MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Dân tộc Việt nam ta có lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước.
Trong quá trình tồn tại và phát triển dân tộc ta đã phải vượt qua bao thử
thách hiểm nghèo, phải liên tục đấu tranh chống lại thiên tai khắc nghiệt
cũng như nạn ngoại xâm, âm mưu đồng hóa của nước ngoài. Trải qua quá
trình lịch sử lâu dài, dân tộc Việt nam đã xây đắp nên nhiều truyền thống
tốt đẹp, biểu hiện một nền văn hiến cao, bền vững.
Từ những trang sử hào hùng của dân tộc, Hồ Chí Minh nhận thấy rõ
những đóng góp xuất sắc của tuổi trẻ Việt nam trong lịch sử dựng nước và
giữ nước của dân tộc. Đất nước Việt nam ở thời kỳ nào cũng xuất hiện
nhiều nhân tài và anh hùng trẻ tuổi. Sinh thời Người đã đánh giá rất cao vai
trò của thanh niên, luôn quan tâm giáo dục, bồi dưỡng rèn luyện họ và tạo
điều kiện để thế hệ trẻ tham gia tích cực, có hiệu quả vào sự nghiệp cách
mạng của đất nước. Bởi vậy, trong những di sản tư tưởng vĩ đại của Chủ
tịch Hồ Chí Minh thì những quan điểm, tư tưởng của Người về vấn đề
thanh niên là bộ phận vô cùng quan trọng cho đến nay vẫn còn giữ nguyên
giá trị.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò thanh niên là một hệ thống nhất
quán về nhận thức, tư duy chính trị, quan điểm, lý luận trong nhiều lĩnh vực
như nhìn nhận, đánh giá, về vai trò, vị trí, khả năng cách mạng của thanh
niên, giáo dục đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp của dân tộc, của Đảng, tổ
chức thanh niên thành lực lượng xung kích cách mạng, đội hậu bị tin cậy
của Đảng, đi đầu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam
XHCN. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân.
Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”, tuổi trẻ là
lực lượng quyết định vận mệnh của dân tộc, sự phát triển của đất nước.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của thanh niên, Đảng ta
đã khẳng định: “Công tác thanh niên là công việc sống còn của dân tộc, là
1
một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng”. Công tác
thanh niên là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của các đoàn thể nhân dân
và của toàn xã hội, mỗi gia đình.
Hiện nay, trong môi trường Việt Nam đang hội nhập với thế giới trên
nhiều lĩnh vực để thực hiện công cuộc đổi mới đất nước theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát huy một
cách toàn diện các nguồn lực để đưa công cuộc đổi mới đất nước đến thành
công. Trong đó, thế hệ trẻ là nhân tố không thể thiếu, đóng vai trò quan
trọng trong công cuộc đổi mới với sự năng động, sáng tạo, nhạy bén cùng
tính xung kích, tích cực và khả năng thích nghi nhanh.
Đặc biệt, năm 2011 lại được Đảng và Nhà nước ta chọn là “Năm
Thanh niên” và tháng 3 năm 2011 được chọn là “Tháng Thanh niên” càng
thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đến thế hệ trẻ đồng thời
nhấn mạnh vai trò quan trọng của thế hệ trẻ đối với đất nước trong thời kì
đổi mới hiện nay.
Xác định tầm quan trọng của vấn đề, tôi nhận thấy chọn đề tài “Đảng
Cộng sản Việt Nam phát huy vai trò thanh niên trong sự nghiệp đổi mới
theo Tư tưởng Hồ Chí Minh (thời kỳ 1995 – 2010)” là cần thiết và phù
hợp để góp phần làm rõ hơn sự vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
thanh niên của Đảng ta trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay nhằm
phát huy tối đa năng lực của thế hệ trẻ phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
2
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
- Khái quát Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò thanh niên
đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước trong mọi thời kỳ lịch sử.
- Nêu và làm rõ sự vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò thanh
niên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước 1995 –
2010.
- Nêu và làm nổi bật vai trò xung kích, sáng tạo, năng động, tích cực
của thanh niên Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước 1995 – 2010.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò thanh niên trong cách mạng Việt
Nam.
- Những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta để phát huy
vai trò thanh niên trong thời kỳ đổi mới.
- Những hoạt động của thanh niên trong thời kỳ đổi mới đất nước
(1995 – 2010).
4. CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.
- Cơ sở phương pháp luận của khóa luận là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp xuyên suốt đề tài là phương pháp biện chứng duy vật.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp toàn diện kết hợp với phương
pháp logic- lịch sử, phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp đối với
các chương, phần cụ thể.
Đề tài cũng đã từng bước thu thập tài liệu, đọc, ghi chép và chắt lọc,
tổng hợp các tài liệu liên quan đến đề tài mà tác giả có được.
3
5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI.
- Về mặt lý luận: Góp phần làm sâu sắc thêm lý luận về thanh niên, về
vai trò thanh niên trong trong các thời kỳ cách mạng của Tư tưởng Hồ Chí
Minh.
- Về mặt thực tiễn: Góp phần đưa Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò
thanh niên được phổ biến sâu rộng hơn đồng thời làm nổi bật những đóng
góp to lớn của thanh niên đối với đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ đổi
mới 1995 – 2010.
6. KẾT CẤU ĐỀ TÀI.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo kết cấu
khóa luận của khóa luận được chia làm 2 chương, 6 tiết và 66 trang.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ THANH NIÊN
VÀ VAI TRÒ CỦA THANH NIÊN TRONG TIẾN TRÌNH
CÁCH MẠNG VIỆT NAM
4
1.1 Cơ sở hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò thanh niên
trong tiến trình cách mạng Việt Nam.
Từ khi còn là một thanh niên yêu nước đến khi trở thành lãnh tụ cách
mạng Việt nam, trong quá trình tìm đường cứu nước và tiếp thu chủ nghĩa
Mác-Lênin, Hồ Chí Minh luôn suy ngẫm về vai trò của các thế hệ thanh
niên đối với vận mệnh của đất nước, làm gì để phát huy vai trò của đó
trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc ở thời đại mới.
1.1.1 Tuổi trẻ Hồ Chí Minh và những cống hiến.
Hồ Chí Minh sinh năm 1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước,
tiến bộ, trên quê hương có truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm
với nhiều anh hùng, nhiều nhà văn hóa lớn của dân tộc. Từ lúc thiếu thời ,
Hồ Chí Minh đã hấp thụ truyền thống yêu nước và lòng nhân ái của dân
tộc, Người sớm có lòng căm thù giặc, yêu nước thương dân sâu sắc. Ngay
từ lúc còn ở quê hương Nam Đàn, Nghệ An đến những năm học ở Huế,
những cuộc đấu tranh chống cướp đất, chống sưu cao thuế nặng, chống bắt
phu, bắt lính đã nhen nhóm lên ở Người lòng căm thù bọn cướp nước và
bán nước. Người đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào và sớm nhận
ra rằng chừng nào chưa đuổi được bọn thực dân ra khỏi bờ cõi, chừng ấy
dân mình còn đau khổ.
21 tuổi, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết tâm ra
đi tìm đường cứu nước vì Người sớm nhận thấy sự cấp thiết của việc tìm ra
con đường cứu nước phù hợp để giải phóng đồng bào, giải phóng dân tộc.
Hành trang lên đường của Người là vốn Nho học khá uyên thâm, một chút
ngoại ngữ và quan trọng nhất đó là lòng yêu nước nồng nàn cùng với quyết
tâm lao động, học hỏi và nghị lực của tuổi thanh xuân. Với phong cách tư
duy độc lập, sáng tạo Nguyễn Tất Thành đã sớm tổng kết thực tiễn, rút ra
những bài học kinh nghiệm từ sự thất bại của các phong trào dân tộc chống
Pháp trước đó và Người quyết định đi tìm một con đường mới, một cách đi
mới để cứu nước. Vì vậy, Người không “Đông du” sang Nhật mà chọn con
5
đường sang Pháp và phương Tây để học hỏi, tìm hiểu và tìm đường cứu
nước.
Tuổi trẻ của Người đã buôn ba hầu khắp thế giới, đi đến đâu Người
cũng tìm hiểu đời sống nhân dân lao động, thông cảm và thương xót cho họ
bao nhiêu thì Người lại càng căm thù bọn Đế quốc bóc lột bấy nhiêu.
Người đã tham gia rất nhiều hoạt động quốc tế để bảo vệ quyền lợi cho
nhân dân lao động như tham gia “Hội những người lao động hải ngoại,
Luân đôn”, “Hội người An nam yêu nước”, “Hội liên hiệp thuộc địa”
Một sự kiện mang ý nghĩa bước ngoặt trong hành trình tìm đường cứu
nước của Hồ Chí Minh là đọc được “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lênin vào tháng 7 năm 1920.
Luận cương của V.I. Lênin đã đem đến cho Người sự xúc động mạnh mẽ vì
nó đã đáp ứng nguyện vọng tha thiết nhất của Người là độc lập cho Tổ
quốc, tự do cho đồng bào. Người đã tìm thấy con đường cứu nước đúng
đắn là làm Cách mạng Vô sản.
Thời kỳ tuổi trẻ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là một quãng đời
hoạt động sôi nổi và đấu tranh không mệt mỏi vì sự nghiệp giải phóng dân
tộc và giải phóng giai cấp. Ra đi tìm đường cứu nước chỉ với hai bàn tay
trắng nhưng với lòng yêu nước nồng nàn, nghị lực tuổi trẻ, lý tưởng cao
đẹp và quyết tâm lớn, Hồ Chí Minh đã vượt qua bao hiểm nguy, khó khăn,
thử thách và kết quả đã tìm được chân lý cách mạng. Những cống hiến của
Người thời tuổi trẻ không những có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng Việt
Nam, với cách mạng thế giới mà còn là minh chứng hùng hồn rằng con
người thời tuổi trẻ có thể làm nên những điều vĩ đại nếu họ có lý tưởng, có
hoài bão, có nghị lực và tinh thần quyết tâm cao độ. Những cống hiến to
lớn của Người đó là:
Một là, Hồ Chí Minh đã vạch trần tội ác chủ nghĩa thực dân và tay
sai.
Là người trực tiếp chứng kiến những tội ác của chủ nghĩa thực dân ở
Việt Nam và nhiều thuộc địa khác, Nguyễn Ái Quốc sớm nhận ra bản chất
6
của chủ nghĩa thực dân và những hành vi dối trá, bịp bợm nhằm che đậy
bản chất ăn cướp của chúng. Người sớm nhận ra rằng không phải người
dân bị áp bức nào, dân tộc bị áp bức nào cũng thấy rõ kẻ thù của mình và
dưới con mắt của nhiều người châu Âu nhất là ở Pháp coi việc Pháp xâm
lược các thuộc địa là thực hiện “sứ mạng khai hóa văn minh” các dân tộc
man di mọi rợ, thậm chí một số Đảng viên trong Đảng Cộng sản Pháp lúc
bấy giờ “vẫn còn tưởng rằng, một thuộc địa chẳng qua chỉ là một xứ dưới
đầy cát và trên là mặt trời, vài cây dừa xanh và mấy người khác màu da,
thế thôi. Và họ hoàn toàn không để ý gì hết” [15 ; 63]
Nguyễn Ái Quốc đã tận dụng tất cả những diễn đàn có được để lột trần
bản chất của cái gọi là “sự khai hóa văn minh” của bọn thực dân ở các thuộc
địa. Chỉ tính riêng từ 1920 đến 1925 trong hơn 150 bài báo, tác phẩm văn
học của Người đã có gần 100 bài tập trung vạch trần bản chất xấu xa, tố cáo
chủ nghĩa thực dân, đế quốc xác định rõ chúng là kẻ thù chung của giai cấp
công nhân và nhân dân bị áp bức trên thế giới. Người đã lên án mạnh mẽ chế
độ cai trị hà khắc, sự bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp ở Việt Nam trên các
lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, giáo dục. Người nêu rõ: “Tất cả
những người Pháp sang Đông Dương đều nghĩ rằng người An Nam là hạng
người hèn hạ hơn họ và phải làm nô lệ cho họ. Họ coi người An Nam như
những súc vật phải điều khiển họ bằng roi vọt” [15 ; 364]. Và “Để hút đến
giọt máu cuối cùng của đất nước khốn khổ chúng tôi, nghề ăn cướp thực
dân như con bạch tuộc đang xiết chặt bằng nhiều cái vòi hút độc quyền
không biết chán: Độc quyền muối, độc quyền rượu, độc quyền thuốc
phiện ” [15 ; 377].
Đồng thời với việc tố cáo chủ nghĩa thực dân, Nguyễn Ái Quốc đã
phơi bày bộ mặt phản dân hại nước của bọn vua chúa quan lại cường hào
đã vì quyền lợi và danh vọng cá nhân mà chống lại đồng bào, chúng là tay
sai của lũ cướp nước mà theo Người thì: “thiếu những kẻ này thì không thể
có sự đô hộ nào của nước ngoài” [15 ; 257].
7
Sự tố cáo của chủ nghĩa thực dân và bè lũ tay sai trên các diễn đàn
quốc tế của Nguyễn Ái Quốc từ 1920 – 1930 là đòn tấn công trực diện vào
chủ nghĩa đế quốc, làm chấn động dư luận Pháp và gây ảnh hưởng sâu sắc
đến phong trào yêu nước Việt Nam, có tác dụng cực kỳ to lớn đối với
phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa.
Hai là, Hồ Chí Minh đã xây dựng khối đoàn kết quốc tế, gắn cách
mạng Việt nam với cách mạng thế giới.
Cuộc khảo sát thực tế phong phú tại các nước thuộc địa đã giúp
Nguyễn Ái Quốc nhìn rõ hơn, sát hơn bộ mặt những tên thực dân đi “khai
hóa văn minh” và Người đi đến kết luận: Dù màu da có khác nhau, trên đời
này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột.
Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản.
Người sớm nhận thấy tầm quan trọng của việc liên minh giữa các dân
tộc bị áp bức, giữa những người bị áp bức bóc lột trên thế giới trong cuộc
đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Năm 1921, Nguyễn Ái
Quốc cùng với một số người yêu nước của các nước thuộc địa Pháp đang
sinh sống ở Pari lập “Hội liên hiệp thuộc địa”, Ban thường vụ gồm 7 người,
đứng đầu là Nguyễn Ái Quốc. Tuyên ngôn của Hội do Nguyễn Ái Quốc
soạn thảo nêu rõ mục đích của Hội là tập hợp mọi người dân thuộc địa cư
trú trên đất Pháp nhằm tố cáo trước dư luận những tội ác của chủ nghĩa
thực dân, tuyên truyền, giác ngộ nhân dân các thuộc địa đứng lên tự giải
phóng. Hội cũng có chủ trương đoàn kết nhân dân các nước thuộc địa trong
mặt trận chung chống chủ nghĩa đế quốc và với giai cấp công nhân và nhân
dân lao động Pháp. Đến tháng 12 năm 1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc),
Nguyễn Ái Quốc và một số nhà hoạt động cách mạng Trung Quốc, Triều
Tiên, Ấn Độ, Mã Lai lập ra “Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á
Đông”. Mục đích của Hội là đoàn kết các dân tộc bị áp bức ở châu Á trong
một mặt trận chung nhằm thống nhất hành động của phong trào cách mạng
các nước để chống chủ nghĩa đế quốc, giải phóng các dân tộc thoát khỏi áp
bức bóc lột.
8
Từ 1920 đến 1930, trong nhiều bài viết đăng trên các báo, tạp chí, các
bài phát biểu tại Đại hội lần thứ V của Quốc tế cộng sản và các hội nghị
của các tổ chức của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh tính
cấp thiết của việc xây dựng mối đoàn kết giữa các dân tộc. Người chỉ rõ:
“Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở
chính quốc và và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc
địa” [15 ; 298]. Vì vậy, cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng
thuộc địa có mối quan hệ khăng khít với nhau, cùng phối hợp đánh vào hậu
cứ của nó.
Trong nhiều bài viết, Người chỉ rõ những âm mưu, thủ đoạn của chủ
nghĩa đế quốc trong việc chia rẽ lực lượng cách mạng thế giới và kêu gọi
giai cấp công nhân, nhân dân lao động ở chính quốc đoàn kết với giai cấp
công nhân và nhân dân lao động thuộc địa, kêu gọi các dân tộc thuộc địa và
phụ thuộc đoàn kết sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù
chung. “Vì vậy, cho nên thanh niên trên toàn thế giới cần phải đoàn kết
nhau lại, tin tưởng vào khả năng đấu tranh của mình và hòa mình với công
nhân và nông dân để đấu tranh tiêu diệt chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế
quốc đấu tranh để giữ gìn hòa bình thế giới, để thực hiện hợp tác anh em
giữa tất cả các dân tộc để xây dựng đời sống hạnh phúc, vui tươi” [15 ;
390]. Cùng với sự kêu gọi nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên
thế giới đoàn kết lại, Nguyễn Ái Quốc tha thiết đề nghị giai cấp vô sản và
nhân dân tiến bộ trên thế giới quan tâm ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân
Việt nam. Phát biểu tại Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế Nông dân, Người đề
nghị: “Khi các đồng chí được tổ chức lại, các đồng chí cần phải nêu gương
cho chúng tôi, giúp đỡ chúng tôi, giang rộng cánh tay anh em đón chúng
tôi để chúng tôi cũng có thể bước vào gia đình vô sản quốc tế” [15 ; 208].
Bằng những minh chứng rõ nét, Nguyễn Ái Quốc đã vạch cho thanh
niên thấy rõ bản chất cực kỳ phản động của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa
đế quốc với những thủ đoạn bóc lột cực lỳ dã man của chúng qua đó mà
9
thức tỉnh thanh niên đứng lên làm cách mạng. Đóng góp trên đây của
Nguyễn Ái Quốc đã được ghi lại đậm nét trong lịch sử phong trào giải
phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Nguyễn Ái Quốc
cũng là người đầu tiên gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới,
tạo nên sức mạnh tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi.
Cống hiến to lớn của Hồ Chí Minh thời tuổi trẻ có ý nghĩa quan trọng
nhất đối với cách mạng Việt Nam đó là Người đã tìm ra con đường cứu
nước đúng đắn chuẩn bị về tư tưởng, chính trị về tổ chức cho việc thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở đó chiến
lược và sách lược giải phóng các dân tộc bị áp bức, đưa đất nước đi lên chủ
nghĩa cộng sản. Người đã thấy rõ: Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản mới
giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ là sự nghiệp của
chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới. Người tìm thấy con đường
đúng đắn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam và các dân tộc bị áp
bức khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân đế quốc. Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản. Từ đó, Người hướng cách mạng Việt nam đi theo quĩ đạo của cuộc
cách mạng vô sản, đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Với phong cách tư duy
độc lập, sáng tạo Hồ Chí Minh không vận dụng một cách máy móc, giáo
điều lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin hay kinh nghiệm của Cách mạng Tháng
Mười Nga 1917 vào Việt Nam mà Người vận dụng phép biện chứng duy
vật của chủ nghĩa Mác-Lênin cùng với sự phân tích sâu sắc tình hình xã hội
Việt nam, tìm ra qui luật vận động của xã hội Việt Nam để xây dựng đường
lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế phát triển
khách quan của xã hội loài người.
Năm 1925, tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” của Nguyễn Ái
Quốc được xuất bản ở Pháp. Tác phẩm chính là một bản cáo trạng chủ
nghĩa thực dân Pháp nói riêng và chủ nghĩa tư bản đế quốc nói chung, lên
tiếng công kích bọn vua quan phong kiến và bọn phản động đội lốt Thiên
10
chúa giáo. Đây là một văn kiện lý luận quan trọng chuẩn bị về nhận thức,
tư tưởng cho nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc đứng lên đấu tranh
cách mạng, góp phần tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin vào các nước
thuộc địa Pháp trong thời kỳ này. Đối với nước ta, đây là tác phẩm có tính
chất lý luận cách mạng đầu tiên chỉ cho nhân dân ta thấy kẻ thù nào phải
đánh đổ, lực lượng nào là lực lượng chính của cách mạng, chỉ ra phương
hướng cách mạng đúng đắn, góp phần chuẩn bị về tư tưởng, chính trị để
tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tháng 6 năm 1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc) Nguyễn Ái Quốc
thành lập “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên” trong đó có tổ chức trung
kiên là Cộng sản Đoàn làm nòng cốt để trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác-
Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị điều kiện cho việc thành lập chính đảng của
giai cấp vô sản Việt Nam. Trong thời gian ở Quảng Châu Nguyễn Ái Quốc
đã viết cuốn “Trung Quốc và thanh niên Trung Quốc” xuất bản ở Liên Xô
năm 1925. Tác phẩm khái quát về địa lý, lịch sử Trung Quốc, tình cảnh cơ
cực của nhân dân dưới ách thống trị của bọn phong kiến, thực dân, đế quốc
và đặc biệt là nêu lên nhiệm vụ của thanh niên Trung Quốc trong sự nghiệp
cách mạng của đất nước. Năm 1927, Người xuất bản cuốn “Đường cách
mệnh”. Tác phẩm chỉ rõ mục tiêu, nhiệm vụ và những biện pháp cụ thể của
sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp ở Việt nam.
Đặc biệt, từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc đã
chủ trì hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng lấy tên là
Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua “Chính cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt” của Đảng Cộng sản Việt Nam và “Lời
kêu gọi” của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng
sản Việt Nam gửi đến quần chúng công, nông, binh, thanh niên, học sinh
và đồng bào bị áp bức, bóc lột trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng. Tất
cả các văn kiện đó trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị đúng đắn đã
11
đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng nước ta, chấm dứt
về thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước, mở ra thời kỳ mới, thới kỳ
giai cấp công nhân nắm quyền lãnh đạo cách mạng, đưa đất nước tiến lên.
Những cống hiến của Hồ Chí Minh thời tuổi trẻ là một trong những cơ
sở quan trọng để Người hiểu rõ và sớm đặt niềm tin tưởng sâu sắc vào
thanh niên Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và trong
sự nghiệp xây dựng CNXH và góp phần vào thắng lợi của cách mạng thế
giới.
1.2.1 Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, đánh giá cao vai trò của thanh niên trong lịch sử đồng thời
tiếp thu những quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của
thanh niên.
Trải qua mấy ngìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã
xây đắp nên nhiều truyền thống tốt đẹp. Đó là truyền thống yêu nước, tự
lực, tự cường; truyền thống coi trọng đạo lý, đoàn kết, tương thân, tương ái,
khoan dung độ lượng; truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, nhạy cảm
với cái mới, biết đối phó linh hoạt, ứng xử mềm dẻo, biết thích nghi và hội
nhập để tồn tại và phát triển Tổng kết lịch sử dựng nước và giữ nước của
dân tộc từ Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, qua Hai Bà Trưng, Bà Triệu đến
Trần Quốc Toản, Quang Trung Hồ Chí Minh đã nhận thấy rằng ở thời đại
nào tuổi trẻ Việt nam cũng luôn luôn làm vẻ vang cho dân tộc, để lại tiếng
vang cho muôn đời.
Suốt hơn một ngìn năm Bắc thuộc, tuổi trẻ Việt Nam các thế hệ đã kế
tiếp nhau luôn luôn là lực lượng đi đầu trong các cuộc khởi nghĩa chống lại
ách thống trị và âm mưu đồng hóa của ngoại bang. Tiêu biểu đó là: Trần
Quốc Toản mới hơn 15 tuổi đã tập hợp đội quân gồm hơn 1000 gia nô và
thân thuộc đều còn ở tuổi thanh niên chiến đấu anh dũng gây nhiều tổn thất
cho quân Nguyên. Đến cuối thế kỷ XVII, trước tình hình các tập đoàn
phong kiến cát cứ thống trị chia cắt đất nước và thảm họa xâm lăng của
12
nước ngoài người thanh niên trẻ tuổi Nguyễn Huệ mới ngoài hai mươi tuổi
đã trở thành thủ lĩnh của phong trào Tây Sơn. Dưới sự chỉ huy tài tình của
Nguyễn Huệ nghĩa quân Tây Sơn đã tiêu diệt được các thế lực phong kiến
ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài, đánh tan 4 vạn quân Xiêm xâm lược ở
phía Nam, quét sạch hơn 20 vạn quân Thanh ở phía Bắc, giải phóng Thăng
Long, thống nhất đất nước.
Trong lĩnh vực văn hóa, lịch sử Việt Nam còn ghi lại nhiều tài năng
xuất chúng khi còn rất trẻ. Thời Trần, Nguyễn Hiền đỗ Trạng nguyên khi
mới 13 tuổi, ông được trọng dụng trở thành Thượng thư bộ Công. Lê Văn
Hưu đỗ Bảng nhãn khi 18 tuổi, làm quan đến chức Thượng thư bộ Binh,
sau vào Viện Quốc sử. Nguyễn Trung Ngạn 15 tuổi đỗ Hoàng Giáp, Đặng
La Mai 14 tuổi đỗ Thám hoa, Lương Thế Vinh 23 tuổi đỗ Trạng Nguyên,
được người đương thời gọi là Thần đồng Theo thống kê sơ bộ, kể từ thời
Nguyễn Trãi thế kỷ XV đến Nguyễn Khuyến đầu thế kỷ XX có 100 người
đỗ đại khoa ở lứa tuổi dưới 30 (xác định được năm sinh và năm thi đỗ) có
công danh và tên tuổi được lưu trong sử sách.
Hồ Chí Minh tự hào và rất trân trọng những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc. Truyền thống của dân tộc là cơ sở vững chắc cho Người có niềm
tin mãnh liệt ở con người Việt Nam, vào tuổi trẻ Việt Nam. Niềm tin đó
giúp Người xác định đúng đắn lực lượng và động lực cách mạng Việt Nam,
nhìn thấy khả năng tiềm tàng ở sức lực, trí tuệ, sự dũng cảm, trí thông minh
và sáng tạo của thế hệ trẻ nước ta trong sự nghiệp đánh đổ Đế quốc và tay
sai, cải biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới tốt đẹp. Bài học lịch sử mà
Người đã nhận thức được là ở bất cứ thời đại nào, khi tài lực của tuổi trẻ
được phát huy thì dân tộc không chỉ làm nên những chiến công hiển hách
mà còn có sự phát triển mạnh mẽ.
Bên cạnh truyền thống dân tộc thì những quan điểm của C.Mác, Ph.
Ăngghen, V.I.Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân, của thanh niên
trong tiến trình phát triển của lịch sử loài người cũng là cơ sở lý luận đem
đến cho Hồ Chí Minh sự chuyển biến về chất trong nhận thức. Đây là yếu
13
tố cực kỳ quan trọng trong việc hình thành những quan điểm về vai trò
thanh niên trong cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh.
Trong học thuyết của mình, C.Mác đã đề cập đến lớp người trẻ tuổi,
đánh giá cao vai trò của thế hệ công nhân đang lớn lên. Ông cho rằng đó là
nguồn bổ sung đặc biệt quan trọng để giai cấp vô sản được hình thành với
tư cách là một giai cấp thực sự khi nó ý thức được địa vị sứ mệnh lịch sử và
tương lai của nó. Ông khẳng định: “Nhưng dù sao thì bộ phận giác ngộ
nhất trong giai cấp công nhân cũng nhận thức rất rõ rằng tương lai của
giai cấp họ và do đó tương lai của cả loài người hoàn toàn phụ thuộc vào
việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên” [2 ; 118].
Ph.Ăngghen thì cho rằng: thanh niên không thể đứng ngoài chính trị,
chính hiện thực cuộc sống đã, đang và sẽ cuốn hút tuổi trẻ vào đời sống
chính trị. Ông nhấn mạnh rằng, thanh niên không bao giờ thỏa mãn với lý
tưởng trước đây, họ muốn được tự do hơn trong hành động, họ khao khát
lập chiến công và vì sự đổi mới họ sẵn sàng hiến dâng cả máu và cuộc đời
mình. Thanh niên có đủ sức lực và tài năng để giải quyết những mâu thuẫn
đang nảy sinh trong đời sống của đất nước.
C.Mác và Ph.Ăngghen luôn luôn gắn thanh niên với giai cấp công
nhân và đội tiền phong chiến đấu của nó. Ph.Ăngghen là người đầu tiên
đưa ra các khái niệm như “Đội quân xung kích quyết định của đạo quân vô
sản quốc tế” hay “Đội hậu bị của Đảng” để gắn với thanh niên.
Phát triển sáng tạo những luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen trong
điều kiện lịch sử mới, V.I. Lênin đã coi thanh niên là nguồn sinh lực chiến
đấu của cách mạng. V.I. Lênin cho rằng công việc xây dựng và phát triển
xã hội mới văn minh và hiện đại phải thuộc về thế hệ trẻ. Người khẳng
định: theo một ý nghĩa nào đó, có thể nói rằng nhiệm vụ thật sự xây dựng
xã hội cộng sản chủ nghĩa chính là của thanh niên. V.I. Lênin cũng nhấn
mạnh rõ lập trường của những người cộng sản chân chính là cần phải giáo
dục cộng sản cho thế hệ trẻ và kết hợp việc giáo dục ấy với cuộc đấu tranh
cách mạng của giai cấp công nhân.
14
Chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ trang bị cho Hồ Chí Minh tri thức
phong phú về lý luận cách mạng mà đồng thời còn trang bị cho Người
phương pháp luận khoa học để tiếp cận thanh niên. Nhờ có phương pháp
luận mác-xít và vốn hiểu biết thực tiễn phong phú, Hồ Chí Minh sớm phát
hiện thấy tiềm năng to lớn của thế hệ trẻ trong cuộc đấu tranh cách mạng.
Như vậy, có thể khẳng định rằng Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
thanh niên được hình thành trên cơ sở tiếp thu những giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc cùng với sự kế thừa những quan điểm của C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I. Lênin về vai trò của thế hệ trẻ cùng với chính những
nỗ lực, kinh nghiệm thời tuổi trẻ của Người.
1.2 Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về vai trò thanh
niên trong tiến trình cách mạng Việt Nam.
Lúc sinh thời Hồ Chí Minh luôn coi thanh niên là lực lượng rường cột
của đất nước, tương lai của dân tộc. Người có niềm tin lớn lao vào các thế
hệ thanh niên và thấy được khả năng sáng tạo to lớn của họ đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ nhận thức đó, Hồ Chí Minh
thường nói và viết về thanh niên rất ngắn gọn, đơn giản nhưng rất sâu sắc,
mục đích là làm cho mọi thanh niên đều có thể hiểu và thấy được trách
nhiệm của mình để tham gia vào công cuộc giải phóng dân tộc, dựng xây
đất nước.
1.2.1 Vận mệnh của dân tộc, sự phát triển của đất nước tùy thuộc
vào sự giác ngộ cách mạng và trách nhiệm của thanh niên.
Những năm tháng của quãng đời tuổi trẻ, được hòa mình sống, lao
động, đấu tranh với nhân dân nhiều nước trên thế giới, Hồ chí Minh có điều
kiện hiểu biết thêm về vai trò của thế hệ trẻ trong sự phát triển của lịch sử
nhân loại. Hồ Chí Minh cũng đã sớm nhận ra vai trò to lớn của tuổi trẻ Việt
Nam trong sự trường tồn và phát triển của dân tộc. Đó là lực lượng đông
đảo nhất, hùng hậu nhất, dũng cảm nhất trong các cuộc chống xâm lăng, là
15
lực lượng gánh vác những công việc nặng nề, khó khăn, vất vả nhất trong
lao động sản xuất và chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt.
Được chứng kiến các phong trào yêu nước của nhân dân ta đầu thế kỷ
XX (phong trào Đông du, phong trào Đông kinh nghĩa thục, phong trào
Duy tân ) với sự tham gia đông đảo nhiệt tình của tầng lớp thanh niên, Hồ
Chí Minh cảm nhận sâu sắc lòng yêu nước thiết tha và khát vọng giải
phóng dân tộc của tuổi trẻ Việt Nam. Ra đi tìm đường cứu nước Hồ Chí
Minh mang trong lòng niềm tin tưởng sâu sắc rằng thế hệ trẻ Việt Nam sẽ
tiếp nối truyền thống cha anh đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi bờ cõi giành
được độc lập cho dân tộc.
Sau hơn 10 năm buôn ba, Người đã gặp nhiều hạng người, nhiều tầng
lớp nhân dân và Người càng nhận thấy rõ vai trò đặc biệt quan trọng của
thế hệ trẻ đối với vận mệnh mỗi quốc gia, dân tộc. Ngày 15 tháng 3 năm
1924, khi trả lời phỏng vấn một tờ báo của Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã
khẳng định: “Nhiều người còn rất trẻ đã có một trình độ mác-xít ít có thể
tưởng tượng là có thể có được vào tuổi đó. Chúng tôi hiểu rõ là chúng tôi
có trách nhiệm rất nặng nề và tương lai của các dân tộc thuộc địa tùy
thuộc vào sự tuyên truyền và tinh thần hi sinh của chúng tôi”.
Và trên thực tế Người đã đứng ra tổ chức, thành lập nhiều Hội, Liên
hiệp mà lực lượng chính chính là những thanh niên trẻ tuổi, nhiệt tình giàu
lòng yêu nước. Đáng chú ý phải kể đến đó là Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên, thành lập tháng 12 năm 1924 tại Quảng Châu (Trung Quốc).
Hội đã qui tụ được rất nhiều thanh niên Việt Nam yêu nước, đầy nhiệt
huyết nhằm giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin cho họ, làm cho họ hiểu: “Vì
sao phải làm cách mạng?” và “Làm cách mạng như thế nào?”. Những
người thanh niên yêu nước sau khi giác ngộ cách mạng được phái về nước
hoạt động nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, giác ngộ quần chúng
nhân dân, gây dựng cơ sở cách mạng và lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
Tháng 6 năm 1925 Hội xuất bản tờ báo “Thanh niên” là cơ quan ngôn luận
của Hội. Báo “Thanh niên” ra đời nhằm phục vụ cho công nhân và nhân
16
dân lao động nước ta, tuyên truyền tôn chỉ, mục đích của Hội, giới thiệu
chủ nghĩa Mác-Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga. Ngoài ra, báo còn
nêu lên các vấn đề về đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng
Việt Nam.
Năm 1928, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên thực hiện “Vô sản
hóa” tức là đưa hội viên vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền cùng lao động
với công nhân để tuyên truyền cho chủ nghĩa Mác-Lênin và giác ngộ cách
mạng cho họ. Đồng thời, Hội cũng đi sâu vào các tầng lớp nhân dân lao
động khác để tuyên truyền và vận động cách mạng. Hội đã mở các lớp học
bình dân để dạy cho nông dân biết đọc, biết viết và thông qua đó khơi dậy
ở họ lòng yêu nước thương nòi và chí căm thù bọn đế quốc, phong kiến.
Hội còn tích cực đấu tranh chống lại ảnh hưởng của các loại tư tưởng tư
sản và tiểu tư sản, là những tư tưởng đang cản trở quần chúng đi theo con
đường cách mạng đúng đắn của giai cấp vô sản. Công lao to lớn của Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên là đưa giai cấp công nhân Việt Nam nhanh
chóng phát triền thành một lực lượng chính trị độc lập, giác ngộ nhiều
người yêu nước đi theo đường lối cứu nước đúng đắn của Nguyễn Ái Quốc,
làm phá sản mọi khuynh hướng tư tưởng của chủ nghĩa cải lương tư sản,
đẩy lùi tư tưởng quốc gia dân tộc tư sản của “Việt Nam quốc dân đảng”,
đồng thời đưa phong trào cách mạng của công-nông tiến lên thành một
phong trào có tính chất độc lập rõ rệt. Hội đã giáo dục, rèn luyện được
nhiều chiến sĩ cách mạng chân chính làm nòng cốt cho việc thành lập
Đảng. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên là tổ chức tiền thân của Đảng,
đã làm tròn nhiệm vụ thức tỉnh dân tộc những năm 20 của thế kỷ XX.
Kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, thanh niên Việt Nam có lý
tưởng cách mạng soi đường đã hăng hái tham gia các phong trào đấu tranh,
sẵn sàng chấp nhận mọi sự hi sinh, gian khổ cùng với Đảng, với dân tộc
làm nên nhiều chiến thắng oanh liệt như Cách mạng tháng Tám năm 1945,
chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 và lừng lẫy nhất là đại thắng mùa xuân
17
1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nhiều tấm gương hy sinh
anh dũng xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc của các chiến sĩ cách
mạng trẻ tuổi đã tô thắm thêm trang sử vàng của dân tộc, làm rạng ngời
thêm truyền thống của thế hệ trẻ Việt Nam.
Hồ Chí Minh không những chỉ ra khả năng cách mạng to lớn của tuổi
trẻ trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân mà Người còn chỉ ra ra
tiềm năng to lớn của tuổi trẻ trong công cuộc kiến thiết, xây dựng thời đại
mới: “Các cháu là thế hệ anh hùng trong thời đại anh hùng. Bác mong các
cháu đều xứng đáng là những anh hùng trong sự nghiệp cách mạng tiêu
diệt chủ nghĩa đế quốc và xây dựng xã hội mới” [24 ; 505].
Như vậy, có thể thấy vai trò to lớn của thanh niên trong công cuộc đấu
tranh bảo vệ Tổ quốc cũng như trong sự nghiệp xây dựng đất nước ở thời
đại mới. Thanh niên sẽ làm chủ nước nhà nên vận mệnh của dân tộc, sự
phát triển của đất nước sẽ tùy thuộc vào sự giác ngộ cách mạng và trách
nhiệm của thanh niên.
1.2.2 Thanh niên là một lực lượng đông đảo, là đội quân xung kích
trên mọi mặt trận của cách mạng.
Trong bài “Nhiệm vụ của thanh niên ta” đăng trên báo nhân dân ngày
20 tháng 12 năm 1956, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tính trung bình
thanh niên chiếm độ 1 phần 3 tổng số nhân dân-tức là một lực lượng to
lớn. Lực lượng lớn thì phải có nhiệm vụ lớn” [21 ; 94]. Cùng với việc tìm
thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, Hồ Chí Minh cũng đã xác
định đúng đắn lực lượng cách mạng Việt Nam khi Người cho rằng cách
mạng là việc việc chung của toàn dân chứ không phải việc của một hai
người. Trong lực lượng cách mạng Người sớm nhận ra vị trí của thanh
niên, đó là lực lượng đông đảo, trẻ khỏe, hăng hái, có lý tưởng, giàu đức hi
sinh, sẵn sàng xả thân trở thành một động lực chủ yếu của cách mạng.
Trong quá trình lãnh đạo dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc, Hồ
Chí Minh thường xuyên theo dõi từng bước trưởng thành và cống hiến của
18
tuổi trẻ Việt Nam. Trong các thư gửi thanh niên và trong các dịp gặp gỡ
trực tiếp với thanh niên, Người đều nhấn mạnh vai trò to lớn của thanh niên
và động viên kịp thời với những thành tích của thanh niên trong mọi lĩnh
vực như chiến đấu, sản xuất, học tập Trong “Lời kêu gọi thanh niên Nam
bộ” ngày 30 tháng 10 năm 1945, Người viết: “Trong cuộc chống xâm lăng
này các bạn đã là bức Vạn lý trường thành vững chắc, các bạn phải thống
nhất mặt trận thanh niên, đoàn kết, nêu cao tinh thần tin tưởng ở sức mạnh
của dân tộc. Những gương hy sinh anh dũng của các bạn đã sáng rọi khắp
nước, những chiến công oanh liệt của các bạn đã làm cho toàn thể đồng
bào thêm kiên quyết” [17 ; 79]. Tháng 4 năm 1951, Hồ Chí Minh viết thư
gửi thanh niên đánh giá và khen ngợi thành tích của thanh niên quân đội,
thanh niên công nhân, thanh niên nông dân, thanh niên học sinh, thanh niên
xung phong. Người nhắc nhở: “Huy hiệu của thanh niên ta là “tay cầm cờ
đỏ sao vàng tiến lên”. Ý nghĩa của nó là thanh niên phải xung phong làm
gương mẫu trong công tác, trong học hỏi, trong tiến bộ, trong đạo đức
cách mạng. Thanh niên phải thành một lực lượng to lớn và vững chắc
trong công cuộc kháng chiến và kiến quốc. Đồng thời phải vui vẻ và hoạt
bát” [19 ; 197].
Ngày 20 tháng 12 năm 1961 nói chuyện tại Đại hội Đoàn lần thứ II
của Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nói lên tình cảm
của mình đối với thanh niên, đồng thời Người nêu lên một cách cụ thể và
hoàn chỉnh quan điểm của Người về vai trò “động lực và xung kích” của
thanh niên trong cách mạng:
“Bác rất yêu mến thanh niên. Vì thanh niên là người tiếp sức cách
mạng cho thế hệ thanh niên già đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ
thanh niên tương lai tức là các cháu nhi đồng. Vì thanh niên là người
xung phong trong công cuộc phát triển kinh tế và văn hóa trong sự nghiệp
xây dựng CNXH Vì thanh niên là lực lượng cơ bản trong bộ đội, công an
và dân quân tự vệ đang hăng hái giữ gìn trật tự trị an, bảo vệ Tổ quốc. Vì
19
trong mọi công việc, thanh niên thi đua thực hiện khẩu hiệu “Đâu cần
thanh niên có, việc gì khó có thanh niên” [23 ; 488].
Hồ Chí Minh cũng luôn nhấn mạnh vai trò xung kích đi đầu của thanh
niên trong hành động cách mạng. Vai trò xung kích trước tiên phải thể hiện
ở: “Việc gì khó có thanh niên, ở đâu khó có thanh niên” [22 ; 310]. Theo
Người sự nghiệp cách mạng càng phát triển thì càng đòi hỏi thanh niên
thực hiện tốt hơn vai trò xung kích của mình, Người nói: “Thời đại này là
thời đại vẻ vang của thanh niên. Mà thanh niên phải là đội xung phong
trên các mặt trận chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật” [23 ; 390].
1.2.3 Thanh niên phải có tổ chức phù hợp, Đoàn Thanh niên là lực
lượng hậu bị của Đảng.
Hơn ai hết Chủ tịch Hồ Chí Minh rất hiểu tiềm năng vô cùng to lớn
của thế hệ trẻ Việt Nam nhưng để hiện thực hóa các tiềm năng đó thì là một
công việc không hề đơn giản. Người nói: “Thanh niên ta rất hăng hái. Ta
biết họp lòng hăng hái đó lại và dìu dắt đúng đắn thì thanh niên sẽ thành
một lực lượng rất mạnh mẽ” [20 ; 162]. Từ đó, Người chủ trương hạt nhân
để đoàn kết, tập hợp thanh niên đồng thời là người trực tiếp tổ chức, giáo
dục, động viên thanh niên phải là Đoàn Thanh niên cộng sản. Vì vậy, ngay
sau khi thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên năm 1925, Người đã
xúc tiến ngay việc chuẩn bị cho sự ra đời của Đoàn Thanh niên Cộng sản:
“Hội đã chọn tám em Việt kiều ở Xiêm đưa sang Quảng Châu để bồi
dưỡng thành hạt nhận của Đoàn Thanh niên sau này. Trong số các em đó
có Lý Tự Trọng về sau là đoàn viên đầu tiên của Đoàn Thanh niên Cộng
sản nước ta, cũng là người cộng sản đã oanh liệt đấu tranh đến hơi thở
cuối cùng cho Đảng, cho sự nghiệp cách mạng” [25 ; 64].
Để chuẩn bị cơ sở lý luận cho việc thành lập Đoàn Thanh niên trong
tác phẩm “Đường cách mệnh”, Người đã dành riêng một chương nói về tổ
chức thanh niên cộng sản và giới thiệu tôn chỉ mục đích của Đoàn. Người
viết: “Đường chính trị thì thanh niên theo Đảng chỉ huy nhưng việc làm thì
20
thanh niên độc lập” [16 ; 295]. Thực hiện tư tưởng của Người chỉ một năm
sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời thì ngày 26 tháng 3 năm 1931
Đoàn Thanh niên Cộng sản cũng ra đời. Về chức năng, nhiệm vụ của Đoàn,
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đoàn thanh niên là cánh tay và đội hậu bị của Đảng,
là người phụ trách, dìu dắt các cháu nhi đồng” [25 ; 65]; “Đoàn phải
nghiên cứu tìm ra nhiều hình thức và phương pháp thích hợp để đoàn kết
và tổ chức thanh niên một cách rộng rãi và vững chắc, để làm tròn những
nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ giao phó”
[21 ; 263].
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị – xã hội của thanh niên
Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập,
lãnh đạo và rèn luyện. Đoàn thanh niên là lực lượng xung kích trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bác Hồ đã khẳng định “Nước nhà
thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần là do thanh niên”. Đoàn là đơn vị dự
bị tin cậy của Đảng, là nguồn lực bổ sung lực lượng cho Đảng, là người kế
tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của Bác Hồ. Vì vậy, việc tổ
chức tham gia xây dựng Đảng của tổ chức Đoàn phải cho là một nhiệm vụ
cao cả. Đây là môi trường để đoàn viên phấn đấu, rèn luyện và trưởng
thành trong sự ngiệp đổi mới đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội. Đoàn thanh
niên vừa là tổ chức gần gũi Đảng lại là lực lượng tích cực, xung phong
gương mẫu trong việc thực hiện những chủ trương và chính sách cách
mạng, là người trực tiếp giúp Đảng giáo dục chủ nghĩa cộng sản cho thanh
niên, vận động thanh niên đi theo lý tưởng của Đảng đồng thời lôi cuốn, tập
hợp thanh niên xung phong vào những nơi khó khăn, gian khổ nhất. Đoàn
cũng là người chịu trách nhiệm chính giúp Đảng trong việc phụ trách dìu
dắt thiếu niên, nhi đồng lớp măng non của đất nước.
Công ơn của Chủ tịch Hồ Chí Minh với thế hệ trẻ Việt Nam không chỉ
thể hiện ở việc sáng lập, rèn luyện Đoàn thanh niên Cộng sản – đội tiên
phong chính trị của tuổi trẻ mà còn ở việc Người luôn quan tâm dìu dắt
phong trào thanh niên và các tổ chức của thanh niên ngày càng lớn mạnh.
21
Hồ Chí Minh chủ trương tập hợp đoàn kết thanh niên thông qua phong trào
hành động cách mạng là nhằm tạo cho tuổi trẻ cơ hội phát huy mọi tiềm
năng đang ẩn chứa bên trong thành hành động làm nên những điều kỳ diệu
đồng thời phong trào cách mạng tự bản thân nó có ý nghĩa giáo dục to lớn
đối với thanh niên, do vậy đó là môi trường để thanh niên nhanh chóng
trưởng thành.
Tư tưởng trên đây của Hồ Chí Minh đã sớm đi vào cuộc sống với
những biểu hiện phong phú của các phong trào Đoàn. Trong sự nghiệp đổi
mới hiện nay những phong trào “Thanh niên lập nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ
nước” do Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phát động đang được
thanh niên hưởng ứng tạo nên một sinh khí mới trong thanh niên cả nước.
Việc tổ chức chỉ đạo tốt các phong trào này sẽ có tác dụng to lớn trong việc
phát huy vai trò của thế hệ trẻ Việt Nam đóng góp được nhiều nhất khả
năng, sức lực, trí tuệ của mình cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
1.2.4 Thanh niên phải tự giác rèn luyện, không ngừng học tập, có
chí tiến thủ, xung phong, gương mẫu trong mọi công việc.
Bên cạnh sự đề cao vai trò thanh niên trong sự nghiệp cách mạng,
Hồ Chí Minh cũng đã thẳng thắn nhận định rằng: Thanh niên có vinh dự
lớn thì cũng có trách nhiệm lớn. Để làm tròn trách nhiệm, thanh niên ta
phải nâng cao tinh thần làm chủ tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân, chớ phô
trương hình thức, chớ kiêu ngạo, tự mãn. Phải thấm nhuần đạo đức cách
mạng, tức là học tập, lao động, sinh hoạt theo đúng đạo đức của thanh niên
xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. Người luôn nhìn nhận thanh niên
như là một chủ thể đang phát triển, đang nhập cuộc và đang tiếp tục hoàn
thiện. Do vậy, thanh niên muốn xứng đáng là người chủ tương lai của nước
nhà thì yếu tố tự giác rèn luyện bản thân của thanh niên là hết sức quan
trọng. Sự rèn luyện, tu dưỡng của thanh niên phải được thể hiện trên mọi
phương diện như: rèn luyện đạo đức cách mạng, trau dồi và nâng cao trình
22
độ văn hóa, nghiệp vụ chuyên môn, rèn luyện ý chí và lòng dũng cảm, rèn
luyện thân thể
Trên cơ sở nhận thức về vị trí, vai trò của thanh niên trong tiến trình
cách mạng của dân tộc và vai trò nền tảng của đạo đức đối với người cách
mạng, Hồ Chí Minh xác định giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên
là công việc gốc của Đảng, của tổ chức Đoàn, của gia đình nhà trường và
toàn xã hội. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục đạo đức
cách mạng đối với thanh niên. Theo Người, giáo dục đạo đức cách mạng
cho thanh niên là quá trình làm cho thanh niên lĩnh hội được những qui tắc,
chuẩn mực đạo đức cách mạng của xã hội. Đây còn là biện pháp tốt nhất
nhằm giúp thanh niên tránh được những tác động xấu của tàn dư đạo đức
cũ để nhận thức đúng trách nhiệm của mình trước dân tộc.
Đạo đức cách mạng của thanh niên là tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng. Đảng cộng sản Việt
Nam là người giáo dục, dìu dắt, rèn luyện và tạo điều kiện cho thanh niên
học tập, phấn đấu, tu dưỡng và thể hiện tài năng của mình, cống hiến cho
sự nghiệp cách mạng. Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, thanh niên phải
không ngừng học tập nâng cao hiểu biết chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm vững
đường lối, chủ trương của Đảng. Học chính trị là học chủ nghĩa Mác -
Lênin và đường lối quan điểm của Đảng để hiểu rõ nhiệm vụ cách mạng
đồng thời xây dựng cho bản thân mình một phương pháp nhận thức đúng
đắn trước những diễn biến phức tạp của cuộc sống, để từ đó vững tin vào lý
tưởng cách mạng, tránh mọi sai lầm vấp ngã. Nắm vững chủ nghĩa Mác -
Lênin, phấn đấu vì lợi ích chung của Đảng, của cách mạng, của giai cấp,
của dân tộc, thanh niên không ngần ngại, phấn đấu hy sinh, luôn đặt lợi
ích chung lên trên lợi ích cá nhân, đứng vững trên lập trường của giai cấp
công nhân để hết lòng, hết sức đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản, cho giai cấp công nhân và cho toàn thể nhân dân lao động. Đó là
tinh thần không sợ gian khổ, hy sinh, tinh thần "Đâu cần thanh niên có,
23
việc gì khó có thanh niên"; hăng hái, xung phong, gương mẫu trong công
tác Thanh niên phải trở thành một trong những nguồn nội lực to lớn cho
sự phát triển nhanh và bền vững sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, nhân dân giao phó.
Người nêu rõ những chuẩn mực đạo đức làm định hướng cho sự rèn
luyện của thanh niên đó là: “Trước hết, phải yêu Tổ quốc, yêu nhân dân.
Phải có tinh thần dân tộc vững chắc và tinh thần quốc tế đúng đắn. Phải
yêu và trọng lao động. Phải giữ gìn kỷ luật. Phải bảo vệ của công. Phải
quan tâm đến đời sống của nhân dân Phải thấm nhuần đạo đức cách
mạng tức là khiêm tốn, đoàn kết, thực hành chủ nghĩa tập thể, thương yêu,
giúp đỡ lẫn nhau ra sức cần kiệm xây dựng nước nhà” [23 ; 106].
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng luôn nhắc nhở thanh niên phải luôn
gắn chặt quá trình “xây và chống” trong rèn luyện đạo đức cách mạng.
Người chỉ rõ: "Thanh niên cần phải chống tâm lý tự tư, tự lợi, chỉ lo lợi ích
riêng và sinh hoạt riêng của mình. Chống tâm lý ham sung sướng và tránh
khó nhọc. Chống thói xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay.
Chống lười biếng, xa xỉ. Chống cách sinh hoạt uỷ mị. Chống kiêu ngạo, giả
dối, khoe khoang" [20 ; 455]. Người cũng luôn căn dặn thanh niên: “Muốn
xứng đáng vai trò người chủ thì phải học tập” [20 ; 398] vì cách mạng đòi
hỏi những con người có văn hóa, có trình độ. Để xây dựng CNXH thành
công thì nhất định phải có lực lượng thanh niên có trình độ, có văn hóa, có
kỹ thuật và quan trọng hơn phải có lập trường chính trị vững vàng trên cơ
sở chủ nghĩa Mác-Lênin. Hồ Chí Minh đã khẳng đinh: “Nhiệm vụ chính
của thanh niên học sinh là học” [20 ; 398], bởi học để yêu Tổ quốc, yêu
nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu đạo đức, học để “phụng sự Tổ
quốc, phụng sự nhân dân”, làm cho dân giàu nước mạnh. Để trở thành
những công dân hữu ích, có tài, có đức thì ngoài việc học ở trường thanh
niên phải tự học, tự giáo dục tu dưỡng đạo đức để hoàn thiện mình. Theo
Hồ Chí Minh, nền giáo dục mới của chúng ta nhằm biến quá trình đào tạo
24
thành tự đào tạo, tự học tập để nắm vững tri thức khoa học và hiểu biết về
mọi mặt của đời sống chính trị, xã hội. Tự học là một nhiệm vụ quan trọng
của mỗi thanh niên. “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời
phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã
biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng
tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân
dân” [21 ; 215]. Hồ Chí Minh là một tấm gương tự học, tự tu dưỡng đạo
đức. Trong suốt những năm hoạt động, qua các nước, các châu lục, Người
đã tự học, tự rèn luyện tu dưỡng để có được vốn tri thức uyên bác và trở
thành lãnh tụ thiên tài, một nhà văn hoá lớn của thời đại.
Để hoàn thành nhiệm vụ thanh niên cần phải tìm cho mình cách học,
không chỉ học trong sách vở mà còn phải học bạn bè, học lẫn nhau, thực
hành, thí nghiệm, thảo luận, học trong thực tế, học nhân dân để có được
tri thức vừa chuyên sâu vừa toàn diện. Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh mối
quan hệ biện chứng giữa học với hành. Người nhìn thấy ở mối quan hệ này
khả năng to lớn đối với việc hình thành và phát triển những con người mới
XHCN. Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn khuyên thanh niên học với hành phải đi
đôi với nhau và nhấn mạnh, học không hành thì học vô ích, hành mà không
học thì hành không trôi chảy. Học đi đôi với hành cho phép cùng một lúc
hình thành cả tri thức và kỹ năng của mỗi người.
Học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn: “Học lý luận
không phải là để nói mép, nhưng biết lý luận mà không thực hành là lý
luận suông. Học để áp dụng vào việc làm. Làm mà không có lý luận thì
không khác gì đi mò trong đêm tối, vừa chậm chạp vừa hay vấp váp. Có lý
luận thì mới hiểu được mọi việc trong xã hội, trong phong trào để chủ
trương cho đúng, làm cho đúng” [19 ; 47]. Một trong những nguyên tắc cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin là sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn.
Thực tiễn mà không có lý luận hướng dẫn là thực tiễn mù quáng. Lý luận
không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. “Lý luận phải đem ra thực
25