Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Kỹ thuật nuôi ong để đạt năng suất cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.03 KB, 13 trang )

Kỹ thuật nuôi ong để đạt năng suất cao
Nước ta, ong nội đã được nuôi từ lâu đời với nhiều hình thức khác nhau như: nuôi ong
trong hốc cây hoặc hốc đá tự nhiên; nuôi trong thùng hoặc trong đõ đã có bánh tổ cố định và
được đặt theo nhiều tư thế khác nhau trong hốc tường, đặt trong hốc tường, đặt đõ tròn thẳng
đứng, có nơi tiến bộ hơn thì nuôi ong trong thùng có thanh ngang Song, mọi phương thức nuôi
ong kể trên đều mang tính chất thô sơ, năng suất thấp. Ngày nay, việc áp dụng kỹ thuật nuôi
trong thùng cải tiến có khung cầu di động là một bước tiến nhảy vọt, đưa năng suất mật tăng gấp
5 - 10 lần. Để nuôi ong thành công và thu được nhiều sản phẩm, cần phải nắm vững và kết hợp
hài hoà giữa nhiều yếu tố như : kỹ thuật tạo chúa có chất lượng cao, kỹ thuật nuôi và sử lý đàn
ong, các bước đi hoa, phương pháp phòng và trị bệnh
1. Sinh học ong mật
Đời sống của đàn ong : Ong mật sống thành đàn, trong đàn gồm có Ong chúa, Ong đực và
Ong thợ.
Các thành viên của đàn ong :
Ong chúa :
Bình thường mỗi đàn ong chỉ có một con ong chúa. Ong chúa của giống ong nội đẻ trung
bình 400 - 600 trứng/ngày đêm.
Ong chúa có hình dạng lớn nhất trong đàn : dáng cân đối, bụng thon dài, chúa mới đẻ có
lớp lông tơ nhiều, mịn, bò nhanh nhẹn.
Ong chúa là cá thể duy nhất có khả năng sinh sản để duy trì bầy đàn và điều tiết của hoạt
động của đàn ong.
Ong đực :
Có màu đen và làm nhiệm vụ duy nhất là giao phối với ong chúa. Ong đực có thể sống
trong 50 - 60 ngày. Sau khi giao phối, ong đực bị chết hoặc khi thiếu ăn chúng sẽ bị ong thợ đuổi
ra ngoài và bị chết đói.
Ong thợ :
Có số lượng đông nhất trong đàn và có bộ phận sinh sản phát triển không đầy đủ. Ong thợ
có cấu tạo cơ thể thích hợp với việc nuôi ấu trùng, thu mật và phấn hoa
Tuổi thọ của ong thợ chỉ kéo dài từ 5 - 8 tuần. Khi phải nuôi nhiều ấu trùng, lấy mật nhiều
thì tuổi thọ giảm và ngược lại. Một số ong thợ làm nhiệm vụ trinh sát, bay đi tìm nguồn mật,
phấn hoa và thông báo cho các ong thu hoạch biết đến hút mật chuyển cho ong tiếp nhận. Ong


tiếp nhận tiết thêm men vào mật, quạt gió và chuyển dần mật từ các lỗ tổ ở phía dưới lên trên của
bánh tổ.
Các giai đoạn phát triển của ong:
Giai đoạn
Loại ong
Trứng
(ngày)
Ấu trùng
(ngày)
Nhộng
(ngày)
Tổng số
(ngày)
Ong chúa 3 5 7 - 8 15 - 16
Ong thợ 3 5 11 19
Ong đực 3 6 14 23
2. Chọn điểm đặt ong
Chọn điểm nuôi ong :
* Gần nguồn mật phấn hoa
* Nơi không phun thuốc sâu hóa chất.
* Không có dịch bệnh, ít hoặc không có ong rừng, chim thú hại.
* Địa hình thoáng mát, yên tĩnh, không gần đường giao thông, nhà máy đường, nhà máy
hóa chất, nhà máy chế biến hoa qủa và không có hồ lớn bao quanh
Cách đặt thùng đàn ong :
Thùng ong nên kê cao 25 - 30cm so với mặt đất, thùng nọ cách thùng kia ít nhất là 1m, cửa
ra vào đặt các hướng khác nhau, chọn nơi khô ráo, thoáng mát như dưới hiên nhà, cạnh các gốc
cây Khống nên đặt trên sân gạch, nền xi măng, nơi qúa ẩm ướt hoặc gần chuồng gia súc.
3. Chia đàn tự nhiên
Một bộ phận ong thợ cùng với ong chúa tách ra, bay đi để thành lập một số ong mới. Chia
đàn ong tự nhiên thường làm giảm năng suất mật.

Khi nào đàn ong chia đàn tự nhiên :
Điều kiện bên ngoài :
* Điều kiện bên ngoài :
* Nguồn thức ăn (mật, phấn) nhiều.
* Khí hậu thời tiết tốt (không nắng, nóng, lạnh qúa)
Điều kiện bên trong đàn ong :
* Mật độ ong đông, ong chúa đẻ mạnh, cầu con nhiều, thức ăn dự trữ thừa và ong sống
trong thùng qúa chật trội.
Hiện tượng của đàn ong trước khi chia đàn tự nhiên :
* Trước khi chia đàn vài tuần, ong xây nhiều lỗ tổ ong đực và xây từ 3 - 10 mũ chúa ở hai
góc và phía dưới bánh tổ.
* Bình thường khi mũ chúa già thì ong chia đàn nhưng có khi mới có nền chúa hoặc ong
chúa mới đẻ vào đã chia đàn.
* Ong chia đàn từ 8 - 11 giờ sáng và 14 - 16 giờ chiều vào những ngày đẹp trời. Khi chia
đàn, ong chúa cũ cùng với qúa nửa số ong thợ và một số ong đực ăn no mật rồi bay ra khỏi tổ,
sau đó tụ lại ở hiên nhà, cành cây gần đó và quên tổ cũ, khi bắt đàn ong trở lại, nên cho ong vào
thùng khác và đặt bất cứ nơi nào.
* Khi chia đàn tự nhiên, ong không ồn ào và náo động như khi bốc bay.
Thời gian chia đàn tự nhiên :
Ở miền Bắc : ong thường chia đàn vào tháng 3 - 4, một số ít chia vào tháng 10 - 11.
Xử lý ong chia đàn tự nhiên :
* Trong trường hợp đàn ong ít quân : khắc phục việc chia đàn bằng cách thay ong chúa cũ
bằng ong chúa mới vào lúc nguồn hoa phong phú, cho thêm tầng chân, quay mật hoặc chuyển cầu
mật cho đàn khác, nới rộng khoảng cách cầu và bỏ vật chống rét ra ngoài, vặt các mũ chúa và cắt
bỏ lỗ tổ ong đực.
* Trong trường hợp đàn ong mạnh thì chủ động chia đàn : cần cho ăn đủ, chọn những mũ
chúa thẳng dài ở vị trí trống như ở 2 góc và dưới bánh tổ để sử dụng sau khi ong chia đàn mới.
* Đàn ong chia đàn tự nhiên thường ăn no mật và phần đông ong thợ trẻ đang độ tuổi tiết
sáp, xây tầng nhanh, nên ngay sau khi ổn định có thể cho đàn ong đó xây tầng chân. Đàn ong gốc
chỉ giữ lại 1 mũ ong chúa tốt nhất để thay chúa còn lại cắt bỏ tất cả các mũ chúa đi.

Ong bốc bay
+ Nguyên nhân và biểu hiện ong bốc bay :
* Nguyên nhân bên ngoài : ong rừng, kiến hoặc hại khác quấy phá, trời nắng, nóng, khô
hanh ; thùng ong bị đồ, bị chấn động mạnh sau khi di truyền
* Nguyên nhân bên trong : do đàn ong thiếu thức ăn, ong chúa ngừng đẻ không có cầu con.
Đặc biệt khi đàn ong bị bệnh và bị sâu phá bánh tổ.
* Hoặc do chuyển nơi ở theo mùa vì ong còn mang tính dã sinh.
Trước khi bốc bay ong chúa giảm đẻ sau đó ngừng hẳn, đàn ong đi làm uể oải. Khi sắp bốc
bay cả đàn đàn ong ồn ào, náo động, chúng ăn no mật và ùn ùn kéo ra khỏi tổ.
+ Thời vụ và thời gian ong bốc bay :
Ở miền Bắc, ong thường bốc bay vào tháng 7 - 9 do thiếu ăn và nắng nóng, ong di chuyển
chỗ ở từ vùng thấp lên vùng cao mát mẻ hơn. Tháng 10 - 11 ong lại bốc bay di cư về vùng thấp
và tháng 1 - 2 bốc bay do đói rét.
+ Biện pháp hạn chế ong bốc bay :
* Tạo đàn ong có chúa trẻ dưới 8 tháng tuổi, đẻ tốt.
* Thức ăn đủ (cả mật vít nắp và 1 - 2 cầu phấn).
* Duy trì đàn ong lúc nào cũng có cầu con, nhất là cầu ấu trùng.
* Phòng bệnh tốt, trị bệnh kịp thời và triệt để.
* Chống nóng, nắng, hanh khô.
4. Phương pháp nhập đàn ong, cầu ong
Nhập ong thợ từ đàn này sang đàn khác nhằm :
* Điều chỉnh thế ong cho đồng đều.
* Xử lý các trường hợp : bốc bay, mất chúa, tăng lực lượng xây bánh tổ.
* Thao tác cần nhẹ nhàng để tránh ong đánh nhau gây tình trạng mất ổn định trong đàn ong
và những đàn xung quanh.
a. Các nguyên tắc nhập đàn ong, cầu ong :
* Nhập vào buổi tối.
* Nhập đàn ong không có chúa vào đàn ong có chúa.
* Nhập đàn ong yếu vào đàn ong mạnh.
b. Các cách nhập ong :

Nhập gián tiếp (ngoài ván ngăn)
* Khử hoặc tách chúa ở đàn bị nhập trước 6 giờ.
* Đến tối nhấc các cầu định nhập đặt ngoài ván ngăn của đàn ong được nhập.
* Sáng hôm sau nhấc ván ngăn ra ngoài và ổn định cầu mới nhập vào.
Nhập trực tiếp (trong ván ngăn)
Buổi chiều, tách ván ngăn ra xa, đến tối đặt nhẹ cầu nhập vào hoặc thổi nhẹ cho ong già bay
khỏi tổ, còn lại toàn ong non.
5. Phương pháp chia đàn ong :
Chia đàn nhân tạo nhằm giảm sự chia đàn tự nhiên và tăng số đàn. Có mấy phương pháp
chia như sau :
a. Chia đàn song song
* Sau khi chuẩn bị được ong chúa, mũ chúa, dùng một thùng mới có mầu sơn giống với
mầu thùng cũ của đàn ong định chia.
* Chia đều số cầu, quân nhộng, ấu trùng và thức ăn ra làm đôi, đặt 2 đàn liền nhau.
* Để 2 đàn cách đều vị trí đàn cũ 20 - 30cm. Nếu đàn ong vào nhiều hơn thì nhích xa vị trí
cũ, đàn nào vào ít thì nhích gần lại. Dần dần tách 2 đàn ra xa nhau, quay cửa tổ ra 2 hướng.
Cách chia này có ưu điểm là : 2 đàn được chia đều, phát triển nhanh, không phải mang ong
đi, tiện kiểm tra, chăm sóc.
b. Chia dời chỗ :
* Mang thùng mới đến gần đàn cơ bản, tách ra 2 - 3 cầu, chèn lại, rồi chuyển đi cách đó
1km, thường mang ong chúa đã đẻ đi. Nên tiến hành trước vụ mật 40 ngày.
c. Tách cầu ghép thành đàn mới :
Khi sắp tới vụ mật, có một số đàn ong mạnh muốn chia đàn tự nhiên, nếu không chia ong
sẽ tự chia đàn hoặc đi làm kém. Cần lấy từ các đàn mạnh, mỗi đàn một cầu nhộng và quân để
tách ra hình thành đàn mới. Vừa chống chia đàn, vừa tăng sản lượng mật, tăng được số lượng
đàn. Ngày đầu chỉ nên lấy 1 cầu, ngày sau lấy 1 cầu của đàn khác và hôm sau lấy thêm 1 cầu của
đàn thứ 3. Nếu ong chúa đẻ, đàn ghép sẽ phát triển nhanh.
6. Phương pháp chống nóng, chống rét cho ong :
Tại sao phải chống nóng, chống rét :
Ta đã biết rằng : yêu cầu nhiệt độ trong đàn ong từ 33 - 35

0
C, độ ẩm từ 60 - 80%. Cao hơn
hoặc thấp hơn ong thợ sẽ làm những công việc sau :
* Quạt gió cho mát (nếu nóng qúa)
* Tụ lại rung cánh tạo nhiệt (rét qúa)
* Đi lấy nước về tổ (hanh, thiếu ẩm độ)
Chống nóng cho ong :
* Không để đàn ong ở ngoài nắng, không đặt cửa về hướng tây, không để đàn ong chật
chội.
* Để máng có nước trong thùng ong vào những ngày nóng bức.
Chống rét, khô hanh cho ong :
* Điều chỉnh đàn ong trước mùa rét để có thế đàn đông đều, nên kết thúc nhân giống trước
30/11 để có thời gian nâng thế đàn tốt qua mùa đông.
* Cho ăn đầy đủ đến khi có mật vít nắp, nếu thiếu phấn kéo dài phải cho ăn bổ sung.
* Dùng rơm, lá chuối khô làm vật chống rét để ở ngoài ván ngăn hoặc bên trên xà cầu.
* Bịt kín các khe hở của thùng ong, không để cửa tổ quay về hướng bắc.
* Nếu khô hanh qúa cho uống nước pha ít muối với tỷ lệ 9/1000.
7. Ong chúa và những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng ong chúa
Cũng như con mối, con kiến ong mật là loại côn trùng sống thành một xã hội bầy đàn.
Mỗi đàn ong là một gia đình bao gồm từ vài nghìn con đến vài chục nghìn cá thể. Song, mọi hoạt
động của đàn ong đều do ong chúa quyết định và phẩm chất của ong chúa có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đời sống đàn ong. Ong chúa tốt thì đàn ong sẽ phát triển, ong chúa kém chất lượng sẽ
làm cho đàn ong kiệt quệ và suy tàn.
Một đàn ong bình thường chỉ có duy nhất một ong chúa : ngoài chức năng đẻ trứng để duy
trì bầy đàn, ong chúa còn điều hòa các hoạt động của toàn đàn bằng một chất đặc biệt mà ta
thường gọi là chất chúa (Pheromol). Ong chúa nuôi tồn tại 2 - 3 năm và cả đời ong chúa chỉ giao
phối một lần ; sức đẻ trứng của ong chúa tăng dần và đỉnh cao nhất là trong khoảng thời gian 6 -
9 tháng đầu tiên, càng già ong chúa càng đẻ kém đi và đẻ nhiều trứng không thụ tinh, vì thế trong
sản xuất người nuôi ong thường thay thế chúa từ 6 - 12 tháng/lần.
Trong tự nhiên, ong chúa ra đời trong 3 trường hợp sau :

+ Ong chúa chia đàn tự nhiên : xảy ra khi đàn ong mạnh, nguồn hoa phong phú ; đàn ong sẽ
tạo ra từ 5 – 10 mũ chúa ở mép hoặc ở bánh tổ.
+ Ong chúa thay thế tự nhiên : khi ong chúa già hoặc bị bệnh, đàn ong sẽ tạo ra 2 – 3 mũ
chúa, các mũ chúa có cả trên bề mặt và mép dưới của bánh tổ.
+ Ong chúa cấu tạo : khi ong chúa bị chết hoặc mất đột ngột, ong thợ sẽ xây mũ chúa ở cả 2
mặt của cầu ong. Trong qúa trình nuôi dưỡng, người nuôi ong rất ít khi sử dụng các loại ong chúa
này vì chất lượng kém.
Chất lượng của ong chúa phụ thuộc 2 yếu tố chính : tính di truyền của đàn giống (đàn bố,
đàn mẹ) và điều kiện nuôi dưỡng ấu trùng ong chúa :
* Đàn giống :
Đàn giống là đàn cung cấp ấu trùng để tạo ong chúa và các đàn tạo ra các ong đực giao
phối với những con ong chúa mới đó. Vì thế việc lựa chọn và chăm sóc đàn giống được tiến hành
rất cẩn thận.
* Đàn nuôi dưỡng :
Các ong chúa tốt chỉ được tạo ra từ những đàn giống có chất lượng cao, song vẫn chưa hẳn
tạo được những ong chúa tốt nếu phương pháp tạo chúa không đúng kỹ thuật. Chúng ta đều biết
rằng, ấu trùng ong thợ và ấu trùng ong chúa đều được tạo ra từ trứng đã thụ tinh, nghĩa là có
nguồn gốc di truyền như nhau, nhưng do mức độ thức ăn khác nhau mà chúng trở thành ong chúa
hay ong thợ. Vì lẽ đó, chế độ cung cấp thức ăn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng ong chúa tạo
ra.
Đàn nuôi dưỡng là đàn tiếp nhận các ấu trùng và nuôi dưỡng chúng thành ong chúa trưởng
thành (trong tạo chúa công nghiệp, người ta còn tổ chức ra những đàn tiếp thu riêng để sau khi
những cầu chúa được tiếp nhận mới đưa ra đàn nuôi dưỡng). Đàn nuôi dưỡng cần phải mạnh,
đông quân và nhiều ong non, đủ thức ăn để nuôi được nhiều ong chúa và có chất lượng cao.
Tuy nhiên, nếu tạo chúa vào giữa vụ mật, ong mải mê đi lấy mật mà sao nhãng việc nuôi ấu
trùng thì chất lượng ong chúa cũng không tốt. Vì vậy, nên tạo chúa vào đầu hoặc cuối vụ mật.
Khí hậu nước ta là khí hậu nhiệt đới nên có thể tạo chúa quanh năm nhưng cần chú ý tạo chúa
vào lúc có nguồn thức ăn dồi dào thì chất lượng ong chúa mới tốt. Mặt khác cần tránh tạo chúa
vào mùa mưa, mùa đông rét mướt, mùa có gió to chúa không đi giao phối được đạt tỷ lệ giao
phối thấp.

7.1. Phương pháp tạo chúa
Nuôi ong cần nhiều chúa mới đẻ thay thế chúa già, chúa xấu hoặc để chia đàn. Việc chủ
động tạo chúa là biện pháp kỹ thuật quan trọng để tạo ra đàn ong mạnh, cho năng suất cao.
a. Chọn đàn làm giống và đàn nuôi dưỡng :
Chất lượng ong chúa phụ thuộc vào nguồn gốc bố mẹ và yếu tố nuôi dưỡng (đàn nuôi
dưỡng, thức ăn).
Vì vậy việc tạo chúa phải chọn được các đàn giống tốt và đàn nuôi dưỡng tốt, trong đàn
ong chia ra đàn mẹ và đàn bố.
Đàn mẹ :
Là đàn cung cấp ấu trùng để tạo chúa, đàn mẹ phải đáp ứng được những nhu cầu sau :
* Tụ đàn đông (nhiều cầu)
* Năng suất mật cao.
* Không bị bệnh.
* Đàn ong hiền lành, không bay bốc, không hoặc ít chia đàn.
ở những trại ong lớn thương chọn từ 2 - 3 đàn mẹ để tránh cận huyết. Trước khi lấy ấu
trùng 1 - 2 ngày nên cho đàn mẹ ăn để ong tiết nhiều sữa nuôi ấu trùng.
Đàn bố :
* Là đàn ong tạo ra ong đực sẽ giao phối với ong chúa tơ. Để ong đực ở độ tuổi giao phối
thích hợp, cần tạo ong đực trước khi tạo chúa khoảng 20 - 25 ngày. Cho đàn bố ăn bổ sung, viện
thêm cầu nhộng, cắt góc bánh tổ, đàn ong sẽ xây các lỗ đực và ong chúa sẽ đẻ trứng vào đó.
* Tiêu chuẩn đàn bố giống như đàn mẹ; để tránh cận huyết mỗi trại nên chọn từ 3 - 5 đàn
bố, đồng thời tiến hành diệt ong đực ở đàn mẹ và các đàn khác.
Đàn nuôi dưỡng :
* Là đàn nuôi ấu trùng ong chúa cho đến khi nở thành chúa tơ. Đàn phải thiếu nguồn mật tự
nhiên, cần cho đàn nuôi dưỡng ăn trước khi tạo thành chúa 4 - 5 ngày. Cần rũ bớt cầu trong đàn
nuôi dưỡng để ong bám trên cầu thật đông tiếp thu chúa nhiều hơn.
Phương pháp di trùng :
Dùng kim di trùng băng nhôm hoặc lông ngỗng vót nhỏ đưa vào phía lưng của ấu trùng, cố
gắng lấy cả sữa chúa để ấu trùng không bị tổn thương; đặt nhẹ kim di trùng vào giọt mật, ấu trùng
sẽ nổi lên, nhẹ nhàng rút kim ra và tiếp tục múc ấu trùng khác.

Nên chọn ấu trùng 1 ngày tuổi để tạo ong chúa là tốt nhất (vì tuổi ấu trùng càng cao thì chất
lượng ong chúa càng giảm) nếu cầu mới xây nên cẩn thận khi di trùng vì đầu kim di trùng dễ đâm
thủng đáy của lỗ tổ. Nếu bánh tổ qúa cũ, lỗ tổ sẽ hẹp rất khó múc ấu trùng.
Khi di trùng cần tiến hành nhanh và ở nơi kín gió, vào lúc thời tiết ấm áp, tránh ánh nắng
chiếu vào sẽ làm khô ấu trùng khi thao tác.
Di trùng xong, xoay các chén sáp xuống phía dưới và đặt vào giữa đàn nuôi dưỡng đã
chuẩn bị sẵn.
Trước khi di trùng 24 - 48 giờ, bắt ong chúa ra khỏi đàn nuôi dưỡng, rũ bớt cầu cho ong
bám vào các cầu còn lại ; đồng thời trước khi di trùng 2 - 3 giờ, dãn 2 cầu giữa đàn ra khoảng
3cm tạo thành khe để ong non tập trung đến khu vực đó nhiều, chúng sẽ nhanh chóng tiếp nhận
và nuôi dưỡng ấu trùng.
Trong tạo chúa, một số người áp dụng phương pháp di đơn nhưng phần lớn là áp dụng
phương pháp di kép. Di đơn là phương pháp di ấu trùng vào mũ chúa một lần để ong nuôi dưỡng
ấu trùng đó thành ong chúa. Di kép là di ấu trùng 2 lần vào chén sáp (tức là sau khi di trùng lần
thứ nhất 24 giờ, người ta gắp bỏ ấu trùng cũ đi và tiến hành di ấu trùng khác vào) làm như thế, ấu
trùng di lần 2 sẽ được ăn sữa chúa ngay nên phát triển tốt.
Chăm sóc đàn nuôi dưỡng :
Như trên đã nói, đàn nuôi dưỡng có ảnh hưởng lớn đến số lượng và chất lượng chúa, nên
phải chọn những đàn mạnh từ 5 - 6 cầu, sau đó rút bớt 1 - 2 cầu để ong phủ kín trên các cầu còn
lại. Cần tạo một khoảng trống rộng từ 2 - 3cm ở giữa đàn ong để tạo ong non tập trung tại đấy
trước khi đặt cầu chúa vào 2 - 3 giờ. Nên cho đàn ong nuôi dưỡng ăn thêm trước khi di trùng và
cho ăn đến khi vít nắp các lỗ mật.
Nếu tạo chúa vào lúc đủ phấn, mật thì không cần cho ăn, nếu thiếu thức ăn thì phải cho ăn
thêm trước khi tạo chúa từ 2 - 3 ngày và cho ăn đến khi ong vít nắp mũ chúa, nếu thiếu phấn phải
cho ăn thêm phấn hoa.
Sau khi di trùng 1 ngày, kiểm tra thấy mũ chúa đạt từ 15 - 20 cái là được nếu ít qúa phải di
thêm, nếu nhiều qúa thì loạt bớt, kiểm tra để vặt hết các mũ ong chúa cấp tạo ở trên bánh tổ.
Sau 5 ngày, kiểm tra lần 2 để tiếp tục vặt bỏ các mũ chúa cấp tạo, nếu không chúa cấp tạo
nở ra trước sẽ cắn hết các mũ chúa di trùng. Khi kiểm tra các cầu chúa cần nhẹ nhàng, tránh rung,
lắc, nhất là khi mũ chúa mới vít nắp 1 - 2 ngày vì sẽ làm cho nhộng bị chết hoặc khi nở ra chúa sẽ

bị xoăn cánh.
c. Bảo quản và giới thiệu mũ chúa :
Thông thường sau khi di trùng 11 - 12 ngày chúa tơ sẽ nở, do đó sau 9 - 10 ngày, các mũ
chúa già có thể lấy đi để giới thiệu vào các đàn giao phối hoặc các đàn mất chúa. Trường hợp
chưa sử dụng hết mũ chúa, phải cho mũ chúa vào lồng lò xo cách ly để tránh con chúa đầu tiên
nở ra cắn phá các mũ chúa khác và được đặt trong đàn để ong ủ ấm. Một vài ngày sau chúa tơ ra
đời, có thể bán hoặc giới thiệu cho các đàn ong bị mất chúa. Chúa tơ có thể sống ở trong lồng dự
trữ từ 7 - 15 ngày.
Hiện nay, với ong nội người ta thường giới thiệu trực tiếp các mũ chúa vào đàn ong sản
xuất chứ ít khi sử dụng các đàn giao phối vì số lượng ít.
7.2. Kỹ thuật tạo chúa đơn giản
Những nơi nuôi ít ong không có dụng cụ tạo chúa, có thể áp dụng phương pháp đơn giản
mà vẫn tạo được chúa có chất lượng tốt.
a. Sử dụng mũ chúa chia đàn tự nhiên :
* Vào mùa chia đàn tự nhiên : nhiều đàn ong mạnh có thể xây từ 5 - 10 mũ chúa cần chọn
mũ chúa dài, thẳng đẹp từ đàn đủ tiêu chuẩn để làm giống. Dùng dao sắc cắt trên góc mũ chúa
1,5cm rồi gắn vào đàn cần thay chúa. Không dùng mũ chúa của các đàn yếu, bị bệnh.
* Kích thích ong xây mũ chúa chia đàn tự nhiên : Chọn đàn ong mạnh (đủ tiêu chuẩn) cho
ăn 2 - 3 tối, viện thêm cầu nhộng già, rút bớt cầu cũ để ong tập trung hơn.
* Khi kiểm tra các cầu chúa cần làm nhẹ nhàng, tránh lắc, rũ mạnh nhất là khi các mũ chúa
vít nắp 1 - 2 ngày nếu không sẽ làm cho nhộng bị chết hoặc khi nở ra chúa bị xoăn cánh.
b. Tạo chúa theo phương pháp cấp tạo :
Cách làm : chọn đàn ong mạnh, có năng suất cao nhất trại để làm đàn giống và cho đàn ăn
thêm sirô đường, rút bớt cầu ong để bám dày hơn trên các cầu ong còn lại. Đặt cầu có trứng mới
đẻ vào giữa tổ. Hai ngày sau, kiểm tra để loại bỏ tất cả các mũ chúa trên bề mặt của bánh tổ và
các cầu khác, chỉ để các mũ chúa ở phía dưới của bánh tổ, sau khoảng 8 - 9 ngày thì tách các mũ
chúa để sử dụng.
Cũng có thể cắt bớt phần dưới của một bánh tổ theo đường kính dích dắc để ong xây nhiều
mũ chúa ở chỗ bánh tổ có ấu trùng nhỏ. Nhưng cần lưu ý chọn các bánh tổ còn mới để ong dễ
tiếp thu hơn.

Ngày nay, để có nhiều ong chúa chất lượng cao phục vụ cho sản xuất vào mùa nhân đàn,
người ta tiến hành tổ chức sản xuất chúa theo phương pháp công nghiệp. Đây là một công nghệ
mới trong sản xuất ong chúa, có nhiều ưu thế để nâng cao chất lượng ong chúa và đem lại hiệu
qủa kinh tế cao.
8. Biện pháp phòng trừ một số bệnh cho ong
8.1. Một số bệnh ong thường gặp
Cũng như các ngành chăn nuôi khác, bệnh ong cũng gây nên những tổn thất đáng kể cho
người nuôi ong. Bệnh nhẹ thì ảnh hưởng đến thế đàn, giảm năng suất, bệnh nặng thì đe dọa đến
sự tồn vong của đàn ong.
Hiện nay trên đàn ong nội thường xuất hiện 3 bệnh chủ yếu sau :
* Bệnh thối ấu trùng Châu Âu (bệnh thối ấu trùng tuổi nhỏ)
* Bệnh ấu trùng túi (bệnh nhọn đầu, bệnh ấu trùng túi)
* Bệnh ỉa chảy lây lan.
8.2. Các biện pháp phòng bệnh
Đàn ong sống trong một quần thể bầy đàn nên khả năng nhiễm và lây lan bệnh rất cao. Khi
bệnh phát ra, nó không chỉ tiêu diệt từng cá thể con ong mà thường tiêu diệt cả đàn ong, thậm chí
còn tiêu diệt cả một trại ong trong một thời gian ngắn.
Cũng như con người và các loại vật khác, con ong cũng chịu sự tàn phá của các loài vi
khuẩn, vi rút và các loại ký sinh trùng do đó việc phòng bệnh cho ong là hết sức cần thiết, nên
lưu ý một số điểm chính sau :
* Chọn điểm đặt : chọn nơi thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông.
* Thùng ong phải kín đáo, không bị dột nát.
* Thường xuyên làm vệ sinh đàn ong.
* Đặt ong gần nguồn nước sạch
Việc phát hiện bệnh sớm và có biện pháp tròng trừ kịp thời là yếu tố quyết định nuôi ong
đạt hiêụ qủa kinh tế cao.
8.3. Phương pháp chẩn đoán bệnh
Muốn điều trị bệnh có hiệu qủa thì việc đầu tiên là phải chẩn đoán đúng bệnh. Việc kết luận
bệnh nên dựa trên kết qủa chẩn đoán tổng hợp của các phương pháp chủ yếu sau :
a. Chẩn đoán bệnh bằng phương pháp cảm quan :

Mỗi bệnh biểu hiện một số nét đặc trưng khác nhau và bằng phương pháp cảm quan ta có
thể nhận biết bệnh một cách tương đối chính xác.
+ Với bệnh thối ấu trùng Châu Âu : nhìn trong lỗ tổ thấy các ấu trùng bị chết, ấu trùng
chuyển từ màu trắng sang màu trắng đục. Khi nhấc cầu ong lên thấy ong xào xạc và chạy tụt
xuống phía dưới của đáy tổ ; ong thợ có màu đen bóng do ấu trùng bị chết nên không có lớp ong
non kế tiếp, trên mặt lỗ tổ có lỗ thủng nhỏ và lõm xuống.
+ Với bệnh ấu trùng túi (bệnh nhọn đầu) : thấy lỗ tổ vít nắp hơi lõm xuống, một số cắn
nham nhở, có nhiều ấu trùng nhọn đầu nhô lên miệng lỗ tổ.
+ Với bệnh ỉa chảy lây lan : nhìn thấy phân màu nâu sẫm trên lá cây hay quần áo phơi xung
quanh các điểm đặt ong : ong non yếu ớt, bụng của ong trưởng thành trướng lên, ong sã cánh bò
ra trước cửa sổ.
b.Chẩn đoán thông qua việc nhận biết mùi đặc trưng của bệnh :
Mỗi bệnh có một mùi đặc trưng, thông qua đó người nuôi ong có thể nhận biết được bệnh
đang xảy ra trên đàn ong là bệnh gì? Ví dụ :
* Bệnh thối ấu trùng Châu Mỹ : có mùi khét đặc trưng của keo da trâu.
* Bệnh thối ấu trùng Châu Âu : có mùi chua.
* Bệnh thối ấu trùng túi : không có mùi
c. Chẩn đoán trong phòng thí nghiệm :
Muốn chẩn đoán được bệnh chính xác, tốt nhất nên gửi bệnh phẩm về các có quan khoa
học, các phòng phân tích để kiểm tra.
Trong qúa trình chẩn đoán, phải được tiến hành đồng bộ để có kết luận đúng : đâu là bệnh
chính, đâu là bệnh kế phát để có biện pháp điều trị có hiệu qủa.
8.4. Nguyên tắc điều trị bệnh ong
Khi điều trị cần tuân thủ các nguyên tắc sau :
a. Điều trị đúng thuốc, đúng bệnh :
Các bệnh do các vi khuẩn gây nên gồm các vi khuẩn Gram dương hoặc vi khuẩn Gram âm,
mỗi một loại vi khuẩn có thuốc đặc trị khác nhau, nếu điều trị không đúng thuốc sẽ không khỏi
bệnh mà còn làm hại đến sức khỏe của đàn ong. Cụ thể như bệnh thối ấu trùng Châu Âu, mầm
bệnh là vi khuẩn Gram âm nên khi điều trị phải dùng thuốc đặc trị như Kanamycin, Stretomycin
hoặc ertromycin chứ không được dùng thuốc Penicillin hoặc những thuốc đặc trị cho loại vi

khuẩn Gram dương khác.
b. Điều trị đủ liều :
Khi điều trị phải chú ý dùng liều cao ngay từ đầu, đồng thời dùng đủ liệu trình theo chỉ dẫn
để đạt hiệu qủa cao nhất và tránh được sự quen thuốc. Hiện nay người nuôi ong điều trị bệnh thối
ấu trùng không phải bằng cách pha vào sirô đường cho ăn mà họ dùng cách hòa tan thuốc và
phun trực tiếp vào lỗ tổ. Nhưng nên chú ý rằng phương pháp này chỉ có hiệu qủa khi thuốc được
phun với liều lượng gấp 2 lần so với liều cho ăn.
c. Điều trị đúng phương pháp :
Tùy từng bệnh mà có phương pháp điều trị thích hợp để nâng cao hiệu qủa. Ví dụ như bệnh
thối ấu trùng Châu Âu, trước đây điều trị bằng phương pháp cho ăn nước sirô đường hòa với
thuốc kháng sinh, nhưng ngày nay bằng phương pháp phun trực tiếp vào bánh tổ. Điều trị bằng
phương pháp này vừa giải quyết được bệnh nhanh vừa giảm ảnh hưởng của thuốc kháng sinh đến
chất lượng mật ong. Song cách pha thuốc cũng phải được chú ý : có loại thuốc chỉ được pha bằng
nước nguội, nếu pha bằng nước nóng thuốc sẽ bị phân hủy, thuốc không còn tác dụng điều trị.
9. Một số bệnh ong nội và phương pháp phòng trị
a. Bệnh của ong trưởng thành :
Do một loại bảo tử trùng gây nên. Bệnh này hay xảy ra vào thời kỳ rét đậm, mưa nhiều, độ
ẩm cao.
Triệu chứng :
* Ong trưởng thành ỉa lung tung vào các cửa sổ, vách thùng.
* Đàn ong chết nhiều, thưa quân, mật ít.
* Có một số ong bụng trướng lên, sã cánh bò trước cửa tổ.
Phương pháp điều trị :
* Luôn giữ cho đàn ong mạnh, đủ thức ăn.
* Khi phát hiện thấy đàn ong bị bệnh thì thay thùng, loại bớt cầu xấu cũ.
* Cho ong ăn thuốc Fumagillin với liều lượng 100 mg/40 cầu/1 tối, pha với 3 lít nước
đường, cho ăn trong 10 ngày.
* Nếu không có thuốc Fumagillin có thể cho ăn sirô pha nước gừng tươi (9 - 10g gừng
tươi/1 lít sirô cho 10 cầu/1tối).
b. Bệnh của ấu trùng ong :

Thường có 2 bệnh gây nên hiện tượng thối ấu trùng, đó là bệnh ấu trùng Châu Âu và bệnh
thối ấu trùng túi. Cần phải phân biệt rõ 2 bệnh này thì mới có biện pháp điều trị hiệu qủa.
1. Bệnh thối ấu trùng Châu Âu :
* Bệnh do vi khuẩn Melissococus pluton gây nên. ấu trùng mắc bệnh ở tuổi 3 - 5, khi chết
có mùi chua.
* Ấu trùng bị bệnh chuyển từ màu trắng ngà sang trắng đục, sau thối nhũn xẹp xuống,
quan sát lỗ tổ thấy vít nắp lỗ chỗ.
* Bệnh lây lan do khi kiểm tra đàn ong, dùng dụng cụ, ong ăn cướp mật, do di chuyển và
mua bán đàn ong.
Điều trị :
- Bằng phương pháp cho ăn :
+ Streptomycin 1 lọ/10 cầu ; Kanamycin 0,5g/đàn, cho ăn liền 3 tối. Sau 1tuần không khỏi
cho ăn tiếp 3 tối nữa.
+ Lưu ý : Trước khi cho ăn nên loại bớt cầu bị bệnh nặng để nuôi ong bám đông trên cầu
còn lại.
* Bằng phương pháp phun thuốc trực tiếp :
+ Sử dụng 2 loại thuốc trên nhưng liều lượng gấp đôi, pha với nước sôi để nguội hoặc với
nước đường loãng.
+ Dùng bình phun có hạt loại nhỏ phun lên 2 mặt cầu ong. Cách 1 ngày phun 1 lần, phun
làm 3 lần.
2. Bệnh ấu trùng túi Sacbrood (do virut gây nên).
Triệu chứng :
Phần lớn ấu trùng chết ở giai đoạn cuối vít nắp hoặc thời kỳ tiền nhộng (ấu trùng tuổi lớn)
có nhiều ấu trùng nhọn đầu nhô lên miệng lỗ tổ.
Phía đuôi ấu trùng hình thành túi nước có màu trong suốt hoặc vàng nhạt, ấu trùng chết
không có mùi.
Điều trị :
Thay chúa của đàn bị bệnh bằng chúa tơ hoặc mũ chúa được tạo ra từ những đàn không bị
bệnh hoặc nhốt chúa đẻ 7 - 8 ngày, đồng thời loại bớt cầu bệnh.
Cho ăn nước đường 3 - 4 tối hoặc di chuyển ong đến vùng có nhiều mật, phấn dồi dào để

kích thích ong đi làm vệ sinh và dọn sạch các ấu trùng bệnh.
Tuy nhiên, cần phải hạn chế việc lạm dụng thuốc kháng sinh trong điều trị bệnh ong vì gây
nên hiện tượng tồn dư chất kháng sinh trong mật ong. Muốn khắc phục được tình trạng trên, nên
đầu tư vào công tác giống để nhanh chóng tạo ra giống ong có sức đề kháng bệnh cao, hoặc tổ
chức các đàn ong khỏe trước mùa khai thác Trong trường hợp đàn ong bị bệnh, nên tiến hành
điều trị triệt để và phải chấm dứt việc dùng thuốc kháng sinh trước mùa khai thác mật từ 30 - 40
ngày.

×