Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (735.92 KB, 95 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRẦN PHỤNG VƯƠNG






NÂNG CAO VỊ TRÍ, VAI TRÒ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT
NAM HIỆN NAY





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC










HÀ NỘI - 2012



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



TRẦN PHỤNG VƯƠNG




NÂNG CAO VỊ TRÍ, VAI TRÒ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT
NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Đăng Dung


HÀ NỘI - 2012


3
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU
1
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA TOÀ ÁN
TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

8
1.1. Nhà nước pháp quyền 8
1.1.1. Lịch sử các tư tưởng nhà nước pháp quyền 8

1.1.2. Tư tưởng của C. Mác, Ph. Ăng ghen và V.I. Lênin về Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
11
1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhà nước, nhà nước pháp quyền

12
1.1.4. Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa 15
1.2. Vị trí, vai trò của toà án trong nhà nước pháp quyền 18
1.2.1. Vài nét về vị trí, vai trò của toà án trong nhà nước chiếm
hữu nô lệ và nhà nước phong kiến- nhà nước trước khi có
nhà nước pháp quyền
18
1.2.2. Vị trí, vai trò của Toà án trong nhà nước pháp quyền 19
Chương 2:
THỰC TRẠNG VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA TOÀ ÁN NHÂN
DÂN Ở VIỆT NAM

23
2.1. Quá trình hình thành và phát triển ngành Toà án và vị trí vai
trò của Toà án nhân dân ở Việt Nam
23
2.1.1. Toà án nhân dân trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959

23

4
2.1.2. Toà án nhân dân trong giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980

29
2.1.3. Toà án nhân dân giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992 33

2.1.4. Toà án nhân dân giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2002 34
2.2. Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay 38
2.2.1. Vị trí, vai trò của Tòa án trong mối quan hệ với cơ quan nhà
nước khác
38
2.2.1.1.

Mối quan hệ với Quốc hội 39
2.2.1.2.

Mối quan hệ với Chủ tịch nước 40
2.2.1.3.

Mối quan hệ với Chính phủ 41
2.2.1.4.

Với các cơ quan Viện kiểm sát, các cơ quan Công an,
Thanh tra, Tư pháp, cơ quan hữu quan khác
42
2.2.2. Vị trí, vai trò của Tòa án thể hiện thông qua chức năng,
nhiệm vụ của Tòa án
45
2.2.3. Vị trí, vai trò của Tòa án thể hiện thông qua thẩm quyền của
Tòa án
48
2.2.3.1.

Thẩm quyền chung của Tòa án 48
2.2.3.2.


Thẩm quyền theo hệ thống tổ chức ngành Tòa án nhân dân 54
2.3. Những bất cập ảnh hưởng đến vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân

59
2.3.1. Về cơ cấu tổ chức của Tòa án hiện nay 59
2.3.2. Về thẩm quyền của Tòa án 61
2.3.3. Về hoạt động của Tòa án 62
2.3.4. Những bất cập khác liên quan đến thẩm phán 64
2.3.4.1.

Về nhiệm kỳ của thẩm phán 66
2.3.4.2.

Chế độ đãi ngộ đối với thẩm phán 67
Chương 3:
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO VỊ TRÍ, VAI
TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM
70

5
HIỆN NAY

3.1. Quan điểm nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân 70
3.2. Giải pháp nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân đáp ứng
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay

74
3.2.1. Đổi mới hệ thống Tòa án nhân dân 74
3.2.2. Tăng thẩm quyền cho Tòa án nhân dân 76

3.2.3. Đẩy mạnh công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tòa án đáp ứng
về số lượng và chất lượng nhằm đảo bảo cho sự độc lập của
Tòa án theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
78

KẾT LUẬN
83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
86

6



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Số liệu thống kê án sơ thẩm, phúc thẩm của tòa án từ năm
2006-2011
62


7
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ở Việt Nam, ngay từ khi Cách mạng tháng Tám thành công, thành lập
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức rõ tầm
quan trọng của ngành tòa án.
Cùng với sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày 13-9-1945
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 33c thiết lập Tòa án quân sự
tiền thân của ngành tòa án để xét xử tất cả những người nào phạm vào một
việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Trải qua các giai đoạn cách mạng, các quy định về ngành Tòa án nhân
dân đã nhiều lần được cải cách, sửa đổi, đã dần hoàn thiện và nâng cao vị trí,
vai trò của ngành tòa án, góp phần củng cố, từng bước xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tại Điều 2 Hiến pháp 1992 (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số
51/2001/QH10 của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25/12/2001)
quy định:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp [38].
Thực hiện quyền tư pháp mà chủ yếu là quyền xét xử là một trong những
chức năng rất quan trọng của Nhà nước Việt Nam và được giao cho Tòa án nhân
dân. Do vậy, Tòa án nhân dân có vị trí rất quan trọng trong bộ máy nhà nước.

8
Tòa án có vị trí trung tâm trong các cơ quan tư pháp. Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị "Về Chiến lược Cải cách tư
pháp đến năm 2020" đã khẳng định: "Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế
định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều

kiện, phương tiện làm việc; trong đó xác định Tòa án có vị trí trung tâm và
xét xử là hoạt động trọng tâm" [16, tr. 3].
Vị trí và vai trò của Tòa án biểu hiện qua chức năng, nhiệm vụ và
thẩm quyền của Tòa án được quy định trong Hiến pháp 1992, Luật Tổ chức
Tòa án nhân dân, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật tố
tụng hành chính và các văn bản pháp luật khác.
Theo quy định của những văn bản pháp luật nêu trên thì Tòa án là cơ
quan xét xử duy nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chức
năng xét xử của Tòa án là chức năng cơ bản và quan trọng nhất, nó bao trùm
và xuyên suốt quá trình hoạt động của Tòa án. Điều 127 Hiến pháp 1992 quy
định: "Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án
Quân sự và các Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [38]; Điều 1 Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân quy định: "Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia
đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy
định của pháp luật" [40].
Chỉ có Tòa án mới có quyền nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố một người có tội hay vô tội.
Theo quy định tại Điều 1 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, trong phạm
vi chức năng của mình, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ
tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và
nhân phẩm của công dân.
Tòa án là một công cụ hữu hiệu của Đảng và Nhà nước để thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ nhân dân và bảo đảm kỷ cương xã hội. Mọi

9
phán quyết của Tòa án có tính cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước. Theo quy
định tại Điều 136 Hiến pháp 1992 quy định: "Các bản án và quyết định của Tòa
án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức

kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng;
những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành" [38].
Tòa án là nơi thực hiện chức năng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật có hiệu quả nhất. Bằng việc xét xử công khai, ngoài tác dụng răn đe,
giáo dục, phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung, còn có tác dụng tuyên
truyền, giới thiệu, giải thích cho quần chúng nhân dân về pháp luật để mọi
người hiểu biết thêm về pháp luật và hướng họ tới "Sống và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật". Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục
công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn
trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.
Tòa án có một vai trò, vị trí quan trọng trong Nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tòa án nhân dân có vai trò quan trọng trong việc
giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho
sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tòa án nhân dân là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý,
quyền con người, đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế
xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm pháp
luật khác.
Tuy nhiên trong thực tiễn xét xử của ngành Tòa án nhân dân vẫn còn
những mặt tồn tại không mang tính pháp quyền, làm ảnh hưởng đến vị trí, vai
trò của ngành tòa án như: chất lượng xét xử chưa đáp ứng yêu cầu, tình trạng
các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị hủy tuy ít nhưng không
giảm mà có xu hướng tăng, vẫn còn án tồn đọng, đặc biệt ở khâu xem xét đơn
yêu cầu theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm.

10
Mặt khác, vị thế của ngành Tòa án trong bộ máy nhà nước chưa được
xứng tầm. Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp đã
xác định vai trò trung tâm của ngành Tòa án trong hệ thống các cơ quan tư

pháp nhưng ở nhiều nơi, nhiều địa phương vai trò của ngành Tòa án vẫn chưa
được chú trọng đúng mức. Tình trạng lãnh đạo địa phương coi Tòa án như
một sở, một phòng vẫn còn khá phổ biến, dù mức độ biểu hiện khác nhau.
Nhiều bản án có hiệu lực pháp luật không được thực thi, trong đó không ít
nguyên nhân là việc cản trở đến từ các cơ quan nhà nước khác.
Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, chưa hoàn chỉnh cũng gây khó khăn
cho các Thẩm phán. Tình trạng "xử thế nào cũng đúng" gây tâm lý mất lòng
tin của người dân vào Tòa án tùy tiện, không công bằng.
Quy định về tiêu chuẩn bổ nhiệm, nhiệm kỳ bổ nhiệm, quy trình bổ
nhiệm thẩm phán cùng với việc hệ thống Tòa án hoạt động theo địa bàn,
không độc lập hoàn toàn theo hệ thống ngành dọc ảnh hưởng không ít đến
nguyên tắc "xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" của Tòa án.
Tình trạng cán bộ tòa án, có cả các thẩm phán có những hành vi vi
phạm pháp luật, chạy án, bị dư luận lên án cũng là nguyên nhân gây tâm lý
mất lòng tin của người dân vào Tòa án tùy tiện, không công bằng.
Do đó, việc nghiên cứu nhằm "nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án
nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện
nay" là vấn đề cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Vì vậy, tôi chọn đề tài
này làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có một số bài viết và công trình khoa học nghiên cứu
liên quan đến vấn đề này. Như vấn đề: "Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn
thiện hệ thống các thủ tục tư pháp nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của
Tòa án nhân dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân", Đề tài khoa học cấp nhà nước, mã số KX.04.06, do TS. Uông

11
Chu Lu ch nhim ti; "Tớnh c lp ca tũa ỏn", ca TS. Tụ Vn Hũa,
Nxb Lao ng, 2007; "Vai trũ ca Tũa ỏn trong h thng t phỏp", ca TS.
Phm Hng Hi, Tp chớ Tũa ỏn nhõn dõn, s 1/2001; "V quyn t phỏp trong

nh nc phỏp quyn xó hi ch ngha ca dõn, do dõn, vỡ dõn Vit Nam",
ca GS.TS Vừ Khỏnh Vinh, Tp chớ Nh nc v phỏp lut, s 8, 2003; "Th
ch t phỏp trong nh nc phỏp quyn", ca GS.TS Nguyn ng Dung,
Nxb T phỏp, 2004; "Ci cỏch t phỏp trong t chc quyn lc nh nc",
ca GS.TS Nguyn ng Dung, Tp chớ Khoa hc, i hc Quc gia H Ni
s 25, 2009; "Vai trũ gii thớch phỏp lut ca tũa ỏn hin phỏp", ca Cao V
Minh, Trng i hc Lut Thnh ph H Chớ Minh; "i mi t chc v
hot ng ca Tũa ỏn nhõn dõn", ca LS. Phm Quý T; Chng trỡnh khoa
hc xó hi cp Nh nc ti KX 04-02 v "mụ hỡnh t chc v hot ng
ca nh nc phỏp quyn xó hi ch ngha ca nhõn dõn, do nhõn dõn, vỡ
nhõn dõn nc ta trong thi k cụng nghiờp húa, hin i húa t nc"
Cỏc cụng trỡnh trờn ó cp mt phn n vn ny, tuy nhiờn nhỡn
chung cha cú cụng trỡnh no nghiờn cu mt cỏch y , hon thin vn
nõng cao v trớ, vai trũ ca Tũa ỏn nhõn dõn ỏp ng yờu cu xõy dng Nh
nc phỏp quyn Vit Nam hin nay. õy l vn mi m, tuy nhiờn lun vn
s tip thu cú chn lc nhng kt qu nghiờn cu ca cỏc cụng trỡnh khoa hc
phỏp lý cú liờn quan phỏt trin v hon chnh vn nghiờn cu ca mỡnh.
3. Mc ớch v nhim v ca lun vn
3.1. Mục đích của luận văn
Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc nõng cao v trớ,
vai trũ ca To ỏn nhõn dõn ỏp ng yờu cu xõy dng Nh nc phỏp quyn
Vit Nam hin nay
Đa ra những quan điểm và đề xuất những giải pháp pháp lý nhằm
nõng cao v trớ, vai trũ ca To ỏn nhõn dõn ỏp ng yờu cu xõy dng Nh
nc phỏp quyn Vit Nam hin nay

12
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Hệ thống hóa, làm rõ cơ sở lý luận về v trớ, vai trũ ca To ỏn nhõn
dõn trong Nh nc phỏp quyn Vit Nam

Phân tích và đánh giá thực trạng v v trớ, vai trũ ca To ỏn nhõn dõn.
Đề xuất những quan điểm và giải pháp pháp lý cơ bản nhằm nõng cao
v trớ, vai trũ ca To ỏn nhõn dõn ỏp ng yờu cu xõy dng Nh nc phỏp
quyn Vit Nam hin nay
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các
quy định pháp luật về vị trí, vai trò của toà án nhân dân từ khi có Luật Tổ chức
toà án nhân dân năm 2002 đến nay; qua thực tiễn hoạt động của ngành toà án
trên phạm vi cả nớc.
Vị trí, vai trò của Toà án nhân dân dới các góc độ phi pháp lý (kinh
tế, chính trị) không đề cập trực tiếp trong luận văn này.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin
và t tởng Hồ Chí Minh về nhà nớc và pháp luật, quan điểm của Đảng và
Nhà nớc ta về nhà nớc và pháp luật và yêu cầu của việc xây dựng Nhà nớc
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân.
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên các phơng pháp duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng tổng hợp các phơng pháp phân tích, tổng
hợp, phơng pháp so sánh, tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của luận văn
Thông qua việc nghiên cứu đề tài này luận văn góp phần làm sáng tỏ
cơ sở lý luận và thực tiễn về nõng cao v trớ, vai trũ ca To ỏn nhõn dõn ỏp
ng yờu cu xõy dng Nh nc phỏp quyn Vit Nam hin nay

13
Phân tích đánh giá có hệ thống thực trạng các quy định của pháp luật
về v trớ, vai trũ ca To ỏn nhõn dõn. Đề xuất một số quan điểm và giải pháp
pháp lý cơ bản góp phần nõng cao v trớ, vai trũ ca To ỏn nhõn dõn ỏp ng
yờu cu xõy dng Nh nc phỏp quyn Vit Nam hin nay
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chơng:
Chơng 1: Cơ sở lý luận về v trớ, vai trũ ca To ỏn trong nh nc
phỏp quyn.
Chơng 2:

Thc trng v trớ, vai trũ ca Tũa ỏn nhõn dõn Vit Nam.
Chơng 3:

Quan điểm và giải pháp nâng cao vị trí, vai trò của toà án
nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nớc pháp quyền Việt Nam hiện nay.

14
Chng 1
C S Lí LUN V V TR, VAI TRề CA TO N
TRONG NH NC PHP QUYN

1.1. NH NC PHP QUYN
Nhà nớc pháp quyền là một hiện tợng chính trị pháp lý phức tạp,
thờng đợc hiểu theo

nhiều cấp độ. Cho đến nay cha có một định nghĩa bao
quát hết nội dung của nó. Tuy vậy, bao trùm lên tất cả, nhà nớc pháp quyền
là: nhà nớc tuân theo pháp luật và quản lý bằng pháp luật, xem pháp luật có
vị trí chi phối mọi hành vi của cơ quan công quyền và công dân", hoặc nhà
nớc pháp quyền là nhà nớc phục tùng pháp luật, nhấn mạnh vào chủ thể
tuân theo pháp luật trớc hết là nhà nớc, cơ quan nhà nớc, viên chức nhà
nớc chỉ đợc làm những điều pháp luật cho phép", nhằm chống xu hớng tuỳ
tiện, chuyên quyền, độc đoán trong hoạt động của bộ máy nhà nớc.
Trong lịch sử nhân loại đã xuất hiện nhiều quan niệm khác nhau về

nhà nớc pháp quyền trong những điều kiện cụ thể nhất định. Tựu trung, có
hai điều kiện cho nhà nớc pháp quyền xuất hiện:
Thứ nhất, phải có nhu cầu dân chủ, ở đâu và lúc nào đợc xác định chủ
thể quyền lực nhà nớc là của nhân dân.
Thứ hai, phơng pháp quản lý đó chỉ có thể bằng pháp luật.
1.1.1. Lịch sử các t tởng nhà nớc pháp quyền
T tởng nhà nớc pháp quyền đã xuất hiện từ thời cổ đại do yêu cầu
bảo đảm dân chủ lúc bấy giờ. Ngời ta bắt đầu tìm kiếm những nguyên tắc,
hình thức để thiết lập mối quan hệ giữa pháp luật và quyền lực.
Nhờ vào sự thừa nhận của quyền lực mà pháp luật trở thành sức mạnh
của quyền lực công khai đợc tổ chức có trật tự, đợc tổ chức bằng pháp luật,

15
bị hạn chế, ràng buộc bởi pháp luật, do đó trở thành quyền lực nhà nớc công
bằng, nghĩa là phù hợp với pháp luật. Nh vậy, thừa nhận nhà nớc nh một tổ
chức pháp lý của sức mạnh quyền lực công khai là t tởng cơ bản của nhà
nớc pháp quyền.
Thi phong kin, Nh nc khụng hoc ớt bit n phỏp quyn. Tuy
nhiờn, thi k ny phng Tõy ó cú khụng ớt cỏc quan im, t tng tin
b ca cỏc nh t tng, cỏc nh thn hc gúp phn bo tn v lm phong phỳ
thờm cỏc ý tng v Nh nc phỏp quyn thi c i. Theo ễguytxtanh
(357-430)- giỏo ch Bc Phi cho rng quyn lc nh nc phi c thc
hin nh mt th quyn lc phc v. ú l cụng c thc hin tỡnh yờu v
s cụng bng. Nhng ngi cm quyn phi t quyn uy vo s phc v
nhõn dõn Tụmỏt a canh (1225-1247) cho rng trt t phỏp lý em n cho
mi ngi cỏi thuc v h v lm cho h cú th t c s di do v vt
cht, tinh thn. Xó hi cụng dõn trc sau s thay th xó hi thn dõn, vỡ nú l
sn phm ca lý trớ ch khụng phi l sn phm thun tuý, bn nng.
Thi k t bn ch ngha, hc thuyt v nh nc phỏp quyn t sn
tng bc hỡnh thnh. Nh nc t sn cng tng bc c thit k theo mụ

hỡnh nh nc phỏp quyn trờn c s th gii quan mi ca giai cp t sn
ang lờn - th gii quan phỏp lý. ú l s phc hi, k tha cỏc giỏ tr t
tng cú liờn quan n nh nc phỏp quyn thi c i v a cỏc giỏ tr ú
lờn tm cao hn phự hp vi ũi hi mi ca lch s. Cú th k ra mt s i
biu tiờu biu: Lý thuyt v t do ca Giụnlcc (1632-1704). ễng cho rng
"lut t nhiờn l bt buc vỡ nú l t do". T do l giỏ tr ch o ca phỏp
quyn t nhiờn, ca s lun gii ca nh nc v th ch chớnh tr hp lý.
Phỏp quyn t nhiờn bt ngun t s liờn kt ca con ngi vi nhau thnh
cng ng theo mt quy lut t nhiờn. Trong s liờn kt ú, con ngi tha
thun vi nhau lp nờn Nh nc. Nh nc l c quan quyn lc chung ca
xó hi, phỏp lut gi a v thng tr trong nh nc. Quyn lc nh nc v
bn cht thuc v nhõn dõn, do nhõn dõn y nhim. Nh nc cú ngha v bo

16
vệ quyền tự do và quyền sở hữu do lao động đem lại như là bảo đảm quyền tự
nhiên của mỗi công dân. Lý thuyết về tự do của Tômát Hốp xơ (1588-1679):
Nhà nước đóng vai trò điều hành sự phát triển của xã hội. Pháp luật cần phải
được Nhà nước sử dụng như là một tất yếu trong quản lý xã hội. Với sự xuất
hiện của nhà nước, tự do cá nhân với nghĩa là những ý muốn của cá nhân có
thể bị thu hẹp, nhưng tự do cá nhân với nghĩa là tiền đề cho tự do của người
khác thì được mở rộng ra; Lý thuyết về tam quyền phân lập của Môngtecxkiơ
(1869-1755): trong xã hội có nhà nước người ta sử dụng pháp luật. Quyền lực
tối thượng của xã hội là thuộc về nhân dân. Trong mỗi quốc gia đều có ba thứ
quyền là quyền lập pháp, quyền thi hành những điều luật về công pháp (quyền
hành pháp) và quyền thi hành những điều trong luật dân sự (quyền tư pháp).
Các quyền này được giao cho hệ thống các cơ quan nhà nước khác nhau.
Không một cơ quan nào vượt lên những cơ quan kia và không một cơ quan có
thể tước đoạt quyền cá nhân của công dân; Lý thuyết về chủ quyền nhân dân,
khế ước xã hội của Rút xô (1712-1788): Quyền lực nhà nước là thuộc về nhân
dân, nhân dân thực hiện chủ quyền của mình thông qua việc ủy quyền cho các

đại biểu của mình trong bộ máy nhà nước. Khế ước xã hội có thể hiểu là pháp
luật và bộ máy nhà nước do nhân dân tạo ra. Khi nhà nước vi phạm khế ước
xã hội đã thỏa thuận thì nhân dân có quyền thay thế bằng nhà nước mới…; Lý
thuyết của Can tơ (1724-1804): Nhà nước pháp quyền là cộng đồng của
những người phục tùng pháp luật, cần phải ngăn chặn sự lạm quyền của một
hay một số người đối với người khác. Mọi hoạt động của công dân đều phải
tuân thủ pháp luật. Sự phân chia thành các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp là cần thiết trong một nhà nước, nơi nhân dân vừa là chủ thể, vừa là khách
thể của quyền lực; Lý thuyết của Hêghen (1770-1831): Nhà nước pháp quyền
là sự thể hiện trong thực tế những ý niệm dưới những hình thức nhất định của
tồn tại thực tế của con người. Pháp luật là sự thể hiện của tư tưởng tự do.
Trong xã hội, nhà nước ở vị trí cao nhất và cao hơn cả con người.
Pháp quyền vừa là sự sáng tạo, vừa là sản phẩm của nhà nước. Sự phân quyền

17
trong nhà nước là nhằm đảm bảo tự do công cộng, chống lạm quyền, chuyên
chế, vũ lực và phi pháp.
1.1.2. Tư tưởng của C. Mác, Ph. Ăng ghen và V.I. Lênin về Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Khái niệm nhà nước pháp quyền chưa được sử dụng nhưng những tư
tưởng cốt lõi của nhà nước pháp quyền đã được đề cập sâu sắc theo quan
điểm cách mạng và khoa học trong học thuyết Mác - Lênin về nhà nước và
pháp luật đó là xây dựng một nhà nước kiểu mới hợp hiến, hợp pháp; một chế
độ dân chủ triệt để "là do nhân dân quy định", "tự do của mỗi người là điều
kiện phát triển tự do của tất cả mọi người"; dân chủ là xuất phát từ con người
và pháp luật cũng vì con người; pháp chế nghiêm minh theo hướng giải phóng
con người. Nói cách khác, trong khi đặt vấn đề xây dựng một xã hội mới, một
nhà nước kiểu mới, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin đã kế thừa và
phát triển tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới.
Trong "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" C. Mác, Ph. Ăngghen đặt vấn

đề xây dựng một xã hội mới trong đó "tự do của mỗi người là điều kiện phát
triển tự do của tất cả mọi người" và "giải phóng con người" là mục tiêu của
một nhà nước pháp quyền kiểu mới; là nhà nước tổ chức được đời sống chung
của nhân dân, trong đó bảo đảm được sự phát triển tự do tối đa và "phát triển
toàn diện con người". Về mặt nhà nước, Mác chủ trương xây dựng một chế độ
dân chủ triệt để, dân chủ là "do nhân dân tự quy định", là bước chuyển từ xã
hội thần dân sang xã hội công dân, là từ "nhân dân của nhà nước" sang "nhà
nước của nhân dân", "Dân chủ là xuất phát từ con người".
Những tư tưởng nhà nước pháp quyền ấy được V.I. Lênin tiếp thu và
phát triển trong quá trình xây dựng nhà nước kiểu mới, trước hết là xác định
rõ "mục đích của chính quyền Xô-viết là thu hút những người lao động tham
gia vào quản lý nhà nước" và "việc thu hút được mọi người lao động tham gia
vào quản lý là một trong những ưu thế quyết định của nền dân chủ xã hội chủ

18
nghĩa". Về mặt pháp luật, Lênin khẳng định vai trò của pháp luật và pháp chế
trong quản lý xã hội mới, coi đó là một trong những điều kiện cơ bản để xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội, nhà nước phải dùng phương pháp "căn cứ
vào luật lệ của mình là điều kiện cần và đủ cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi triệt
để". Lênin đã sáng tạo ra khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa một yêu cầu
quan trọng để xây dựng nhà nước pháp quyền.
1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhà nước, nhà nước pháp quyền
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nhà nước
của dân, do dân và vì dân là tư tưởng độc đáo, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, là kết quả
của sự vận dụng và phát triển những quan điểm tư tưởng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, sự tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới vào xây dựng chính
quyền nhà nước kiểu mới do nhân dân làm chủ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân là một hệ thống các quan điểm lý luận về bản chất, chức năng, cơ

chế hoạt động, tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước;
trong đó, quan niệm về nhà nước pháp quyền là một tư tưởng nhất quán, thể
hiện tầm nhìn vượt thời đại và có giá trị lâu bền, thể hiện ở một số điểm sau:
- Theo Hồ Chí Minh, nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ trước hết
phải là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Ngay sau khi giành được chính
quyền trong cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời
đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào và với thế giới
về sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Hồ Chí Minh đề ra một
trong sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là:
Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Năm 1919, tám yêu sách của nhân
dân An Nam gửi tới Hội nghị Véc-xây đã có 4 điểm liên quan đến vấn đề
pháp quyền, còn lại liên quan đến công lý và quyền con người. Người yêu cầu
thực dân Pháp phải bãi bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh và thay thế bằng

19
các đạo luật, người bản xứ cũng có quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp
luật như người Âu, xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt.
Sau này, bản Yêu sách của nhân dân An Nam được Hồ Chí Minh
chuyển thành "Việt Nam yêu cầu ca", trong đó yêu cầu thứ bảy là:
"Bảy xin hiến pháp ban hành,
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền".
- Nhận thức được tầm quan trọng của luật pháp, từ rất sớm, Hồ Chí
Minh đã đề cập đến vai trò của pháp luật trong quản lý, điều hành xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý đất nước bằng
pháp luật và đảm bảo pháp luật được thực thi có hiệu lực, hiệu quả; mọi lĩnh
vực đều phải có sự kiểm soát của Nhà nước và sự kiểm soát đo bằng pháp
luật. Pháp luật giữ vị trí thống trị, tối cao. "Thần linh pháp quyền" trong tư
tưởng Hồ Chí Minh thực chất là một yêu cầu đối với một nhà nước dân chủ,
chịu sự ràng buộc của pháp luật. Quan điểm này phản ánh nội dung cốt lõi
của Nhà nước dân chủ mới - Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Đồng

thời, đây cũng là nguyên tắc xuyên suốt trong hoạt động quản lý nhà nước của
Người. Theo Người, muốn pháp luật nghiêm minh, phát huy hiệu lực, cần có
các điều kiện:
Trước hết, pháp luật đó phải phản ánh đúng và bao quát các lĩnh vực,
các quan hệ diễn ra trong xã hội.
Thứ hai, pháp luật phải đến được với dân, "đi vào giữa dân gian".
Thứ ba, cán bộ trực tiếp thực thi luật pháp phải thật sự công tâm và
nghiêm minh.
- Trong nhà nước pháp quyền mọi công dân đều bình đẳng trước pháp
luật. Trong Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm
1945, Hồ Chí Minh đã trích Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ năm 1976 "Tất
cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền mà

20
không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống,
quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Người nói: "Suy rộng ra câu
ấy có nghĩa là, tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền bình đẳng,
dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Trong
Điều 7 Hiến pháp 1946 do Hồ Chí Minh soạn thảo quy định:
Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật,
đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài
năng và đức hạnh của mình
Pháp luật của ta là bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người, vì
vậy không chỉ nhân dân mà các cơ quan nhà nước cũng phải tuân
thủ pháp luật, tôn trọng tính tối cao của pháp luật và phải trừng trị
nghiêm khắc những kẻ phạm tội [37].
- Mặc dù coi trọng pháp luật nhưng Hồ Chí Minh không cho rằng
pháp luật là độc tôn trong xã hội. Người nói rằng: nghĩ cho cùng, vấn đề tư
pháp cũng như mọi vấn đề khác trong lúc này là vấn đề ở đời và làm người, ở
đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại bị đau

khổ và áp bức.
- Trong việc xác định rõ giới hạn của các quyền tự do cá nhân, Người
nói: Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do
của mình, nhưng phải tôn trọng tự do của người khác. Người nào sử dụng
quyền tự do của mình quá mức là phạm đến tự do của người khác, là phạm
pháp. Không thể có tự do cho bọn việt gian, bọn phản động, bọn phá hoại tự
do của nhân dân.
- Trong việc xử lý mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ công dân,
pháp luật dân chủ vừa thể hiện các quyền, lợi ích của công dân, nhưng cũng
quy định rõ các nghĩa vụ mà người dân phải thực hiện. Hưởng quyền và thực
hiện nghĩa vụ là thuộc tính hai mặt của một người dân làm chủ nhà nước.

21
- Vi H Chớ Minh, phỏp lut khụng phi l trng tr con ngi m
l cụng c bo v, thc hin li ớch ca con ngi. T tng phỏp quyn ca
Ngi khụng ch dng li cỏc quyn con ngi c ghi trong cỏc vn bn
phỏp lut m cũn thm m mt tm lũng thng yờu nhõn dõn, chm lo cho
m no, hnh phỳc ca nhõn dõn, thm m lũng nhõn ỏi, ngha ng bo
theo o lý truyn thng ngn nm ca dõn tc Vit Nam.
1.1.4. Nh nc phỏp quyn Vit Nam xó hi ch ngha
Vn dng sỏng to cỏc quan im ca ch ngha Mỏc - Lờnin v nh
nc v phỏp lut, xut phỏt t lch s thc tin cỏch mng Vit Nam, vn
dng phự hp vi c im v truyn thng Vit Nam: xõy dng mt nh
nc kiu mi thc s ca dõn, do dõn v vỡ dõn, hp hin, hp phỏp, phỏp
lut hng ti gii phúng con ngi v tt c vỡ con ngi, Ch tch H Chớ
Minh v ng ta ó tng bc xõy dng, hon thin nh nc phỏp quyn
Vit Nam xó hi ch ngha.
Vn kin Hi ngh i biu ton quc gia nhim k khoỏ VII trong
ni dung v "Nhng nhim v ch yu trong thi gian ti" ó nờu nhim v
th by l "Xõy dng nh nc phỏp quyn Vit Nam ca nhõn dõn, do nhõn

dõn v vỡ nhõn dõn". õy l ln u tiờn trong vn kin ca ng chớnh thc
s dng thut ng nh nc phỏp quyn. Xõy dng nh nc phỏp quyn Vit
Nam tr thnh ch trng cú tm chin lc, bao trựm ton b t chc, hot
ng ca nh nc, tr thnh nh hng cho ton b quỏ trỡnh v ni dung
i mi, t chc, hot ng ca nh nc.
Tiếp tục cụ thể hoá quan điểm nói trên, trong văn kiện Đại hội i biu
ton quc ln th X của Đảng đã xác định một trong những đặc trng chủ yếu
của xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng là "có Nhà nớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do nhân dân, vì nhân dân dới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản". Đại hội i biu ton quc ln th X của Đảng đã chỉ rõ
những nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục xây dựng nhà nớc pháp quyền xã hội chủ

22
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nớc ta hiện nay với một số
nguyên tắc, phơng pháp luận sau:
- Việc xây dựng nhà nớc xã hội chủ nghĩa ở nớc ta hiện nay là một tất
yếu khách quan. Điều đó không chỉ bắt nguồn từ đặc điểm của thời đại ngày nay,
thời đại quá độ từ chủ nghĩa t bản lên chủ nghĩa xã hội, mà còn xuất phát từ
thực tế và đòi hỏi của cách mạng Việt Nam "muốn cứu nớc và giải phóng dân
tộc, không có con đờng nào khác con đờng cách mạng vô sản" [31, tr. 314].
- Nhà nớc hiện nay ta đang xây dựng là nhà nớc xã hội chủ nghĩa,
"nhà nớc của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân", lấy liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do đảng
cộng sản lãnh đạo. "Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ
nghiêm kỷ cơng xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích
của Tổ quốc và của nhân dân" [8, tr. 9]. Nhà nớc ta do đó là nhà nớc thuộc
phạm trù nhà nớc vô sản.
- Xây dựng nhà nớc xã hội chủ nghĩa là một quá trình, hơn nữa đối
với nớc ta là một quá trình lâu dài. Nớc ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ
một xuất phát điểm thấp: cha trải qua giai đoạn phát triển t bản chủ nghĩa,

cha trải qua chế độ dân chủ t sản. Với xuất phát điểm nh vậy chúng ta
không có khả năng tạo lập ngay cơ sở kinh tế - xã hội đầy đủ cho chủ nghĩa xã
hội, cho nhà nớc xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, xây dựng nhà nớc xã hội
chủ nghĩa ở nớc ta là một quá trình gắn liền với sự nỗ lực bền bỉ cải biến,
phát triển kinh tế - xã hội theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
- Nhà nớc hiện nay lấy việc bảo vệ và xây dựng đất nớc theo con
đờng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ chủ yếu, hơn nữa lại dựa trên cơ sở là nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó thành phần kinh tế nhà nớc giữ
vai trò chủ đạo.
- Nhà nớc hiện nay là nhà nớc mà các chức năng thống trị chính trị
của giai cấp và chức năng xã hội thống nhất hữu cơ với nhau. Để giữ vững bản

23
chất giai cấp của nhà nớc, đảm bảo nhà nớc thực sự là nhà nớc pháp quyền
của dân, do dân và vì dân chúng ta đã và đang thực hiện các nhiệm vụ:
Thứ nhất: Đổi mới và nâng cao chất lợng hoạt động của bộ máy nhà
nớc nói chung, của cơ quan lập pháp nói riêng, thực hiện cải cách nền hành
chính quốc gia, cải tổ bộ máy tổ chức và hoạt động t pháp.
Thứ hai: Đấu tranh chống bệnh quan liêu, tham nhũng trong bộ máy
nhà nớc.
- Nhà nớc tổ chức và hoạt động tuân theo nguyên tắc quyền lực nhà
nớc là thống nhất nhng có phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
nhà nớc trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và t pháp. Tổ chức
và hoạt động của nhà nớc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
Núi túm li, cú nhiu quan im v nh nc phỏp quyn nhng cú
th nờu nhng c im c bn nht ca nh nc phỏp quyn nh sau:
- Nh nc phỏp quyn l nh nc m bo tớnh ti cao ca Hin
phỏp v phỏp lut trong i sng xó hi. Phỏp lut chi phi v cú hiu lc
phỏp lý ti thng trong xó hi, phỏp lut phn ỏnh ý chớ chung ca nhõn dõn,
phn ỏnh li ớch chung ca xó hi.

- Trong nh nc phỏp quyn, quyn lc nh nc c t chc khoa
hc, bo m nguyờn tc phõn quyn v yờu cu v s c lp ca t phỏp.
Tc nh nc phi cú hỡnh thc t chc quyn lc nh nc thớch hp v cú
c ch hu hiu giỏm sỏt s tuõn th phỏp lut, x lý cỏc vi phm phỏp lut,
bo m cho phỏp lut c thc hin. Trong nh nc phỏp quyn phi m
bo tớnh phỏp quyn ca cỏc thit ch quyn lc nh nc v ngi ch ca
nú l nhõn dõn v xỏc lp s tụn trng Hin phỏp. Vỡ vy, phi m bo s
c lp ca to ỏn v tớnh cht dõn ch, minh bch ca phỏp lut.
- Phỏp lut trong nh nc phỏp quyn phi c ỏp dng cụng bng,
nht quỏn, bo m tớnh cụng khai, minh bch, d tip cn, ỏp dng kp thi.

24
- Trong nhà nước pháp quyền không chỉ công dân có nghĩa vụ với nhà
nước mà nhà nước cũng phải có nghĩa vụ với công dân. Quyền của công dân
là trách nhiệm của nhà nước và ngược lại, quyền của nhà nước là trách nhiệm
của công dân.
- Nhà nước pháp quyền tôn trọng và bảo vệ quyền công dân và quyền
con người. Nhà nước pháp quyền không chỉ công nhận và tuyên bố các quyền
tự do của công dân, mà con phải bảo đảm thực hiện và bảo vệ các quyền đó
khi chúng bị xâm hại. Tự do của một người là được làm những gì mà pháp
luật không cấm trong khuôn khổ không xâm hại đến tự do của người khác.
1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA TOÀ ÁN TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
1.2.1. Vài nét về vị trí, vai trò của toà án trong nhà nước chiếm hữu
nô lệ và nhà nước phong kiến- nhà nước trước khi có nhà nước pháp quyền
Ngay từ thời Hy Lạp cổ đại các học giả đã khẳng định ở đâu có pháp
luật thì ở đó phải có một hệ thống đảm bảo cho pháp luật được thi hành một
cách nghiêm chỉnh. Sự bảo đảm đó trước hết phải bằng hoạt động của các cơ
quan trong bộ máy nhà nước. Các cơ quan này có chức năng xét xử các hành
vi vi phạm các quy định của pháp luật, của nhà nước. Đó là hệ thống các cơ
quan tư pháp.

Trong nhà nước chiếm hữu nô lệ và nhà nước phong kiến, quyền lực
nhà nước và pháp luật thể hiện sự thống trị của giai cấp chủ nô và giai cấp địa
chủ, chính vì vậy không có sự phân công rạch ròi giữa ba nhánh quyền lực lập
pháp, hành pháp và tư pháp như nhà nước pháp quyền đương đại. Quyền tư
pháp (xét xử) cũng như các quyền lập pháp và hành pháp hoàn toàn nằm trong
tay giai cấp thống trị trong xã hội đại diện là nhà Vua. Nhà Vua vừa ban hành
các văn bản pháp luật, vừa tổ chức thực hiện pháp luật, vừa xét xử các hoạt
động vi phạm các văn bản pháp luật do Nhà Vua ban hành. Toàn bộ quyền xét
xử thực chất chỉ là công cụ trong tay giai cấp cầm quyền để đàn áp giai cấp

25
chiếm đại đa số trong xã hội (giai cấp nô lệ, giai cấp nông dân), cũng như tất
cả các nhóm người của dân cư tự do còn lại và bắt họ phải phục tùng lợi ích
giai cấp của những kẻ cầm quyền. Bị đối xử bất bình đẳng một cách rõ rệt,
giai cấp chiếm đại đa số trong xã hội những người nô lệ hay những người
nông dân hầu như bị loại ra khỏi các quan hệ pháp luật tố tụng mà chỉ được sử
dụng với tính chất là chứng cứ trong những điều kiện nhất định khi là bị can,
bị cáo hay người làm chứng, thậm chí trong nhiều trường hợp họ có thể bị áp
dụng các hình thức tra tấn dã man để lấy cung và phục vụ mục đích của giai
cấp thống trị.
Tất cả các hình phạt được áp dụng theo thủ tục hoạt động hành chính
của những kẻ có chức vụ, quyền hạn đặc biệt trong Nhà nước, chỉ có một số
không đáng kể các hình phạt là được áp dụng theo thủ tục tố tụng hình sự.
Hình phạt được áp dụng thể hiện rõ tính chất man rợ, khủng bố với
các mục đích là đe doạ, làm cho phải khiếp sợ, gây nên những đau đớn về thể
xác, hạ thấp nhân phẩm con người.
1.2.2. Vị trí, vai trò của Toà án trong nhà nước pháp quyền
Trong nhà nước pháp quyền, Toà án được giao quyền xét xử, quyền
chủ yếu trong quyền tư pháp một trong ba quyền lực nhà nước là quyền lập
pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp. Toà án là cơ quan độc lập có thẩm

quyền riêng biệt do luật định, chuyên thực hiện việc xét xử bằng hoạt động tố
tụng tư pháp tương ứng về hiến pháp, hình sự, hành chính, dân sự, kinh tế để
bảo vệ chế độ hiến định, nhân thân, các quyền và tự do của con người và của
công dân cũng như hoà bình và an ninh nhân loại và đây là thẩm quyền riêng
biệt của toà án để giải quyết những xung đột giữa các quan hệ xã hội. Chính
vì vậy toà án có vị trí đặc biệt trong nhà nước pháp quyền.
Vai trò của Tòa án trong nhà nước pháp quyền thể hiện ở một số
điểm sau:

×