Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

ỨNG DỤNG kỹ THUẬT GHI điện não NGHIÊN cứu CHỨC NĂNG THẦN KINH TRONG QUÁ TRÌNH LAO ĐỘNG của CÔNG NHÂN cột CAO THÔNG TIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.53 KB, 4 trang )


Y H

C TH

C HÀNH (914)
-

S


4
/2014







188
ỨNG DỤNG KỸ THUẬT GHI ĐIỆN NÃO NGHIÊN CỨU CHỨC NĂNG THẦN KINH
TRONG QUÁ TRÌNH LAO ĐỘNG CỦA CÔNG NHÂN CỘT CAO THÔNG TIN

TRỊNH HOÀNG HÀ - Khoa Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội

TÓM TẮT
Nghiên cứu cắt ngang có so sánh được tiến hành
trên 36 công nhân cột cao thông tin và 34 đối tượng
đối chứng trong Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt
Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy, có sự giảm sút có


ý nghĩa thống kờ một số chỉ tiờu trờn điện nóo đồ của
công nhân cột cao thông tin ở trước ca so với sau ca
làm việc trên cao: Biên độ sóng Alpha từ
25,03

7,36

V giảm cũn 18,69

6,39

V; Chỉ số sóng
Alpha từ 45,14

14,27% giảm cũn 39,04

12,23%;
Thời gian dập tắt sóng Alpha từ 0,053

0,013s kéo dài
lên 0,078

0,014s; Thời gian phục hồi sóng Alpha từ
0,399

0,013s kéo dài lên 0,570

0,016s. Điện nóo đồ
là kỹ thuật có giá trị trong nghiên cứu đánh giá tâm
sinh lý và mệt mỏi trong lao động trí tuệ.

SUMMARY
Cross-sectional studies have been conducted to
compare 36 workers working with high informatic poles
and 34 individuals as control in Vietnam Post and
Telecommunication Group. The study results show that
there was statistically significant decrease on some
indicators of the EEG of workers before working with
high informatic poles in comparison with after that. Alpha
wave amplitute from 25.03

7.36

V downed to 18.69


6.39

V; Alpha wave index from 45.14

14.27 %
decreased to 39.04

12.23%, Alpha waves extinguish
time from 0.053

0.013s prolonged to 0.0780

0.014s;
Alpha waves recovery time from 0.399


0.013s
extended to 0.570

0.016s. EEG technique is valuable
in evaluation studies on physiology and fatigue
chracteristics of intellectual work.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Công nhân cột cao thông tin (CNCCTT) thuộc Tập
đoàn Bưu Chính Viễn Thông Việt Nam (TĐBCVTVN)
làm công việc: xây lắp, sửa chữa, bảo dưỡng hệ
thống cột cao anten và các thiết bị trên cột có độ cao
từ 6,5 đến 120m. Độ cao, yêu cầu kỹ thuật chính xác
trong điều kiện vi khí hậu khắc nghiệt ngoài trời và
chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi bức xạ điện từ tần số
Radio từ anten, luôn là áp lực về thần kinh tâm lý, thể
lực đối với CNCCTT. Theo thông báo của
TĐBCVTVN, tai nạn lao động do làm việc trờn cao
chiếm khoảng 30%ữ40% trong tổng số tai nạn trong
toàn ngành. Vỡ vậy, cột cao thông tin được Ngành
Bưu Điện và Nhà nước xếp vào loại lao động đặc biệt
nặng nhọc, độc hại nguy hiểm và được đề xuất xây
dựng tiêu chuẩn tuyển chọn đặc thù.
Từ năm 1986, OSHA (Occupational Safety and
Health Administration) Mỹ đó đề nghị sửa đổi Luật về
phũng trỏnh ngó nghề nghiệp. Nhỡn chung, luật yờu
cầu cụng nhõn làm việc ở nơi nguy cơ ngó cao (từ
1,8m trở lờn) phải được cung cấp các thiết bị phũng
ngừa hoặc ngặn chặn ngó nghề nghiệp. Theo thống
kờ tại Mỹ năm 1994, trong 6067 trường hợp tử vong ở
nam, ngó cao chiếm 10,3%; tỷ lệ ngó bắt đầu tăng cao

ở tuổi 45 - 54 và tăng cao hơn ở tuổi trên 55 [5,6].
Việc nghiên cứu điều kiện lao động và sức khỏe
công nhân làm việc trên cao ở Việt Nam gặp nhiều khó
khăn do thiếu các thiết bị hiện đại để thu thập thông tin
khách quan ở giai đoạn tiền lâm sàng. Vỡ vậy, cho
đến hiện nay, chúng ta vẫn chưa thống nhất được các
tiêu chuẩn tuyển chọn sức khỏe phù hợp với nghề
này, đặc biệt là các tiêu chuẩn về tâm sinh lý.
Xuất phát từ những yêu cầu cấp bách trên, chúng
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu
sau:
- Góp phần đánh giá sự biến đổi chức năng thần
kinh của CNCCTT trong ca lao động.
- Trên cơ sở đó đề xuất hướng nghiên cứu mới
nhằm bảo vệ và chăm sóc sức khỏe CNCCTT.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là cán bộ công nhân viên
làm việc tại đơn vị nghiên cứu được chọn trong
TĐBCVTVN, đối tượng được chia làm 2 nhóm:
- Nhóm chủ cứu: là CNCCTT.
- Nhóm đối chứng: là công nhân viên làm công tác
hành chính ương ứng mọi điều kiện, nhưng không
tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ của nghề CNCCTT.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu ngang có
so sánh
2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu: Áp dụng công thức
tính cỡ mẫu cho việc so sánh khác biệt giữa hai trị số
trung bỡnh như sau:

 
2
2
2
21
2
,



 Znn

Trong đó:  là độ lệch chuẩn;  là sự khỏc biệt
giữa hai số trung bỡnh trước và sau ca lao động.

2
(, ) là mức ý nghĩa thống kờ, tra bảng 10,5.
Tham khảo các nghiên cứu trước, chọn độ lệch
chuẩn của biên độ sóng  là 6V và sai khỏc nhau
giữa hai trị số trung bỡnh của iên độ sóng  là 5V.
Thay vào công thức tính được số đối tượng nghiên
cứu tối thiểu là 30,24 làm trũn là 31 đối tượng cho
mỗi nhóm nghiên cứu.
2.3. Kỹ thuật thu thập thông tin:
- Ghi điện nóo đồ bằng máy kỹ thuật số
NEUROFAX- Nhật, theo phương pháp lưỡng cực tại
4 vùng trán, đỉnh, chẩm, thái dương (hai bên phải và
trái). Các nghiệm pháp chức năng được sử dụng
trong khi ghi điện nóo là mở mắt - nhắm mắt và thở
sõu 2 phỳt. Tại thời điểm trước và sau ca làm việc

trên cao.
- Khi phân tích điện nóo, đó tiến hành phõn loại
điện nóo và tớnh toỏn cỏc thụng số tần số, biờn độ


Y H

C TH

C HÀNH (914)
-

S


4
/2014







189

và chỉ số của các sóng điện nóo chủ yếu là súng
Alpha.
2.4. Phương pháp thống kê xử lý số liệu: trên
Epi-Info 6.4. và SPSS.

2.5. Đạo đức nghiên cứu: nghiên cứu tuân thủ
theo quy định và được Hội đồng đạo đức của Bệnh
viện Bưu điện thông qua trước khi tiến hành.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Các chi số cơ bản của sóng Alph trên điện
nóo đồ
Bảng 1: Tần số sóng Alpha trên điện nóo đồ của
CNCCTT và đối chứng.
Nhóm
nghiên cứu
ĐV
tính
Trư
ớc ca

Sau ca

p
X  X 
Chủ cứu
(n=36)
CK/s

11,19

1,22 10,46

0,82
0,05


Đối chứng
(n=34)
CK/s

10,06

1,29 10,00

1,52
0,05

p

0,05

0,05
Ở thời điểm sau ca lao động, tần số sóng  của
CNCCTT và nhóm đối chứng đều giảm hơn so với
trước ca. Tuy nhiên, sự khác nhau này chưa có ý
nghĩa thống kờ.
Bảng 2: Biên độ sóng Alpha trên điện nóo đồ của
CNCCTT và đối chứng.
Nhóm
nghiên cứu
ĐV
tính
Trước ca Sau ca
p

X




X


Chủ cứu
(n=36)
V
25,03

7,36 18,69

6,39
0,05
Đối chứng
(n=34)
V 27,94

10,32

24,77

10,92

0,05
p >0,05
0,05

- Tại thời điểm trước ca Biên độ sóng Alpha của

CNCCTT thấp hơn so với nhóm đối chứng. Tuy
nhiên, sự khác nhau này chưa có ý nghĩa thống kờ.
- Tại thời điểm sau ca lao động, biên độ sóng
Alpha của CNCCTT giảm thấp hơn so với trước ca
có ý nghĩa thống kờ. Đặc biệt là biên độ sóng Alpha
của CNCCTT giảm thấp nhiều hơn so với nhóm đối
chứng có ý nghĩa thống kờ. Trong khi đó, biên độ
sóng Alpha của nhóm đối chứng cũng giảm thấp hơn
so với trước ca. Tuy nhiên, sự khác nhau này chưa
có ý nghĩa thống kờ.
Bảng 3: Chỉ số sóng Alpha trên điện nóo đồ của
CNCCTT và đối chứng.
Nhóm
nghiên cứu
ĐV
tính
Trước ca Sau ca
p
X  X 
Chủ cứu
(n=36)
% 45,14

14,27

39,04

12,23

0,05

Đối chứng
(n=34)
% 51,62

112,4
1
52,67

14,09

0,05
p <0,05
0,001

- Tại thời điểm trước ca chỉ số sóng Alpha của
CNCCTT thấp hơn so với nhóm đối chứng có ý nghĩa
thống kờ.
- Tại thời điểm sau ca lao động, chỉ số sóng Alpha
của CNCCTT giảm thấp hơn so với trước ca có ý
nghĩa thống kờ. Đặc biệt là chỉ số sóng Alpha của
CNCCTT giảm thấp nhiều hơn so với nhóm đối
chứng có ý nghĩa thống kờ. Trong khi đó, chỉ số
sóng Alpha của nhóm đối chứng lại có xu hướng tăng
hơn so với trước ca. Tuy nhiên, sự khác nhau này
chưa có ý nghĩa thống kờ.
2. Kết quả Các nghiệm pháp chức năng
Bảng 4: Thời gian dập tắt sóng Alpha (T
1
) của
CNCCTT và đối chứng.

Nhóm
nghiên cứu
ĐV
tính
Trước ca Sau ca
p
X  X 
Chủ cứu
(n=36)

s 0,053

0,013

0,078

0,014

0,01
Đối chứng
(n=34)
s 0,059

0,012

0,064

0,017

0,05

p >0,05 <0,05
- Tại thời điểm trước ca, thời gian dập tắt sóng 
của CNCCTT ngắn hơn nhóm đối chứng. Tuy nhiên,
sự khác nhau này chưa có ý nghĩa thống kờ.
- Tại thời điểm sau ca lao động, thời gian dập tắt
sóng  của CNCCTT bị kéo dài hơn so với trước ca
có ý nghĩa thống kờ. Đặc biệt là thời gian dập tắt
sóng  của CNCCTT kéo dài nhiều hơn so với nhóm
đối chứng có ý nghĩa thống kờ. Trong khi đó, thời
gian dập tắt sóng  của nhóm đối chứng cũng bị kéo
dài nhưng chưa có ý nghĩa thống kê.
Bảng 5: Thời gian phục hồi sóng Alpha (T
2
) của
CNCCTT và đối chứng.
Nhóm
nghiên cứu
ĐV
tính
Trước ca Sau ca
p
X  X 
Chủ cứu
(n=36)
s 0,399

0,013

0,570


0,016

0,01
Đối chứng
(n=34)
s 0,277

0,019

0,280

0,016

0,05
p >0,05 <0,01
- Tại thời điểm trước ca, thời gian phục hồi sóng 
của CNCCTT dài hơn nhóm đối chứng. Tuy nhiên, sự
khác nhau này chưa có ý nghĩa thống kờ.
- Tại thời điểm sau ca lao động, thời gian phục hồi
sóng  của CNCCTT bị kéo dài hơn so với trước ca
có ý nghĩa thống kờ. Đặc biệt là thời gian phục hồi
sóng  của CNCCTT kéo dài nhiều hơn so với nhóm
đối chứng có ý nghĩa thống kờ. Trong khi đó, thời
gian phục hồi sóng  của nhóm đối chứng cũng bị
kéo dài nhưng chưa có ý nghĩa thống kờ.
BÀN LUẬN
Điện nóo đồ là một đường cong ghi lại các biến
thiên của điện sinh học do nóo phỏt ra trong quỏ
trỡnh hoạt động. Điện nóo đồ có vai trũ quan trọng
trong nghiờn cứu y học, nú cho phộp đánh giá trực

tiếp trạng thái chức năng của nóo cú liờn quan đến
các quá trỡnh hoạt động tâm sinh lý. Theo Malkin
V.B. (1978) điện nóo đồ là chỉ tiêu vững chắc biểu
hiện các nét cá nhân của chân dung tâm sinh lý.
Ngày nay, do tiến bộ khoa học và điều kiện kinh tế tốt
hơn nên điện nóo đồ được ứng dụng rộng rói hơn
trong nghiên cứu đánh giá chức năng, đánh giá căng
thẳng thần kinh tâm lý và mệt mỏi trong lao động và
đánh giá hiệu quả các biện pháp nghỉ ngơi tích cực,
luyện tập phục hồi sức khoẻ [4].
Điện nóo nền được ghi trong trạng thái tương đối
yên tĩnh, không có sự căng thẳng thần kinh tâm lý.
Như vậy, bản điện nóo ghi trước ca trong nghiên cứu

Y H

C TH

C HÀNH (914)
-

S


4
/2014








190
của chúng tôi được coi như là một bản điện nóo nền,
nú cho phộp ta xỏc định các chỉ số cơ bản như tần
số, biên độ trung bỡnh, chỉ số Alpha, Beta, và phõn
loại điện nóo đồ tùy thuộc vào mục tiêu nghiên cứu
khác nhau. Mặt khỏc, chỳng tụi cũn sử dụng cỏc
nghiệm phỏp chức năng sau khi ghi điện nóo nền để
nghiên cứu thời gian đáp ứng (T
1
) và thời gian phục
hồi (T
2
) của điện nóo với kớch thớch bằng ỏnh sỏng,
nghiệm phỏp này cho phộp xỏc định tính phản ứng,
độ năng động và tính hưng phấn của hệ thần kinh [4].
Tần số, biên độ và chỉ số sóng Alpha phản ánh
khách quan khả năng hoạt động đồng bộ, bỡnh
thường của nóo người. Trong tỡnh trạng mệt mỏi
hoặc quỏ căng thẳng thỡ cả tần số, biờn độ và chỉ số
Alpha đều giảm sút, trong đó biên độ và chỉ số Alpha
có độ nhạy và đặc hiệu cao hơn [3,4,8]. Kết quả
nghiên cứu (bảng 1,2,3) cho thấy, tại thời điểm sau
ca lao động, biên độ và chỉ số Alpha của CNCCTT
giảm thấp hơn so với trước ca có ý nghĩa thống kờ.
Đặc biệt là tại thời điểm sau ca lao động, biên độ và
chỉ số Alpha của CNCCTT giảm thấp nhiều hơn so
với nhóm đối chứng có ý nghĩa thống kờ. Trong khi

đó, ta chưa thấy có sự khác biệt rừ ràng ở nhúm đối
chứng tại thời điểm sau ca so với trước ca. Điều này
thể hiện rừ sự căng thẳng và mệt mỏi của CNCCTT
trong quỏ trỡnh lao động trên cao. Nhận định này phù
hợp với kết luận của Nguyễn Văn Oai và cs (2002)
khi nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn sức khỏe tuyển
chọn CNCCTT trong ngành Bưu Điện [1,2]. Tuy
nhiên, trong nghiên cứu này tác giả chủ yếu vẫn sử
dụng các trắc nghiệm theo mẫu soạn sẵn nên bị ảnh
hưởng nhiều bởi yếu tố chủ quan như chú ý, trí nhớ,
thời gian thính thị - vận động đơn giản,
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp
với Vũ Khắc Khoan [3] nghiên cứu sức khoẻ Phi công
và công nhân công tác trên không cho biết, không có
sự khác biệt về tần số sóng điện nóo của nhúm nghiờn
cứu (Phi cụng và Điện báo viên) với nhóm chiến sĩ đối
chứng, nhưng có sự khác nhau về biên độ và đặc biệt
là chỉ số nhịp Alpha. Biên độ và chỉ số Alpha của nhóm
nghiên cứu thấp hơn, thể hiện căng thẳng thần kinh
tâm lý của nhúm nghiờn cứu (Phi cụng và Điện báo
viên) với nhóm đối chứng. Tác giả cũng cho biết biên
độ và chỉ số Alpha của Phi công và Điện báo viên
quân sự kém hơn Phi công và Điện báo viên dân sự.
Khi đánh giá sự biến đổi điện nóo đồ trong lao động
tác giả cho biết, điện nóo của Phi cụng sau cỏc chuyến
bay: tần số của cỏc nhịp súng điện nóo biến đổi không
có ý nghĩa thống kê, biên độ nhịp Alpha giảm có ý
nghĩa ngay sau lần bay đầu tiên. Chỉ số nhịp Alpha
giảm cú ý nghĩa ngay sau lần bay thứ nhất và tiếp tục
giảm rừ sau cỏc lần bay thứ 2, thứ 3 [3].

Để tỡm hiểu sõu hơn về bản chất và mức độ biến
đổi, chúng tôi đo thời gian đáp ứng (T
1
) và thời gian
phục hồi (T
2
) của sóng alpha với kích thích ánh sáng
(xem chi tiết kết quả bảng 4 và 5) cho thấy, sau khi
lao động trên cao, cả thời gian T
1
và T
2
của CNCCTT
đều bị kéo dài hơn so với trước ca và kéo dài hơn so
với nhóm đối chứng có ý nghĩa thống kờ. Trong khi
đó ta chưa thấy sự khác biệt này ở nhóm đối chứng.
Kết quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu
các đối tượng làm việc trên cao trên cao của Vũ Khắc
Khoan (1995), cho thấy, thời gian đáp ứng T
1
và thời
gian hồi phục T
2
sau lao động bị kéo dài hơn so với
trước lao động có ý nghĩa thống kờ [3].
Theo y văn trong nước và thế giới, có nhiều kỹ
thuật nghiên cứu căng thẳng thần kinh tâm lý nghề
nghiệp và mệt mỏi trong quỏ trỡnh lao động như điều
tra tâm sinh lý bằng bảng cõu hỏi soạn sẵn,
Sipelberger test; cỏc trắc nghiệm tõm lý, bao gồm trớ

nhớ, chỳ ý, phản xạ thính thị - vận động, tốc độ xử lý
thông tin, tư duy logic,…Nhỡn chung, cỏc nghiệm
phỏp này đều dễ triển khai thực hiện tại hiện trường
và ít tốn kém nhưng cùng mắc nhược điểm là bị ảnh
hưởng bởi nhiều yếu tố chủ quan từ cả hai phía
người lao động và cán bộ nghiên cứu. Để khắc phục
nhược điểm này, gần đây các nhà khoa học sử dụng
các thiết bị, máy móc hiện đại để thu thập thông tin
chính xác và khách quan hơn như máy điện tim trong
thống kê toán học nhịp tim, máy ghi điện nóo đồ,
Mặt khác, chúng ta có thể sử dụng một số nghiệm
pháp kích hoạt để phát hiện được những dấu hiệu
bất thường tiềm ẩn như nghiệm pháp gắng sức trong
ghi điện tâm đồ, nghiệm pháp hít thở sâu, nghiệm
pháp ánh sáng, như thời gian đáp ứng T
1
và thời
gian hồi phục T
2
như đó bàn ở trên.
Tóm lại, hiện nay thiết bị ghi điện nóo đó được
ứng dụng khá phổ biến nên việc sử dụng kỹ thuật
này trong nghiên cứu đánh giá tâm sinh lý lao động
và nghỉ nghơi tích cực là khả thi, độ nhạy cao và cho
kết quả tin cậy. Đặc biệt, kỹ thuật này hiệu quả trong
các trường hợp biến đổi chưa thể hiện trên lâm sàng
và nghiên cứu can thiệp.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Biến đổi một số chỉ số cơ bản trên điện nóo đồ
của CNCCTT thể hiện giảm sút chức năng thần kinh,

mệt mỏi trong ca làm việc trên cao như sau:
- Tại thời điểm sau ca làm việc trên cao, biên độ
và chỉ số sóng Alpha trên điện nóo đồ của CNCCTT
giảm thấp so với trước ca và giảm thấp hơn với
nhóm đối chứng có ý nghĩa thống kờ.
- Thời gian đáp ứng (T
1
) và thời gian phục hồi
(T
2
) trên điện nóo của CNCCTT tại thời điểm sau ca
bị kéo dài hơn so với trước ca và kéo dài hơn so với
nhóm đối chứng có ý nghĩa thống kờ.
2. Cần tăng cường các biện pháp chăm sóc sức
khoẻ CNCCTT như áp dụng các biện pháp nghỉ ngơi
tích cực, khám sức khỏe định kỳ phát hiện sớm các
bệnh lý có tính chất nghề nghiệp để điều trị kịp thời.
3. Tiếp tục áp dụng kỹ thuật ghi điện nóo đồ
nghiên cứu biên soạn tiêu chuẩn sức khoẻ tuyển
chọn phù hợp với nghề CNCCTT nói riêng để hạn
chế đến mức tối thiểu ảnh hưởng của các yếu tố tác
hại nghề nghiệp đảm bảo an toàn hơn, năng suất
hơn trong lao động và nghiên cứu đánh giá tâm sinh
lý và mệt mỏi trong lao động trí tuệ nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Oai, Phạm Thị Hiền (2002), Nghiên
cứu xây dựng tiêu chuẩn sức khỏe tuyển chọn Công
nhân cột cao thông tin, Báo cáo tổng kết đề tài nghiên
cứu khoa học cấp Tổng công ty Bưu chính Viễn thông
Việt Nam, Hà Nội.



Y H

C TH

C HÀNH (914)
-

S


4
/2014







191

2. Nguyễn Văn Oai, Trinh Hoàng Hà (2002), Nghiên
cứu xây dựng tiêu chuẩn sức khỏe tuyển chọn Công
nhân cáp kim loại, Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt
Nam, Hà Nội.
3. Vũ Khắc Khoan (1995), Nghiên cứu các biện
pháp bảo vệ sức khoẻ Phi công và nhân viên công tác

trên không, nhằm góp phần bảo đảm an toàn và kéo dài
tuổi bay, Báo cáo kết quả nghiờn cứu khoa học cấp Bộ
Quốc phũng, Hà Nội.
4. Stykan O.A. (1998), Điện nóo đồ trong lâm sàng,
tài liệu dịch, Học viện Quân Y, Hà Nội.
5. Charles N, Jeffress (1999), Fall protection.
Occupational Safety and Health Aministration (OSHA).
US. Derpartement of labor. Federal Register: 64, 38077-
38086, 1999, Jyly, 12 pages.
6. Gray Davis (1995), Fall Protection. Departement
of Industrial relation Division of Occupational Safety and
Health, State of California.
7. Kawakami N., Haratani T. (1999), Epideminology
of job stress and health in Japan: Review of current
evidence and future direction. Industrial health, Vol.37
N
0
2, pp.174-186.
8. Phoon W.O. (1998), Practical occupational health,
PG publishing, Singapore – Hongkong – New Dehli.

×