Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Báo cáo thực tập tốt nghiệp CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (531.18 KB, 111 trang )

Pháp luật đại
cương

CHƯƠNG 1
CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
I. Đại cương về Nhà nước
1. Nguồn gốc và bản chất Nhà nước
1.1. Tổ chức xã hội và quyền lực trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ
Từ thời kỳ cổ đại và trung đại đã có nhiều tư tưởng tiếp cận và đưa ra
những lý giải khác nhau về nguồn gốc nhà nước. Các nhà tư tưởng theo thuyết
thần học cho rằng: Thượng đế là người sắp đặt trật tự xã hội, nhà nước là do
thượng đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự chung. Do vậy nhà nước là lực lượng
siêu nhân, quyền lực nhà nước là vĩnh cửu và sự phục tùng quyền lực là cần
thiết và tất yếu. Trong khi đó, những nhà tư tưởng theo thuyết gia trưởng lại
cho rằng nhà nước là kết quả phát triển của gia đình, là hình thức tổ chức tự
nhiên của cuộc sống con người.
Đến khoảng thế kỷ 16 đến 18 đã xuất hiện hàng loạt quan niệm mới về
nguồn gốc nhà nước. Nhằm chống lại sự chuyên quyền, độc đoán của Nhà
nước phong kiến, đòi hỏi sự bình đẳng cho giai cấp tư sản trong việc tham gia
nắm giữ quyền lực nhà nước, đa số các học giả tư sản đều tán thành quan
điểm cho rằng sự ra đời của nhà nước là sản phẩm của một khế ước (hợp
đồng) được ký kết giữa những con người sống trong trạng thái tự nhiên không
có nhà nước. Vì vậy, Nhà nước phản ánh lợi ích của các thành viên trong xã
hội và mỗi thành viên đều có quyền yêu cầu nhà nước phục vụ họ, bảo vệ lợi
ích của họ.
Vì thế, thuyết khế ước xã hội đã có vai trò quan trọng là tiền đề cho
thuyết dân chủ cách mạng và cơ sở tư tưởng cho cách mạng tư sản để lật đổ
ách thống trị phong kiến.
Tuy nhiên học thuyết này giải thích nguồn gốc nhà nước trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy tâm, coi nhà nước lập ra do ý muốn,
nguyện vọng chủ quan của các bên tham gia khế ước, không giải thích được


cội nguồn vật chất và bản chất giai cấp của nhà nước.
Một số học thuyết khác tuy mức độ phổ biến có hạn chế hơn so với
thuyết khế ước xã hội, nhưng đã xuất hiện và nhiều tập đoàn thống trị đã sử
dụng làm cơ sở lý luận để giải thích nguồn gốc và bản chất của nhà nước như:
Thuyết bạo lực cho rằng, nhà nước xuất hiện trực tiếp từ việc sử dụng bạo lực
của thị tộc này đối với thị tộc khác mà kết quả là thị tộc chiến thắng “nghĩ ra”
một hệ thống cơ quan đặc biệt (nhà nước) để nô dịch kẻ chiến bại.
Các học giả của thuyết tâm lý lại cho rằng, nhà nước xuất hiện do nhu
cầu tâm lý của con người nguyên thuỷ luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh,
giáo sĩ…Vì vậy, nhà nước là tổ chức của những siêu nhân có sứ mạng lãnh
đạo xã hội. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, những học thuyết và quan điểm
trên chưa giải thích được đúng nguồn gốc của nhà nước.
1
Pháp luật đại
cương

Với quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Chủ nghĩa Mác-
Lênin đã chứng minh một cách khoa học rằng, nhà nước không phải là những
hiện tượng xã hội vĩnh cửu và bất biến. Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội loài
người đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Chúng luôn vận động, phát
triển và sẽ tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát
triển của chúng không còn nữa.
Chế độ cộng sản nguyên thuỷ là hình thái kinh tế - xã hội đầu tiên trong
lịch sử nhân loại. Đó là một xã hội không có giai cấp, chưa có nhà nước và
pháp luật. Cơ sở kinh tế của xã hội cộng sản nguyên thuỷ là chế độ sở hữu
chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất thấp kém, công cụ lao động thô sơ, con người chưa có
nhận thức đúng đắn về thiên nhiên và về bản thân mình, họ luôn bất lực trước
những tai họa của thiên nhiên, năng suất lao động thấp.
Trong điều kiện đó, con người không thể sống riêng biệt mà phải dựa vào

nhau, cùng chung sống, cùng lao động và hưởng thụ những thành quả lao
động chung. Mọi người đều bình đẳng trong lao động và hưởng thụ, không ai
có tài sản riêng, không có người giàu, kẻ nghèo, không có tình trạng người
này chiếm đoạt tài sản của người kia. Lúc này xã hội chưa phân thành giai cấp
và không có đấu tranh giai cấp.
Do những điều kiện kinh tế đó đã quyết định đời sống xã hội của chế độ
cộng sản nguyên thủy. Tế bào cơ sở của xã hội không phải gia đình mà là thị
tộc. Sự xuất hiện của tổ chức thị tộc đã đặt nền móng cho việc hình thành hình
thái kinh tế - xã hội đầu tiên trong lịch sử - hình thái kinh tế - xã hội: cộng sản
nguyên thuỷ. Cơ sở kinh tế của xã hội cộng sản nguyên thuỷ tạo ra hình thức
tổ chức xã hội là thị tộc (tổ chức cơ cấu đầu tiên của loài người). Thị tộc là
một tổ chức lao động, sản xuất, một bộ máy kinh tế xã hội. Sự phát triển của
xã hội cộng với các yếu tố tác động khác đòi hỏi thị tộc phải mở rộng quan hệ
với các thị tộc khác, dẫn đến sự xuất hiện các bào tộc và bộ lạc bao gồm nhiều
bào tộc hợp thành.
Để tổ chức và quản lý thị tộc, xã hội đã hình thành hình thức Hội đồng thị
tộc bao gồm tất cả những người lớn tuổi trong thị tộc với quyền hạn rất lớn. Tổ
chức quản lý bào tộc là hội đồng bào tộc bao gồm các tù trưởng, thủ lĩnh quân
sự của các thị tộc. Hội đồng bộ lạc là hình thức tổ chức quản lý của bộ lạc với
nguyên tắc tổ chức quyền lực của thị tộc nhưng có sự tập trung cao hơn.
Như vậy, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ đã xuất hiện và tồn tại
quyền lực nhưng đó là quyền lực xã hội xuất phát từ xã hội và phục vụ cho lợi
ích của toàn xã hội. Bởi những người đứng đầu thị tộc, bào tộc, bộ lạc hoàn
toàn không có đặc quyền, đặc lợi nào, mà họ cùng chung sống, cùng lao động
và hưởng thụ như mọi thành viên khác.
2
Pháp luật đại
cương

1.2. Sự tan rã của tổ chức thị tộc và sự xuất hiện của nhà nước

Lịch sử đã trải qua 3 lần phân công lao động xã hội lớn (một là, chăn
nuôi tách khỏi trồng trọt; hai là, thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp; ba là,
buôn bán phát triển và thương nghiệp xuất hiện), mỗi lần lại có những bước
tiến mới làm sâu sắc thêm quá trình tan rã của chế độ cộng sản nguyên thuỷ,
chế độ tư hữu xuất hiện đã phân chia xã hội thành kẻ giàu, người nghèo, hình
thành hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ. Một xã hội mới với sự phân chia
giai cấp và đấu tranh giai cấp, xã hội đó đòi hỏi phải có một tổ chức quyền lực
mới đủ sức để dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp đó. Tổ chức
đó là nhà nước và nhà nước đã xuất hiện.
Như vậy, nhà nước đã xuất hiện một cách khách quan, nó là sản phẩm
của một xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Nhà nước“không
phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội” mà là “một lực lượng
nảy sinh từ xã hội”, một lực lượng “tựa hồ đứng trên xã hội”, có nhiệm vụ
làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho xung đột đó nằm trong vòng “trật tự”.
1.3. Bản chất nhà nước
Xuất phát từ việc nghiên cứu nguồn gốc của nhà nước, chủ nghĩa Mác –
Lênin đi đến kết luận “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu
thuẫn giai cấp không thể điều hoà được”. Nghĩa là, nhà nước chỉ sinh ra và
tồn tại trong xã hội có giai cấp và bao giờ cũng thể hiện bản chất giai cấp sâu
sắc. Bản chất đó thể hiện trước hết ở chỗ nhà nước là một bộ máy cưỡng chế
đặc biệt nằm trong tay của giai cấp cầm quyền, là công cụ sắc bén nhất để
thực hiện sự thống trị giai cấp, thiết lập và duy trì trật tự xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp
khác đều thể hiện dưới ba loại quyền lực là quyền lực chính trị, quyền lực
kinh tế và quyền lực tư tưởng. Trong đó, quyền lực kinh tế giữ vai trò quyết
định, là cơ sở để đảm bảo cho sự thống trị giai cấp. Nhưng bản thân quyền lực
kinh tế không thể duy trì được các quan hệ bóc lột. Vì vậy, cần phải có nhà
nước, một bộ máy cưỡng chế đặc biệt để củng cố quyền lực của giai cấp thống
trị về kinh tế và để đàn áp sự phản kháng của các giai cấp bị bóc lột. Nhờ có
nhà nước, giai cấp thống trị về kinh tế trở thành giai cấp thống trị về chính trị.

Nói cách khác, giai cấp thống trị đó trở thành chủ thể của quyền lực kinh tế và
quyền lực chính trị.
Quyền lực chính trị “là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp
giai cấp khác”. Nhà nước là một bộ máy bạo lực do giai cấp thống trị tổ chức
ra để trấn áp các giai cấp đối địch. Do đó, nhà nước chính là một tổ chức đặc
biệt của quyền lực chính trị. Giai cấp thống trị sử dụng nhà nước để tổ chức và
thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp mình. Thông qua nhà nước ý chí
của giai cấp thống trị được thể hiện một cách tập trung thống nhất và hợp
pháp hóa thành ý chí nhà nước. Ý chí nhà nước có sức mạnh bắt buộc các giai
3
Pháp luật đại
cương

cấp khác phải tuân theo một “trật tự” do giai cấp thống trị đặt ra, phải phục
vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị.
Trong các xã hội bóc lột, nền chuyên chính của các giai cấp bóc lột đều
có đặc điểm chung là duy trì sự thống trị về chính trị, kinh tế và tư tưởng của
thiểu số người bóc lột đối với đông đảo nhân dân lao động. Các nhà nước bóc
lột đều có chung bản chất là bộ máy để thực hiện nền chuyên chính của giai
cấp bóc lột: Nhà nước chủ nô là công cụ chuyên chính của giai cấp chủ nô,
nhà nước phong kiến là công cụ chuyên chính của giai cấp địa chủ phong
kiến, nhà nước tư sản là công cụ chuyên chính của giai cấp tư sản. Khác với
điều đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa với bản chất chuyên chính vô sản, là bộ
máy để củng cố địa vị thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động chiếm đa số trong xã hội, để trấn áp những lực lượng thống
trị cũ đã bị lật đổ và những phần tử chống đối cách mạng.
Tuy nhiên để thực hiện sự chuyên chính giai cấp không thể chỉ đơn thuần
dựa vào bạo lực và cưỡng chế mà còn cần đến sự tác động về tư tưởng nữa.
Giai cấp thống trị đã thông qua nhà nước để xây dựng hệ tư tưởng của giai cấp
mình thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội, bắt các giai cấp khác phải lệ

thuộc mình về mặt tư tưởng.
Như vậy, nhà nước là một tổ chức đặc biệt để bảo đảm sự thống trị về
kinh tế, để thực hiện quyền lực về chính trị và thực hiện sự tác động về tư
tưởng đối với quần chúng. Ngoài việc thực hiện các chức năng trên, nhà nước
còn phải giải quyết tất cả các vấn đề khác nảy sinh trong xã hội, nghĩa là phải
thực hiện chức năng xã hội. Tính giai cấp là mặt cơ bản thể hiện bản chất của
nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó nhà nước còn thể hiện rõ nét tính xã hội.
Dù trong xã hội nào, nhà nước cũng một mặt bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm
quyền, nhưng đồng thời cũng phải chú ý đến lợi ích chung của toàn xã hội.
Từ những kết luận trên có thể đi đến định nghĩa sau: Nhà nước là một tổ
chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ
cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã
hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội.
2. Đặc trưng, kiểu và hình thức nhà nước
2.1. Đặc trưng
So với các tổ chức trong xã hội có giai cấp, nhà nước có một số đặc trưng
sau đây:
- Nhà nước thiết lập quyền lực công cộng đặc biệt không còn hoà nhập
với dân cư nữa; chủ thể của quyền lực này là giai cấp thống trị về kinh tế và
chính trị. Để thực hiện quyền lực này và để quản lý xã hội, nhà nước có một
lớp người đặc biệt chuyên làm nhiệm vụ quản lý, họ tham gia vào các cơ quan
nhà nước và hình thành nên một bộ máy cưỡng chế để duy trì địa vị của giai
4
Pháp luật đại
cương

cấp thống trị, bắt các giai cấp khác phải phục tùng theo ý chí của giai cấp
thống trị.
- Nhà nước phân chia dân cư theo lãnh thổ thành các đơn vị hành chính,
không phụ thuộc vào chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp hoặc giới tính…

Việc phân chia này quyết định phạm vi tác động của nhà nước trên quy mô
rộng lớn nhất và dẫn đến việc hình thành các cơ quan trung ương và địa
phương của bộ máy nhà nước.
- Nhà nước có chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia thể hiện quyền
độc lập tự quyết của nhà nước về những chính sách đối nội và đối ngoại
không phụ thuộc các yếu tố bên ngoài. Chủ quyền quốc gia là thuộc tính
không thể chia cắt của nhà nước.
- Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lý bắt buộc đối với
mọi công dân. Với tư cách là người đại diện chính thức của toàn xã hội, nhà
nước là tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật. Pháp luật do nhà nước
ban hành nên có tính bắt buộc chung, mọi người đều phải tôn trọng pháp luật.
- Nhà nước quy định và thực hiện việc thu các loại thuế. Việc thu thuế
nhằm “nuôi dưỡng” bộ máy nhà nước bao gồm một lớp người đặc biệt, tách ra
khỏi xã hội để thực hiện chức năng quản lý.
Những đặc điểm nói trên nói lên sự khác nhau giữa nhà nước với các tổ
chức chính trị xã hội khác, đồng thời cũng phản ánh vị trí và vai trò của nhà
nước trong xã hội có giai cấp.
2.2. Kiểu nhà nước
Bản chất của nhà nước trong những thời kỳ lịch sử khác nhau là rất khác
nhau. Để phân biệt chúng, khoa học lý luận chung về nhà nước và pháp luật
đã đưa ra khái niệm kiểu nhà nước:
Kiểu nhà nước là tổng thể những đặc điểm
cơ bản, đặc thù của nhà nước, thể hiện bản chất giai cấp và những điều kiện
tồn tại và phát triển của nhà nước trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định.
Trong lịch sử xã hội có giai cấp đã tồn tại bốn hình thái kinh tế xã hội:
Chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Phù hợp
với bốn hình thái kinh tế xã hội đó đã có bốn kiểu nhà nước:
- Kiểu nhà nước chủ nô.
- Kiểu nhà nước phong kiến.
- Kiểu nhà nước tư sản.

- Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Các kiểu nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản mặc dù mỗi kiểu có những
đặc điểm riêng nhưng chúng đều là những kiểu nhà nước bóc lột được xây
dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Các nhà nước đó đều là
công cụ để bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, duy trì sự thống trị của
giai cấp bóc lột đối với đông đảo quần chúng nhân dân lao động.
5
Pháp luật đại
cương

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước mới có bản chất khác với
các kiểu nhà nước bóc lột khác. Nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa là
thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
thực hiện công bằng xã hội.
Sự thay thế kiểu nhà nước này bằng một kiểu nhà nước mới tiến bộ hơn
là một quy luật tất yếu. Cách mạng là con đường dẫn đến sự thay thế đó. Một
kiểu nhà nước mới xuất hiện trong quá trình cách mạng khi giai cấp cầm
quyền cũ bị lật đổ và giai cấp thống trị mới giành được chính quyền. Các cuộc
cách mạng khác nhau diễn ra trong lịch sử đều tuân theo quy luật đó: Nhà
nước phong kiến thay thế nhà nước chủ nô, nhà nước tư sản thay thế nhà nước
phong kiến, nhà nước xã hội chủ nghĩa thay thế nhà nước tư sản.
Nhà nước XHCN là một kiểu nhà nước tiến bộ nhất nhưng cũng là kiểu
nhà nước cuối cùng trong lịch sử. Sau khi hoàn thành sứ mệnh lịch sử của
mình, nhà nước XHCN sẽ tiêu vong và sau đó sẽ không còn một kiểu nhà
nước nào khác nữa.
2.3. Hình thức nhà nước.
Hình thức nhà nước là cách tổ chức quyền lực nhà nước và những
phương pháp để thực hiện quyền lực nhà nước. Hình thức nhà nước là một
khái niệm chung được hình thành từ ba yếu tố cụ thể: Hình thức chính thể,
hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị.

- Hình thức chính thể: Là cách tổ chức và trình tự để lập ra các cơ quan
tối cao của nhà nước và xác lập những mối quan hệ cơ bản của các cơ quan
đó. Hình thức chính thể có hai dạng cơ bản là chính thể quân chủ và chính thể
cộng hoà.
+ Chính thể quân chủ là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà
nước tập trung toàn bộ (hay một phần) trong tay người đứng đầu nhà nước
theo nguyên tắc thừa kế, truyền ngôi. Vua, Hoàng đế là nguyên thủ quốc gia
của các nhà nước theo chính thể này.
Chính thể quân chủ được chia thành chính thể quân chủ tuyệt đối và
chính thể quân chủ hạn chế. Quân chủ tuyệt đối là hình thức chính thể quân
chủ, trong đó nguyên thủ quốc gia (Vua, Hoàng đế) có quyền lực vô hạn.
Trong chính thể quân chủ hạn chế thì quyền lực tối cao của nhà nước
được trao một phần cho người đứng đầu nhà nước, còn một phần được trao
cho một cơ quan khác (như Nghị viện trong nhà nước tư sản hay Hội nghị đại
diện đẳng cấp trong nhà nước phong kiến). Chính thể quân chủ hạn chế trong
các nhà nước tư sản gọi là quân chủ lập hiến (quân chủ đại nghị). Trong các
nhà nước tư sản theo chính thể quân chủ đại nghị, quyền lực của nguyên thủ
quốc gia (Vua, Hoàng đế) bị hạn chế rất nhiều. Nguyên thủ quốc gia chỉ mang
tính chất tượng trưng, đại diện cho truyền thống, sự thống nhất của quốc gia,
6
Pháp luật đại
cương

không có nhiều quyền hành. Chính thể quân chủ lập hiến theo mô hình đại
nghị đang tồn tại ở các nước như Nhật Bản, Thụy Điển, Vương quốc Anh…
+ Chính thể cộng hoà là hình thức chính thể, trong đó quyền lực tối cao
của nhà nước thuộc về một cơ quan được bầu ra trong một thời gian nhất định.
Chính thể cộng hoà có hai hình thức chính là cộng hoà quý tộc và cộng hoà
dân chủ.
Cộng hòa quý tộc là hình thức chính thể, trong đó cơ quan đại diện là do

giới quý tộc bầu ra. Chính thể này tồn tại ở kiểu nhà nước chủ nô và nhà nước
phong kiến.
Cộng hoà dân chủ là hình thức chính thể, trong đó người đại diện là do
nhân dân bầu ra. Chính thể này tồn tại ở tất cả bốn kiểu nhà nước đã có trong
lịch sử. Tuy nhiên, tính chất và mức độ dân chủ là khác nhau. Chính thể cộng
hoà dân chủ là hình thức tổ chức chính quyền nhà nước phổ biến nhất hiện
nay ở các nhà nước tư sản. Chính thể cộng hòa tư sản có hai biến dạng: Cộng
hoà đại nghị và Cộng hoà tổng thống
Trong chính thể cộng hoà đại nghị, thì nghị viện là trung tâm. Vai trò
thực thi quyền lực của Nghị viện trong nhà nước là rất lớn. Nguyên thủ quốc
gia (Tổng thống) do nghị viện bầu ra, chịu trách nhiệm trước nghị viện. Chính
phủ do các đảng chính trị chiếm đa số ghế trong nghị viện thành lập và chịu
trách nhiệm trước nghị viện, nghị viện có thể bỏ phiếu không tín nhiệm Chính
phủ. Do đó, nghị viện có khả năng thực tế kiểm tra các hoạt động của Chính
phủ còn Thủ tướng hầu như không trực tiếp tham gia giải quyết các công việc
của đất nước. Hiện nay những nước có chính thể cộng hoà đại nghị như:
CHLB Đức, CH Áo, CH Italia…
Trong chính thể Cộng hoà tổng thống, nguyên thủ quốc gia (Tổng thống)
có vị trí rất quan trọng. Tổng thống do nhân dân bầu ra. Tổng thống vừa là
nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu Chính phủ. Chính phủ không phải
do nghị viện thành lập. Các thành viên của Chính phủ do Tổng thống bổ
nhiệm, chịu trách nhiệm trước Tổng thống. Tổng thống và các Bộ trưởng có
toàn quyền trong lĩnh vực hành pháp, Nghị viện có quyền lập pháp; Nghị viện
không có quyền lật đổ chính phủ. Tổng thống không có quyền giải tán nghị
viện. Các nước tổ chức theo chính thể cộng hoà tổng thống như: Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ, Các nước Mỹ La Tinh…
Ngoài chính thể cộng hoà đại nghị và cộng hoà Tổng thống, hiện nay còn
tồn tại một hình thức cộng hoà “lưỡng tính”, nó vừa mang tính chất cộng hoà
đại nghị vừa mang tính chất cộng hoà tổng thống.
Cộng hoà “lưỡng tính” có những đặc điểm sau:

 Nghị viện do nhân dân bầu ra;
 Tổng thống do nhân bân bầu ra có quyền hạn rất lớn kể cả quyền
giải tán nghị viện, quyền thành lập chính phủ, giải quyết công việc quốc gia.
Tổng thống là trung tâm của bộ máy quyền lực;
7
Pháp luật đại
cương

 Chính phủ có Thủ tướng đứng đầu, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp
của Tổng thống, chịu trách nhiệm trước nghị viện và tổng thống. Điển hình
cho chính thể này là CH Pháp và một số nước Châu Âu.
Chính thể cộng hòa cũng tồn tại ở các nước XHCN với những tên gọi
khác nhau (Việt Nam, Trung Quốc…)
- Hình thức cấu trúc nhà nước
Đây là sự cấu tạo nhà nước thành các đơn vị hành chính lãnh thổ và xác
lập những mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan nhà nước, giữa trung ương
với địa phương.
Có hai hình thức cấu trúc nhà nước chủ yếu là hình thức nhà nước đơn
nhất và hình thức nhà nước liên bang.
Nhà nước đơn nhất là nhà nước có chủ quyền chung, có hệ thống cơ quan
quyền lực và quản lý thống nhất từ trung ương đến địa phương và có các đơn
vị hành chính bao gồm tỉnh (thành phố), huyện (quận), xã (phường). Ví dụ:
Việt Nam, Lào, Pháp, Ba Lan …là những nước đơn nhất.
Nhà nước liên bang là nhà nước có từ hai hay nhiều nước thành viên hợp
lại. Nhà nước liên bang có hai hệ thống cơ quan quyền lực và quản lý; một hệ
thống chung cho toàn liên bang và một hệ thống trong mỗi nước thành viên;
có chủ quyền quốc gia chung của nhà nước liên bang và đồng thời mỗi nước
thành viên cũng có chủ quyền riêng. Ví dụ: Mỹ, Đức, Ấn Độ, Malaixia… là
các nước liên bang.
- Chế độ chính trị

Chế độ chính trị là tổng thể các phương pháp, thủ đoạn mà các cơ quan
nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước
Trong lịch sử, từ khi nhà nước xuất hiện cho đến nay, các giai cấp thống
trị đã sử dụng nhiều phương pháp và thủ đoạn để thực hiện quyền lực nhà
nước. Những phương pháp và thủ đoạn đó trước hết xuất phát từ bản chất của
nhà nước đồng thời phụ thuộc vào nhiều yếu tố của mỗi giai đoạn trong mỗi
nước cụ thể. Vì vậy, có rất nhiều phương pháp và thủ đoạn khác nhau nhưng
tựu chung chúng được phân thành hai loại chính là: Phương pháp dân chủ và
phương pháp phản dân chủ.
Những phương pháp dân chủ cũng có nhiều loại, thể hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau như những phương pháp dân chủ thực sự và dân chủ giả
hiệu, dân chủ rộng rãi và dân chủ hạn chế, dân chủ trực tiếp và dân chủ gián
tiếp…Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa được đặc trưng bằng việc sử dụng các
hình thức dân chủ thực sự, rộng rãi với chế độ dân chủ tư sản đặc trưng bằng
các phương pháp dân chủ hạn chế và hình thức.
Các phương pháp phản dân chủ thể hiện tính chất độc tài cũng có nhiều
loại, đáng chú ý nhất là khi những phương pháp này khi phát triển đến mức độ
cao trở thành những phương pháp tàn bạo, quân phiệt và phát xít.
8
Pháp luật đại
cương

Hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước luôn có liên quan mật
thiết với chế độ chính trị. Ba yếu tố này có tác động qua lại lẫn nhau tạo thành
khái niệm hình thức nhà nước, phản ánh bản chất và nội dung của nhà nước.
3. Chức năng của nhà nước, bộ máy nhà nước.
3.1. Chức năng
Chức năng của nhà nước là những phương diện hoạt động chủ yếu của
nhà nước nhằm để thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước. Chức
năng của nhà nước được xác định xuất phát từ bản chất của nhà nước, do cơ

sở kinh tế và cơ cấu giai cấp của xã hội quyết định. Ví dụ, các nhà nước bóc
lột được xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và bóc lột
nhân dân lao động cho nên chúng có những chức năng cơ bản như bảo vệ chế
độ tư hữu về tư liệu sản xuất, đàn áp sự phản kháng và phong trào cách mạng
của nhân dân lao động, tiến hành chiến tranh xâm lược, nô dịch các dân tộc
khác…Nhà nước xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế là chế độ sở hữu xã hội
chủ nghĩa, là công cụ để bảo vệ lợi ích của đông đảo quần chúng lao động, vì
vậy chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa khác với chức năng của nhà
nước bóc lột cả về nội dung và phương pháp tổ chức thực hiện
Căn cứ vào phạm vi hoạt động của nhà nước, các chức năng được chia
thành chức năng đối nội và đối ngoại.
- Chức năng đối nội: Là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước
trong nội bộ đất nước. Ví dụ: Đảm bảo trật tự xã hội, trấn áp những phần tử
chống đối chế độ, bảo vệ chế độ kinh tế…
- Chức năng đối ngoại: Thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ
với các nhà nước và dân tộc khác. Ví dụ: Phòng thủ đất nước, chống sự xâm
lược từ bên ngoài, thiết lập các mối quan hệ bang giao với các quốc gia
khác…
Để thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại, nhà nước sử dụng nhiều
hình thức và phương pháp hoạt động khác nhau, trong đó có 3 hình thức hoạt
động chính là:
 Xây dựng pháp luật
 Tổ chức và thực hiện pháp luật
 Bảo vệ pháp luật
Mỗi kiểu nhà nước có bản chất riêng nên chức năng của các nhà nước
thuộc mỗi kiểu nhà nước cũng khác nhau và việc tổ chức bộ máy để thực hiện
các chức năng đó cũng có những đặc điểm riêng.
3.2. Bộ máy của nhà nước
Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan từ Trung ương đến địa
phương, bao gồm nhiều loại cơ quan như cơ quan lập pháp, hành pháp và tư

9
Pháp luật đại
cương

pháp… Toàn bộ hoạt động của bộ máy nhằm thực hiện các chức năng của nhà
nước, phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị.
Bộ máy nhà nước bao gồm nhiều cơ quan, mỗi cơ quan có những chức
năng, nhiệm vụ riêng phù hợp với phạm vi quyền hạn được giao. Mỗi kiểu
nhà nước có bản chất riêng nên chức năng của các nhà nước thuộc mỗi kiểu
nhà nước cũng khác nhau và việc tổ chức bộ máy để thực hiện các chức năng
đó cũng có những đặc điểm riêng.
II. Đại cương về pháp luật
1. Nguồn gốc, khái niệm và bản chất, đặc điểm pháp luật
1.1. Nguồn gốc pháp luật.
Những nguyên nhân làm phát sinh nhà nước cũng là những nguyên nhân
dẫn đến sự ra đời của pháp luật. Khi chế độ tư hữu xuất hiện và xã hội đã phân
chia thành giai cấp thì những xung đột về lợi ích giai cấp diễn ra gay gắt và
cuộc đấu tranh giai cấp là không thể điều hoà được, thì cần thiết phải có một
quy phạm mới để thiết lập cho xã hội một “trật tự”, một loại quy phạm thể
hiện ý chí của giai cấp thống trị, đó là quy phạm pháp luật.
Lúc đầu, các quy tắc xử sự của pháp luật chủ yếu được hình thành bằng
việc nhà nước thừa nhận các phong tục tập quán đã có sẵn trong xã hội phù
hợp với lợi ích của giai cấp thống trị. Sau này, pháp luật được nhà nước trực
tiếp đặt ra và ban hành để toàn xã hội thực hiện.
Vì vậy, pháp luật là hệ thống các quy phạm do nhà nước ban hành, thể
hiện ý chí của giai cấp thống trị. Pháp luật ra đời cùng với nhà nước, pháp luật
là công cụ sắc bén để thực hiện quyền lực nhà nước, duy trì địa vị và bảo vệ
lợi ích của giai cấp thống trị. Nhà nước ban hành ra pháp luật và đảm bảo cho
pháp luật được thực hiện. Cả hai hiện tượng đều là sản phẩm của cuộc đấu
tranh giai cấp.

1.2. Khái niệm và bản chất pháp luật.
1.2.1. Khái niệm
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo
đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố
điều chỉnh các quan hệ xã hội.
1.2.2. Bản chất
Học thuyết Mác-Lênin chỉ rõ, pháp luật chỉ phát sinh tồn tại và phát triển
trong xã hội có giai cấp. Bản chất của pháp luật thể hiện ở tính giai cấp của
nó, không có “pháp luật tự nhiên” hay pháp luật không mang tính giai cấp.
Tính giai cấp của pháp luật thể hiện trước hết ở chỗ, pháp luật phản ánh ý
chí nhà nước của giai cấp thống trị. Nhờ nắm trong tay quyền lực nhà nước,
giai cấp thống trị đã thông qua nhà nước để thể hiện ý chí của giai cấp mình
10
Pháp luật đại
cương

một cách tập trung, thống nhất và hợp pháp hoá thành ý chí nhà nước, ý chí đó
được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành. Nhà nước ban hành và bảo đảm cho pháp luật được thực
hiện. Vì vậy, pháp luật là những quy tắc xử sự chung có tính bắt buộc đối với
mọi người.
Tính giai cấp của pháp luật thể hiện ở mục đích điều chỉnh các quan hệ
xã hội. Mục đích của pháp luật trước hết nhằm điều chỉnh quan hệ giữa các
giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Do đó, pháp luật là nhân tố điều chỉnh về mặt
giai cấp các quan hệ xã hội nhằm hướng các quan hệ xã hội pháp triển theo
một “trật tự” phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, bảo vệ và củng cố địa
vị của giai cấp thống trị. Vì vậy, pháp luật chính là công cụ để thực hiện sự
thống trị giai cấp. Bất kỳ kiểu pháp luật nào cũng mang bản chất giai cấp.
Pháp luật chủ nô công khai quy định quyền lực vô hạn của chủ nô, tình
trạng vô quyền của nô lệ. Pháp luật phong kiến công khai quy định đặc quyền,

đặc lợi của địa chủ phong kiến, quy định các chế tài hà khắc dã man để đàn áp
nhân dân lao động. Pháp luật tư sản thể hiện bản chất giai cấp một cách tinh vi
như quy định về mặt pháp lý những quyền tự do, dân chủ… nhưng thực chất
pháp luật tư sản luôn thể hiện ý chí của giai cấp tư sản và mục đích trước hết
nhằm phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản.
Pháp luật XHCN thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, là công cụ để xây dựng xã hội mới, mọi người đều được sống tự do,
bình đẳng, công bằng xã hội được bảo đảm.
Bên cạnh tính giai cấp pháp luật còn mang tính xã hội. Nghĩa là ở mức độ nhiều
hay ít pháp luật còn thể hiện ý chí và lợi ích của các giai tầng khác trong xã hội.
Như vậy, pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp vừa thể
hiện tính xã hội. Hai thuộc tính này có mối liên hệ mật thiết với nhau. Do đó,
không có pháp luật chỉ thể hiện duy nhất tính giai cấp; ngược lại không có
pháp luật chỉ thể hiện tính xã hôi
1.2.3. Đặc điểm pháp luật
Nhìn một cách tổng quát, pháp luật có những đặc điểm cơ bản sau:
- Tính quyền lực (tính nhà nước, tính cưỡng chế): Pháp luật do nhà nước
ban hành và bảo đảm thực hiện. Nói một cách khác, pháp luật được hình thành
và phát triển bằng con đường nhà nước chứ không thể bằng bất kỳ con đường
nào khác. Với tư cách của mình, nhà nước là một tổ chức hợp pháp, công khai
và có quyền lực bao trùm toàn xã hội.
Vì vậy, khi pháp luật được nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, nó
sẽ có sức mạnh của quyền lực nhà nước và có tác động đến tất cả mọi người.
- Tính quy phạm: Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự, đó là những khuôn
mẫu được xác định cụ thể, không trìu tượng, chung chung. Điều này nói lên
giới hạn cần thiết mà nhà nước quy định để mọi người có thể xử sự một cách
11
Pháp luật đại
cương


tự do trong khuôn khổ pháp luật. Vượt quá giới hạn đó là trái pháp luật, những
giới hạn đó được xác định như cho phép, cấm đoán, bắt buộc…Vì vậy, nếu
không có quy phạm pháp luật được đặt ra thì cũng không thể quy kết một
hành vi nào là vi phạm, là trái pháp luật. “mọi người được làm tất cả mọi việc
trừ những điều mà pháp luật nghiêm cấm”, “mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật” được hình thành là dựa trên cơ sở của đặc trưng về tính quy phạm
của pháp luật.
- Tính ý chí: Pháp luật bao giờ cũng là hiện tượng ý chí, không phải là kết
quả của sự tự phát hay cảm tính. Về bản chất, ý chí của pháp luật là ý chí của
giai cấp thống trị, giai cấp cầm quyền. Ý chí đó thể hiện rõ ở mục đích xây
dựng pháp luật, nội dung pháp luật khi áp dụng vào đời sống xã hội.
- Tính xã hội: Bên cạnh tính ý chí thì tính xã hội vẫn là một đặc trưng cơ
bản của pháp luật. Bởi vì trong thực tế, bên cạnh các quy tắc xử sự bị chi phối
bởi lợi ích của giai cấp thống trị còn có các quy tắc xử sự khác xuất phát từ
nhu cầu chung của đời sống xã hội. Những quy tắc đó điều chỉnh các hành vi,
cách xử sự mang tính phổ biến phù hợp với lợi ích của đa số trong cộng đồng
phản ánh các nhu cầu, quy luật tồn tại khách quan của xã hội mà bất kỳ xã hội
nào cũng phải tuân theo.
Những đặc trưng cơ bản trên của pháp luật càng cho thấy bản chất và sự
khác biệt giữa pháp luật với các hiện tượng khác. Bốn đặc trưng cơ bản đó
đều có ý nghĩa quan trọng và có quan hệ với nhau, không thể chú trọng điểm
này mà coi nhẹ điểm kia.
2. Mối quan hệ giữa pháp luật với các hiện tượng xã hội.
Để giải thích rõ bản chất của pháp luật cần thiết phải phân tích các mối
quan hệ giữa pháp luật với kinh tế, chính trị, đạo đức và nhà nước.
- Quan hệ pháp luật – kinh tế: Pháp luật có tính độc lập tương đối. Một
mặt, pháp luật phụ thuộc vào kinh tế; mặt khác, pháp luật có sự tác động trở
lại một cách mạnh mẽ đối với kinh tế. Sự phụ thuộc của pháp luật vào kinh tế
thể hiện ở chỗ nội dung của pháp luật là do các quan hệ kinh tế - xã hội quyết
định, kinh tế là cơ sở của pháp luật. Sự thay đổi chế độ kinh tế - xã hội sẽ dẫn

đến sự thay đổi của pháp luật. Pháp luật luôn phản ánh trình độ phát triển của
chế độ kinh tế, nó không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó.
Mặt khác, pháp luật có sự tác động trở lại đối với sự phát triển của kinh
tế. Sự tác động đó có thể là tích cực cũng có thể là tiêu cực. Sẽ là tiến bộ khi
pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị là lực lượng tiến bộ trong xã hội,
phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế. Sẽ là tiêu cực khi pháp luật thể
hiện ý chí của giai cấp thống trị đã lỗi thời, lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của
kinh tế - xã hội.
- Quan hệ pháp luật – chính trị: Pháp luật là một trong những hình thức
biểu hiện cụ thể của chính trị. Đường lối, chính sách của giai cấp thống trị
12
Pháp luật đại
cương

luôn giữ vai trò chủ đạo đối với pháp luật. Mặt khác, chính trị còn là sự thể
hiện mối quan hệ giữa các giai cấp và các lực lượng khác nhau trong xã hội
trên tất cả các lĩnh vực. Vì vậy, pháp luật không chỉ phản ánh các chính sách
kinh tế mà còn thể hiện các quan hệ giai cấp, phản ánh đối sánh giai cấp và
mức độ của cuộc đấu tranh giai cấp.
- Quan hệ pháp luật – đạo đức: Pháp luật chịu sự tác động của đạo đức
và các quy phạm xã hội khác nhưng pháp luật có sự tác động mạnh mẽ tới các
hiện tượng đó và thậm chí trong một chừng mực nhất định, nó còn có khả
năng cải tạo các quy phạm đạo đức và các quy phạm xã hội khác.
- Quan hệ pháp luật – nhà nước: Nhà nước và pháp luật luôn có mối
quan hệ khăng khít, không thể tách rời nhau. Cả nhà nước và pháp luật đều có
chung nguồn gốc, cùng phát sinh và phát triển. Nhà nước là một tổ chức đặc
biêt của quyền lực chính trị, nhưng quyền lực đó chỉ có thể được triển khai và
phát huy có hiệu lực trên cơ sở của pháp luật. Do vậy, nhà nước không thể tồn
tại và phát huy quyền lực nếu thiếu pháp luật và ngược lại pháp luật chỉ phát
sinh, tồn tại và có hiệu lực khi dựa trên cơ sở sức mạnh của quyền lực nhà nước.

Vì vậy, không thể nói pháp luật đứng trên nhà nước hay nhà nước đứng
trên pháp luật. Đồng thời, khi xem xét các vấn đề nhà nước và pháp luật phải
đặt chúng trong mối quan hệ qua lại với nhau.
3. Kiểu và hình thức pháp luật.
3.1. Các kiểu pháp luật
Kiểu pháp luật là tổng thể những dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản, đặc thù của
pháp luật, thể hiện bản chất giai cấp và những điều kiện tồn tại và phát triển
của pháp luật trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Đặc điểm của mỗi hình thái kinh tế - xã hội trong xã hội có giai cấp sẽ
quyết định những dấu hiệu cơ bản của pháp luật. Phù hợp với điều đó, trong
lịch sử đã tồn tại bốn kiểu pháp luật:
 Kiểu pháp luật chủ nô;
 Kiểu pháp luật phong kiến;
 Kiểu pháp luật tư sản;
 Kiểu pháp luật XHCN;
Ba kiểu pháp luật chủ nô, phong kiến và tư sản là những kiểu pháp luật
bóc lột được xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Chúng
có đặc điểm chung là thể hiện ý chí của giai cấp bóc lột trong xã hội, củng cố
và bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, bảo đảm về mặt pháp lý sự áp bức
bóc lột của giai cấp thống trị đối với nhân dân lao động, duy trì tình trạng bất
bình đẳng trong xã hội.
Khác với các kiểu pháp luật trên, pháp luật XHCN được xây dựng trên cơ
sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, thể hiện ý chí của giai cấp công
13
Pháp luật đại
cương

nhân và nhân dân lao động, chiếm tuyệt đại đa số trong xã hội. Pháp luật XHCN
thủ tiêu mọi hình thức áp bức, bóc lột, xây dựng một xã hội bình đẳng, tự do.
Sự thay thế kiểu pháp luật này bằng một kiểu pháp luật khác tiến bộ hơn

là một quy luật tất yếu. Sự thay thế các kiểu pháp luật gắn liền với sự thay thế
của các hình thái kinh tế xã hội tương ứng. Cách mạng là con đường dẫn đến
sự thay thế đó. Và kết quả là: Pháp luật phong kiến thay thế pháp luật chủ nô;
pháp luật tư sản thay thế pháp luật phong kiến; pháp luật XHCN thay thế pháp
luật tư sản. Trong tương lai Pháp luật XHCN sẽ tiêu vong và không còn kiểu
pháp luật nào thay thế nữa.
3.2. Hình thức pháp luật
Hình thức pháp luật là cách thức mà giai cấp thống trị sử dụng để nâng ý
chí của giai cấp mình lên thành pháp luật.
Trong lịch sử đã có 3 hình thức pháp luật là: Tập quán pháp; tiền lệ pháp
và văn bản pháp luật.
3.2.1. Tập quán pháp
Là hình thức nhà nước thừa nhận một số tập quán đã lưu truyền trong xã
hội, phù hợp lợi ích của giai cấp thống trị, nâng chúng thành những quy tắc xử
sự chung được nhà nước bảo đảm thực hiện. Đây là hình thức pháp luật xuất
hiện sớm nhất và được sử dụng nhiều trong các nhà nước chủ nô và phong
kiến. Trong nhà nước tư sản, hình thức này vẫn được sử dụng nhiều, nhất là ở
các nhà nước có chế độ quân chủ.
Các nhà nước XHCN trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH vẫn còn thừa
nhận một số tập quán tiến bộ như truyền thống đạo đức dân tộc…tuy nhiên ở
mức độ hạn chế. Bởi vì tập quán hình thành một cách tự phát, ít biến đổi và có
tính cục bộ, không phù hợp với bản chất của pháp luật XHCN.
3.2.2. Tiền lệ pháp
Là hình thức nhà nước thừa nhận các quyết định của cơ quan hành chính
hoặc xét xử giải quyết những vụ việc cụ thể để áp dụng đối với các vụ việc
tương tự. Hình thức này được sử dụng trong các nhà nước phong kiến và hiện
nay vẫn chiếm vị trí quan trọng trong pháp luật tư sản, nhất là ở Anh, Mỹ.
Tiền lệ pháp hình thành không phải do hoạt động của cơ quan lập pháp
mà xuất hiện từ hoạt động của các cơ quan hành pháp và tư pháp. Vì vậy, hình
thức này dễ tạo ra sự tùy tiện, không phù hợp với các nguyên tắc pháp chế đòi

hỏi phải tôn trọng nguyên tắc tối cao của luật và việc phân định rõ chức năng,
quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy nhà nước trong việc xây dựng và
thực hiện pháp luật.
3.2.3. Văn bản quy phạm pháp luật
14
Pháp luật đại
cương

Là hình thức pháp luật tiến bộ nhất. Văn bản quy phạm pháp luật là văn
bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trong đó quy định những
quy tắc xử sự chung được áp dụng nhiều lần trong đời sống xã hội. Có nhiều
loại văn bản văn bản pháp luật. Ở mỗi nước, trong những điều kiện cụ thể có
những quy định riêng về tên gọi và hiệu lực pháp lý của các loại văn bản pháp
luật. Nhưng nhìn chung, các văn pháp luật đều được ban hành theo một trình
tự, thủ tục nhất định và chứa đựng những quy định cụ thể.
Trong pháp luật chủ nô và phong kiến, các văn bản pháp luật còn chưa
hoàn chỉnh và kỹ thuật xây dựng chưa cao. Nhiều đạo luật chỉ là sự ghi chép
lại một cách có hệ thống các án lệ và các tập quán được thừa nhận. Pháp luật
tư sản đã có nhiều hình thức văn bản phong phú và được xây dựng với kỹ
thuật cao.
Pháp luật XHCN có hệ thống các văn bản thống nhất được xây dựng theo
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, tôn trọng tính tối cao của hiến pháp và
luật. Hệ thống các văn bản pháp luật XHCN ngày càng được xây dựng hoàn
chỉnh, đồng bộ với kỹ thuật cao phản ánh đúng bản chất của pháp luật XHCN.
Ở nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về nguyên tắc thì nhà nước
không thừa nhận tập quán pháp và tiền lệ pháp mà chỉ có một hình thức duy
nhất là văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, trong điều kiện mà các văn
bản quy phạm pháp luật còn chưa hoàn thiện, chưa điều chỉnh hết các quan hệ
xã hội. Và đứng trước yêu cầu cấp bách cần phải giải quyết ngay một số vụ
việc cần thiết thì nhà nước sử dụng tiền lệ pháp nhưng với cách làm mới.

Chẳng hạn, tổng kết quá trình giải quyết một số vụ việc cụ thể, điển hình để
đề ra đường lối hướng dẫn giải quyết các vụ việc tương tự trong khi hệ thống
pháp luật còn thiếu. Và khi hệ thống pháp luật được xây dựng đồng bộ, hoàn
chỉnh
thì hình thức này sẽ thu hẹp dần và tiến tới không còn tồn tại trong nhà
nước ta
.
15
Pháp luật đại
cương

CHƯƠNG 2
BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
I. Giới thiệu về Hiến pháp Việt Nam
1. Lược sử
Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa
phong kiến với chính thể quân chủ chuyên chế nên không có hiến pháp. Vào
những năm đầu thế kỷ XX, do ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng dân chủ tư
sản Pháp năm 1789, ảnh hưởng của cách mạng Trung Hoa năm 1911 và chính
sách duy tân và Minh Trị thiên hoàng đã áp dụng tại Nhật Bản, giới trí thức
Việt Nam đã xuất hiện tư tưởng lập hiến.
Có hai khuynh hướng chính trị chủ yếu trong thời gian này.
- Khuynh hướng thứ 1: Xây dựng nhà nước quân chủ lập hiến trong sự thừa
nhận quyền bảo hộ của chính phủ Pháp.
- Khuynh hướng thứ 2: Chủ trương giành độc lập, tự do cho dân tộc, sau đó
xây dựng hiến pháp của nhà nước độc lập.
Ngay sau khi nước Việt Nam DCCH ra đời, trong phiên họp đầu tiên của
Chính phủ, Hồ Chủ tịch đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ, một
trong những nhiệm vụ cấp bách đó là xây dựng hiến pháp. Ngày 9/11/1946
Quốc hội đã thông qua bản hiến pháp đầu tiên của nước ta.

Hiến pháp 1946 bao gồm lời nói đầu, 7 chương và 70 điều. Lời nói đầu
xác định nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ,
giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ.
Hiến pháp năm 1946 là bản hiến pháp đầu tiên của nước ta, là bản hiến
pháp dân chủ, tiến bộ không kém bất kì một bản hiến pháp nào trên thế giới.
Về kỹ thuật lập pháp, Hiến pháp năm 1946 là một bản hiến pháp cô đọng,
khúc chiết, mạch lạc và dễ hiểu với tất cả mọi người.
Ngay sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1946, thực dân Pháp lại
gây ra chiến tranh xâm lược nước ta một lần nữa. Nhân dân ta lại bước vào
cuộc kháng chiến trường kì và gian khổ. Với chiến thắng Điện Biên Phủ và
Hội nghị Giơnevơ, miền bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng nhưng đất
nước tạm thời bị chia cắt hai miền. Vì vậy, trong kỳ họp lần thứ 6, Quốc hội
nước Việt Nam DCCH khóa I đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1946.
Ngày 31/12/1959, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp sửa đổi. Hiến
pháp năm 1959 gồm có lời nói đầu và 112 điều, chia làm 10 chương. Là bản
hiến pháp được xây dựng theo mô hình hiến pháp XHCN. Nó là bản hiến pháp
XHCN đầu tiên của nước ta.
16
Pháp luật đại
cương

Thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975 đã mở ra
một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc ta. Đất nước hoàn toàn độc lập, tự do
là điều kiện thuận lợi để thống nhất hai miền, đưa cả nước quá độ lên CNXH.
Sau một thời gian thảo luận, Quốc hội khóa VI tại kì họp thứ 7 (18/12/1980)
đã nhất trí thông qua Hiến pháp 1980. Hiến pháp năm 1980 bao gồm lời nói
đầu, 147 điều chia làm 12 chương.
Ngay trong lời nói đầu của hiến pháp khẳng định truyền thống tốt đẹp của
dân tộc ta, ghi nhận những thắng lợi vĩ đại mà nhân dân ta đã giành được
trong cuộc Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và

cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ xâm lược và bè lũ tay sai. Xác định
những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong điều kiện mới và nêu lên
những vấn đề cơ bản mà Hiến pháp 1980 đề cập. Hiến pháp năm 1980 là Hiến
pháp của thời kì quá độ lên CNXH trong phạm vi cả nước. Tuy có nhiều
nhược điểm nhưng Hiến pháp năm 1980 là một cái mốc quan trong trong lịch
sử lập hiến của nước ta.
Sau một thời gian phát huy hiệu lực, nhiều quy định của Hiến pháp năm
1980 tỏ ra không phù hợp. Tình hình thực tiễn của đất nước đòi hỏi phải có
một bản hiến pháp mới, phù hợp hơn để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, xây
dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã mở ra thời kì đổi mới ở nước
ta. Đảng đã chủ trương nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện những sai lầm của
Đảng, của Nhà nước, mở rộng dân chủ XHCN, phát huy tư duy độc lập, sáng
tạo của các tầng lớp nhân dân lao động, trên cơ sở đó có những nhận thức
đúng đắn về CNXH và vạch ra những chủ trương, chính sách mới nhằm xây
dựng một xã hội dân giàu nước mạnh, công bằng và văn minh.
Ngày 15 tháng 4 năm 1992 Quốc hội đã thông qua Hiến pháp. Việc soạn
thảo và ban hành Hiến pháp năm 1992 là một quá trình thảo luận dân chủ và
chắt lọc một cách nghiêm túc những ý kiến đóng góp của mọi tầng lớp nhân
dân về tất cả các vấn đề từ quan điểm chung đến các vấn đề cụ thể. Đây là bản
hiến pháp của Việt Nam trong quá trình đổi mới, là sản phẩm trí tuệ của toàn
dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của đồng bào cả nước.
2. Các nội dung cơ bản của Hiến pháp năm 1992
Hiến pháp năm 1992 là văn bản pháp luật hiện hành có giá trị pháp lý cao
nhất thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng vào cuộc sống. Hiến pháp
năm 1992 đã được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam Khoá VIII, kỳ
họp thứ 11, thông qua ngày 15 tháng 4 năm 1992 và đã được sửa đổi bổ sung
theo Nghị quyết của Quốc hội số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001.
Hiến pháp năm 1992 gồm 12 chương, 147 điều.
Từ Chương I đến Chương III quy định: Về chế độ chính trị; chế độ văn

hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ;
17
Pháp luật đại
cương

Chương IV : Bảo vệ Tổ quốc XHCN;
Chương V: Về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân;
Chương VI đến Chương X quy định: Về bộ máy nhà nước;
Chương XI: Quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, thủ đô, ngày quốc khánh
Chương XII: Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp.
II.1. Chế độ chính trị
Chế độ chính trị là tổng thể các quy định về những vấn đề có tính chất
nguyên tắc chung làm nền tảng cho các chương sau của Hiến pháp.
Đó là những quy định về:
- Bản chất Nhà nước;
- Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với mọi hoạt động của
Nhà nước và xã hội;
- Những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Về bản chất nhà nước, Hiến pháp 1992 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội mang tính
quy luật khách quan. (Điều 4).
Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng
nhân dân (HĐND) các cấp - là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện
vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và
các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các

tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức thành viên được xác định là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân.
2.2. Chế độ kinh tế
Chế độ kinh tế là một hệ thống quan hệ kinh tế được xây dựng trên một cơ
sở vật chất - kỹ thuật nhất định thể hiện tính chất và hình thức sở hữu đối với
tư liệu sản xuất, các nguyên tắc sản xuất, phân phối và tiêu dùng sản phẩm xã
hội và tổ chức nền kinh tế.
- Hiến pháp 1992 ghi nhận sự tồn tại và bảo hộ các hình thức sở hữu: Sở
hữu toàn dân (sở hữu nhà nước), sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở
hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng.
- Trên cơ sở các hình thức sở hữu cơ bản, Nhà nước thực hiện nhất quán
chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với cơ cấu kinh
tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng.
18
Pháp luật đại
cương

Các thành phần kinh tế gồm: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá
thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất -
kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị
trường thế giới. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tổ chức, cá nhân thuộc các
thành phần kinh tế được sản xuất, kinh doanh trong những ngành nghề mà
pháp luật không cấm; cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh
theo pháp luật.
2.3 Chính sách văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ.
- Về văn hoá: “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; kế thừa và phát huy những giá trị văn hoá các

dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân”.
Nhà nước tạo điều kiện để công dân phát triển toàn diện, giáo dục ý thức
công dân, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, giữ gìn thuần phong,
mỹ tục xây dựng gia đình có văn hoá, hạnh phúc, có tinh thần yêu nước, yêu
chế độ XHCN, có tinh thần quốc tế chân chính, hữu nghị và hợp tác với các
dân tộc trên thế giới. Văn hoá, văn học, nghệ thuật, thông tin, báo chí, phát
thanh, truyền hình, điện ảnh, xuất bản…được Nhà nước đầu tư phát triển.
- Chính sách giáo dục: Điều 35 Hiến pháp quy định: “Phát triển giáo dục
là quốc sách hàng đầu. Nhà nước và xã hội phát triển giáo dục nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Mục tiêu của giáo dục là
nhằm hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công
dân; đào tạo những người lao động có nghề, năng động và sáng tạo, có niềm
tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu
nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích các nguồn đầu tư
khác và thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương
trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ
thống văn bằng; phát triển cân đối hệ thống giáo dục gồm giáo dục mầm non,
giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học.
Thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở; phát triển các hình thức trường
quốc lập, dân lập và các hình thức giáo dục khác.
- Chính sách khoa học và công nghệ. Hiến pháp 1992 quy định: “Phát
triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Khoa học và công nghệ
giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách khoa học, công nghệ quốc gia;
xây dựng nền khoa học công nghệ tiên tiến…”(Điều 37). Nhà nước đầu tư và
khuyến khích tài trợ cho khoa học bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, ưu tiên
19
Pháp luật đại

cương

khoa học, công nghệ mũi nhọn; chăm lo đào tạo và sử dụng hợp lý đội ngũ
cán bộ khoa học, kỹ thuật nhất là những người có trình độ cao, công nhân lành
nghề và nghệ nhân; tạo điều kiện để các nhà khoa học sáng tạo và cống hiến;
gắn nghiên cứu khoa học với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, kết hợp chặt
chẽ giữa nghiên cứu khoa học, đào tạo với sản xuất, kinh doanh (Điều 38).
2.4. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Ở Việt Nam, “Các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá
và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định
trong Hiến pháp và luật” (Điều 50).
Nguyên tắc cơ bản khi xác định quyền và nghĩa vụ của công dân là: “Mọi
công dân đều bình đẳng trước pháp luật”, bình đẳng về hưởng quyền và thực
hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội, quyền và nghĩa vụ của công
dân không tách rời nhau.
- Các quyền về chính trị:
Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo
luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà
nước, biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu dân ý.
Công dân đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và 21 tuổi trở lên đều có
quyền ứng cử vào Quốc hội, HĐND theo quy định của pháp luật mà không
phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ
văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú.
- Các quyền về kinh tế, văn hoá, xã hội.
Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật, có
quyền thành lập doanh nghiệp, có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải
để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong
doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác.
Mọi công dân đều có quyền lao động, quyền được học tập, quyền được
nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ

thuật…quyền được bảo vệ sức khoẻ, quyền bình đẳng nam nữ, quyền được nhà
nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, hôn nhân, gia đình…
- Các quyền về tự do dân chủ và tự do cá nhân.
Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, lập hội,
biểu tình theo quy định của pháp luật, tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng, quyền
bất khả xâm phạm về thân thể, chổ ở, được pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức
khoẻ, danh dự và nhân phẩm, quyền bí mật thư tín…quyền tự do đi lại và cư trú.
- Các nghĩa vụ của công dân
Công dân nước Cộng hòa XHCN Việt Nam phải trung thành với Tổ quốc;
có nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý là bảo vệ Tổ quốc, phải làm nghĩa
vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân; có nghĩa vụ tôn trọng
và bảo vệ tài sản của Nhà nước và lợi ích công cộng; có nghĩa vụ tuân theo
20
Pháp luật đại
cương

Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã
hội, giữ gìn bí mật quốc gia, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng; có
nghĩa vụ đóng thuế và lao động công ích theo quy định của pháp luật.
II. Bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Khái niệm, đặc điểm
Bộ máy Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là hệ thống cơ quan từ
Trung ương đến địa phương, được tổ chức và hoạt động theo những nguyên
tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức
năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
Bộ máy Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam có những đặc điểm cơ bản:
1. Việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước dựa trên những nguyên
tắc chung, thống nhất mà nguyên tắc cơ bản là tất cả quyền lực thuộc về nhân
dân. Nhân dân có quyền quyết định mọi công việc của Nhà nước, giải quyết
mọi công việc có quan hệ đến vận mệnh quốc gia, đời sống chính trị, kinh tế,

văn hóa, tư tưởng của đất nước và dân tộc. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà
nước thông qua hệ thống cơ quan nhà nước do nhân dân trực tiếp bầu ra
(Quốc hội và HĐND).
2. Các cơ quan trong bộ máy nhà nước đều mang tính quyền lực nhà nước,
đều có quyền nhân danh nhà nước để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo
quy định của pháp luật.
3. Đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước là những người hết
lòng phục vụ nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân.
2. Những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng
hoà XHCN Việt Nam.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là những tư tưởng
chỉ đạo làm cơ sở cho việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ
máy nhà nước. Các nguyên tắc cơ bản là:
2.1. Nguyên tắc “quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp”
Bộ máy nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền. Quyền lực
nhà nước bao gồm quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ba lĩnh vực quyền
lực đó là một khối thống nhất được nhân dân trao cho Quốc hội là cơ quan đại
biểu cao nhất, do nhân dân trực tiếp bầu ra.
Tuy tổ chức theo nguyên tắc tập quyền nhưng bộ máy nhà nước ta có sự
phân công và phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lực nhà
nước. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp đồng thời cũng có
thẩm quyền trong lĩnh vực hành pháp và tư pháp. Chính phủ là cơ quan hành
21
Pháp luật đại
cương

pháp nhưng cũng có vai trò quan trọng trong lập pháp và tư pháp. Tòa án nhân
dân và Viện kiểm sát nhân dân là những cơ quan tư pháp nhưng cũng có

những thẩm quyền nhất định trong lĩnh vực lập pháp và hành pháp. Tất cả đều
hoạt động dưới sự giám sát của Quốc hội.
2.2. Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối
với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
Sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm cho bộ máy hoạt động theo một đường lối
chính trị đúng đắn, thể hiện bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững bản chất tốt đẹp của một nhà
nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Hiến pháp 1992 khẳng định:
“Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam,
đaị biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của cả dân tộc…là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội”.
2.3. Nguyên tắc bảo đảm sự tham gia của nhân dân vào hoạt động quản lý
của nhà nước
Đây là nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước, nhằm phát huy trí tuệ của nhân dân vào hoạt động quản lý nhà nước.
Điều 53 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà
nước và xã hội…”
Hình thức nhân dân tham gia quản lý nhà nước cũng đa dạng như bầu
những người đại diện vào các cơ quan nhà nước hay trực tiếp thảo luận, góp ý
kiến cho các dự án luật, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, các cán
bộ, công chức nhà nước….
2.4. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có sự kết hợp chỉ đạo,
điều hành tập trung, thống nhất của Trung ương và các cơ quan nhà nước cấp
trên với tính chủ động, sáng tạo của địa phương và cơ quan nhà nước cấp
dưới. Kết hợp hoạt động của tập thể với trách nhiệm cá nhân.
2.5. Nguyên tắc pháp chế XHCN
Nguyên tắc này đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ
máy nhà nước phải tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. Mọi cán bộ,
công chức nhà nước phải tôn trọng pháp luật khi thi hành công vụ. Mọi hành

vi vi phạm pháp luật đều phải xử lý nghiêm minh.
Điều 12 Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN”. Các cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải
nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng chống tội
22
Pháp luật đại
cương

phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của
nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều phải
xử lý theo pháp luật.
3. Các cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam.
Cơ quan nhà nước là các bộ phận hợp thành của bộ máy nhà nước. Mỗi cơ
quan nhà nước có một vị trí pháp lý xác định trong bộ máy nhà nước, có
nhiệm vụ, quyền hạn được Hiến pháp và pháp luật quy định, có quy chế tổ
chức và hoạt động riêng.
Theo Hiến pháp 1992, cơ quan nhà nước ta bao gồm:
1. Quốc hội
2. Chủ tịch nước
3. Chính phủ
4. Hội đồng nhân dân
5. Uỷ ban nhân dân
6. Tòa án nhân dân
7. Viện kiểm sát nhân dân
3.1. Quốc hội
3.1.1. Vị trí, tính chất và chức năng
Trong bộ máy nhà nước ta, Quốc hội chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Theo
Hiến pháp năm 1992 tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhưng

nhân dân không thể trực tiếp, thường xuyên sử dụng quyền lực nhà nước cho
nên phải bầu ra các cơ quan đại biểu để thay mặt mình sử dụng quyền lực nhà
nước. Vì vậy, các cơ quan này được gọi là cơ quan quyền lực nhà nước. Ở
nước ta, các cơ quan này bao gồm Quốc hội và HĐND các cấp.
Hiến pháp năm 1992 đã nêu rõ vị trí và tính chất của Quốc hội là “cơ quan
đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Quốc hội có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước
và của nhân dân như thông qua Hiến pháp, các đạo luật, quyết định những
chính cách cơ bản về đối nội và đối ngoại, mục tiêu phát triển kinh tế, văn
hoá, xã hội, tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước; bầu, miễn nhiệm những
chức vụ cao cấp nhất của bộ máy nhà nước; giám sát tối cao hoạt động của
các cơ quan nhà nước; Quốc hội biểu hiện tập trung ý chí và quyền lực của
nhân dân trong phạm vi toàn quốc.
Quốc hội nước ta thực sự đại diện cho ý chí, lợi ích của nhân dân lao động
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là một tổ chức chính
quyền thể hiện rất rõ tính chất đại diện và tính chất quần chúng. Các đại biểu
Quốc hội là những công nhân, nông dân, trí thức và những người lao động ưu
23
Pháp luật đại
cương

tú thuộc mọi dân tộc trong cả nước được nhân dân tín nhiệm bầu ra và chịu
trách nhiệm trước quần chúng nhân dân, họ có mối liên hệ chặt chẽ với quần
chúng, nắm rõ tâm tư nguyện vọng của quần chúng. Do đó, quyết định mọi
vấn đề được sát và hợp với quần chúng đồng thời có điều kiện thuận lợi để
vận động quần chúng thi hành tốt các quy định của nhà nước.
Với vị trí, tính chất như vậy, Quốc hội mang chủ quyền Nhà nước và chủ
quyền nhân dân. Mọi quyền lực nhà nước tập trung thống nhất vào Quốc hội.
Mọi công việc quan trọng của đất nước và của nhân dân có ý nghĩa toàn quốc

đều do Quốc hội quyết định.
Với tinh thần nói trên, Điều 83 Hiến pháp năm 1992 đã quy định chức
năng của Quốc hội bao gồm những phương diện lớn sau đây:
- Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
- Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại,
nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước…
- Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của
Nhà nước.
3.1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội
Các nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội được phân thành các lĩnh vực
sau đây:
- Trong lĩnh vực lập hiến và lập pháp
Quyền này xuất phát từ vị trí, tính chất của Quốc hội là cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất. Vì vậy, chỉ có Quốc hội mới có quyền định ra các quy
phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ
bản nhất. Các quy phạm do các cơ quan nhà nước khác ban hành không được
trái với quy định của Hiến pháp.
Ở nước ta, quyền lập hiến và lập pháp đều thuộc về Quốc hội. Quốc hội có
quyền làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, Quốc hội có quyền làm luật và
sửa đổi luật. Và quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội được giao cho nhiều
cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và những người có chức trách trong bộ máy
nhà nước (Chủ tịch nước, UBTVQH, Chính phủ, Tòa án NDTC…).
- Trong lĩnh vực quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước
Là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội có quyền quyết định
những mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội; những vấn đề quốc kế dân sinh, đối
nội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh của đất nước, những vấn đề hệ trọng đối
với vận mệnh quốc gia như vấn đề chiến tranh, hoà bình, các chính sách dân
tộc, tôn giáo…
- Trong lĩnh vực tổ chức nhà nước
24

Pháp luật đại
cương

Quốc hội giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong xây dựng, củng cố và phát
triển bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Quốc hội lựa chọn và quyết định cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động của
bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương, từ các cơ quan quyền lực nhà
nước đến các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan xét xử và cơ quan kiểm sát.
Ngoài việc quy định chung về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà
nước, Quốc hội còn bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm những viên chức cao cấp
nhất của bộ máy nhà nước; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng chính phủ về
việc bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các
thành viên khác của Chính phủ; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh
sách thành viên Hội đồng quốc phòng an ninh…
Bên cạnh đó, Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ các bộ và cơ cơ quan
ngang bộ của Chính phủ, thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành
chính các tỉnh, thành phố thuộc trung ương.
Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, UBTVQH, Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của
Quốc hội.
- Trong lĩnh vực giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của nhà nước.
Hoạt động giám sát là một trong những hoạt động quan trọng của Quốc
hội, nhằm đảm bảo cho những quy định của hiến pháp và pháp luật được thi
hành triệt để và thống nhất.
Hoạt động giám sát của Quốc hội thông qua việc xem xét báo cáo hoạt
động của Chủ tịch nước, UBTVQH, Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC thông
qua Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban Quốc hội, đại biểu Quốc hội, đặc biệt là
hoạt động chất vấn tại các kì họp.
3.1.3. Cơ cấu tổ chức của Quốc hội
Các cơ quan của Quốc hội gồm có:

- Uỷ ban thường vụ Quốc hội
- Hội đồng dân tộc
- Các Uỷ ban của Quốc hội
a, Uỷ ban thường vụ Quốc hội
Là cơ quan thường trực của Quốc hội. Thành phần của UBTVQH gồm có:
- Chủ tịch Quốc hội
- Các phó chủ tịch Quốc hội
- Các uỷ viên
Số thành viên của UBTVQH do Quốc hội quyết định. Thành viên của
UBTVQH không thể đồng thời là thành viên của Chính phủ. Thẩm quyền của
UBTVQH bao gồm:
25

×