Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

NGHIÊN cứu điện não của điện THOẠI VIÊN TRONG QUÁ TRÌNH LAO ĐỘNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.83 KB, 4 trang )



Y H
ỌC THỰC H
ÀNH (905)


S
Ố 2/2014




19
Gia Khải(2000), “Kỹ thuật chụp động mạch vành chọn
lọc: Một số kinh nghiệm qua 152 bệnh nhân tim mạch
được chụp động mạch vành tại Viện Tim Mạch Việt
Nam”, Tạp chí tim mạch học, 21(phụ san đặc biệt 2-Kỷ
yếu toàn văn các đề tài khoa học), tr632 - 642.
6. Phạm Tử Dương (2000), “Nhồi máu cơ tim” Bài
giảng lớp tập huấn cục quân y, tr41 - 49.
7. Vũ Đình Hải - Hà Bá Miễn (1999), “Đau thắt ngực
và NMCT”, Nhà xuất bản y học, tr 56 - 67.
8. Phạm Mạnh Hùng-Nguyễn Lân Hiếu-Nguyễn
Ngọc Quang (2001), “Nghiên cứu giá trị của phân độ
Killip trong tiên lượng bệnh nhân NMCT cấp theo dõi
dọc theo thời gian 30 ngày”, Tạp chí Tim Mạch học Việt
Nam.
9. Ahmad Sajadieh “Prevalence and prognostic
significance of daily – life silent myocardial ischaemia in
middle – aged and elderly subjects with no apparent”


heart disease.
10. Antman, E.M;Braunwalde E.(1997),“Acute
Myocardial Infarction”, Heart Disease, vol 2, 1184 -
1266.
11. American Diabetes Association (2005). “Total
prevalence of Diabetes and Pre-Diabetes”.

NGHIÊN CỨU ĐIỆN NÃO CỦA ĐIỆN THOẠI VIÊN TRONG QUÁ TRÌNH
LAO ĐỘNG

TRỊNH HOÀNG HÀ, NGUYỄN THỊ LỆ QUYÊN
Khoa Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội

TÓM TẮT
Nghiên cứu cắt ngang có so sánh được tiến hành
trên 57 điện thoại viên và 35 đối tượng đối chứng
trong ngành Bưu điện. Kết quả nghiên cứu cho thấy,
có sự giảm sút có ý nghĩa thống kê một số chỉ tiêu
trên điện não đồ của điện thoại viên tại thời điểm
trước ca so với sau ca làm việc: biên độ sóng Alpha
từ 45,78

14,10

V giảm còn 39,07

14,93

V; chỉ
số sóng Alpha từ 47,54


12,06% giảm còn 41,83


9,48%. Tại thời điểm sau ca lao động, mức suy giảm
biên độ và chỉ số sóng Alpha của điện thoại viên làm
việc tại Hà Nội lớn so với các tỉnh có ý nghĩa thống
kê. Kết quả nghiên cứu trên thể hiện sự mệt mỏi rõ
ràng của điện thoại viên trong quá trình lao động.
Từ khóa: Điện não đồ, điện thoại viên.
SUMMARY
Comparative cross-sectional study among 57
telephonist and 35 clerical staffs was conducted from
2008 to 2009. There was a statistically significant
decrease in some EEG indicators before and after
their work shifts such as: Alpha wave amplitude from
45,78

14,10

V to 39,07

14,93

V; Alpha wave
index from 47,54

12,06% to 41,83

9,48%. The

decrease of telephonist in Hanoi were statistically
significant much more than in other provinces. Our
findings showed a highly fatigue of telephonists
during the working time.
Keywords: Telephonist, clerical staffs
ĐẶT VẤN ĐỀ
Điên thoại viên là nghề khá phổ biến trên thế giới,
theo thống kê năm 2007 của Cục Lao động Hoa Kỳ,
trên toàn lãnh thổ có 209.000 điện thoại viên (khoảng
0,7 điện thoại viên/1000dân), trong đó có 27.000 điện
thoại viên làm ở các trung tâm Bưu điện lớn 10.
Theo Roxanne Cabral (1998), đặc trưng cơ bản của
điện thoại viên là lao động trong phòng kín, cách ly
độc lập nên dễ bị căng thẳng thần kinh tâm lý, mệt
mỏi, cần phải tuyển chọn, chăm sóc sức khoẻ phù
hợp, đặc biệt chú ý đến thiết kế ecgônômi vị trí lao
động và tổ chức nghỉ ngơi tích cực giữa ca lao động
8. Theo Guianze E.R. (1988), những người làm việc
tại các tổng đài điện thoại đường dài đều có gánh
nặng cảm xúc, trí tuệ lớn, bị cách ly độc lập trong làm
việc, thường than phiền các triệu chứng như đau
đầu, chóng mặt [7]. Nhìn chung, các nhà khoa học
đều thừa nhận, căng thẳng thần kinh tâm lý (stress),
thường gây suy nhược cơ thể, nếu kéo dài sẽ dẫn
đến tình trạng suy nhược mất bù và cuối cùng là
bệnh lý do nghề nghiệp. Theo Kawakami và cs
(1999), cho biết từ năm 1980 tại Nhật có đến 50%
người lao động lo lắng quá mức về công việc, âu sầu
và các stress khác, tỷ lệ này cứ tăng dần từ 51%
(năm 1982), đến 57% (1992) và 60% (1997) [6]. Tuy

nhiên, ở nước ta lao động căng thẳng thân kinh tâm
lý chỉ mới hình thành trong những năm gần đây nên
chưa được nghiên cứu nhiều.
Trong ngành Bưu điện, điện thoại viên chiếm
khoảng 20% lao động của ngành, trong đó nữ chiếm
trên 90% (khoảng 0,24 Điện thoại viên/1000dân).
Điện thoại viên làm việc theo ca kíp 24/24, tiếp nhận
nhu cầu thông tin từ khách hàng, xử lí thông tin và trả
lời ngay, hoặc tra cứu nhanh trên máy tính, hoặc phải
tìm kiếm thông tin từ các chuyên gia, các thư
viện.v.v để đưa ra câu trả lời sớm nhất. Thời gian
tập trung quan sát chiếm gần 90% ca lao động. Định
mức khoán 325 phút đường thông/ca làm việc 360
phút. Tuy nhiên, vào lúc cao điểm lên đến 700 cuộc
trao đổi/ca. Vì vậy, điện thoại viên được Bộ Y tế xếp
vào lao động loại IV thuộc nhóm lao động nặng nhọc
độc hại nguy hiểm. Trong quá trình quản lí sức khoẻ
điện thoại viên ngành Bưu điện, chúng tôi thấy có
nhiều trường hợp người mắc bệnh có liên quan đến
nghề nghiệp, thậm chí mắc bệnh chống chỉ định với
nghề nghiệp. Không ít điện thoại viên, chủ yếu tại
trung tâm khai thác điện thoại lớn, đặc biệt là ở Hà
Nội và TP Hồ Chí Minh phải chuyển nghề, khoảng
30% mỗi năm.
Xuất phát từ yêu cầu cấp bách trên, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu: Đánh giá
sự biến đổi chức năng thần kinh của điện thoại viên

Y H
ỌC THỰC H

ÀNH (905)


S
Ố 2/2014




20

trong quá trình lao động. Trên cơ sở đó đề xuất biện
pháp bảo vệ và chăm sóc sức khỏe điện thoại viên.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là nữ công nhân viên làm
việc tại các đơn vị viễn thông được chọn trong ngành
Bưu điện, đối tượng được chia làm 2 nhóm:
- Nhóm chủ cứu: là điện thoại viên được chia làm
hai nhóm nhỏ như sau:
+ Điện thoại viên làm việc tại Viễn thông Hà Nội,
nơi có cường độ làm việc lớn hơn so với các Viễn
thông các tỉnh.
+ Điện thoại viên tại các Viễn thông các tỉnh: nơi
có cường độ làm việc thấp hơn so với Viễn thông Hà
Nội.
- Nhóm đối chứng: là công nhân viên làm công tác
hành chính tại các đơn vị nghiên cứu được chọn,
tương ứng mọi điều kiện, nhưng không tiếp xúc với
các yếu tố tác hại nghề nghiệp của điện thoại viên.

2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang
có so sánh
2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu: áp dụng công thức tính
cỡ mẫu cho việc so sánh khác biệt giữa hai trị số
trung bình như sau [1]:
 
2
2
2
21
2
,



 Znn

Trong đó:  là độ lệch chuẩn;  là sự khác biệt
giữa hai số trung bình trước và sau ca lao động.

2
(, ) là mức ý nghĩa thống kê, tra bảng 10,5.
Tham khảo các nghiên cứu trước, chọn độ lệch
chuẩn của biên độ sóng  là 6V và sai khác nhau
giữa hai trị số trung bình của biên độ sóng  là 5V.
Thay vào công thức tính được số đối tượng nghiên
cứu tối thiểu là 31 đối tượng cho mỗi nhóm nghiên
cứu.
2.3. Kỹ thuật thu thập thông tin:

- Ghi điện não đồ bằng máy kỹ thuật số
NEUROFAX- Nhật, theo phương pháp lưỡng cực tại
4 vùng trán, đỉnh, chẩm, thái dương (hai bên phải và
trái), tại thời điểm trước và sau ca làm việc.
- Khi phân tích điện não, đã tiến hành phân loại
điện não và tính toán các thông số tần số, biên độ và
chỉ số của sóng Alpha.
2.4. Phương pháp thống kê xử lý số liệu: trên
Epi-Info 6.4 và SPSS.
2.5. Đạo đức nghiên cứu: nghiên cứu tuân thủ
theo quy định và được Hội đồng đạo đức của Bệnh
viện Bưu điện thông qua trước khi tiến hành.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Tần số sóng Alpha trên điện não đồ
Bảng 1: Tần số sóng Alpha trên điện não đồ của
điện thoại viên và đối chứng
Nhóm
nghiên cứu
ĐV
tính
Trước ca Sau ca
p











Chủ cứu
(n=57)
CK/s

9,24 0,53 9,11 0,51 >0,05

Đối chứng CK/s

9,36 0,55 9,19 0,64 >0,05

(n=35)
P

0,05 0,05

Nhận xét: Tần số nhịp Alpha của điện thoại viên ở
thời điểm trước và sau ca lao động đều thấp hơn so
với nhóm đối chứng. Tuy nhiên, sự khác nhau này
chưa có ý nghĩa thống kê.
2. Biên độ sóng Alph trên điện não đồ
Bảng 2: Biên độ sóng Alpha trên điện não đồ của
điện thoại viên và đối chứng
Nhóm
nghiên cứu
ĐV
tính
Trước ca Sau ca
p

   
Chủ cứu
(n=57)
V
45,78

14,10

39,07

14,93

<0,05

Đối chứng
(n=35)
V
50,08

15,21

46,18

15,05

>0,05

p
>0,05
0,05


Nhận xét: - Biên độ sóng Alpha của điện thoại
viên ở thời điểm trước ca thấp hơn so với nhóm đối
chứng. Tuy nhiên, sự khác nhau này chưa có ý nghĩa
thống kê.
- Tại thời điểm sau ca lao động, biên độ sóng
Alpha của điện thoại viên giảm thấp hơn so với trước
ca, đặc biệt là giảm thấp nhiều hơn so với nhóm đối
chứng có ý nghĩa thống kê.
- Tại thời điểm sau ca lao động, biên độ sóng
Alpha của nhóm đối chứng cũng giảm thấp hơn so
với đầu ca. Tuy nhiên, sự khác nhau này chưa có ý
nghĩa thống kê.
3. Chỉ số sóng Alpha trên điện não đồ
Bảng 3: Chỉ số sóng Alpha trên điện não đồ của
điện thoại viên và đối chứng
Nhóm
nghiên cứu
ĐV
tính
Trước ca Sau ca
p
   
Chủ cứu
(n=57)
% 47,54

12,06

41,83


9,48 <0,01

Đối chứng
(n=35)
% 48,47

10,32

43,98

10,63

>0,05

p >0,05 >0,05
Nhận xét: - Tại thời điểm trước ca lao động, chỉ số
sóng Alpha của điện thoại viên thấp hơn so với nhóm
đối chứng, tuy nhiên sự khác nhau này chưa có ý
nghĩa thống kê.
- Tại thời điểm sau ca lao động, chỉ số sóng Alpha
của điện thoại viên giảm thấp hơn so với trước ca có
ý nghĩa thống kê. Trong khi đó, chỉ số sóng Alpha của
nhóm đối chứng cũng giảm so với trước ca nhưng
chưa có ý nghĩa thống kê.
4. Kết quả các chỉ số điện não theo cường độ
làm việc
Bảng 4: So sánh mức biến đổi biên độ và chỉ số
sóng Alpha trên điện não trước và sau ca lao động
theo đơn vị nghiên cứu

Nhóm
nghiên cứu
ĐV
tính
BĐ Hà Nội
(n=30)

BĐ Tỉnh
(n=27)

p
   
Biên độ
sóng Alpha
V
7,85 2,24 5,45 1,98
0,001

Chỉ số sóng
Alpha
% 7,03 2,57 4,24 1,36
0,001

Nhận xét: - Mức độ giảm biên độ sóng Alpha ở


Y H
ỌC THỰC H
ÀNH (905)



S
Ố 2/2014




21
thời điểm sau ca lao động so với trước ca của điện
thoại viên Viễn thông Hà Nội lớn hơn so với Viễn
thông tỉnh có ý nghĩa thống kê.
- Mức độ giảm chỉ số sóng Alpha ở thời điểm sau
ca lao động so với trước ca của điện thoại viên Viễn
thông Hà Nội lớn hơn so với Viễn thông tỉnh có ý
nghĩa thống kê.
BÀN LUẬN
Theo các nhà khoa học, có nhiều kỹ thuật nghiên
cứu căng thẳng thần kinh tâm lý nghề nghiệp và mệt
mỏi trong quá trình lao động như điều tra tâm sinh lý
bằng bảng câu hỏi soạn sẵn, Sipelberger test; các
trắc nghiệm tâm lý, bao gồm trí nhớ, chú ý, phản xạ
thính thị - vận động, tốc độ xử lý thông tin, tư duy
logic,…Nhìn chung, các nghiệm pháp này đều dễ
triển khai thực hiện tại hiện trường và ít tốn kém
nhưng cùng mắc nhược điểm là bị ảnh hưởng bởi
nhiều yếu tố chủ quan từ cả hai phía người lao động
và nghiên cứu viên. Để khắc phục nhược điểm này
và điều kiện ngay nay cũng cho phép nên gần đây
các nhà khoa học thường sử dụng thêm các thiết bị,
máy móc chuyên dụng để thu thập thông tin chính

xác và khách quan hơn như máy điện tim trong thống
kê toán học nhịp tim, máy ghi điện não đồ. Ngoài ra,
trong những trường hợp khó, các biến đổi kín đáo,
người ta còn sử dụng thêm một số nghiệm pháp kích
hoạt để phát hiện được những dấu hiệu bất thường
tiềm ẩn như nghiệm pháp gắng sức trong ghi điện
tâm đồ, nghiệm pháp hít thở sâu, nghiệm pháp ánh
sáng,
Điện não đồ có vai trò quan trọng trong nghiên
cứu y học, vì nó cho phép chúng ta đánh giá trực tiếp
trạng thái chức năng của não có liên quan đến các
quá trình hoạt động tâm sinh lý trong quá trình lao
động. Theo Malkin V.B. (1978) điện não đồ là chỉ tiêu
vững chắc biểu hiện các nét cá nhân của chân dung
tâm sinh lý, cho phép đánh giá chức năng, đánh giá
căng thẳng thần kinh tâm lý và mệt mỏi trong lao
động và có độ nhạy cao trong đánh giá hiệu quả các
biện pháp nghỉ ngơi tích cực, luyện tập phục hồi sức
khoẻ [9].
Theo các nhà khoa học, điện não nền được ghi
trong trạng thái tương đối yên tĩnh, không có sự căng
thẳng thần kinh tâm lý. Như vậy, bản điện não ghi
trước ca trong nghiên cứu của chúng tôi được coi
như là một bản điện não nền, nó cho phép ta xác
định các chỉ số cơ bản như tần số, biên độ trung
bình, chỉ số Alpha, Beta, và các nghiệm pháp chức
năng sau khi ghi điện não nền với kích thích bằng
ánh sáng, các nghiệm pháp này cho phép xác định
tính phản ứng, độ năng động và tính hưng phấn của
hệ thần kinh. Trong phạm vi nghiên cứu này, chúng

tôi lựa chọn các chỉ tiêu cơ bản để đánh giá trạng thái
thần kinh chức năng và mệt mỏi trong quá trình lao
động của điện thoại viên như chu kỳ, biên độ, chỉ số
sóng Alpha.
Tần số, biên độ và chỉ số sóng Alpha phản ánh
khách quan khả năng hoạt động đồng bộ, bình
thường của não người. Trong tình trạng mệt mỏi
hoặc quá căng thẳng thì cả tần số, biên độ và chỉ số
Alpha đều giảm sút, trong đó biên độ và chỉ số Alpha
có độ nhạy và đặc hiệu cao hơn [3,10]. Kết quả
nghiên cứu (bảng 1) cho thấy, tại thời điểm sau ca
lao động, tần số Alpha giảm thấp hơn trước ca
nhưng chưa có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, biên độ
và chỉ số Alpha của điện thoại viên ở thời điểm sau
ca lại giảm thấp hơn so với trước ca có ý nghĩa thống
kê. Đặc biệt là tại thời điểm sau ca lao động, biên độ
và chỉ số Alpha của điện thoại viên giảm thấp nhiều
hơn so với nhóm đối chứng có ý nghĩa thống kê xem
chi tiết kết quả bảng 2&3. Trong khi đó, ta chưa thấy
có sự khác biệt rõ ràng ở nhóm đối chứng tại thời
điểm sau ca so với trước ca. Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi cũng phù hợp với Vũ Khắc Khoan [3]
nghiên cứu sức khoẻ phi công và công nhân công tác
trên không cho biết, không có sự khác biệt về tần số
sóng điện não của nhóm nghiên cứu (phi công và
điện báo viên) với nhóm chiến sĩ đối chứng, nhưng
có sự khác nhau về biên độ và đặc biệt là chỉ số nhịp
Alpha. Biên độ và chỉ số Alpha của nhóm nghiên cứu
thấp hơn, thể hiện căng thẳng thần kinh tâm lý của
nhóm nghiên cứu (phi công và điện báo viên) với

nhóm đối chứng. Trong nghiên cứu này của chúng
tôi, biên độ và chỉ số Alpha cao hơn kết quả của
Nguyễn Văn Oai và cs (2002) khi nghiên cứu xây
dựng tiêu chuẩn sức khỏe tuyển chọn sức khỏe nghề
nghiệp trong ngành Bưu Điện [2]. Theo chúng tôi, có
lẽ các máy ghi điện não kỹ thuật số ngày nay có độ
nhạy cao hơn so với trước.
Kết quả nghiên cứu bảng 4 cho thấy, mức độ
giảm biên độ và chỉ số sóng Alpha ở thời điểm sau ca
lao động so với trước ca của điện thoại viên Viễn
thông Hà Nội lớn hơn so với Viễn thông tỉnh có ý
nghĩa thống kê, thể hiện sự suy giảm về biên độ và
chỉ số song Alpha theo cường độ lao động. Kết quả
này cũng phù hợp với kết quả của Vũ Khắc Khoan
trong nghiên cứu nêu trên cho biết, biên độ và chỉ số
Alpha của phi công và điện báo viên quân sự kém
hơn phi công và điện báo viên dân sự, đặc biệt biên
độ và chỉ số sóng Alpha giảm có ý nghĩa ở những lần
bay sau so với lần bay trước [3,4].
Tóm lại, qua kết qủa nghiên cứu điện não đồ của
điện thoại viên trong quá trình lao động cho thấy, tại
thời điểm sau ca lao động biên độ và chỉ số Alpha
giảm sút nhiều so với trước ca, điện thoại viên làm
việc tại các trung tâm lớn như Hà Nội có mức giảm
sút nhiều hơn các tỉnh. Điều này thể hiện rõ tính chất
lao động căng thẳng thần kinh tâm lý, đã gây mệt mỏi
và giảm sức lao động của điện thoại viên ở thời điểm
cuối ca làm việc. Tuy nhiên, các chỉ số điện não cơ
bản của điện thoại viên ở thời điểm đầu ca đều đạt ở
mức trung bình trở lên. Thể hiện sự mệt mỏi thần

kinh tâm lý trong ca lao động, có khả năng hồi phục
sau khi được nghỉ ngơi, nhưng nếu kéo dài tính chất
căng thẳng này liệu có thể dẫn đến tình trạng bệnh lý.
Theo Võ Quang Đức và cs (2004), nghiên cứu về môi
trường làm việc và sức khỏe của điện thoại viên cho
biết, 82% điện thoại viên bị đau đầu, 45% số người

Y H
C THC H
NH (905)


S
2/2014




22

cú biu hin u oi, bun ng, gic ng nng n;
ngoi ra cũn b au õm c mt, xung quanh h mt,
c u ngún tay, cng tay, b vai, bp ựi, quanh
sn; ri lon chc nng th giỏc, mt s in thoi
viờn gim th lc nhanh chúng trong nhng nm u;
lóo th sm ngi trờn 40 tui kốm theo thoỏi húa
vừng mc; nhón ỏp tng nhanh theo tui ngh v tui
i, n cao gp hai ln nam. Vỡ vy, cn cú nhng
bin phỏp d phũng tớch cc gim nh cng thng
ngh nghip cho cỏc in thoi viờn nh cng thng

ngh nghip phc hi sc khe nh: tuyn chn
ngh nghip, o to k nng ngh nghip, giỏo dc
sc khe ngh nghip, t chc lao ng hp lý, rốn
luyn tõm th v iu tr d phũng bng thuc [5].
KT LUN V KHUYN NGH
Ti thi im sau ca lao ng, biờn v ch s
súng Alpha ca in thoi viờn bin i theo chiu
hng gim sỳt so vi trc ca v gim sỳt nhiu
hn in thoi viờn cú cng lm vic ln hn,
th hin s cng thng thn kinh tõm lý v mt mi
quỏ mc trong quỏ trỡnh lao ng. Trờn c s kt
qu nghiờn cu, chỳng tụi khuyn ngh: cn tng
cng cỏc bin phỏp chm súc sc kho in thoi
viờn nh ỏp dng cỏc bin phỏp ngh ngi tớch cc,
khỏm sc khe nh k phỏt hin sm cỏc bnh lý cú
tớnh cht ngh nghip iu tr kp thi. Nhng v
lõu di, cn nghiờn cu biờn son tiờu chun sc
kho tuyn chn phự hp hn ch n mc ti
thiu nh hng ca cỏc yu t tỏc hi ngh nghip,
m bo sc khe lõu di cho in thoi viờn trong
quỏ trỡnh lao ng.
TI LIU THAM KHO
1. o Vn Dng (2008), Thit k nghiờn cu h
thng y t. NXB Y hc, H Ni, tr 59-65.
2. Nguyn Vn Oai, Nguyn Vn Lch (2002),
Nghiờn cu xõy dng tiờu chun sc khe tuyn chn
cụng nhõn khai thỏc in thoi, Bỏo cỏo tng kt ti
nghiờn cu khoa hc cp Tng cụng ty Bu chớnh Vin
thụng Vit Nam, H Ni.
3. V Khc Khoan (1995), Nghiờn cu cỏc bin

phỏp bo v sc kho Phi cụng v nhõn viờn cụng tỏc
trờn khụng, nhm gúp phn bo m an ton v kộo di
tui bay, Bỏo cỏo kt qu nghiờn cu khoa hc cp B
Quc phũng, H Ni.
4. Trnh Hong H, Nguyn Tựng Linh (2009),
Nghiờn cu tỏc dng ci thin kh nng lao ng trớ tu
ca ch phm Quy t thang in thoi viờn, Tp chớ
sinh lý hc, Tp 12 N
0
-1: 4/2008, H Ni. tr 40-45.
5. Tụ Nh Khuờ (1995), Nghiờn cu chộ lao
ng ngh nghip v cỏc bin phỏp phc hi sau lao
ng. Bỏo cỏo tng kt t KX -07 -15, thuc chg
trỡnh 07. ti khoa hc cp nh nc, Hni 1995.
6. Kawakami N., Haratani T. (1999), Epideminology
of job stress and health in Japan: Review of current
evidence and future direction. Industrial health, Vol.37
N
0
2, pp.174-186.
7. Guianze E.R. (1988), Swithboard operators,
Encyclopaedia of occupational health and safety, 3
rd

Edition, Vol.2, ILO, Geneva.
8. Roxanne Cabral (1998), Postal service.
Encyclopaedia of occupational health and safety, 4
th
Edition, Vol.3, ILO, Geneva.
9. Stykan O.A. (1998), in nóo trong lõm sng,

ti liu dch, Hc vin Quõn Y, H Ni.
10. Wright R.D. & Ward L.M. (2008), Orienting of
Attention, Oxford University Press.


NGHIÊN CứU GIá TRị áP LựC NộI Sọ ở BệNH NHÂN CHấN THƯƠNG Sọ NãO NặNG

Nguyễn Viết Quang, Nguyễn Viết Quang Hiển

TểM TT
t vn : Chn thng s nóo gõy nờn nhng
thng tn nguyờn phỏt v th phỏt, chớnh nhng
thng tn ny dn n phự nóo v hu qu cui cựng
gõy tng ỏp lc ni s. p lc ni s cng cng cao thỡ
tiờn lng cng nng. Mc tiờu: Xỏc nh giỏ tr ỏp lc
ni s bnh nhõn chn thng s nóo nng v tỡm
mi tng quan gia ỏp lc ni s vi thang im
Glasgow bnh nhõn chn thng s nóo nng. i
tng v phng phỏp nghiờn cu: 120 bnh nhõn
chn thng s nóo nng iu tr ti Bnh vin Trung
ng Hu, tui 18. Kt qu: 120 bnh nhõn, nam
104, n 16, 18-39 tui cú 82 bnh nhõn, 40-60 tui cú
31 bnh nhõn, trờn 60 tui cú 7 bnh nhõn. Nhúm
Glasgow 3-6 im cú 35 bnh nhõn, nhúm bnh nhõn
Glasgow 7-8 im cú 85 bnh nhõn. p lc ni s
nhúm bnh nhõn Glasgow 3-6 im l
32,789,63mmHg v nhúm Glasgow 6-7 im l
30,069,25mmHg. Kt lun: bnh nhõn chn
thng s nóo nng, ỏp lc ni s tng cao, khi ỏp lc
ni s cng cao, thang im Glasgow cng thp.

T khúa: Chn thng s nóo, Glasgow.
SUMMARY
RESEARCH OF INTRCRANIAL PRESSURE VALUE
IN PATIENTS WITH SEVERE TRAUMATIC BRAIN
INJURY
Background: Traumatic brain injury causes
lesions of primary and secondary, primary lesions
leads to cerebral edema and consequently ultimately
causing increased intracranial pressure. High value of
intracranial pressure is the worse prognosis.
Objectives: Valuation of intracranial pressure in
patients with severe traumatic brain injury and find
the correlation between intracranial pressure with
Glasgow coma scale in patients with severe traumatic
brain injury. Subjects and methods: 120 patients
with severe traumatic brain injury treated at Hue
Central Hospital, age 18. Results: 120 patients,

×