Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (813.75 KB, 118 trang )


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT



NGUYN MINH THANH



VAI TRò CủA TOà áN TRONG THI HàNH áN HìNH Sự
ĐáP ứNG YÊU CầU CảI CáCH TƯ PHáP

Chuyờn ngnh: Lý lun v lch s Nh nc v phỏp lut
Mó s: 60 38 01 01


LUN VN THC S LUT HC



Cỏn b hng dn khoa hc: PGS. TS. NGUYN HONG ANH



H NI - 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong


bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

TÁC GIẢ LUẬN VĂN



Nguyễn Minh Thanh

MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CẢI CÁCH TƯ PHÁP VÀ VIỆC NÂNG CAO VAI TRÒ
CỦA TOÀ ÁN TRONG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ 8
1.1. Thi hành án hình sự 8
1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa, vai trò của Thi hành án hình sự 8
1.1.2. Những đổi mới của Luật Thi hành án hình sự theo tinh thần Cải
cách tư pháp 10
1.2. Toà án trong hoạt động thi hành án hình sự 13
1.2.1. Tổ chức Toà án làm công tác Thi hành án hình sự 13

1.2.2. Vai trò của Toà án trong thi hành án hình sự 14
1.3. Cải cách tư pháp và yêu cầu nâng cao vai trò của toà án
trong thi hành án hình sự 51
1.3.1. Cải cách tư pháp 51
1.3.2. Yêu cầu nâng cao vai trò của Toà án trong Thi hành án hình sự
theo tinh thần cải cách tư pháp 57
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
VÀ VAI TRÒ CỦA TOÀ ÁN TRONG THI HÀNH ÁN HÌNH
SỰ TẠI THANH HOÁ TỪ 2009 – 2013 65
2.1. Thực trạng Thi hành án hình sự trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá 65
2.1.1. Tình hình chung và các kết quả đạt được trong công tác Thi hành
án hình sự 65

2.1.2. Những hạn chế trong Thi hành án hình sự 70
2.1.3. Nguyên nhân làm giảm hiệu quả của hoạt động Thi hành án hình sự 71
2.2. Thực trạng về vai trò của Toà án trong Thi hành án hình sự
tại Thanh Hoá 73
2.2.1. Những hạn chế liên quan đến vai trò của Toà án trong Thi hành
án hình sự 73
2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế về vai trò của Toà án trong Thi
hành án hình sự 85
Chương 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CỦA TOÀ ÁN
TRONG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ THEO TINH THẦN CẢI
CÁCH TƯ PHÁP 91
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật 91
3.1.1 Nhất thể hóa các quy định về thẩm quyền của Toà án trong Thi
hành án hình sự 91
3.1.2. Sửa đổi bổ sung các quy định về áp dụng biện pháp ngăn chặn 93
3.2. Giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án 96
3.3. Giải pháp đổi mới hệ thống tổ chức Cơ quan Thi hành án hình sự 99

3.4. Giải pháp về tăng cường cơ sở vật chất, kinh phí 103
3.5. Giải pháp tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về Thi
hành án hình sự tại cộng đồng 104
KẾT LUẬN 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 107






DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
TAND: Tòa án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
THAHS: Thi hành án hình sự
TTHS: Tố tụng hình sự
UBND: Ủy ban nhân dân
VKS: Viện kiểm sát
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN: Xã hội chủ nghĩa



1
MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 đề ra mục tiêu: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch,
vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ
nhân dân, phụng sự Tổ Quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà
trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao” [5].
Phương hướng cải cách tư pháp đó là:
Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp
với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo
đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo
vệ quyền con người; Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định
bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và
điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó, xác định Tòa án là trung
tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm; xã hội hóa mạnh mẽ hoạt
động bổ trợ tư pháp. Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư
pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao
quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn
về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn, nghiệp vụ và kinh
nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ, tiến tới thực hiện
chế độ thi tuyển đối với một số chức danh [5].
Thi hành án hình sự là hoạt động thực thi quyền lực Nhà nước ở giai
đoạn đặc biệt, nội dung là thi hành chính xác, kịp thời phán quyết của các bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án; Đánh giá và xem xét tính

2
khoan hồng của nhà nước đối với người phạm tội bằng việc thực hiện các
hoạt động như: xét giảm án, tạm hoãn, tạm đình chỉ thi hành án, miễn chấp

hành hình phạt, xoá án tích… cho người chấp hành án để người chấp hành án
có cơ hội khắc phục, sửa chữa lỗi lầm và tái hoà nhập cộng đồng, làm công
dân có ích cho xã hội ….
Hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử chỉ có ý nghĩa trên thực tế khi
các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành
một cách nghiêm túc, kịp thời và có hiệu quả. Do vậy, việc thi hành bản án
hình sự chiếm vị trí rất quan trọng trong tố tụng hình sự, đảm bảo nguyên tắc:
Bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
phải được thi hành và phải được các cơ quan, tổ chức và mọi công
dân tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan trong phạm vi
trách nhiệm của mình phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết
định của Tòa án và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc
chấp hành đó. Trong phạm vi trách nhiệm của mình, các cơ quan
nhà nước, chính quyền xã, phường, thị trấn tổ chức và công dân
phải phối hợp với cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành bản án,
quyết định của Tòa án trong việc thi hành án [40].
Các cơ quan nhà nước, chính quyền xã, phường, thị trấn, có trách
nhiệm tạo điều kiện và thực hiện yêu cầu của cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ
thi hành bản án, quyết định của Tòa án trong việc thi hành. Mặt khác, thi hành
các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án chính là thể hiện
sự công bằng trong xã hội dựa trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng quyền con
người - yếu tố nhân đạo của pháp luật Nhà nước, đảm bảo bất kì ai phạm tội
cũng đều bị phát hiện, xử lí nghiêm minh và phải chịu hình phạt tương xứng
với hành vi mà họ đã gây ra cho xã hội.

3
Việc tổ chức thi hành bản án của Toà án có tác dụng nhằm giáo dục, cải
tạo đối với người bị kết án, giúp họ nhận ra lầm lỗi và hướng thiện, góp phần
giáo dục ý thức tuân theo pháp luật. Toà án thông qua hoạt động thi hành án
hình sự để động viên người phạm tội tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh

phòng ngừa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác. Việc chấp hành nghiêm
chỉnh bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án còn có ý nghĩa
quan trọng của việc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự.
Thanh Hóa là một trong những tỉnh lớn của Việt Nam, về cả diện tích
và dân số (gần 3,5 triệu dân), với 27 đơn vị hành chính cấp huyện trong đó có
01 thành phố, 02 thị xã, gồm các huyện miền núi, đồng bằng, trung du và
vùng ven biển. Số lượng án hình sự thụ lý giải quyết hàng nghìn vụ mỗi năm,
số trại giam thuộc Bộ công an đóng trên địa bàn nhiều nhất cả nước (04 trại
với khoảng hơn 10.000 người bị kết án). Do vậy, tình hình tội phạm cũng có
nhiều phức tạp, mỗi năm có hàng nghìn bản án, quyết định hình sự được đưa
ra thi hành. Tuy nhiên, việc thi hành án hình sự tại địa bàn tỉnh Thanh Hóa
đang phát sinh nhiều vấn đề, vẫn còn một số bản án chưa được đưa vào thi
hành một cách nghiêm túc, điều này ảnh hưởng đến uy tín của các cơ quan tư
pháp và các cơ quan liên quan trong việc đưa bản án hình sự vào thi hành trên
thực tế. Việc nghiên cứu đề tài: “Vai trò của tòa án trong thi hành án hình
sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” là hết sức cần thiết trong tình hình
hiện nay. Vì lí do đó, tác giả viết luận văn thạc sĩ đề tài này mong muốn xác
định vị trí, tầm quan trọng của lĩnh vực này trong các cơ quan Tòa án nhằm
có cái nhìn đúng đắn về vai trò của tòa án trong THAHS và hoàn thiện cho
phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam, góp phần nhỏ bé của
mình vào cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự đất
nước nói chung và Thanh Hóa nói riêng.

4
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
- Phân tích, khái quát các vấn đề pháp luật cũng như thực tiễn (thông
qua tình hình tỉnh Thanh Hóa) về vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự
đặt trong bối cảnh của tiến trình cải cách tư pháp.
- Đề xuất, kiến nghị một số giải pháp góp phần nâng cao vai trò của

Tòa án trong Thi hành án hình sự ở Việt Nam hiện nay
2.2. Mục tiêu cụ thể
Hệ thống những vấn đề lý luận về cải cách tư pháp và những vấn đề
liên quan tới Tòa án và vai trò Tòa án trong lĩnh vực Thi hành án hình sự.
Phân tích, đánh giá quy định pháp luật và thực trạng về vai trò của Toà
án trong công tác thi hành án hình sự từ trước và sau khi Luật Thi hành án
hình sự ra đời, đặc biệt chú trọng nêu ra các hạn chế vướng mắc và giải pháp
kiến nghị bảo đảm vai trò của Toà án trong THAHS nhằm đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp trong tình hình hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của Toà án trong Thi hành án hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách
tư pháp là đề tài có tính lý luận và thực tiễn cao, có phạm vi nghiên cứu khá
rộng cả về không gian, thời gian và đối tượng nghiên cứu. Cải cách tư pháp là
lĩnh vực rộng lớn liên quan đến nhiều vấn đề, nhiều cơ quan và mang tính bao
quát lớn và Thi hành án hình sự chỉ là một vấn đề trong hệ thống nhiều vấn đề
của cải cách tư pháp
Trong khuôn khổ của đề tài luận văn này, tác giả luận văn chỉ xác định
phạm vi của đề tài tập trung vào nghiên cứu về lĩnh vực Thi hành án hình sự
tại Toà án và phân tích những yếu tố liên quan, có ảnh hưởng và tác động đến
hoạt động thi hành án hình sự của Toà án. Qua đó giúp chúng ta thấy được vai
trò của Toà án và Toà án được nhìn nhận như thế nào trong hệ thống tư pháp

5
hình sự hiện nay. Luận văn sẽ tìm hiểu những vấn đề chủ yếu của cải cách tư
pháp đặt ra cho ngành Toà án, nhất là vấn đề liên quan đến công tác thi hành
án hình sự.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Sau khi nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị được
ban hành; Luật Thi hành án hình sự ra đời và đi vào cuộc sống, nhiều địa
phương đã khẩn trương thành lập ban chỉ đạo cải cách tư pháp. Thực tế đã có

rất nhiều bài viết, nhiều nghiên cứu về lĩnh vực thi hành án hình sự và bàn về
cải cách tư pháp, nhưng phân tích ở góc độ “vai trò của Toà án trong thi hành
án hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp qua thực tiễn tại Thanh Hoá chưa
được bàn đến. Một số bài viết tiêu biểu như: “Độc lập tư pháp trong nhà nước
pháp quyền XHCN, bảo đảm cho Toà án thực hiện đúng đắn quyền tư pháp” -
Bài viết của Trương Hoà Bình đăng trên báo nhân dân điện tử; “Tính độc lập
của Toà án”, luận án tiến sĩ Luật học - Đại học Luật Hà Nội của Tô Văn Hà
năm 2007; “Hoạt động thi hành án hình sự hiện nay - Thực trạng và giải pháp
hoàn thiện” của Trương Hòa Bình, đăng trên Tạp chí khoa học pháp lý tháng
6/2002 tại Hà Nội; “Cơ quan tư pháp trong bộ máy nhà nước”, tham luận của
Phạm Duy Nghĩa, tại Hội thảo về sự độc lập trong hoạt động xét xử của Toà
án tại việt Nam năm 2008 tại Hà Nội…
Đề tài khái quát tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam, phân tích
những nội dung cơ bản của hoạt động thi hành án tại toà án nhân dân, xem xét
những điểm mới trong Luật thi hành án, phân tích tính ưu việt trong hệ thống
pháp luật Việt Nam và điểm chưa phù hợp về công tác thi hành án hiện nay,
góp phần giúp chúng ta nhìn nhận và đánh giá đúng vị trí công tác này trong
hệ thống Toà án.
5. Phạm vi nghiên cứu
Vấn đề cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay đang được Đảng và nhà

6
nước ta đặc biệt quan tâm và đã đề ra chiến lược cụ thể đến năm 2020, theo
đó, có nhiều vấn đề đặt ra trong quá trình cải cách. Đây là một đề tài rộng,
bao gồm nhiều vấn đề có liên quan tới cả hệ thống Tòa án cũng như các cơ
quan liên quan như: Cơ quan điều tra, cơ quan truy tố Lĩnh vực thi hành án
cũng rất rộng lớn từ hệ thống tổ chức bộ máy cán bộ làm công tác thi hành án
trong các cơ quan Tòa án đến việc đưa bản án hình sự vào thi hành; quá trình
chấp hành bản án hình sự của những người bị kết án tại các cơ sở thi hành án;
trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức thi hành án; trách nhiệm của cơ quan, tổ

chức đối với người chấp hành xong bản án v.v…
Do vậy, Tác giả đề tài chỉ đi vào nghiên cứu nó ở góc độ công tác thi hành
án hình sự mà phạm vi nghiên cứu của đề tài này chỉ tập trung ở việc làm thế nào
để hoàn thiện công tác thi hành án trong hệ thống hoạt động tư pháp tại Tòa án
nhân dân (không phân tích, đề cập đến lĩnh vực thi hành án hình sự tại các Toà án
Quân sự mặc dù Toà án quân sự vẫn thuộc hệ thống toà án Việt Nam) từ việc bản
án, quyết định hình sự đã có hiệu lực được đưa ra thi hành. Những vấn đề khác có
liên quan đến thi hành án hình sự không được giải quyết trong luận văn này.
Từ đặc điểm tình hình dân cư cũng như tính chất phức tạp đã và đang
nảy sinh trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa nên tác giả đề tài chọn Thanh Hóa là địa
điểm để nghiên cứu luận văn. Qua đó đánh giá nhìn nhận chung về thực tiễn
công tác thi hành án hình sự trên phạm vi toàn quốc. Thời gian và số liệu
nghiên cứu trong luận văn lấy từ các báo cáo của ngành Toà án Thanh Hoá
tính từ 01/01/2009 đến 30/12/2013.
6. Nội dung nghiên cứu
Với phạm vi nghiên cứu nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những
nhiệm vụ chính như sau:
- Làm rõ một số nội dung cơ bản về thi hành án hình sự và các nguyên
tắc của hoạt động thi hành án hình sự.
- Phân tích thực trạng tình hình Thi hành bản án hình sự tại tỉnh Thanh

7
Hóa từ năm 2009 đến 2013, qua đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu
quả thi hành bản án hình sự của Toà án theo tinh thần của cải cách tư pháp.
7. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục đích đã đặt ra, trên cơ sở phép duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
như: phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử và phương
pháp tổng hợp, đánh giá những vấn đề lý luận và thực tiễn về thi hành bản án
hình sự trong các công trình của một số nhà nghiên cứu khoa học.

Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào số liệu trong các báo cáo
của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, tổng kết công tác xét xử và công tác thi
hành án hình sự trong những năm (2009 - 2013), và thông tin trên mạng
Internet để phân tích, đánh giá, tổng hợp các vấn đề thực tiễn xung quanh việc
thi hành bản án hình sự trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cải cách tư pháp và việc nâng cao vai trò của Toà án trong
Thi hành án hình sự.
Chương 2: Thực trạng thi hành án hình sự và vai trò của Toà án trong
Thi hành án hình sự tại Thanh Hoá từ 2009 - 2013.
Chương 3: Giải pháp tăng cường vai trò của Toà án trong Thi hành án
hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp.






8
Chương 1
CẢI CÁCH TƯ PHÁP VÀ VIỆC NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA TOÀ ÁN
TRONG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ

1.1. Thi hành án hình sự
1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa, vai trò của Thi hành án hình sự
1.1.1.1. Khái niệm
Cho đến thời điểm hiện nay, vẫn chưa có một khái niệm rõ ràng về Thi
hành án hình sự, các quan điểm về thi hành án mới chỉ nêu ra ở dạng quan niệm,

đại ý khái quát. Do vậy, có thể nêu ra quan niệm về thi hành án hình sự đó là:
“Thi hành án hình sự là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước nhằm thực
hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn” [28].
Thi hành án hình sự là biện pháp cưỡng chế Nhà nước đối với người có
hành vi vi phạm pháp luật đã bị bản án của Toà án tuyên có hiệu lực pháp luật.
Theo tôi, Thi hành án hình sự là việc cơ quan, người có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật buộc người chấp hành án phải tuân thủ, chấp
hành hình phạt, biện pháp mà Toà án đã tuyên án đối với họ tại phiên tòa, phù
hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm do họ gây ra.
1.1.1.2. Ý nghĩa, vai trò của Thi hành án hình sự.
Tòa án nhân danh nhà nước tuyên án với bị cáo tại phiên tòa, áp dụng
mức và loại hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm
do họ gây ra, bản án, quyết định của Tòa án được thi hành chính là lúc công lý
được thực hiện trong cuộc sống. Thi hành án hình sự là giai đoạn thể hiện rõ
nét chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta, nhiệm vụ của giai đoạn này
nhằm mục đích cảm hóa tư tưởng, giáo dục nhân cách, văn hóa, kỹ năng sống,
ký năng lao động… giúp người phải thi hành án trở thành một công dân tốt
cho xã hội, mặt khác góp phần răn đe, ngăn ngừa chung [2].

9
Sau chuỗi hoạt động tiền tố tụng đến hoạt động tố tụng (xét xử) tại
phiên toà, Thi hành án hình sự là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước
nhằm thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn.
Với ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án,
thi hành án có mối quan hệ hữu cơ với giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử. Nếu mục đích của thi hành án không đạt được thì toàn bộ hoạt động của
cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trước đó cũng trở nên vô nghĩa. Nếu như một
bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật không được thi hành hoặc
thi hành không nghiêm thì trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà
nước bị xem thường. Chính vì vậy, việc bảo đảm hiệu lực của các bản án,

quyết định của Tòa án là một yêu cầu khách quan trong hoạt động quản lý
Nhà nước [2].
Trật tự xã hội chỉ có thể được duy trì, quyền tư pháp của Nhà nước chỉ
được thực hiện trọn vẹn, công lý được bảo vệ và thực thi, công bằng xã hội
được đảm bảo và khi phán quyết của toà phải được thực thi nhanh chóng, đầy
đủ, chính xác trên thực tế. Do đó, việc thi hành án của bất kỳ Toà án nào phải
được coi là một phần của công tác xét xử và là công đoạn cuối của việc thực
thi quyền lực tư pháp, hiện thực hoá công lý.
Mặc dù hiện nay, Toà án được đặt ở vị trí trung tâm nhưng những quy
định hiện hành lại không quy định rõ cơ quan nào có thẩm quyền và chịu
trách nhiệm cuối cùng về hiệu quả của cả hệ thống tư pháp.
Chúng ta không thể phủ nhận những kết quả đã đạt được của thi hành
án hình sự trong những năm vừa qua, hàng vạn người bị kết án đã chấp hành
xong hình phạt, trở về với cuộc sống lương thiện. Trong quá trình chấp hành
án, họ được tổ chức cho học nghề tại các trại giam, trung tâm dạy nghề và sau
khi chấp hành án xong họ đã tự tìm cho mình một công việc ổn định, tái hoà
nhập công đồng, trở thành người có ích cho xã hội. Thi hành án hình sự có

10
những đóng góp quan trọng nhằm bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết
định của Tòa án, góp phần giữ vững trật tự kỷ cương và ổn định xã hội. Tuy
nhiên bên cạnh những mặt tích cực, hệ thống tổ chức và hoạt động thi hành án
cũng bộc lộ những mặt hạn chế nhất định.
Vì vậy, đổi mới tổ chức và hoạt động Thi hành án hình sự là yêu cầu
khách quan nhằm tạo lập một cơ chế hữu hiệu đảm bảo thực thi có hiệu quả
các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trong toàn xã hội,
thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân,
bảo đảm trật tự an toàn xã hội và môi trường pháp lý tin cậy trong mọi mặt
sinh hoạt của đời sống xã hội.
Thi hành án hình sự là một giai đoạn trong tố tụng hình sự và có thể coi

đó là giai đoạn cuối cùng của một vụ án hình sự. Quyết định hình phạt của
Toà án chính là sự đánh giá, sự lên án của Nhà nước đối với hành vi phạm tội
mà bị cáo đã thực hiện. Nếu chỉ dừng ở mức đánh giá, lên án mà không thực
hiện bằng các biện pháp mang tính cưỡng chế đặc trưng của quyền lực Nhà
nước thì tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa và tính chịu hình phạt hạn
chế, thậm chí là không có tác dụng. Chính vì vậy, pháp luật hình sự đã có
những quy định cụ thể về thi hành án hình sự, các ngành tư pháp trung ương
nói chung và Toà án nhân dân tối cao nói riêng cũng đã ban hành một số
Thông tư liên tịch, Nghị quyết để hướng dẫn một số quy định của Bộ luật
hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự về thi hành án hình sự nhằm đảm bảo việc thi
hành nghiêm túc các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật
hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay.
1.1.2. Những đổi mới của Luật Thi hành án hình sự theo tinh thần
Cải cách tư pháp
Qua tổng kết thực tiễn cho thấy một trong những nguyên nhân làm hạn
chế hiệu quả công tác thi hành các hình phạt, biện pháp tư pháp là do bộ máy

11
tổ chức THAHS chưa rõ ràng, thiếu sự quản lý tập trung, thống nhất vào một
đầu mối. Hệ thống văn bản dưới luật nhiều nhưng lan man, chồng chéo và
chưa đồng bộ. Mối quan hệ phối hợp trong lĩnh vực thi hành án hình sự giữa
các ngành, các cấp và giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc tổ
chức thực hiện chưa cụ thể và thiếu chặt chẽ. Từ yêu cầu hoàn thiện đó, việc
ban hành Luật Thi hành án hình sự là cần thiết, đáp ứng yêu cầu tất yếu,
khách quan và mang tính chuyên môn hoá.
Theo tinh thần cải cách tư pháp, việc ra đời Luật Thi hành án hình sự
là cần thiết để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ mới, nhằm thống nhất và tập
trung hệ thống văn bản pháp luật, mang tính đồng bộ và chuyên môn hoá.
Luật Thi hành án hình sự ra đời đáp ứng yêu cầu chung về cải cách tư pháp
đó là làm mới các quy định về thi hành án cho phù hợp với điều kiện, tình

hình đất nước đó là:
- Thể chế hoá các quy định về quyền lao động, học tập, nghỉ ngơi của
phạm nhân, quyền, nghĩa vụ và lợi ích chính đáng khác của người chấp hành
án vào luật.
- Thay đổi hình thức thi hành án tử hình (hình thức tiêm thuốc độc thay
cho hình thức xử bắn). Giải quyết cho thân nhân nhận tử thi, hài cốt của người
bị thi hành án tử hình khi họ có nguyện vọng và làm đơn có xác nhận của
UBND cấp xã nơi cư trú và được Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm đồng ý.
- Luật THAHS mới ra đời đã có quy định cơ quan tổ chức thi hành án
cụ thể, rõ ràng gồm: Cơ quan quản lý thi hành án hình sự và Cơ quan thi hành
án hình sự (Ở Bộ: có Trại giam thuộc Bộ Công an; Ở cấp tỉnh: Có cơ quan thi
hành án hình sự Công an cấp tỉnh; Cấp huyện: Có cơ quan thi hành án hình sự
Công an cấp huyện. Ngoài các cơ quan nêu trên Luật Thi hành án hình sự còn
quy định cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự gồm: Trại
giam (thuộc Bộ Công an), Trại tạm giam (thuộc Công an cấp tỉnh); UBND xã,
phường, thị trấn.

12
- Luật Thi hành án hình sự quy định cụ thể hơn về việc cho phạm nhân
được gặp vợ (hoặc chồng) tại phòng riêng (phòng hạnh phúc - đặc biệt phạm
nhân là nữ).
- Về xét giảm án: Việc xét đề nghị giảm thời hạn chấp hành hình phạt
tù bổ sung thêm thẩm quyền của cơ quan thi hành án hình sự cấp tỉnh (trước
kia thuộc trại giam công an tỉnh) (Điều 33 Luật thi hành án hình sự). Theo đó,
liên bộ gồm: Bộ công an, Bộ quốc phòng, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT-BCA-
BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/5/2013 Hướng dẫn thi hành các quy
định về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân.
- Luật thi hành án hình sự cho phép phạm nhân trong trường hợp cấp
bách thì được gửi điện tín, gọi điện thoại và chi phí do phạm nhân chi trả.

- Các quy định về thi hành án phạt tù được ban hành dưới dạng Luật,
thay thế cho dạng văn bản trước kia đều ban hành dưới hình thức là văn bản
dưới luật, văn bản hành chính (Pháp lệnh, Thông tư liên ngành, Nghị quyết,
Công văn, hướng dẫn…). Cụ thể như: Pháp lệnh thi hành án phạt tù, thông tư
liên tịch, các Công văn hướng dẫn thủ tục trích xuất và đưa phạm nhân vào
chấp hành án tại trại giam, công văn hướng dẫn việc hoãn thi hành án…
- Luật thi hành án hình sự quy định: Nhiệm vụ tổng kết công tác thi
hành án hình sự và thực hiện chế độ thống kê, báo cáo thuộc Cơ quan thi hành
án hình sự Công an tỉnh. Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện
cũng thực hiện chế độ thống kê, báo cáo theo quy định. Trước đây chưa có
quy định cụ thể, thống nhất về chế độ thống kê, báo cáo tình hình, kết quả thi
hành án hình sự.
Tinh thần cải cách tư pháp đã được cụ thể hoá vào Luật thi hành án
hình sự bằng việc thống nhất một cơ quan quản lý nhà nước về Thi hành án
hình sự đó là: Ở Trung ương thành lập Tổng cục thi hành án hình sự và hỗ

13
trợ tư pháp (Tổng cục VIII-Bộ Công an) và ở địa phương là thành lập Cơ
quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, Cơ quan thi hành án hình sự
Công an cấp huyện.
Tính nhân đạo trong cải cách tư pháp cũng được đưa vào Luật thi
hành án hình sự bằng việc người bị kết án được cụ thể hoá hơn một số quyền
dân chủ của mình mà trước kia họ không được thừa nhận như gọi điện tín
trực tiếp về gia đình, gần gũi vợ con tại “buồng hạnh phúc” khi họ có nhiều
cải tạo tiến bộ.
1.2. Toà án trong hoạt động thi hành án hình sự
1.2.1. Tổ chức Toà án làm công tác Thi hành án hình sự
Luật tổ chức Toà án nhân dân không nêu chức năng thi hành án hình sự
của Toà án nhưng đây là một chức năng lớn rất quan trọng, gắn liền với chức
năng xét xử trong hệ thống toà án địa phương.

Công tác thi hành án hình sự tại toà án rất nhiều lĩnh vực và đa dạng,
phức tạp, không kém chức năng xét xử, khâu cuối của chuỗi hoạt động tố tụng
công khai tại pháp đình. Tổ chức bộ máy cán bộ làm công tác thi hành án hình
sự ở mỗi địa phương, tuỳ vào số lượng án xét xử, số lượng phạm nhân của các
trại giam đóng trên địa bàn mà có số lượng cán bộ tương ứng.
Trong cơ cấu các Toà, phòng thuộc Toà án nhân dân cấp tỉnh, công tác
thi hành án hình sự được xem là một bộ phận với vai trò một bộ phận đặc biệt
thuộc Chánh án. Hoạt động chuyên môn trực tiếp thuộc Chánh án nhưng sinh
hoạt hành chính thuộc phòng giám đốc kiểm tra. Ở cấp huyện, việc theo dõi
và phụ trách công tác thi hành án hình sự do một Thư ký đảm nhận và cũng
thuộc Chánh án cấp huyện quản lý trực tiếp.
Đối với các tỉnh, thành phố lớn, số lượng công việc nhiều, có nhiều trại
giam (cả các trại giam của Bộ công an và trại giam thuộc công an tỉnh) đóng
trên địa bàn thì biên chế ngành Toà án cũng chỉ giới hạn tối đa từ 3 đến 4 cán

14
bộ làm công tác thi hành án hình sự. Riêng đối với các toà án cấp tỉnh mà số
lượng các vụ án hình sự ít, số phạm nhân đóng trên địa bàn tỉnh không nhiều
thì đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án hình sự không quá 02 người.
Ở hệ thống các Toà án nhân dân cấp huyện, cán bộ làm công tác Thi
hành án hình sự có nơi có, có nơi chưa có chuyên trách mà chủ yếu là thư ký,
kiêm nghiệm lĩnh vực công tác này bao gồm cả việc tham gia phiên toà xét
xử, theo dõi và ra quyết định thi hành án, tổ chức thực hiện quyết định thì
hành án cũng như các công tác liên quan đến hoạt động này.
1.2.2. Vai trò của Toà án trong thi hành án hình sự
Tại Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét
xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp” [45, Điều 102, Khoản 1]. Như vậy, ngay trong Hiến pháp 1992, sửa
đổi năm 2013 đã khẳng định ngoài chức năng xét xử thì Tòa án nhân dân còn
thực hiện quyền tư pháp là nhằm phân định quyền lực nhà nước theo hướng

Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Đây là cơ sở pháp lý để
khẳng định Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết những loại vụ việc liên
quan đến quyền con người, quyền của công dân, mà một trong những quyền
đó chính là những quyền con người trong lĩnh vực Thi hành án hình sự.
Thực tế hiện nay cho thấy vẫn có một số quan điểm khác nhau về
thẩm quyền của Toà án trong thi hành án hình sự. Có quan điểm cho rằng thi
hành án hình sự không phải là một hoạt động chủ yếu của Toà án mà đó chỉ
là những việc liên quan đến Toà án sau quá trình xét xử; có quan điểm cho
rằng thi hành án hình sự là việc chung của nhiều cơ quan tư pháp chứ không
phải của riêng Toà án; có quan điểm cho rằng thi hành án hình sự là một lĩnh
vực công tác chủ yếu của Toà án. Thực tế thì các văn bản quy phạm pháp
luật hiện nay cũng không phân định rõ rệt cơ quan tư pháp nào có chức năng
“cầm trịch” trong thi hành án. Do đó, mỗi quan điểm trên đều đưa ra những

15
lập luận riêng để bảo vệ quan điểm của mình. Xét về góc độ thực tiễn thì
hiện nay một bản án, quyết định về hình sự có thể do nhiều cơ quan thi hành,
nhất là trong trường hợp bản án, quyết định đó có nhiều bị cáo, có nhiều loại
hình phạt được áp dụng hoặc có nhiều quyết định về dân sự, về hình phạt bổ
sung (phạt tù giam, tù cho hưởng án treo, phạt cải tạo không giam giữ, phạt
tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề… trong cùng một vụ án có nhiều
bị án). Vì lẽ đó, trong phạm vi bài này, tác giả luận văn chỉ đề cập đến vấn
đề thẩm quyền của Tòa án trong công tác thi hành án mà không đi sâu về
việc phân tích xem các quan điểm nào về việc “chủ trì” thi hành án hình sự
là của cơ quan tư pháp nào.
Theo quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự thì Toà án
có thẩm quyền thực hiện các việc về thi hành án hình sự, đó là:
- Ra quyết định thi hành án hình sự hoặc quyết định uỷ thác thi hành án
hình sự.
- Ra quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành án phạt tù;

- Quyết định giảm thời gian chấp hành hình phạt tù hoặc miễn chấp
hành hình phạt tù;
- Quyết định việc giảm thời gian thử thách của án treo;
- Quyết định xoá án tích hoặc cấp giấy chứng nhận xoá án tích;
- Theo dõi việc đưa người bị phạt tù giam vào trại giam để thi hành án
hoặc theo dõi việc thi hành án của những người bị kết án mà Toà án đã giao
cho chính quyền địa phương nơi người bị kết án cư trú hoặc cơ quan tổ chức
nơi người bị kết án làm việc.
- Xem xét việc miễn, giảm thi hành án đối với khoản tiền phạt, án phí;
- Tổ chức việc thi hành hình phạt tử hình;
- Lập hồ sơ đặc xá (đối tượng đặc biệt), tham gia giúp Hội đồng đặc xá
trung ương thực hiện việc đặc xá.

16
Như vậy, từ khi bản án, quyết định hoặc những phần của bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành án cho đến khi bản án,
quyết định đó được thi hành xong đều là công việc của Toà án, tức là căn cứ
vào các quy định của pháp luật hình sự, Toà án phải thực hiện bao quát, đầy
đủ, nghiêm túc và chính xác nhằm đảm bảo các bản án, quyết định phải đưa ra
thi hành được thực hiện nghiêm chỉnh.
Thẩm quyền Thi hành án hình sự của Toà án được thể hiện cụ thể trong
các công đoạn của Thi hành án hình sự như sau:
a. Ra quyết định thi hành án hình sự
Sau khi bản án được tuyên và có hiệu lực pháp luật thì Toà án có nhiệm
vụ ra các quyết định thi hành án và chuyển giao quyết định cho các cơ quan
có thẩm quyền thi hành. Về nguyên tắc, mọi bản án, quyết định của Toà án đã
có hiệu lực pháp luật đều phải được thi hành nghiêm chỉnh và phải được các
cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu
quan trong phạm vi trách nhiệm của mình phải chấp hành nghiêm chỉnh bản
án, quyết định của Toà án và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc

chấp hành đó.
Về cơ bản, Toà án là cơ quan ra các loại quyết định thi hành án và đưa
ra thi hành, theo dõi việc thi hành trong thực tế. Toà án ra quyết định thi hành
án hình sự đối với những trường hợp bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu
lực pháp luật mà bản án, quyết định đó đã áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tù
chung thân, tử hình, hình phạt trục xuất, phạt tiền, cải tạo không giam giữ,
phạt tù nhưng cho hưởng án treo…
Trong thực tiễn công tác thi hành án hình sự hiện nay, việc đưa ra thi
hành án và tổ chức thi hành các bản án, quyết địnhcủa Toà án có lúc, có nơi
còn chưa kịp thời, chưa đáp ứng yêu cầu, tình hình cải cách tư pháp bởi lẽ:
Các bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm hoặc quyết định của Hội

17
đồng giám đốc thẩm, tái thẩm thường được gửi muộn, không đáp ứng được
quy định của pháp luật. Việc giao nhận bản án, quyết định thường rất chậm do
sau khi xét xử, việc đánh máy bản án, quyết định chậm, việc rà soát, xin chữ
ký trong bản án, quyết định cũng chậm và việc chuyển giao bản án, quyết
định (gửi thông qua đường Bưu điện và gửi thường)… những việc phải làm
sau khi xét xử mỗi khâu chậm một ít cũng khiến cho hầu hết Toà án cấp phúc
thẩm, giám đốc thẩm không đảm bảo thời hạn giao bản án, quyết định trong
thời hạn mười ngày đối với Toà án cấp phúc thẩm giám đốc thẩm cấp tỉnh,
giám đốc thẩm, tái thẩm ở TANDTC và 25 ngày đối với Toà án cấp phúc
thẩm của Toà án nhân dân tối cao.
Từ những sự chậm trễ nêu trên đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc ra
quyết định thi hành án hình sự của Toà án cấp sơ thẩm. Nếu đúng quy định
của pháp luật thì từ khi bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm tuyên án
hoặc ra quyết định thì chậm nhất là trong 17 ngày (10 ngày giao bản án, quyết
định và 7 ngày ra quyết định thi hành án) và đối với các Toà phúc thẩm Toà
án nhân dân tối cao là 32 ngày (25 ngày giao bản án, quyết định và 7 ngày ra
quyết định thi hành án); 17 ngày (10 ngày giao quyết định giám đốc thẩm, tái

thẩm và 7 ngày ra quyết định thi hành án) thì các bản án, quyết định phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm phải được đưa ra thi hành. Trong thực tiễn,
thời hạn trên không thực hiện được vì các lý do chậm trễ nên có thể Toà án
cấp sơ thẩm ra quyết định thi hành án không đúng với thời hạn nêu trên.
Trong trường hợp kéo dài thời hạn ra quyết định thi hành án, dù bất cứ lý do
nào thì đó cũng là lỗi của Toà án và người bị kết án sẽ phải chịu thiệt thòi về
“khoảng trống” mà Toà án đã tạo ra. Khi chưa có quyết định thi hành án thì
người bị kết án chưa được chuyển sang trại cải tạo, trại giam và chưa được
tham gia lao động, học tập để được tính thời hạn giảm án theo quy định.
+ Trong việc uỷ thác cho Toà án khác cùng cấp ra quyết định thi hành

18
án. Toà án khác cùng cấp là cùng cấp huyện, Toà án nhân dân cấp tỉnh. Hiện
nay tất cả các Toà án nhân dân cấp huyện, đều đã thực hiện thẩm quyền xét
xử theo khoản 1 Điều 170 BLTTHS.
Việc uỷ thác cho Toà án cùng cấp ra quyết định thi hành án hình sự chỉ
được thực hiện khi thuộc một trong các trường hợp sau:
Trường hợp thứ nhất: Sau khi Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án ra quyết
định thi hành án và đã gửi cho cơ quan Công an cùng cấp để thi hành, nhưng
cơ quan Công an cùng cấp thông báo bằng văn bản cho Toà án cùng cấp biết
là người bị kết án đã chuyển đi nơi khác và có địa chỉ cư trú cụ thể, rõ ràng
mà không phải là cố tình trốn tránh;
Trường hợp thứ hai: Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án có căn cứ về việc
người bị kết án đang cư trú trên địa bàn hành chính khác như: quá trình điều
tra của cơ quan công an bị án có các địa chỉ cư trú và thường trú khác nhau
hoặc tại phiên toà bị cáo khai địa chỉ cư trú hiện tại.
Như vậy ở trường hợp thứ nhất thì Toà án sẽ phải ra hai quyết định,
một là quyết định thi hành án và hai là quyết định uỷ thác thi hành án. Vấn đề
là khi Toà án ra quyết định uỷ thác thi hành án và quyết định này chỉ ban hành
sau khi Toà án đã ra quyết định thi hành án, đã gửi cho cơ quan Công an cùng

cấp và nhận được thông báo bằng văn bản của cơ quan Công an cùng cấp cho
Toà án biết là người bị kết án đã chuyển đi nơi khác và có địa chỉ cụ thể.
Trường hợp này sẽ phát sinh vấn đề là quyết định thi hành án của Toà án cấp
sơ thẩm đã ban hành nhưng không được thực hiện bởi Toà án sẽ phải ra quyết
định uỷ thác thi hành án và có thể hiểu là quyết định uỷ thác thi hành án đã
phủ định quyết định thi hành án trước đó, tức là quyết định thi hành án này
không còn hiệu lực thi hành. Như vậy, Toà án ra quyết định uỷ thác cần huỷ
bỏ quyết định thi hành án trước đó và thay thế bằng quyết định uỷ thác thi
hành án mới và gửi quyết định uỷ thác thi hành án cùng với hai bản sao bản

19
án, quyết định phạt tù đã có hiệu lực pháp luật cho toà án nhận uỷ thác theo
đúng mẫu số 07 (ban hành kèm theo Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP, ngày
02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi
hành một số quy định trong Phần thứ năm “Thi hành bản án và quyết định
của toà án” của Bộ luật Tố tụng hình sự).
Trường hợp thứ hai: Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án có căn cứ về việc
người bị kết án đang cư trú trên địa bàn hành chính khác. Vấn đề đặt ra là:
Căn cứ về việc người bị kết án đang cư trú trên địa bàn hành chính khác xuất
hiện vào thời điểm nào, trước hay sau khi Toà án ra quyết định thi hành án
hình sự để thực hiện việc uỷ thác. Về vấn đề này, điểm 2 mục I Nghị quyết
Hội đồng Thẩm phán số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng
Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao cũng không hướng dẫn cụ thể phải giải
quyết thế nào. Theo tôi, có thể giải quyết như sau:
- Nếu Toà án chưa ra quyết định thi hành án mà có căn cứ người bị kết
án đang cư trú trên địa bàn hành chính khác thì ra quyết định uỷ thác thi hành
án, gửi cho Toà án được uỷ thác các tài liệu kèm theo, trong đó có tài liệu mà
căn cứ vào tài liệu này, Toà án biết rõ người bị kết án đang cư trú trên địa bàn
của Toà án được uỷ thác thi hành án. Tài liệu này giúp cho Toà án được uỷ
thác thi hành án ra quyết định thi hành án và tạo điều kiện thuận lợi để cơ

quan Công an thi hành quyết định của Toà án.
- Nếu sau khi Toà án đã ra quyết định thi hành án mới biết là có căn cứ
người bị kết án đang cư trú trên địa bàn hành chính khác, có thể thông tin (căn
cứ) này không phải do cơ quan Công an cung cấp hoặc thông báo bằng văn
bản mà do từ các nguồn thông tin khác thì Toà án sơ thẩm vận dụng, thực
hiện việc uỷ thác thi hành án như hướng dẫn ở trường hợp thứ nhất (như việc
nhận được thông báo bằng văn bản của cơ quan Công an về việc người bị kết
án đã chuyển đi nơi khác và có địa chỉ cụ thể).

20
+ Về việc Toà án được uỷ thác
Trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày nhận được quyết định uỷ thác thi
hành án, Chánh án Toà án được uỷ thác phải ra quyết định thi hành án.
- Nếu cơ quan Công an thông báo là người bị kết án đã chuyển đi cư trú tại
địa bàn khác thì trả hồ sơ uỷ thác thi hành án cho Toà án đã uỷ thác và giải quyết:
+ Nếu Toà án được uỷ thác thi hành án biết địa chỉ của người bị kết án
thì thông báo cho Toà án đã uỷ thác để Toà án này tiếp tục thực hiện việc uỷ
thác cho Toà án nơi người bị kết án đang cư trú (có thể là Toà án thứ 3 nào đó);
+ Nếu Toà án được uỷ thác không xác định được địa chỉ mới của người
bị kết án thì cũng thông báo cho Toà án đã uỷ thác để Toà án này ra quyết
định thi hành án và yêu cầu cơ quan Công an ra quyết định truy nã.
+ Nếu Toà án được uỷ thác thi hành án thấy việc uỷ thác là không có
căn cứ, không đúng thì phải thông báo bằng văn bản, trả lại hồ sơ uỷ thác và
nêu rõ lý do để Toà án đã uỷ thác biết. Toà án đã uỷ thác nếu thấy việc từ chối
uỷ thác là có căn cứ thì Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm phải ra quyết định
hủy quyết định uỷ thác không có căn cứ. Việc ra quyết định thi hành án hay
tiếp tục ra quyết định uỷ thác cho Toà án khác tuỳ thuộc vào việc có căn cứ để
ra một trong hai quyết định này không.
Để đảm bảo theo dõi, quản lý tốt việc uỷ thác, nhận uỷ thác thi hành án,
tránh tình trạng Toà án đã uỷ thác thi hành án cho rằng sau khi đã gửi các tài

liệu về uỷ thác thi hành án là đã hoàn thành nhiệm vụ, không còn thẩm quyền,
không còn trách nhiệm và Toà án được uỷ thác có nhận được quyết định, tài
liệu kèm theo việc uỷ thác thi hành án không, có ra quyết định thi hành án
không, đồng thời tránh tình trạng Toà án được uỷ thác tuy nhận được là hồ sơ
uỷ thác thi hành án nhưng không thực hiện việc ra quyết định thi hành án.
Như vậy, có thể xảy ra (và trong thực tiễn đã xảy ra) trường hợp quyết định
thi hành án được ban hành nhưng không gửi hoặc đã nhận hồ sơ thi hành án

×