Tải bản đầy đủ (.ppt) (38 trang)

QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA TRIỀU NGUYỄN VỚI CÁC NƯỚC PHƯƠNG TÂY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 38 trang )

Quan hệ đối ngoại của triều Nguyễn
với các nước phương Tây trước khi
thực dân Pháp xâm lược Đại Nam
Quan hệ đối ngoại của triều Nguyễn
với các nước phương Tây trước khi
thực dân Pháp xâm lược Đại Nam
NỘI DUNG:

I. Vấn đề ngoại giao giữa các nước phương
Tây thời vua Gia Long (1802 – 1820)

II. Quan hệ của triều Nguyễn với các nước
phương Tây dưới thời vua Minh Mạng (1820 –
1840)

III. Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và các
nước phương Tây thời kỳ Thiệu Trị ( 1841 -
1847 ) và Tự Đức ( 1847 - 1858 )

IV. Quan hệ ngoại giao giữa triều Nguyễn với
một số nước châu Á
I. Vấn đề ngoại giao giữa các nước
phương Tây thời vua Gia Long (1802 –
1820)
1. Bối cảnh quốc tế, khu vực và đường lối ngoại
giao của Gia Long đối với các nước phương Tây
- Năm 1802, sau khi đánh bại triều Tây Sơn, làm
chủ toàn bộ lãnh thổ Đàng Trong và Đàng Ngoài
cũ, Nguyễn Ánh lên ngôi vua niên hiệu là Gia
Long, lập ra nhà Nguyễn. Vua Gia Long lên
ngôi trong bối cảnh mà thế giới và trong nước có


nhiều biến động phải đối mặt với nhiều vấn đề
cấp bách mà lịch sử đặt ra.
Bên cạnh đó,
lúc bấy giờ,
vấn đề tôn
giáo cũng là
một bài toán
cho triều
Nguyễn bởi
sự xâm nhập
của đạo
Thiên Chúa
2. Quan hệ của triều Nguyễn với các nước
phương Tây dưới thời vua Gia Long
(1802 – 1820)
2.1 Quan hệ nhà Nguyễn với nước Pháp

Trong thời kỳ này, nước Pháp đang bước vào
cuộc cách mạng công nghiệp, kinh tế tư bản
Pháp lúc bấy giờ đã xếp hàng thứ nhì thế giới
sau nước Anh do đó nhu cầu về nguyên liệu,
nhân công, thị trường rất lớn.

Nhìn chung, dưới triều vua Gia Long, quan hệ
thương mại Việt – Pháp còn chưa bị gây khó
khăn. Việc buôn bán giữa hai nước diễn ra khá
thuận lợi. Vua Gia Long tạo điều kiện cho
thương nhân, ưu tiên cho họ nhưng không cho
họ đặc quyền nào. Mọi đề nghị ký kết các hiệp
ước thương mại từ Pháp đều bị vua Gia Long

từ chối.
2.2. Quan hệ nhà Nguyễn với nước Anh:
Khi vua Gia Long lên ngôi (1802), người Anh
bắt đầu đặt mối quan hệ thông thương với Việt
Nam. Năm 1803, J.W. Roberts đến Việt Nam
để đặt quan hệ thông thương với triều đình
Huế nhưng đã bị vua Gia Long từ chối.

Về sau, do nhu cầu mua vũ khí, người Anh vẫn
đem hàng hoá đến bán nhưng vua Gia Long
vẫn giữ thái độ kỳ thị. Nhìn chung, dưới thời
vua Gia Long, nhà vua có thái độ thiện chí với
các thương đoàn người Pháp nhưng lại có
thành kiến với người Anh. Nhà vua cho họ là
bọn Man Di, lòng dạ khó lường, phải ngăn
ngừa từ xa do vậy việc buôn bán với người
Anh bị hạn chế.
2.3 Quan hệ nhà Nguyễn với Hoa Kỳ

Năm 1802, một công ty tàu biển lớn của Hoa
Kỳ đã phái một chiếc tàu tên là Fame đến Việt
Nam tìm kiếm nguồn hàng mới là đường và cà
phê. Ngày 21/5/1803 tàu cập cảng Đà Nẵng và
đã được vua Gia Long cấp phép buôn bán.

Nhìn chung, tất cả các tàu Mĩ đến Việt
Nam thời kỳ này đều nhắm vào mục
đích tìm kiếm thị trường và thiết lập
quan hệ giao thương với Việt Nam. Có
thể nói, thời vua Gia Long, quan hệ Việt

Nam – Hoa Kỳ chưa phát triển.
Nhìn chung, tất cả các tàu Mĩ đến Việt Nam thời
kỳ này đều nhắm vào mục đích "m kiếm thị
trường và thiết lập quan hệ giao thương với Việt
Nam. Có thể nói, thời vua Gia Long, quan hệ Việt
Nam – Hoa Kỳ chưa phát triển.
Chân Lạp thời xưa
3. Vấn đề đạo Thiên Chúa trong quan
hệ của triều Nguyễn với các nước
phương Tây thời Gia Long
(1802 – 1820)

Đây là một vấn đề gây ra sự trở ngại trong quan
hệ giữa nhà nước phong kiến Việt Nam với các
nước phương Tây, đặc biệt là với nước Pháp.

Nhìn chung, trong suốt thời kỳ của mình, Gia
Long chủ trương ôn hoà. Ông không thể chống
đạo một cách công khai, cũng không thể “cải
đạo”.

Vua Gia Long thể hiện một đối sách ngoại giao
nhu hoà, uyển chuyển qua vấn đề tôn giáo.
II. Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với
các nước phương Tây thời Minh Mạng
(1820 – 1840).
1. Tình hình quốc tế, khu vực và đường lối ngoại
giao của Minh Mạng với các nước phương Tây

Thời bấy giờ, tình hình trong nước và quốc tế

tiếp tục có những chuyển biến phức tạp khiến
Minh Mạng có những thay đổi trong chính
sách ngoại giao của mình. Ngoài ra, vấn đề tôn
giáo cũng là nhân tố tác động đến chính sách
ngoại giao của vua Minh Mạng.

Trong khoảng thời gian từ 1825 cho đến 1831,
sự hiện diện của các nước tư bản phương Tây
ở châu Á ngày càng gia tăng là một lời cảnh
báo cho vua Minh Mạng về sự an nguy của đất
nước. Ông tiếp tục củng cố triều đại và đất
nước trên nền tảng của ý thức hệ Nho giáo để
chống đỡ các tư tưởng mới lạ của phương Tây,
chủ yếu là đạo Thiên Chúa.
Chân dung vua
Minh Mạng

Trước sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư
bản phương Tây, sự tiến bộ của khoa học kỹ
thuật, cũng như tình hình các quốc gia phong
kiến lần lượt rơi vào tay giặc, vua Minh Mạng
đã có những nhận thức mới như phòng vệ
những nơi hiểm yếu trên bờ biển.
2. Quan hệ của triều Nguyễn với các nước
phương Tây dưới thời vua Minh Mạng
(1820 – 1840):
a. Về quan hệ nước ta với Pháp:
- Trong những năm đầu lên ngôi, đường lối
chính trị của Minh Mạng so với Gia Long
không có thay đổi lớn.

- Đi theo đường lối đối ngoại của vua Gia Long
đã hoạch định, Minh Mạng khi lên ngôi vẫn
đối xử nhã nhặn, hoà hoãn với Pháp.
b. Quan hệ nhà Nguyễn với Hoa Kỳ

Vào cuối năm 1832, phái đoàn Hoa Kỳ đầu tiên
đã đến Việt Nam xin đặt quan hệ thông
thương. Vua Minh Mạng từ chối nhưng vẫn
cho phép phái đoàn Mĩ được buôn bán ở đây
nhưng phải tuân theo luật pháp của quốc gia
áp dụng cho người nước ngoài

c. Quan hệ nhà Nguyễn với nước Anh:
-
Đối với người Anh, vua Minh Mạng thể hiện
đường lối ngoại giao hoàn toàn bị động trước
tình thế và tránh xa người Anh giống như
người Pháp.
3. Chính sách cấm đạo của triều Nguyễn dưới
thời Minh Mạng (1820 – 1840):

Chính sách “bài đạo” dưới triều vua Minh
Mạng là một nhân tố tạo nên sự cản trở và khó
khăn lớn trong quan hệ Việt Nam với các nước
phương Tây, chủ yếu là Pháp trong thời kỳ
này.

Triều đình nhà Nguyễn bấy giờ thiếu sáng suốt
khi chưa phân biệt lòng yêu nước và đức tin
của tôn giáo để có những chủ trương, đường

lối phù hợp.
4. Đánh giá đường lối đối ngoại thời vua Minh
Mạng:

Trong 20 năm trị vì vua Minh Mạng đã thực
hiện một đường lối ngoại giao rõ ràng có định
hướng, có điều chỉnh cho phù hợp với hoàn
cảnh lịch sử mới. Dưới thời vua Minh Mạng,
Việt Nam trở thành một quốc gia có uy tín và
thể hiện được sự tự cường trong khu vực.

Minh Mạng có lúc được coi là “Minh quân”
của Việt Nam bởi những công lao đối với lịch
sử dân tộc Việt Nam nói chung và văn hoá Việt
Nam nói riêng. Nhưng ông cũng bị coi là một
“bạo chúa” của triều Nguyễn bởi những chính
sách cấm đạo ngặt nghèo.
III. Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và các nước
phương Tây thời kỳ Thiệu Trị ( 1841 - 1847 ) và Tự
Đức ( 1847 - 1858 ):
1. Bối cảnh thế giới, khu vực và đường lối ngoại
giao của Thiệu Trị, Tự Đức với các nước phương
Tây :

Ở khu vực, thì triều đình Huế gặp sự chống đối
mạnh mẽ từ phía Chân Lạp khi các quan lại Việt
Nam áp dụng chế độ cai trị hà khắc lên đất nước
này, do vậy uy tín của Việt Nam đối với Chân
Lạp sụp đổ, Thiệu Trị phải cho rút quân về.


Chủ nghĩa tư bản phương Tây tăng cường bành
trướng của chúng đối với các quốc gia châu Á và
đã đạt được mục đích của mình.
Chân dung vua Thiệu Trị và Tự Đức (từ trái qua)

Tình hình trong nước rối ren, bên ngoài thì
thực dân Pháp đang lâm le xâm lược. Tất cả đã
làm cho triều đinh Huế và cá nhân Tự Đức
đứng trước những thử thách vô cùng nghiệt
ngã, chính sách đối ngoại của ông, chủ yếu với
các nước phương Tây đến đây cũng bị chi phối
nghiêm trọng và là vấn đề nổi cộm trong chính
sách ngoại triều Nguyễn dưới thời Tự Đức.

×