làm cho bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật không hợp pháp, không có căn cứ. Đối với những tình tiết tuy mới được
phát hiện nhưng không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật
giữa các đương sự, không có mối quan hệ nhân quả đối với quyết định của Tòa
án thì cũng không là căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
• Những tình tiết mới được phát hiện làm căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái
thẩm phải là những tình tiết Tòa án muốn xác định được phải qua quá trình xét

xử lại. Những tình tiết đã có sẵn trong hồ sơ vụ án, Tòa án không đánh giá sử
dụng hoặc những tình tiết đã có vào lúc Tòa án giải quyết vụ án nhưng do sai
lầm nên Tòa án không phát hiện được, không yêu cầu đương sự cung cấp thì
không được coi là tình tiết mới.
Ví dụ: Trong quá trình giải quyết vụ án chia di sản thừa kế các đương sự không biết
được người để lại di sản thừa kế đã lập di chúc để lại toàn bộ khối di sản cho người
Thủ tục tái thẩm Nhóm 11
con út, nên vụ án đã được giải quyết theo pháp luật. Mấy năm sau người con út mới
phát hiện ra di chúc. Việc phát hiện ra di chúc là tình tiết mới quan trọng làm thay đổi
bản chất của vụ án. Bản án nếu so với di chúc thì khác nhiều và kết luận của bản án đã
làm thiệt hại đến lợi ích của thừa kế được chỉ định trong di chúc. Đây là tình tiết quan
trọng để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
+ Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không
đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ;
Bằng chứng, kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch là những
phương tiện quan trọng được Tòa án sử dụng để xác định sự thật của vụ án. Trong nhiều
trường hợp, nó mang tính chất quyết định đối với việc giải quyết vụ việc dân sự thì khi có
cơ sở chứng minh rằng kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch rõ
ràng không đúng sự thật hoặc có giả mạo bằng chứng thì phải kháng nghị xét lại bản án,
quyết định theo thủ tục tái thẩm.
+ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý
kết luận trái pháp luật;
Theo Khoản 3 Điều 305 BLTTDSHH thì bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
của Tòa án cũng được xét lại theo thủ tục tái thẩm khi có căn cứ chứng minh rằng Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận
trái pháp luật. Cần phân biệt căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm “có sai lầm
nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật” với căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
“…cố ý kết luận trái pháp luật”. “Sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật” và
“cố ý kết luận trái pháp luật” đều là áp dụng pháp luật không đúng, nhưng căn cứ để
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là xuất phát từ việc nhận thức của Thẩm phán về

việc áp dụng pháp luật. Thẩm phán cho rằng mình áp dụng pháp luật là đúng nhưng thực
tế là không đúng. Còn căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là Thẩm phán biết rõ việc
kết luận của mình là không đúng pháp luật nhưng vẫn cứ kết luận. Đây là những trường
hợp hồ sơ đã đầy đủ các tài liệu, chứng cứ, các tình tiết trong vụ án và pháp luật rõ ràng,
nhưng Thẩm phán lại xử không đúng pháp luật.
Thủ tục tái thẩm Nhóm 11
+ Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động của Toà án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước mà Toà án căn
cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị huỷ bỏ.
Khi một sự kiện pháp lý đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật thì khi có trong một vụ việc khác, Tòa án có thể căn cứ vào đó để giải
quyết mà không cần xác minh lại. Tuy vậy, nếu việc xác định sự kiện này của Tòa án hay
cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước đó có sai lầm nên bản án, quyết định của Tòa án
đã dựa vào để giải quyết vụ án đã bị hủy thì phải kháng nghị để xét lại bản án, quyết định
của Tòa án vì nó đã giải quyết không đúng bản chất.
2.3. Chủ thể có quyền kháng nghị
Căn cứ tại Điều 307 BLTTDSHH thì chủ thể có quyền kháng nghị theo thủ tục tái
thẩm cũng gần giống như giám đốc thẩm. Tức là, chỉ có Chánh án TAND cấp tỉnh, Viện
trưởng VKSND cấp tỉnh, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC mới có quyền
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Cụ thể như sau:
+ Chánh án TAND cấp tỉnh, Viện trưởng VKSND cấp tỉnh có quyền kháng nghị bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện
+ Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án
các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
+ Người đã kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền quyết định
tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đó cho đến khi có quyết định tái thẩm.
2.4. Thông báo và xác minh những tình tiết mới được phát hiện
Nếu như căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm là những vi phạm pháp luật nghiêm
trọng trong việc xử lý vụ án thì căn cứ kháng nghị tái thẩm chủ yếu là những vi phạm

pháp luật (hay còn gọi là sai lầm) mang tính chủ quan của người tiến hành tố tụng. Ngoại
trừ trường hợp căn cứ do có tình tiết mới làm thay đổi nội dung vụ án mà Tòa án không
có lỗi trong việc không biết có tình tiết mới này bởi việc xác định sự thật của vụ án hoàn
Thủ tục tái thẩm Nhóm 11
toàn không đơn giản, đôi khi vượt quá nhận thức của con người vào thời điểm ra bản án
hoặc quyết định. Vì vậy, tại Điều 306 BLTTDSHH nhà làm luật đã quy định về việc
thông báo và xác minh những tình tiết mới được phát hiện như sau:
+ Đương sự hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền phát hiện tình tiết mới của vụ
án và thông báo bằng văn bản cho những người có quyền kháng nghị quy định tại Điều
307 của Bộ luật này.
+ Trong trường hợp phát hiện tình tiết mới của vụ án, Viện kiểm sát, Toà án phải thông báo
bằng văn bản cho những người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 307 của Bộ luật
này.
Đương sự hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc Viện kiểm sát, Tòa án phát hiện tình
tiết mới thì phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm
biết được những tình tiết mới đó dựa vào những căn cứ tại Điều 305 BLTTDSHH để
được các chủ thể có thẩm quyền kháng nghị đảm bảo thời hạn và đúng quy định của pháp
luật. Nếu không có căn cứ theo Điều 305 BLTTDSHH, Viện trưởng Viện kiểm sát trả lời
cho cơ quan, tổ chức hoặc người đã phát hiện biết rõ lý do của việc không kháng nghị.
Ngoài ra, tại Điều 14 Thông tư liên tịch 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC
hướng dẫn chi tiết việc thực hiện đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật theo thủ tục tái thẩm quy định tại khoản 1 Điều 306 BLTTDSHH,
văn bản thông báo của Tòa án, Viện kiểm sát cho người có quyền kháng nghị quy định tại
khoản 2 Điều 306 BLTTDSHH; hướng dẫn chuyển vụ việc hồ sơ của Tòa án, Viện kiểm
sát để xem xét kháng nghị tại Khoản 3, 4, 5, 6 Điều 2 Thông tư liên tịch 04/2012/ TTLT –
TANDTC - VKSNDTC
2.5. Thời hạn kháng nghị tái thẩm
Thời hạn kháng nghị tái thẩm được quy định tại Điều 308 BLTTDSHH là một năm,
kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục
tái thẩm quy định tại Điều 305 của Bộ luật này.

Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm không lấy mốc là ngày bản án, quyết định
của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà tính từ ngày phát hiện được tình tiết mới là căn cứ để
Thủ tục tái thẩm Nhóm 11
kháng nghị theo quy định của BLTTDSHH. Vậy, ngày phát hiện tình tiết mới là ngày
nào? Cần lưu ý rằng, thời điểm bắt đầu tính thời hạn tức là tình tiết mới được phát hiện
chỉ có ý nghĩa khi Viện kiểm sát hoặc Tòa án nhận được nguồn tin đó và bắt đầu tính thời
hạn, chứ không phải ngày đương sự hay một cơ quan, tổ chức nào khác phát hiện được
những tình tiết mới đó. Khi nhận được nguồn tin về tình tiết mới, Tòa án hoặc Viện kiểm
sát còn phải tiến hành nghiên cứu, xác minh làm rõ đó có phải là tình tiết mới hay không?
Từ đó có quyết định kháng nghị hay không? Và BLTTDSHH quy định khoảng thời gian
từ khi nhận được nguồn tin đến ngày ra quyết định kháng nghị tái thẩm là một năm. Quy
định này đảm bảo được việc phát hiện, khắc phục hậu quả một cách kịp thời, nhanh
chóng.
2.6. Những quy định khác (áp dụng Điều 310 BLTTDSHH)
Thủ tục tái thẩm và giám đốc thẩm có một số nét tương đồng về thủ tục tố tụng nên
BLTTDS đã quy định nếu các quy định về thủ tục tái thẩm mà luật không quy định thì có
thể dựa vào quy định của thủ tục giám đốc thẩm theo Điều 310 BLTTDSHH. Từ đó,
ngoài những quy định của kháng nghị tái thẩm kể trên thì những quy định khác của
kháng nghị tái thẩm sẽ giống với kháng nghị giám đốc thẩm. Bao gồm:
+ Thủ tục gửi, nhận và xem xét đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật theo thủ tục tái thẩm áp dụng tương tự Điều 284b BLTTDSHH; hướng
dẫn chi tiết tại Điều 2, 3, 4, 5, 8, 9 Thông tư liên tịch 03/2013/TTLT-TANDTC-
VKSNDTC;
+ Hoãn, tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật áp dụng tương tự
Điều 286 BLTTDSHH; Điều 48, 49 Luật thi hành án dân sự 2008;
+ Quyết định kháng nghị tái thẩm áp dụng tương tự Điều 287 BLTTDSHH;
+ Thay đổi, bổ sung, rút quyết định kháng nghị tái thẩm áp dụng tương tự Điều 289
BLTTDSHH;
+ Gửi quyết định kháng nghị tái thẩm áp dụng tương tự Điều 290 BLTTDSHH; Điểm e
Khoản 1 Điều 2 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC.

Thủ tục tái thẩm Nhóm 11
3. Xét xử tái thẩm
3.1. Thẩm quyền của Hội đồng tái thẩm (Điều 309 BLTTDSHH)
Vì thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm đều là thủ tục xét lại bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét trực tiếp về quyền và
lợi ích của các bên đương sự mà chỉ xem xét tính hợp pháp của bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới trên cơ sở hồ sơ vụ án. Với tính chất này, thẩm
quyền của Hội đồng tái thẩm giống Hội đồng giám đốc thẩm ở chỗ:
+ Có quyền không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật nếu bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật là đúng, việc
kháng nghị không có căn cứ;
+ Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án nếu
có 1 trong các căn cứ quy định tại Điều 192 BLTTDSHH
Ngoài hai quyền hạn trên thì do tính chất của giám đốc thẩm và tái thẩm khác nhau
nên quyền hạn của Hội đồng tái thẩm cũng khác với Hội đồng giám đốc thẩm ở chỗ:
+ Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục
chung.
LƯU Ý: Thủ tục tái thẩm không có việc giao vụ việc để xét xử phúc thẩm lại.
Khi kháng nghị có căn cứ, nghĩa là quyết định của Toà án trong các bản án, quyết
định bị kháng nghị giải quyết vụ án không phù hợp với thực tế khách quan của nó, không
đúng pháp luật thì Hội đồng tái thẩm hủy bản án, quyết định để xét xử lại vụ án. Tòa án
xử lại vụ án phải tiến hành giải quyết vụ án như đối với vụ án mới. Trong quá trình giải
quyết vụ án, Tòa án phải tuân thủ tất cả các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Điều
này lý giải tại sao Hội đồng tái thẩm phải hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
để xét xử sơ thẩm lại mà không thể xét xử phúc thẩm lại như thủ tục giám đốc thẩm. Còn
ở thủ tục tái thẩm, nếu xác định có tình tiết mới làm thay đổi nội dung vụ án thì phải xử
lại vụ án đó như đối với án mới nên phải xét xử sơ thẩm.
Thủ tục tái thẩm Nhóm 11
Khi hủy bản án, quyết định để điều tra xét xử lại, Hội đồng tái thẩm có thể hướng
dẫn Tòa án cấp dưới xử lại vụ án về những vấn đề cần thiết. Tuy nhiên, khi giải quyết lại

vụ án Tòa án cấp dưới vẫn phải căn cứ vào pháp luật và thực tế khách quan của vụ án để
quyết định. Bản án, quyết định của Tòa án xét xử lại vụ án cũng có thể bị kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
3.2. Những quy định khác (áp dụng Điều 310 BLTTDSHH)
Như đã nói ở trên, căn cứ theo Điều 310 BLTTDSHH nếu có các quy định khác về
thủ tục tái thẩm không được quy định thì được thực hiện như các quy định về thủ tục
giám đốc thẩm trong luật này. Như vậy, về quy định xét xử tái thẩm sẽ giống với quy
định xét xử giám đốc thẩm ở những điểm sau:
+ Thẩm quyền tái thẩm áp dụng tương tự Điều 291 BLTTDSHH
+ Thành phần Hội đồng tái thẩm áp dụng tương tự Điều 292 BLTTDSHH, Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2002
+ Thời hạn mở phiên toà tái thẩm áp dụng tương tự Điều 293 BLTTDSHH
+ Chuẩn bị phiên toà tái thẩm áp dụng tương tự Điều 294 BLTTDSHH
+ Thủ tục phiên toà tái thẩm áp dụng tương tự Điều 295 BLTTDSHH
+ Phạm vi tái thẩm áp dụng tương tự Điều 296 BLTTDSHH
+ Quyết định tái thẩm áp dụng tương tự Điều 301 BLTTDSHH
+ Hiệu lực của quyết định tái thẩm áp dụng tương tự Điều 302 BLTTDSHH
+ Gửi quyết định tái thẩm áp dụng tương tự Điều 303 BLTTDSHH
4. Áp dụng pháp luật tố tụng dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
(hướng dẫn theo Nghị quyết 02/2012/NQ-HĐTP)
Áp dụng pháp luật tố tụng dân sự để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối
với bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia định, kinh doanh, thương mại, lao động
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày 01/01/2012 (Điều 2)
Áp dụng pháp luật tố tụng dân sự để giải quyết vụ việc dân sự được thụ lý trước ngày
01/01/2012 (Điều 3)

×