Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong sự nghiệp đổi mới ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.35 KB, 19 trang )

Nhóm 6 - Cao học 18.01B
LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế và chính trị là hai mặt lớn nhất của đời sống xã hội. Trong điều
kiện đất nước ta hiện nay còn nghèo nàn lạc hậu thì đổi mới nền kinh tế đất nước
là điều hết sức cần thiết. Muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa thành công thì điều
kiện tiên quyết là phải có một nền kinh tế vững chắc ổn định, đáp ứng đầy đủ
mọi điều kiện cho đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa thành công. Giải quyết mối
quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một nội dung cốt lõi quan
trọng trong các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng ta từ khi đổi mới đến
nay. Thời kỳ trước đổi mới, về nhận thức, chúng ta đó nhấn mạnh quá mức và
coi chính trị là yếu tố quyết định kinh tế và tất cả các lĩnh vực của đời sống xó
hội, mà coi nhẹ vai trũ của kinh tế trong quan hệ với chính trị. Về cơ chế, chúng
ta cũng nhận thức một cách đơn giản về tác động của chính trị đối với cơ sở kinh
tế. Chính trị tác động quá sâu và chủ quan vào các quá trình kinh tế - xã hội.
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị có ảnh hưởng to lớn đến mọi mặt của hoạt
động, đời sống xã hội. Mọi hoạt động khác có diễn ra thuận lợi hay không đỏi
hỏi phải dựa trên mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị có diễn ra bình thường
hay không.
Nhận thức được điều đó, Đảng ta chủ trương “Kết hợp ngay từ đầu đổi
mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời
từng bước đổi mới chính trị”. Đây là nhận thức đúng cả về mặt lý luận và thực
tiễn. Để nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa chính trị với kinh tế theo quan
điểm CN Mác-Lênin và hiểu rõ sự vận dụng đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế
với chính trị của Đảng ta trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, góp phần
đấu tranh phê phán những quan điểm tư tưởng và hành động lệch lạc như : tuyệt
đối hoá sức mạnh chính trị, hoặc khuynh hướng tuyệt đối hoá tự do kinh tế,
buông lỏng, xem nhẹ sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước đối với
quá trình xây dựng và phát triển kinh tế, nhóm lựa chọn phân tích chủ đề: “Giải
quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay”
1




Nhóm 6 - Cao học 18.01B
PHẦN I: MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
I. Khái niệm kinh tế và chính trị
Chính trị: là những công việc nhà nước hay xã hội. Phạm vi hoạt động
gắn với những quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc và các nhóm xã hội
khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà
nước. Về thực chất, chính trị là quan hệ về lợi ích (trước hết và cơ bản là lợi ích
kinh tế) giữa các giai cấp, các lực lượng XH, các quốc gia, dân tộc mà việc thực
hiện lợi ích đó phải thông qua quyền lực nhà nước.Trong chính trị, vấn đề quyền
lực chính trị (mà trọng tâm là quyền lực nhà nước) luôn là mục tiêu của các giai
cấp. Khi nắm được quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước tức là nắm được
công cụ cơ bản nhất để giải quyết các vấn đề lợi ích của các giai cấp. Do vậy,
xét từ góc độ quan hệ với kinh tế thì vấn đề chính trị thực chất cũng chính là vấn
đề kinh tế bởi vì giải quyết vấn đề quyền lực chính trị sẽ trực tiếp tác động đến
động lực của sự phát triển kinh tế. Mác Lênin đã rút ra kết luận : quan hệ chính
trị xét về bản chất là do quan hệ kinh tế, chính sự ra đời và tồn tại của giai cấp,
chính nhu cầu của các giai cấp quyết định nội dung của các lợi ích chính trị. .
Kinh tế: được hiểu là toàn bộ các lĩnh vực, các ngành khác nhau của một
nền kinh tế quốc dân, mà cơ sở của nó là các quan hệ cơ bản : quan hệ sở hữu về
tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và quản lý lao động XH, quan hệ phân phối sản
phẩm làm ra. Phạm vi kinh tế là cơ sở cần thiết và sâu xa nhất của xã hội loài
người, gần như toàn bộ các mối quan hệ khác trong xã hội đều được quy định
bởi lĩnh vực kinh tế, vì vậy nó quyết định chế độ chính trị và quyết định quyền
lực nhà nước.
II. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở Việt Nam hiện nay.
Trước tiên, phải khẳng định rằng, quan hệ chính trị với kinh tế là mối
quan hệ biện chứng luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau. Trong quá trình đổi
mới đất nước, khi xác định đường lối phát triển giữa chính trị và kinh tế, Đảng

ta khẳng định “lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm”. Điều này xuất phát từ quan
2


Nhóm 6 - Cao học 18.01B
điểm kinh tế là nền tảng của chính trị, kinh tế bao giê cũng quyết định chính trị
và điều này được khẳng định hoàn toàn trong lý luận cũng như trong thực tiễn.
A, Vai trò của kinh tế đối với chính trị.
Có thể khẳng định rằng kinh tế luôn quyết định chính trị mà trước hết,
nhân tố kinh tế có tính quyết định nhất, tác động đến đời sống chính trị chính là
hệ thống các quan hệ sở hữu. Nếu quan hệ sở hữu thay đổi về căn bản và cùng
với nó là sự thay đổi các quan hệ kinh tế khác mà trước hết nó làm biến đổi bản
chất của hệ thống các quan hệ sản xuất. Hệ thống các quan hệ sản xuất khi đã
thay đổi về căn bản sẽ dẫn đến thay đổi căn bản chế độ chính trị, mở đường cho
lực lượng sản xuất phát triển. Kinh tế thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của chính
trị, thậm chí một vấn đề kinh tế không lớn nhưng có thể trở thành một vấn đề
chính trị phức tạp, có thể làm đảo lộn đời sống chính trị, xã hội. Lực lượng nào,
giai cấp nào nắm kinh tế thì lực lượng đó, giai cấp đó nắm quyền lực chính trị,
chi phối đời sống xã hội. Ngược lại, nếu một giai cấp, lực lượng XH đã làm chủ
về quyền lực chính trị mà không xây dựng và giữ được địa vị chủ đạo về kinh tế
thì sớm muộn cũng sẽ không thể duy trì được quyền lực chính trị. Chính vì vậy,
Lênin đã rút ra nguyên lý về mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị: “Chính trị là
sự biểu hiện tập trung của kinh tế”. Đằng sau các quan hệ chính trị là các quan
hệ kinh tế, các quan hệ lợi ích kinh tế.
Nguyên lý đó chỉ ra rằng: đường lối chính sách phải phản ánh được nhu
cầu và quy luật kinh tế. Chỉ trong điều kiện đó, chính trị mới lãnh đạo, quản lý
kinh tế có hiệu quả, mới giữ được vai trò chính trị. Thực tiễn những thời kỳ sau
này đó xác nhận tính đúng đắn của nguyên lý ấy biểu hiện ở những thất bại của
các đảng cầm quyền rơi vào chủ quan duy ý chí trong lãnh đạo và quản lý kinh
tế - xã hội.

B, Vai trò của chính trị với kinh tế.

3


Nhóm 6 - Cao học 18.01B
Trong quá trình đổi mới, song song với việc lấy “đổi mới kinh tế làm
trọng tâm”, Đảng xác định phải từng “đồng thời từng bước đổi mới chính trị”.
Quan điểm này xuất phát từ chính trị mặc dù bị kinh tế quyết định nhưng chính
trị lại có tính độc lập tương đối và có sự tác động trở lại kinh tế rất mạnh mẽ sự
tác động độc lập của chính trị đến kinh tế.
Về mặt lý luận: khi nhấn mạnh vai trò của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc
thượng tầng, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng khẳng định rằng kiến
trúc thượng tầng (chính trị) có tính độc lập tương đối và có sự tác động trở lại rất
mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng (kinh tế). Về mặt thực tiễn: do nhận thức được
quy luật kinh tế khách quan, kiến trúc thượng tầng (chính trị) có vai trò định
hướng cho quy luật kinh tế, mang lại phương án tối ưu cho phát triển kinh tế và
phục vụ vì lợi ích của giai cấp. Với ý nghĩa đó, chính trị ra đời tồn tại và phát
triển trên cơ sở nó có vai trò to lớn tác động đến kinh tế theo những quy luật
kinh tế khách quan
Biểu hiện sự tác động của chính trị đối với kinh tế:
Một là chính trị định hướng cho kinh tế phát triển dựa trên quy luật khách
quan, lựa chọn mô hình chiến lược phát triển kinh tế, tham gia vào việc điều tiết,
lựa chọn tốc độ phát triển kinh tế.
Hai là vai trò tác động của chính trị tác động đến các chủ thể kinh tế: mỗi
chủ thể kinh tế có vai trò, địa vị, lợi ích riêng, vì vậy, chính trị phải có sự kiểm
soát, tạo điều kiện tác động cho các chủ thể kinh tế phát triển và tạo điều kiện
cho họ góp phần vào việc thực hiện lợi ích chung.
Ba là vai trò của cơ cấu tổ chức và phương thức tổ chức, quản lý con
người-xã hội đối với kinh tế để phát huy được vai trò của nhân tố con người

Từ những tác động trên của chính trị đến kinh tế, Lênin cho rằng “Chính
trị không thể không giữ địa vị ưu tiên so với kinh tế”. Luận điểm này khẳng
định tính ưu tiên cho chính trị so với kinh tế, tức là kết quả đạt được về phát
triển kinh tế phải tính đến việc bảo vệ củng cố và phát triển thành quả chính trị
đạt được (củng cố và phát triển hệ thống chính trị). Khi giải quyết các vấn đề
4


Nhóm 6 - Cao học 18.01B
kinh tế thì phải góp phần duy trì củng cố quyền lực chính trị. Mặt khác, trong
kinh tế dù cải tổ hay đổi mới như thế nào cũng phải luôn giữ vững hệ tư tưởng
chính trị vì hệ tư tưởng chính trị quy định phương hướng mục tiêu, bản chất của
chế độ xã hội. Trong điều kiện cách mạng XHCN, sự ưu tiên của chính trị so với
kinh tế là tất yếu để xây dựng CNXH: đó chính là giành, giữ và sử dụng quyền
lực chính trị và xây dựng nền kinh tế mới. Luận điểm này cũng cho thấy phải có
quan điểm chính trị khi giải quyết các vấn đề kinh tế và phải bảo đảm sự lãnh
đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước đối với phát triển kinh tế là tất yếu
khách quan. Chính trị phải được ưu tiên và giữ hàng đầu so với kinh tế vì chính
trị có khả năng can thiệp một cách tự giác vào quá trình kinh tế khách quan.
Sự tác động của chính trị đối với kinh tế có thể theo hai hướng : một là
nếu chính trị tác động cùng chiều với sự phát triển kinh tế, khi đó chính trị có
vai trò tích cực, thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã
hội theo hướng chuyên môn hóa, hợp tác hóa. Hai là nếu chính trị tác động
ngược chiều với sự phát triển kinh tế, khi đó chính trị là vật cản đối với sự phát
triển kinh tế.
Vai trò tác động của chính trị đối với kinh tế không chỉ dừng lại ở đó.
Trong nhiều trường hợp dù đã có quyết sách chính trị đúng đắn (phản ánh đúng
thực trạng và qui luật khách quan của kinh tế), nhưng trình độ năng lực tổ chức
chỉ đạo thực tiễn phương thức hoạt động của hệ thống chính trị không vươn tới
ngang tầm với nhiệm vụ chính trị đề ra, thì chính trị vẫn có thể cản trở kinh tế

hoặc để cho kinh tế phát triển chệch hướng, trái với đường lối chính trị đã lựa
chọn. Vì thế chính trị cũng phải tự đổi mới, phải có cơ cấu tổ chức, phương thức
hoạt động, thiết chế vận hành phù hợp với cơ sở kinh tế.

5


Nhóm 6 - Cao học 18.01B

PHẦN 2: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA ĐẢNG TA VỀ NHẬN THỨC
VÀ VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VỚI CHÍNH TRỊ

Thử thách lớn nhất đối với đảng cầm quyền trong thời bình xây dựng đất
nước là nhận thức và vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị phù hợp
với những đặc điểm dân tộc và bối cảnh thời đại.Nhìn lại lịch sử từ năm 1975
đến nay, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm lớn về giải quyết mối quan hệ
giữa kinh tế với chính trị.
I. Giai đoạn 1975 – 1986.
Đây là thời kỳ chuyển từ mối quan hệ giữa chính trị với quân sự sang
quan hệ giữa chính trị với kinh tế. Đảng và Nhà nước đó bỏ nhiều công sức vào
việc tìm tòi một chiến lược kinh tế làm cơ sở cho việc thực hiện mục tiêu đi lên
chủ nghĩa xã hội. Sự quan tâm đó là đúng đắn. Nhưng lựa chọn hình thái kinh tế
nào để thực hiện mục tiêu đó thì gặp nhiều khó khăn. Mô hình kinh tế ở các
nước xã hội chủ nghĩa đang rơi vào trì trệ, suy thoái dần, nhiều biến động chính
trị phát sinh từ kinh tế, thậm chí rối loạn chính trị như ở Trung Quốc vào cuối
thập kỷ 60, đầu thập kỷ 70. Cuối cùng thì Đảng lựa chọn chiến lược công hữu
hoá, nhà nước hoá toàn bộ lĩnh vực kinh tế thông qua cải tạo xã hội chủ nghĩa
và xây dựng mô hình kinh tế 500 huyện, bỏ qua thời kỳ khôi phục kinh tế sau
chiến tranh lâu dài. Kết cục là kinh tế trì trệ và suy thoái, đời sống nhân dân
nghèo nàn trong cơ chế bao cấp tràn lan, không được bảo đảm về nhu cầu y tế và

giáo dục.

6


Nhóm 6 - Cao học 18.01B
Nguyên nhân thất bại trong thực hiện mối quan hệ giữa kinh tế với chính
trị thời kỳ này được Đại hội VI của Đảng chỉ ra một cách tổng quát là bệnh chủ
quan duy ý chí. Đi sâu hơn về nguyên nhân thất bại thì thấy rõ đây là bài học
chung của các Đảng Cộng sản cầm quyền thế kỷ XX, mà Đảng ta muốn vượt ra
cũng không được. Bài học kinh nghiệm này của Việt Nam (cũng như các đảng
khác) chỉ ra rằng: công tác lý luận và tư tưởng và tổ chức - cán bộ có tầm quan
trọng quyết định đến chất lượng chính trị. Chừng nào công tác này còn yếu kém
thì chưa thể đặt mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế trên cơ sở khoa học và
thực tiễn thời đại hiện nay.
II. Giai đoạn đổi mới từ 1986 trở đi.
Cột mốc quan trọng trong nhận thức và đổi mới "mối quan hệ kinh tế với
chính trị" là Đại hội VI của Đảng (1986). Những giá trị của Đại hội VI có ý
nghĩa lâu dài trong công cuộc đổi mới của Việt Nam. Những giá trị tiêu biểu
nhất là:
Một là chính trị có ổn định thì kinh tế mới phát triển.
Đảng ta cho rằng ổn định chính trị không có nghĩa là bảo thủ, trì trệ,
ngược lại nó có vai trò quan trọng đảm bảo điều kiện cho các lĩnh vực khác phát
triển, làm cho quá trình đổi mới trở nên toàn diện hơn. Ổn định chính trị cũng
đồng thời góp phần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của
Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình đổi mới đất
nước.Để giữ vững ổn định chính trị, tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân, Hội
nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (3-1989) quyết định các
nguyên tắc cơ bản để chỉ đạo toàn bộ quá trình đổi mới theo đúng định hướng
XHCN: “Đổi mới tư duy là nhằm khắc phục những quan niệm không đúng, làm

phong phú những quan niệm đúng về thời đại, về chủ nghĩa xã hội, vận dụng
sáng tạo vào phát triển chứ không phải xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác - Lênin”.Một bước đi cực kỳ đứng đắn và thể hiện được bản lĩnh chính trị
7


Nhóm 6 - Cao học 18.01B
của Đảng ta biểu hiện bằng nghị quyết hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung
ương khoá VI (8-l989) về công tác tư tưởng trong bối cảnh quốc tế vô cùng
phức tạp khi đó: "Chế độ chính trị của chúng ta là chế độ làm chủ của nhân dân
lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng... Chúng ta không chấp nhận chủ nghĩa đa
nguyên chính trị, không để cho các tổ chức chống đối chủ nghĩa xã hội ra đời và
hoạt động, không coi việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần là thực
hiện chủ trương đa nguyên về kinh tế”
Hai là lấy kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị.
Chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính
trị được tiếp tục nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần
thứ VII: “Phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp
bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng
cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để
tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh
tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống
chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân
dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội” Kinh nghiệm thành
công của sự kết hợp đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị được Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi
mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời
từng bước đổi mới chính trị”
Đó là những quan điểm đúng đắn của Đảng ta phù hợp với nhu cầu và
nguyện vọng của nhân dân lao động, những quan điểm này tiếp tục được khẳng

định trong các kỳ Đại hội IX, X với mục tiêu: “đổi mới toàn diện, đồng bộ, có
kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức,
tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn hóa, đối ngoại đến tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý
của nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị”.
8


Nhóm 6 - Cao học 18.01B
Đại hội XI của Đảng đã đưa ra quan điểm về đổi mới kinh tế với đổi mới chính
trị: “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp,
trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật,
kỷ cương..”
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở nước ta về cơ bản là giống so với
các nước khác. Song mặt khác nước ta thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế
từ xuất phát điểm là một nền kinh tế kém phát triển, chứa nhiều đặc thù riêng:
Đảng ta xác định tư tưởng độc lập tự chủ trong việc xây dựng một nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đổi
mới này diễn ra dưới sự chỉ huy của một thể chế chính trị khác hẳn so với các
nước đó là nhà nước xã hội chủ nghĩa do đó mối quan hệ kinh tế chính trị ở
nước ta còn chứa đựng nhiều điểm riêng đặc trưng.
Quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội ta hiện nay là quan hệ sản xuất
cộng sản chủ nghĩa, với hai thành phần kinh tế chủ đạo là kinh tế nhà nước và
kinh tế tập thể. Từ đó trên cơ sở quan hệ sản xuất cộng sản chủ nghĩa hình thành
nên nhà nước Việt nam với thể chế chính trị là một nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta hiện nay liên minh giữa công nhân và nông dân, giữ địa vị
thống trị về kinh tế do đó cũng nắm vững sự thống trị, Nhà nước Việt nam là
nhà nước của dân do Đảng cộng sản Việt nam là Đảng được thành lập bởi giai

cấp công nhân lãnh đạo. Hiện nay muốn tiếp tục đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa thì đòi hỏi nước ta phải có một nền kinh tế vững chắc để làm chỗ dựa
phục vụ cho các mục đích chính trị lâu dài. Sức mạnh về kinh tế sẽ là bàn đạp
cho mọi hoạt động chính trị vì sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa diễn ra
thành công.
Ngày nay khi đất nước thực sự bước vào xây dựng và phát triển kinh tế,
trung tâm lãnh đạo của Đảng là mặt trận kinh tế. Với tư cách là đội tiền phong
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng phải gánh vác sứ mệnh lãnh
9


Nhóm 6 - Cao học 18.01B
đạo công cuộc đổi mới và phát triển nền kinh tế của đất nước. Toàn bộ lãnh đạo
hoạt động kinh tế đều hướng vào mục tiêu: ổn định chính trị phục vụ dân giàu,
nước mạnh xã hội công bằng văn minh , xây dựng thành công chế độ xã hội chủ
nghĩa.

PHẦN III: NHỮNG VẤN ĐỀ CHỦ YẾU VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT
NÂNG CAO MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VỚI CHÍNH TRỊ

I.Những tồn tại.
- Hiện nay trong quá trình đổi mới nền kinh tế thì hoạt động chính trị còn
tồn tại nhiều bất cập, tác động xấu tới nền kinh tế.
Trước hết phải nói tới việc Nhà nước thọc tay quá sâu vào công việc làm
ăn của các cơ sở kinh tế. Nhà nước ta vẫn còn tồn tại thói quan liêu làm cho cơ
sở kinh tế không mạnh bạo trong quá trình làm kinh tế. Các đơn vị kinh tế Nhà
nước thường làm ăn không có hiệu quả nhưng vì mục đích chính trị như để định
hướng nền kinh tế, sản xuất các sản phẩm phục vụ cho an ninh quốc phòng hoặc
dùng làm công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế nên vẫn được duy trì dù làm ăn
thua lỗ gây thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế.

- Các chính sách, luật định, các quy luật về hoạt động kinh tế còn nhiều
rắc rối, gây phiền nhiễu cho các hoạt động kinh tế làm các nhà đầu tư ái ngại. Hệ
thống luật pháp còn nhiều kẽ hở, mâu thuẫn giữa các điều khoản tạo điều kiện
cho tham ô tham nhũng, chiếm đoạt tài sản gây ra bất ổn về kinh tế kéo theo là
10


Nhóm 6 - Cao học 18.01B
hàng loạt những bất ổn về đời sống chính trị và xã hội làm giảm lòng tin của
người dân vào chế độ.
II.Các giải pháp.
Để khắc phục những tồn tại trên và đẩy mạnh đổi mới phát triển kinh tế
thì có thể áp dụng một số giải pháp sau:
A. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị
trường.
Cần nhận thức rõ ràng mỗi thành phần kinh tế ở nước ta trong thời kỳ quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội có bản chất kinh tế xã hội riêng chịu sự tác động của
các quy luật kinh tế riêng. Bên cạnh sự thông nhất về kinh tế còn chứa đựng
nhiều mâu thuẫn và khác biệt khiến cho nền kinh tế thị trường ở nước ta có khả
năng phát triển theo những chiều hướng khác nhau. Để tránh nảy sinh những
phát triển của kinh tế theo hướng tiêu cực thì đòi hỏi mối quan hệ giữa kinh tế
và chính trị phải hết sức chặt chẽ. Phải có một chế độ chính trị ổn định, vững
chắc để định hướng cho nền kinh tế đúng theo con đường mà Đảngvà nhà nước
ta đang đi theo đó là con đường xây dựng chế độ chủ nghĩa xã hội. Giữ vững sự
ổn định về chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp: sự ổn định về chính trị bao
giê cũng là nhân tố quan trọng đầu tiên nó là điều kiện để các nhà sản xuất kinh
doanh trong và ngoài nước yên tâm đầu tư. Muốn giữ vững sự ổn định về chính
trị ở nước ta hiện nay cần phải giữ và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước phát huy quyền làm
chủ của nhân dân.

Chúng ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường định hướng
xó hội chủ nghĩa. Mặt khác, cần cảnh giác và phát hiện sớm để có biện pháp
ngăn chặn những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của kinh tế thị trường có thể làm
chệch hướng xó hội chủ nghĩa, làm thay đổi bản chất của chế độ chính trị xó hội
chủ nghĩa. Như vậy, vấn đề đặt ra là phải tiếp tục đổi mới, phát triển, nâng cao
hiệu quả của kinh tế nhà nước để nó giữ được vai trò chủ đạo và cùng với kinh
11


Nhóm 6 - Cao học 18.01B
tế tập thể trở thành nền tảng vững chắc. Đồng thời tạo điều kiện kinh tế, pháp lý
thuận lợi để các nhà kinh doanh yên tâm đầu tư, làm ăn lâu dài. Trong hoạt động
kinh tế đối ngoại cần bảo đảm giữ vững độc lập chủ quyền, tăng cường lợi ích
dân tộc, lợi ích quốc gia, tăng cường vị thế của đất nước.
B. Tiếp tục đẩy mạnh việc đổi mới hệ thống chính trị, thực hiện dân
chủ hoá xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đổi mới và nâng cao
hiệu lực quản lý kinh tế của nhà nước.
Nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa không thể tách rời vai
trũ quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, cần phân định rừ chức năng quản lý nhà
nước với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh. Trong kinh tế thị trường, sự
quản lý, tác động của nhà nước vào hoạt động kinh tế chủ yếu thông qua chiến
lược phát triển, quy hoạch, kế hoạch mang tính hướng dẫn, thông qua hệ thống
đũn bẩy, như sự đảm bảo về mặt pháp luật, cơ chế chính sách tài chính, tiền tệ,
chính sách đầu tư, chính sách thu nhập, bằng các công cụ quản lý vĩ mụ và sức
mạnh kinh tế của nhà nước... Vỡ vậy, cần đẩy mạnh việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xó hội chủ nghĩa, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chế độ, chính sách,
tạo môi trường chính trị, phỏp lý thuận lợi cho kinh tế thị trường định hướng xó
hội chủ nghĩa ra đời và phát triển. Để đảm bảo cho nền kinh tế ổn định thì Nhà
nước cần phải ban hành các chính sách, luật định về việc bảo vệ sở hữu tư nhân.

Bởi vì nếu không có sở hữu tư nhân thì không có doanh nghiệp tư nhân do đó
cũng đồng nghĩa với không có cạnh tranh có hiệu quả.
Sở hữu tư nhân không chỉ có nguy cơ bị mất do trộm cắp, cướp giật mà
còn do nguy cơ nghiệm trọng từ phí Chính phủ. Điều này không chỉ xảy ra khi
chính phủ áp dụng các biện pháp tước đoạt do luật pháp quy định mà còn
nghiêm trọng hơn khi có những thay đổi đột ngột trong pháp chế. Sự thay đổi
đột ngột đó có thể gây ra những thay đổi to lớn đến những điều kiện trên thị
trường.
Bảo vệ sở hữu tư nhân cũng phải được chú ý trong sở hữu tri thức và
thương mại như bằng sáng chế, quy trình công nghệ, quyền tác giả.... cần có các
12


Nhóm 6 - Cao học 18.01B
chính sách nhằm đưa ra các khu vực kinh tế phát triển một cách đồng đều như
giữa thành thị với nông thôn khu vực đồng bằng với khu vực miền núi.
Cần triệt để xoá bỏ cơ chế quản lý hành chính tập trung quan liêu, cơ chế
bao cấp, xin - cho, xoá bỏ tình trạng độc quyền, đặc quyền đặc lợi, tình trạng
nhà nước can thiệp vào công việc sự vụ, làm thay doanh nghiệp và công dân. Ở
đây, việc tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, chấn chỉnh tổ chức, tinh giản
bộ máy hành chính, xoá bỏ mọi rào cản, chống quan liêu, tham nhũng, tạo lập
đồng bộ các yếu tố thị trường, xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng
xó hội chủ nghĩa, phỏt triển cỏc nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực con người là
yêu cầu cấp thiết, bức xúc hiện nay.
C.Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với kinh tế.
Văn kiện Đại hội VIII của Đảng chỉ ra: "Toàn bộ thành tựu và khuyết
điểm của công cuộc đổi mới gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo và hoạt động của
Đảng ta. Sự lãnh đạo và hoạt động của Đảng là nhân tố quyết định những thành
tựu của công cuộc đổi mới"
Sự ổn định về chính trị là tiền đề quyết định sự thắng lợi của công cuộc

đổi mới nền kinh tế ở nước ta hiện nay. Đặt trong sự nghiệp chung của toàn
đảng, toàn dân trong giai đoạn mới đấu tranh trên các mặt chính trị văn hoá tư
tưởng cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì công cuộc đổi mới kinh tế là
một quá trình diễn ra lâu dài, gian khổ và phức tạp. Dĩ nhiên đó là sự nghiệp
chung của toàn dân nhưng nó đòi hỏi phải mang tính tự giác, phải có một
đảngcộng sản tiên phong,dày dạn kinh ngiệm,biết không ngừng đổi mới lãnh
đạo.Công cuộc đổi mới kinh tế ơ nước ta gắn liền với đường lối đổi mới của
đảng. Trước hết là quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
giải phóng sức sản xuất xã hội, dân chủ hoá đời sống kinh tế, từ đại hội VI. Xoá
bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp một cách triệt để, hoàn thiện cơ chế quản
lý kinh tế của Nhà nước. Nhà nước thực hiện định hướng sự phát triển kinh tế,
có hệ thống chính sách nhất quán triệt để tạo môi trường ổn định và thuận lợi
cho hoạt động kinh tế, hạn chế và khắc phục những tiêu cục của thị trường. Nhà
13


Nhóm 6 - Cao học 18.01B
nước thực hiện đúng chức năng quản lý về kinh tế, không can thiệp vào chức
năng quản lý kinh doanh để các doanh nghiệp có quyền tự chủ trong sản xuất
kinh doanh. Tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động
không hiệu quả.
Ngoài ra chính trị còn đóng vai trò to lớn trong quá trình đổi mới nền kih
tế nước ta hiện nay. Trên cơ sở coi kinh tế thị trường là trung tâm của hoạt động
kinh tế chính phủ đã chọn cải cách giá nhà nước sang giá thị trường, ban hành
các quy định một cáhc nhanh gọn hơn tạo điều kiện cho việc làm kinh tế thuận
lợi hơn không quá nhiều thủ tục.
Sự ổn định về chính trị trong nhiều năm qua ở Việt nam đã giúp cho các
nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt nam ngày một tăng lên. Việt nam được
coi là một trong những thị trường ổn định nhất trên thế giới, luôn tạo cảm giác
yên tâm cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Kinh tế ở nước ta góp phần quan trọng trong những thắng lợi của đổi mới
những chính trị không làm thay đổi được tiến trình phát triển khách quan của xã
hội.Ngược lại những đổi mới trong kinh tế cũng có tác động mạnh mẽ ngược trở
lại đối với nền chính trị nước ta.
Từ khi kết quả đổi mới nền kinh tế góp phần nâng cao chất lượng cuộc
sống nhân dân đã tạo ra sự tin tưởng của người dân vào sự nghiệp lãnh đạo phát
triển kinh tế của Đảng ta góp phần ổn định về chính trị.
Khác với các nước khác sự thất thường của nền kinh tế thường dẫn tới
việc thay đổi về chính trị, thì đối với nước ta sự ổn định về kinh tế đã duy trì
được sự lãnh đạo đất nước của Đảng cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ
nghĩa.
Một nền kinh tế phát triển sẽ làm cho đời sống người dân cao hơn, dân trí
cao hơn, các phương tiện truyền thông đến người dân tốt hơn do đó tình hình
hoạt động chính trị trong nước được người dân nắm cụ thể hơn. Thuận lợi cho
việc tuyên truyền các đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.

14


Nhóm 6 - Cao học 18.01B
Nói tóm lại kinh tế và chính trị ở nước ta trong giai đoạn hiện nay biểu
hiện mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có tác động, tích cực tới nhau bằng văn
minh, phấn đấu hoàn thành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Để đáp ứng vai trò lãnh đạo đất nước nói chung và lãnh đạo kinh tế nói
riêng của Đảng trong tình hình mới cần tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng, coi
xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Ở đây, cần quan tâm thực hiện tốt một số
vấn đề sau:
- Kịp thời thể chế hoá, cụ thể hoá, đưa các quan điểm, đường lối, nghị
quyết của Đảng vào cuộc sống, nhất là quan điểm, đường lối, chính sách kinh tế.
Mọi đảng viên, tổ chức Đảng phải gương mẫu thực hiện, đồng thời kiểm tra, đôn

đốc việc thực hiện, kịp thời phát hiện những sai lệch, không phù hợp để sửa
chữa, điều chỉnh, bổ sung.
- Đẩy mạnh công tác cán bộ, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và
quản lý cán bộ, quản lý đảng viên trong bộ máy nhà nước, trong các tổ chức
kinh tế, các đơn vị sản xuất kinh doanh. Kịp thời phát hiện tài năng quản lý kinh
tế, sản xuất kinh doanh, nêu gương người tốt việc tốt, đồng thời ngăn ngừa
những biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu, cản trở công việc
làm ăn của nhân dân, khắc phục sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.
- Thường xuyên quan tâm đến những vấn đề "sống cũn" của nền kinh tế,
kiểm tra việc lãnh đạo hoạt động tài chính, tiền tệ của đất nước, của các ngành,
địa phương và các cơ quan hữu quan, bảo đảm cho tiền của, vật tư, tài sản công
được phân bố và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, đúng đường lối, quan điểm của
Đảng, pháp luật của nhà nước, vỡ mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng
bằng, dõn chủ, văn minh".
- Coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn đặt ra, nhất là vấn đề đổi mới chính trị và kinh tế nhằm thúc đẩy sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xó hội ở nước ta đi đến thành công.

15


Nhóm 6 - Cao học 18.01B
Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá ứng dụng nhanh tiến bộ khoa
học kỹ thuật, trên cơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động xã hội. Hình thành và
phát triển đồng bộ các loại thị trường đồng thời cần phải mở rộng và nâng cao
hiệu quả kinh tế đối ngoại, về việc này chính phủ đóng vai trò quan trọng các
hoạt động chính trị ngoại giao sẽ là điều kiện tốt để tìm đối tác đầu tư và tìm thị
trường cho các doanh nghiệp trong nước. Nhà nước có vai trò đứng ra giải quyết
các tranh chấp quốc tế khi xảy ra vấn đề kiện tụng.

Ngoài ra Nhà nước còn phải điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô đảm bảo sự
ổn định về kinh tế, giảm lạm phát chống độc quyền và các tiêu cực nảy sinh
trong quá trình phát triển kinh tế.

16


Nhóm 6 - Cao học 18.01B
KẾT LUẬN
Có thể nói: Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là đại diện tiêu biểu cho
mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Một đất
nước chỉ có thể có cơ sở hạ tầng vững chắc khi có một nền kinh tế phát triển và
ổn định. Trên cơ sở hạ tầng đó sẽ hình thành một kiến trúc thượng tầng tương
ứng gồm: chính trị, pháp luật, tôn giáo.... do đó, kiến trúc thượng tầng muốn ổn
định thì đòi hỏi hạ tầng cơ sở phải vững chắc.
Qua đó có thể thấy vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị. Mỗi
hình thái kinh tế sẽ hình thành nên một thể chế chính trị tương ứng. Ngược lại
chính trị cũng có tác động to lớn đối với kinh tế. Ở Việt Nam mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị ngoài những điểm chung trên còn có những điểm riêng mang
tính đặc thù. Quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam dựa trên một xuất phát
điểm kinh tế nghèo nàn lạc hậu so với các nước trên thế giới. Hình thái kinh tế
nước ta là hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa trên cơ sở đó hình thành nên Nhà
nước Việt Nam với thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa.
Công cuộc đổi mới kinh tế nước ta do Đảng cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo từ đại hội Đảng VI (1986) đã và đang thu được những kết
quả thắng lợi góp phần nâng cao đời sống nhân dân, củng cố sự ổn định về chính
trị tăng cường lòng tin của người dân vào chế độ.
Tình hình chính trị hết sức ổn định của nước ta đã góp phần không nhỏ
vào việc thu hút vốn đầu tư và phát triển kinh tế. Tuy nhiên hiện nay nước ta còn
một số tồn tại có thể trở thành rào cản cho quá trình đổi mới nền kinh tế như:

thói quan liêu cửa quyền, sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào kinh tế các
chính sách luật định, luật pháp quy định về kinh tế còn nhiều sơ hở bất cập...đặc
biệt là thói cục bộ của một số lãnh đạo cũng cần phải chấn chỉnh để tạo môi
trường chính trị và pháp lý thuận lợi tạo cơ sở vững chắc về kinh tế cho đất nước
thực hiện thành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghiã.

17


Nhóm 6 - Cao học 18.01B
Tóm lại, từ những phân tích trên ta thấy rằng bài học do Đảng ta nêu “Kết
hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh
tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị” đó chính là nắm vững
và vận dụng đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa chính trị với kinh tế theo
chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong thực tiễn.Chính từ sự định hướng đúng đắn ấy
cho nên sau 30 năm đổi mới, chúng ta đó đạt được những thành tựu kinh tế to
lớn và giữ vững sự ổn định chính trị của đất nước.

18


Nhóm 6 - Cao học 18.01B

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí cộng sản - Tháng 5/2003
2. Tạp chí kinh tế - Tháng 10/2003
3. Kinh tế chính trị - NXB giáo dục
4. Kinh tế Sài Gòn tháng 07 - 10/2003
5. Tạp chí kinh tế phát triển
6. Giáo trình triết học dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh

không thuộc chuyên ngành Triết học, Nxb Chính trị - Hành chính, 2012

19



×