Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM VỚI CÁC NƯỚC ASEAN GIAI ĐOẠN 1986 – 1996

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.79 KB, 14 trang )


MỤC LỤC
I.
MỤC LỤC.................................................................................................................1
I.TẠI SAO LỰA CHỌN GIAI ĐOẠN NÀY?
Bắt đầu từ giữa thập kỷ 80, những biến động của tình hình thế giới phát triển
nhanh hơn, dồn dập hơn đã dẫn tới những đảo lộn lớn trong bàn cờ chính trị thế
giới vào cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90.
II.ĐÔI NÉT VỀ ASEAN 1986 – 1991 (Association of Southeast Asian Nations )
ASEAN được thành lập vào ngày 8/8/1967 với 5 sáng lập viên là Thái Lan, In
đô nê xia, Malaixia , Xingapo , Philipin. Brunay sau khi tuyên bố độc lập đã gia
nhập ASEAN năm 1984. Việt Nam tham gia tổ chức khu vực này năm 1995. Tổ
chức ASEAN thúc đẩy hợp tác giữa các nước thành viên trên các lĩnh vực kinh
tế ,xã hội và an ninh. Hiện nay ASEAN đang thúc đẩy các chương trình hợp tác
phát triển như Khu vực tự do thương mại AFTA, khu vực đầu tư AIA , chương
trình phát triển lưu vực sông Mê Kông…..Ngoài ra ASEAN có quan hệ hợp tác ,
đối thoại với rất nhiều nước ngoài khu vực thông qua cơ chế đàm phán như Diễn
đàn khu vực ASEAN (ARF) , ASEAN + 3….Hầu hết các nước ASEAN đều tham
gia tích cực vào hoạt động hợp tác khu vực .
III.CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM VỚI CÁC NƯỚC ASEAN
GIAI ĐOẠN 1986 – 1996
1
1. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI GIAI ĐOẠN 1986-1991
1.1. Tình hình thế giới và khu vực
1.1.1. Tình hình thế giới:
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão đang
cuốn hút tất cả các nước, ảnh hưởng lớn tới nhịp độ phát triển lịch sử và cuộc
sống các dân tộc. Sự phát triển vượt bậc của cách mạng khoa học - công nghệ
đã tác động đến chiến lược phát triển của tất cả các quốc gia, làm thay đổi tư
duy của tất cả các nước, đặc biệt là về chính sách đối ngoại và kinh tế. Cách
mạng khoa học - kỹ thuật làm cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh, thúc đẩy


quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa kinh tế, buộc các nước phải đề ra chiến
lược phát triển cho phù hợp, các nước lớn phải điều chỉnh chính sách: giảm
chạy đua vũ trang, giảm chi phí quốc phòng, giảm cam kết về quân sự ở bên
ngoài, dàn xếp về vấn đề khu vực và đẩy mạnh cải thiện quan hệ với nhau tập
trung củng cố nội bộ, phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật nhằm tăng cường
sức mạnh quốc gia. Điều đó làm gia tăng xu thế đối thoại và hòa dịu.
- Hoa Kỳ:
+ Kinh tế: Hoa Kỳ phải áp dụng nhiều biện pháp kinh tế mạnh mẽ
vì bị giảm cả thế và lực, rơi vào khủng hoảng toàn diện cả về chính trị, kinh tế,
xã hội.
+ An ninh và đối ngoại: một mặt tăng cường quan hệ với Trung
Quốc, ngăn không để Trung Quốc ngả về phía Liên Xô, đồng thời cản trở
Trung Quốc giải phóng Đài Loan và tác động vào nội bộ Trung Quốc. Mặt
khác, đẩy mạnh hòa hoãn với Liên Xô, tiến hành đàm phán với Liên Xô về các
vấn đề vũ khí chiến lược.
- Liên Xô:
+ Kinh tế: kiệt quệ, tụt hậu về kinh tế so với các nước tư bản chủ
nghĩa.
+ Đối ngoại: thúc đẩy cải thiện với Trung Quốc nhằm phân hóa
Trung Quốc - Hoa Kỳ, mặt khác Liên Xô muốn kiềm chế Trung Quốc. Có
những thay đổi lớn trong chính sách đối ngoại từ năm 1989.
- Trung Quốc:
2
+ Kinh tế: Trên đà thắng lợi của cải cách nông nghiệp, mở rộng sang
phát triển công nghiệp.
+ Đối ngoại: Tranh thủ điều kiện hòa bình bên ngoài và ổn định
bên trong để tập trung xây dựng kinh tế.
Thông tin quốc tế bùng nổ và chỉ trong nháy mắt tỏa khắp thế giới.
Quá trình quốc tế hóa sản xuất vật chất và đời sống xã hội cùng với sự giao lưu
quốc tế đang được thúc đẩy hết sức mạnh mẽ…Đấy là cơ hội thuận lợi cho

những nước biết cách xử thế và làm ăn để phát triển, nhưng đấy cũng là sự
thách thức gay gắt đối với những nước chậm phát triển, có nguy cơ bị tụt hậu
rất xa so với sự phát triển chung của thế giới.
1.1.2. Tình hình khu vực:
Tình hình Châu Á - Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói
riêng cũng có nhiều chuyển động. Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực phát
triển năng động và đang tiếp tục phát triển với tốc độ tăng trương cao như Hàn
Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông, Singapo, Thái Lan, Malayxia. Đông Nam Á
vẫn thu hút sự chú ý của các nước lớn như Hoa Kỳ, Liên Xô, Trung Quốc, Nhật
và các nước Tây Âu. Tình hình khu vực này cũng từng bước chuyển động theo
hướng giảm đối đầu, đi vào đối thoại giải quyết vấn đề Campuchia, từ đó xây
dựng khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác để cùng phát triển.
1.2. Tình hình trong nước:
Việt Nam đang trong tình trạng trầm trọng nhất của khủng hoảng kinh tế -
xã hội: sản xuất đình đốn, lạm phát tăng vọt và lên tới 774.7% năm 1986, đất
nước bị bao vây cấm vận về kinh tế, cô lập về chính trị, đời sống nhân dân hết
sức khó khăn, lòng tin giảm sút. Đầu năm 1988 đã xảy ra nạn đói ở nhiều vùng
và lạm phát vẫn còn ở mức cao (393.8%). Trong khi đó, lực lượng thù địch vẫn
tìm mọi cách làm “Việt Nam chảy máu” và đe dọa cho “bài học thứ hai”, cho
nên ta vẫn phải duy trì lực lượng vũ trang lớn và tư thế sẵn sàng chiến đấu cao.
Nếu cứ để tình trạng này kéo dài, nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước xung
3
quanh là không tránh khỏi. Do đó, “đổi mới” là con đường duy nhất giúp chúng
ta thoát khỏi khó khăn để tiến lên.
1.3. Đổi mới tư duy của ta:
Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới, khu vực và thực trạng đất nước, Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam (tháng 12/1986)
đã khẳng định: “Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một lòng, quyết
tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ Quốc

Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Đảng và nhân dân ta tiếp tục đặt lên hàng đầu
nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội với việc xác định “nhiệm vụ bao trùm, mục
tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi
mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc
đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”. Cùng
với đổi mới tư duy về kinh tế, Đảng và Nhà nước ta cũng từng bước đổi mới tư
duy về đối ngoại. Trước hết là việc đổi mới công tác nghiên cứu, phân tích, đánh
giá những chuyển biến của tình hình thế giới và quan hệ quốc tế. Thứ hai là đổi
mới tư duy về các cặp quan hệ như giữa lợi ích quốc gia và nghĩa vụ quốc tế,
giữa an ninh và phát triện, giữa hợp tác và đấu tranh. Thứ ba là là đổi mới tư duy
về tập hợp lực lượng, từ đó xác định chủ trương, đường lối chính sách đối ngoại
thích hợp.
1.4. Chính sách đối ngoại:
Bước ngoặt trong hoạt động mở rộng quan hệ đối ngoại của Việt Nam được
bắt đầu từ năm 1986. Nghị quyết 32 của Bộ Chính trị khóa V (tháng 7/1986) chủ
trương chuyển từ đối đầu sang đối thoại, đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình.
Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta nhấn mạnh : “Ra sức kết
hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phân đấu giữ hòa bình ở
Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế
giới, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo
4
vệ Tổ Quốc…”. Hòa bình ở khu vực và hòa bình thế giới có quan hệ gắn kết với
nhau, thế giới có hòa bình thì các khu vực mới có hòa bình và ngược lại. Do vậy
giữ vững hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới luôn là phương châm trong chiến
lược, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Với đường lối đổi
mới toàn diện, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986) của Đảng
đề ra chính sách đối ngoại phù hợp với yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước. Đại
hội khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại
hoà bình và hữu nghị”. Về quan hệ với các nước trong khu vực Đông Nam Á,
Đảng ta chỉ rõ: “Chúng ta mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực

thương lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng
tồn tại hoà bình, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định và hợp
tác”. Đại hội VI nhấn mạnh nhiệm vụ hàng đầu là "... tranh thủ điều kiện quốc tế
thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc"... và "cần
hoà bình để phát triển kinh tế". Nghị quyết của Đại hội VI và các nghị quyết của
Trung ương đã chuyển hướng chính sách ngoại giao, chủ trương đẩy mạnh và
mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính
trị - xã hội khác nhau, thi hành chính sách hữu nghị, hợp tác, tồn tại hoà bình để
phát triển, phù hợp với lợi ích của nhân dân ta và xu thế phát triển chung của thế
giới). Đây là những quyết nghị hết sức đúng đắn, sáng tạo của Đảng về chính
sách đối ngoại trong giai đoạn cách mạng mới. Nó trở thành tư tưởng chủ đạo,
sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam, đồng thời là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình từng bước gia nhập
ASEAN của Việt Nam.
Trên cơ sở đổi mới tư duy đối ngoại đó, Đảng và Nhà nước ta đã xác định
mục tiêu và những chính sách đối ngoại lớn. Mục tiêu của ngoại giao Việt Nam
lúc này là hòa bình và phát triển. Trên cơ sở mục tiêu đã đề ra, Đảng và Nhà
nước ta quyết tâm giải quyết vấn đề Campuchia, từ đó giải quyết vấn đề bình
thường hóa quan hệ với Trung Quốc, ASEAN và Hoa Kỳ.
5

×