Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Một số đề văn và bài văn kiểm tra lớp 9, thi tuyển sinh lớp 9 lên 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.63 KB, 31 trang )

Mụt sụ ờ vn va bai vn kiờm tra lp 9, thi tuyờn sinh lp 9 lờn 10
Đề số 1
1. Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu
2. Phân tích đoạn thơ :
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xớc
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trớc
Chỉ cần trong xe có một trái tim
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật)
. Bài văn tham khảo
Đồng chí ! Ôi tiếng gọi sao mà thân thơng tha thiết. Bởi đây biểu hiện thật đầy đủ tình
đồng đội của anh bộ đội Cụ Hồ thời kháng Pháp. Cảm nhận đợc tình cảm vừa thân quen vừa
mới lạ trong cuộc sống chiến đấu ấy, Chính Hữu, một nhà thơ - chiến sĩ đã xúc động viết bài
thơ Đồng chí. Với lời thơ chân chất, tràn đầy tình cảm, bài thơ đã để lại bao cảm xúc trong
lòng ngời đọc.
Cả bài thơ thể hiện rõ tình đồng đội keo sơn gắn bó giữa những ngời chiến sĩ quân đội
nhân dân trong cuộc sống chiến đấu gian khổ. Họ là những ngời xuất thân từ nhân dân lao
động chỉ quen việc "cuốc cày" ở những vùng quê nghèo khác nhau, vì có chung tấm lòng yêu
nớc, họ đã gặp nhau từ xa lạ bỗng trở thành thân quen. Chính Hữu đã kể về những con ngời
ấy bằng lời thơ thật xúc động :
Quê hơng anh nớc mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi ngời xa lạ
Tự phơng trời chẳng hẹn quen nhau
Họ đều xuất thân từ những vùng đất khô cằn, nghèo khổ "nớc mặn đồng chua", "đất
cày lên sỏi đá". Từ "xa lạ" gặp nhau. Thật là thú vị, nhà thơ không nói hai ngời xa lạ mà là
"đôi ngời xa lạ", vì thế ý thơ đợc nhấn mạnh, mở rộng thêm. "Hai ngời" cụ thể quá. Đôi ngời
là từng "đôi" một - nhiều ngời. Trong đơn vị quân đội ấy, ai cũng thế. Hình ảnh những con
ngời chẳng hẹn quen nhau nói lên một sự thật. Những con ngời vốn xa lạ khi tham gia kháng
chiến, đã cùng nhau chiến đấu, cùng nhau chịu đựng gian khổ, chung lng đấu cật bên nhau.
Vì thế họ trở thành thân nhau, hiểu nhau, thơng nhau và gọi nhau là "đồng chí".


Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí
Tình cảm ấy thật thân thơng, thật tha thiết. Giọng thơ đang liền mạch nhẹ nhàng, thủ thỉ
tâm tình, bỗng ngắt nhịp đột ngột. Từ Đồng chí lại đợc tách ra làm câu riêng, một đoạn riêng.
Với cấu trúc thơ khác thờng ấy tác giả đã làm nổi bật ý thơ. Nó nh một nốt nhấn của bản
nhạc, bật lên âm hởng gây xúc động lòng ngời. Câu thơ chỉ có một từ Đồng chí - một tiếng
nói thiêng liêng. Đồng chí - một tiếng reo, một sự cảm kích chất chứa nhiều đổi thay trong
quan hệ tình cảm.
Tình cảm ấy lại đựơc biểu hiện cụ thể trong cuộc sống chiến đấu kể cho nhau nghe chuyện
quê nhà. Chuyện "Ruộng nơng anh gửi bạn thân cày", "Gian nhà không mặc kệ gió lung lay",
cả chuyện "Giếng nớc gốc đa nhớ ngời ra lính" Từ những tâm tình ấy, ta hiểu, các anh
chiến sĩ mỗi ngời đều có một quê hơng, có những kỉ niệm thân thiết gắn bó với quê nhà và
khi ra đi họ mang theo hình bóng quê hơng. Các miền quê tuy khác nhau nhng đều có những
nét gần quí nhau. Các anh cùng chia sẻ ngọt bùi, cùng chịu gian khổ bên nhau. Trong gian
lao vất vả họ tìm đợc niềm vui, niềm hạnh phúc trong mối tình đồng chí. Làm sao các anh có
thể quên đợc những lúc ớt mồ hôi, cùng chịu với nhau từng cơn ớn lạnh. Cuộc sống bộ đội
nghèo vất vả nhng không thiếu niềm vui. Dẫu áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá
dẫu trời có buốt giá thì miệng vẫn cời tơi. Tình cảm chân thành tha thiết ấy không diễn tả
bằng lời mà lại thể hiện bằng cách nắm lấy bàn tay. Thật giản dị và cảm động. Không là vật
chất của cải, không là lời hoa mĩ phô trơng. Những ngời chiến sĩ biểu hiện tình đồng chí "tay
trong tay". Chính đôi bàn tay nắm chặt đã nói lên tất cả ý nghĩ thiêng liêng cao đẹp của mối
tình đồng chí.
Đêm nay rừng hoang sơng muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Đoạn thơ kết vừa tả cảnh thực vừa mang nét tợng trng. Tác giả tả cảnh những ngời lính
phục kích chờ giặc trong đêm sơng muối giữa đèo núi cao. Vầng trăng lơ lửng giữa trời nh
treo trên đầu ngọn súng. Đồng thời "Đầu súng trăng treo" còn mang ý nghĩa tợng trng. Vừa
thực, vừa mơ, vừa xa vừa gần, vừa mang tính chiến đấu vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ

vừa thi sĩ. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn. Đây là hình ảnh đẹp tợng tr-
ng cho tình cảm trong sáng của ngời chiến sĩ. Mối tình đồng chí đang nảy nở, vơn cao, tỏa
sáng từ cuộc đời chiến đấu. Hình ảnh thật độc đáo gây xúc động bất ngờ, thú vị cho ngời đọc.
Nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục đích lí tởng chiến đấu và mối tình đồng chí thiêng
liêng của anh bộ đội Cụ Hồ.
Bằng ngôn ngữ cô đọng, hình ảnh chân thực gợi tả có sự khái quát cao. Bài thơ là niềm
xúc động về tình cảm cách mạng của ngời lính trong chiến đấu chống kẻ thù chung. Nhà thơ
đã xây dựng hình ảnh thơ từ những chi tiết thực của cuộc sống đời thờng của ngời chiến sĩ,
không phô trơng, không lãng mạn hóa, thi vị hóa. Chính những nét thực đó tạo nên sự thành
công của tác phẩm. Bài thơ đánh dấu một bớc ngoặt mới trong phơng pháp sáng tác và cách
xây dựng hình tợng ngời chiến sĩ trong thơ thời kì chống Pháp.
2. Bài văn tham khảo
Phạm Tiến Duật là một trong những gơng mặt xuất sắc của thơ ca Việt Nam thời chống
Mĩ cứu nớc. Ông đợc gọi là "Viên ngọc Trờng Sơn của thơ ca" bởi đã mang cả hào khí thời
đại cùng dãy Trờng Sơn vào thơ. Đặc biệt mảng thơ về ngời lính lái xe của thi sĩ đã để lại ấn
tợng thật thú vị. Đó là những "Vết xe lăn" nóng bỏng trong những bài thơ trên đờng ra trận
thời chống Mĩ.
Trong số những vần thơ thông minh, dí dỏm về ngời lính lái xe này của Phạm Tiến Duật,
phải kể đến Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
Bài thơ đợc viết năm 1969, in trong tập "Vầng trăng - Quầng lửa". Hình tợng thơ hết sức
độc đáo : những chiếc xe không kính băng băng ra trận bất chấp hoàn cảnh khắc nghiệt của
chiến tranh. Để cuối bài thơ, tác giả đa ra một ý tởng thật bất ngờ - đó là "trái tim cầm lái":
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xớc
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trớc
Chỉ cần trong xe có một trái tim
ở phần đầu bài thơ, Phạm Tiến Duật đã giải thích rất đơn giản mà sắc sảo : "Không có
kính không phải vì xe không có kính" bởi vì : "Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi". Chiến
tranh bom đạn tàn phá, xe không kính chắn gió vẫn ra trận thanh thản mà ung dung. Hai câu
đầu khi kết, tác giả một lần nữa tả hình dáng của chiếc xe quân sự thời chống Mĩ :

Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xớc
Đã không kính - gió, bụi, ma tuôn vào buồng lái, khó khăn chồng chất hơn khi xe lại
không có đèn, rồi không có mui xe thùng xe có xớc. Một hình ảnh thực qua bao trận chiến.
Ngời lái xe phải huy động mọi giác quan, năng lực để lái xe trong hiểm nguy. Tất cả đều vợt
qua bởi :
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trớc
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Đây là chủ đề sâu thẳm của bài thơ. Đây mới là điều hệ trọng và thiêng liêng mà cả bài thơ
đầy giọng "ngang tàng", lạc quan cha hé lộ. Nhà thơ đã nói đúng tinh thần thời đại : Xẻ dọc
Trờng sơn đi cứu nớc - Mà lòng phơi phới dậy tơng lai (Tố Hữu). Cả nớc lên đờng đánh Mĩ vì
miền Nam ruột thịt. Vậy là trái tim đã giúp những ngời lính vợt qua gian khổ trên những
chiếc xe không kính, không đèn, không mui xe Trái tim rực lửa căm thù giặc và nóng bỏng
yêu thơng đồng bào Miền Nam ấy chính là vẻ đẹp sâu thẳm của tâm hồn Việt Nam thời đánh
Mĩ, là trái tim nhân hậu, thủy chung của cả dân tộc .
Thơ là thể hiện con ngời và thời đại một cách cao đẹp. Phạm Tiến Duật đã thể hiện
thành công tâm hồn thế hệ trẻ Việt Nam yêu nớc trong những năm tháng đánh Mĩ hi sinh
gian khổ mà vĩ đại của dân tộc ta.
Chiến tranh đã lùi xa mãi mãi, nhng những "dấu xe trên dãy Trờng Sơn" của những
chiếc xe độc đáo một thời góp phần làm nên kì tích trong thơ Phạm Tién Duật sẽ còn đánh
thức tâm hồn chúng ta.
Đề số 2
1. Phân tích tính biểu tợng của hình ảnh : "Đầu súng trăng treo" (Đồng chí - Chính Hữu) và
hình ảnh "trăng" (ánh trăng - Nguyễn Duy).
1. Bài văn tham khảo
Hình ảnh Đầu súng trăng treo của Chính Hữu.
Đầu súng trăng treo là câu kết bài thơ Đồng chí, cũng là một biểu tợng đẹp về ngời
chiến sĩ thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Trong đêm phục kích giữa rừng, bên cạnh hình
ảnh thực là súng, là nhiệm vụ chiến đấu tạo nên con ngời chiến sĩ thì cái mộng, cái trữ tình là
trăng. Hình ảnh trăng tạo nên con ngời thi sĩ. Hình ảnh chiến sĩ, thi sĩ hài hòa với nhau trong

cuộc đời ngời lính cách mạng. Hai hình ảnh tởng là đối lập đặt cạnh nhau tạo ra ý nghĩa hoà
hợp vô cùng độc đáo. Súng là chiến đấu, gian khổ, hi sinh là hiện thực. Còn trăng là tợng trng
cho hòa bình, gợi lên sự đẹp đẽ, thơ mộng, dịu dàng là lãng mạn. Ngời lính cầm súng để bảo
vệ hòa bình, khát khao hòa bình, không ngại gian khổ, hi sinh nhng xét về phơng diện tinh
thần, tình cảm thì đây chính là cuộc chiến mang vẻ đẹp của chính nghĩa, của lòng yêu nớc.
Súng và trăng : cứng rắn và dịu hiền, chiến sĩ và thi sĩ, có ngời còn gọi đây là một cặp đồng
chí.
Chính Hữu đã thành công với hình ảnh Đầu súng trăng treo - một biểu tợng thơ giàu sức
gợi cảm. Tác giả đã từng nói : "Trong chiến dịch nhiều đêm có trăng đi phục kích giặc trong
đêm trớc mắt tôi chỉ có ba nhân vật : Khẩu súng, vầng trăng và ngời bạn chiến đấu. Ba nhân
vật quện với nhau tạo ra hình ảnh đầu súng trăng treo"
Đầu súng trăng treo, đã trở thành một biểu tợng đẹp của ngời lính cách mạng Việt Nam :
Hiện thực và lãng mạn, chiến sĩ và thi sĩ.
Hình ảnh trăng của Nguyễn Duy
ánh trăng của Nguyễn Duy với hình ảnh trăng không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên đất nớc
mà còn gắn bó với tuổi thơ, với những ngày kháng chiến gian khổ. Vầng trăng mà mỗi chúng
ta không bao giờ có thể quên và đừng vô tình lãng quên.
Hình ảnh trăng bắt đầu gắn với cuộc sống bình thờng của con ngời và vầng trăng thời
chiến tranh. Đầy ắp những kỉ niệm về vầng trăng trải rộng trên một thiên nhiên bao la với
sông, với đồng, với bể. Thời chiến tranh máu lửa vầng trăng đã thành tri kỉ với ngời lính.
Vầng trăng là biểu tợng đẹp của những năm tháng nghĩa tình ngỡ không bao giờ có thể quên.
Thật đáng sợ là sự thay đổi của lòng ngời. Từ ở rừng, sau chiến thắng về thành phố, đ-
ợc sống cuộc sống tiện nghi : ở buyn đinh, quen ánh điện, cửa gơng Và vầng trăng tri kỉ,
nghĩa tình đã bị ngời tri kỉ xa lãng quên, dửng dng. Trăng đợc nhân hóa, lặng lẽ đi qua đờng,
nh ngời dng, chẳng còn ai nhớ, chẳng ai hay.
Bất ngờăngời gặpmột tình huống của nhịp sống thị thành : thình lình đèn điện tắt.
Vầng trăng xa xuất hiện, vẫn tròn, vẫn đẹp, vẫn thủy chung với ngời. Nớc mắt rng rng của
ngòi lính, cái giật mình của ngời lính trớc sự im lặng của trăng xa hiện về nơi thành phố hôm
nay là một biểu tợng nghệ thuật mang tính hàm nghĩa độc đáo. Đó là sự bao dung, độ lợng,
nghĩa tình, thủy chung của nhân dân, sự trong sáng mà không hề đòi hỏi đợc đền đáp. Đây

chính là phẩm chất cao đẹp của nhân dân mà tác giả muốn ngợi ca, tự hào.
Cũng là thông điệp hãy biết nhớ về quá khứ tốt đẹp, không nên sống vô tình. Đó chính
là ý nghĩa sâu sắc của hình ảnh trăng trong bài thơ của Nguyễn Duy tự nhắc nhủ mình và
muốn gửi gắm.
Đề số 3
1. Vẻ đẹp của ngời lính trong khổ cuối bài thơ Đồng chí của Chính Hữu.
2. Từ hiểu biết về bài Đồng chí của Chính Hữu, em hãy viết một đoan văn theo luận đề :
Đồng chí mang một vẻ đẹp của thời đại mới.
. Bài văn tham khảo
Là ngời lính thuộc trung đoàn thủ đô rồi trở thành nhà thơ quân đội, Chính Hữu chủ yếu
viết về ngời lính và hai cuộc kháng chiến. Đồng chí đợc sáng tác năm 1948, là bài thơ thành
công nhất của ông. Cả bài thơ thể hiện rõ tình đồng đội, đồng chí gắn bó keo sơn của những
chiến sĩ quân đội nhân dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Bài thơ mở đầu bằng những câu thơ mộc mạc, giản dị, chân chất khi tác giả giới thiệu về
quê hơng của các anh bộ đội. Các anh mỗi ngời một quê - những vùng quê nghèo khó - song
đã về đây để cùng tham gia kháng chiến, cùng chịu đựng gian khổ, chung lng đấu cật bên
nhau
Cuộc sống ngời lính vất vả biết bao nhiêu. Nào : áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh
vá Lại nữa, những đêm trời rét chỉ có một mảnh chăn mỏng hay những cơn sốt rét rừng
hành hạ Vợt lên trên tất cả những khó khăn đó để "Thơng nhau tay nắm lấy bàn tay".
Chính đôi tay nắm chặt ấy đã nói lên ý nghĩa thiêng liêng, cao đẹp của tình đồng đội, của ý
chí quyết tâm đánh giặc
Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh đặc sắc :
Đêm nay rừng hoang sơng muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Ba câu thơ là bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của ngời lính, là biểu tợng đẹp
về cuộc đời ngời chiến sĩ. Trong bức tranh trên, nổi bật là ba hình ảnh gắn kết với nhau : Ng-
ời lính, khẩu súng, vầng trăng giữa cảnh rừng hoang sơng muối phục kích giặc. Sức mạnh
của tình đồng đội đã giúp họ vợt lên tất cả những khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ,

thiếu thốn. Tình đồng chí đã sởi ấm lòng họ. Hình ảnh Đầu súng trăng treo là hình ảnh đẹp
nhất vì nó vừa là hình ảnh thực vừa là hình ảnh tợng trng
Tác giả Chính Hữu đã từng nói : "Đầu súng trăng treo, ngoài hình ảnh, bốn chữ này
còn có nhịp điệu nh lắc của một cái gì lơ lửng chông chênh trong sự bát ngát. Nó nói lên một
cái gì lơ lửng ở rất xa chứ không phải là buộc chặt, suốt đêm vầng trăng ở bầu trời cao
xuống thấp dần và có lúc nh treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc,
vầng trăng nh một ngời bạn" Đó là hình ảnh thực của cuộc kháng chiến, của những ngời lính
khi chờ giặc tới.
Ngoài tả thực, hình ảnh "Đầu súng trăng treo" còn mang ý nghĩa tợng trng. Đó là sự kết
hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, vừa thực, vừa mơ, vừa xa vừa gần, vừa mang tính
chiến đấu, vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa thi sĩ. Đây là hình ảnh tợng trng cho tình
cảm trong sáng của ngời chiến sĩ. Mối tình đồng chí đang nảy nở, vơn cao, tỏa sáng từ cuộc
đời chiến đấu. Hình ảnh thơ thật độc đáo, gây xúc động bất ngờ, thú vị cho ngời đọc. Nó nói
lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục đích lí tởng chiến đấu và tình nghĩa thiêng liêng của anh
bộ đội Cụ Hồ.
Với nhịp chậm, giọng thơ hơi cao, ba câu thơ cuối của bài một lần nữa khắc họa chân
thực mà sâu sắc về hình ảnh ngời lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Tình cảm đồng chí, đồng đội là tình cảm thiêng liêng cao đẹp nhất của những ngời
lính. Đó là sức mạnh giúp họ vợt qua tất cả mọi khó khăn trở ngại, mọi thiếu thốn để chiến
thắng kẻ thù. Bài thơ Đồng chí đặc biệt là ba câu kết nh một lời nhắn nhủ với mọi ngời : Hãy
biết nâng niu và gìn giữ những tình cảm đẹp trong cuộc sống, phải biết kính trọng những ng-
ời lính
2. Bài văn tham khảo
Vẻ đẹp của thời đại mới trong hình tợng thơ ở đây là tình đồng chí, đồng đội gắn với
giai cấp của ngời lính. Cả bài thơ khai thác đời sống nội tâm, tình cảm của ngời lính. Vẻ đẹp
của bài thơ Đồng chí là vẻ đẹp đời sống tâm hồn ngời lính, nơi phát ra vầng ánh sáng lung
linh nhất là tình đồng chí đồng đội : "Thơng nhau tay nắm lấy bàn tay". Chỉ cần thơng nhau
tay nắm lấy bàn tay là đủ hơi ấm để chống chọi với cái rét run ngời nơi đại ngàn. Những đêm
rừng hoang sơng muối Trong cái cầm tay nhau ấy, hình ảnh đất nớc và tinh thần đoàn kết
giai cấp đợc diễn đạt thật cao đẹp, cô đọng và thuyết phục. Chính tình cảm cao đẹp và lí tởng

sáng ngời "Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới" đó mà những ngời lính đợc nâng lên tầm cao
khái quát trong đó có sự hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn, trữ tình. Đầu súng trăng treo
mang ý nghĩa sâu sắc cho tinh thần thời đại.
Đề số 4
Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đã cho thấy hành trang mang
theo con đờng ra trận là trái tim yêu nớc. ý kiến của em ?
Bài văn tham khảo
Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm
kháng chiến chống Mĩ. Bản thân là anh bộ đội Trờng Sơn, tác giả cảm thông và hiểu rõ tâm
tình ngời lính, nhất là ngời chiến sĩ vận tải dọc Trờng Sơn chở vũ khí, quân trang từ hậu ph-
ơng lớn ra tiền tuyến lớn. Cùng với thế hệ thanh niên hăng hái "Xẻ dọc trờng sơn đi cứu nớc /
Mà lòng phơi phới dậy tơng lai" Phạm Tiến Duật mang niềm vui hăm hở của tuổi trẻ ra chiến
trờng. Nhà thơ đã tạo cho mình một giọng điệu thơ rất lính : khỏe khoắn, tự nhiên, tràn đầy
sức sống, tinh nghịch tơi vui mà giàu suy tởng. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tác phẩm
tiêu biểu nhất của giọng thơ ấy, của hồn thơ ấy.
Kết cấu của bài thơ là hành trình của con đờng ra trận. Hành trình đó có những lúc dãi dầu
nắng ma, có những ngày vợt suối băng đèo và có tiếng reo cời trong tình thân chan hòa đồng
đội, trong một mái ấm gia đình giữa đất trời bao la. Kết cấu đó trớc hết thể hiện qua số lợng
chữ trong câu :
Mở đầu chặng đờng hành quân là những khó khăn. Vì vậy khổ 1, câu thơ đầu dài ra 10
chữ và kết thúc bằng thanh trắc - hoàn toàn trái quy luật phối thanh bình thờng của thơ vần
nhịp. Nó là điệu nói :
Không có kính không phải vì xe không có kính
Ba câu tiếp theo, khó khăn dần rút lại, tạo nên sự ung dung phong thái đỉnh đạc với số
lợng chữ rút dần xuống và đằm lại về thanh điệu : 8 - 6 - 6, bằng - bằng - trắc.
Hai câu thơ cuối khổ, thanh bằng chiếm tỉ lệ nhiều hơn, khoảng 2/3. Chính sự thắng
thế của thanh bằng đã tạo nên sự thanh thản, ung dung cho khổ thơ mặc dù kết thúc của nó
lại là thanh trắc. Chính thanh trắc này lại mở đờng cho xe đi tới : Nhìn thẳng.
Năm khổ thơ tiếp theo, số lợng câu chữ trở lại bình thờng, hoán đổi đều đặn ở hai kiểu
kết hợp : 7- 8- 8- 7- và 7- 7- 8- 7. Đờng ra trận đẹp lắm, nên xe không kính cứ chạy băng

băng, ngời lái xe đã nhìn thấy, nhìn thấy và thấy. Thấy gió xoa mắt đắng, thấy con đờng
chạy thẳng vào tim. Quan trọng nhất, thấy đợc nụ cời rạng rỡ của nhau. ấy cũng chính là
thấy đợc lòng dũng cảm tiềm ẩn đằng sau những câu đùa vui và hành động tếu táo :
Gặp bạn bè suốt dọc đờng đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi
Khổ thơ có một sự thay đổi đặc biệt so với toàn bài ở số lợng chữ trong câu thơ : 8- 8-
8- 8. Bốn câu thơ 32 chữ chia đều nhau thanh điệu bằng trắc ở bốn chữ cuối và trở lại kiểu
phối âm bình thờng bằng- trắc- trắc- bằng. Câu kết của bài thơ mở rộng bằng sự phối hợp,
luyến láy. Bằng trắc tạo ra sự khẳng định vừa điềm tĩnh vừa kiên nghị :
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Đây là câu thơ mấu chốt của cả khổ thơ và cả bài thơ. Hóa ra tất cả khó khăn thử thách ở
phía trên kia chẳng là gì cả, dù cho bom rơi, pháo thả, dù xe không kính, dù đờng ra mặt trận
có khi đồng nghĩa với cái chết thì ngời lính lái xe ra trận cũng luôn cảm thấy bình yên, an
toàn bởi vì có một trái tim. Đó là trái tim biết thức vì Miền Nam, biết khát khao chân lí, hòa
bình. Hành trang ra trận cần biết bao một trái tim nh thế.
Bài thơ đã khắc họa đậm nét hình ảnh ngời chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam : Đời
chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi. Bài thơ không chứa đựng một ẩn ý sâu xa nào khiến ngời
đọc phải suy luận, nêu giả thiết hoặc là thế này hoặc là thế kia. Tạo dựng hình ảnh thơ bằng
ngôn ngữ thô mộc của đời sống thờng nhật, không sử dụng các loại mĩ từ, mĩ cảm, ẩn dụ, chỉ
ghi lại sự thật về những con ngời và cảm xúc mến yêu, tự hào về họ hình ảnh thơ thể hiện đã
đạt tới độ chân thực cao mà vẫn rất thơ, đó là tài nghệ của Phạm Tiến Duật trong lao động
sáng tạo. Bài thơ có đầy đủ yếu tố cách tân và hiện đại nhng vẫn mang đậm bản sắc của thơ
ca dân tộc, nối tiếp truyền thống của thơ ca cách mạng viết về anh bộ đội trong hai cuộc tr-
ờng chinh cứu nớc vĩ đại của dân tộc ở thế kỉ XX.
Đề số 5
Hình ảnh ngời lính trong hai bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không
kính của Phạm Tiến Duật.
Bài văn tham khảo
Lớp cha trớc lớp con sau
Đã thành đồng chí chung câu quân hành

(Tố Hữu)
Trải qua ba mơi năm chiến tranh vệ quốc vĩ đại, dân tộc ta đã làm nên kỳ tích hào hùng :
đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Có thể nói, nhân vật trung tâm của thời đại đã làm
nên huyền thoại, đó là anh bộ đội Cụ Hồ.
Hình tợng anh bộ đội Cụ Hồ đã trở thành cảm hứng đẹp trong thơ ca hiện đại. Trong số
những bài thơ viết về đề tài này phải kể đến Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội
xe không kính của Phạm Tiến Duật. Hai bài thơ gắn với hai giai đoạn kháng chiến chống
Pháp, chống Mĩ sẽ giúp chúng ta cảm nhận đầy đủ hơn về hình ảnh ngời lính.
Chính Hữu sinh năm 1926. Năm 1946 ông nhập ngũ, là lính trung đoàn Thủ đô. Đầu năm
1948 bài thơ Đồng chí ra đời khi ông là chính trị viên đại đội. Phạm Tiến Duật sinh năm
1941, năm 1964 gia nhập quân đội, hoạt động trên tuyến đờng Trờng sơn. Bài thơ về tiểu đội
xe không kính sáng tác năm 1969.
Hai nhà thơ thuộc hai thế hệ thi nhân nối tiếp nhau trong cuộc trờng chinh của dân tộc. Hai
thi phẩm mà chúng ta đề cập tới đều trong số những tác phẩm tiêu biểu của mỗi giai đoạn
văn học thể hiện thành công hình ảnh ngời chiến sĩ, sẽ còn sống mãi với thời gian.
Đọc Đồng chí, cảm nhận chung của chúng ta là, ngời lính cách mạng trong kháng
chiến chống Pháp xuất thân từ nông dân. Hình ảnh họ đợc Chính Hữu mô tả chân thực, giản
dị mà cao đẹp. Khác với khuynh hớng lãng mạn anh hùng mang dáng dấp tráng sĩ trợng phu
của thơ ca đầu chống Pháp, cảm hứng của Chính Hữu trong Đồng chí hớng về chất thực của
đời sống, khai thác cái đẹp và chất thơ trong cái "đời thực" của cuộc chiến đấu và ngời chiến
sĩ. Cái đẹp trong khó khăn, thiếu thốn và nhất là cái đẹp trong tình đồng chí, đồng đội, thắm
thiết, sâu nặng :
Quê hơng anh nớc mặn đồng chua
làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Tôi với anh đôi ngời xa lạ
Tự phơng trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí !
Đoạn mở đầu này có bảy dòng, theo ba cặp và cuối cùng dồn lại ở một từ : Đồng chí.

Một sự lí giải tình đồng chí của nguời lính. Đó là xuất phát từ sự giống nhau ở cảnh ngộ,
xuất thân từ nghèo khó, là cùng chung mục đích, lí tởng, nhiệm vụ, chia sẻ gian lao (Súng
bên súng đầu sát bên đầu/ Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ ) Một chữ chung khiến
những ngời vốn xa lạ thành đôi tri kỉ và cao hơn là thành đồng chí.
Ngời xa đánh giá tình bạn cao nhất bằng tri kỉ. Chính Hữu nhìn thấy ở anh bộ đội Cụ Hồ
một tình cảm còn sâu sắc hơn, gắn bó hơn - tình đồng chí. Tình cảm này không phải chỉ vì sự
cảm thông sâu xa tâm t, nỗi lòng của nhau mà là cái chung lớn lao.
Tất cả diễn đạt bằng lời không đủ, bao nhiêu lời thân thơng, trìu mến nhất cũng trở
thành sáo rỗng, không chuyên chở nổi sức nặng cảm động giữa những ngời lính, ngời đồng
đội. Vì thế đoạn thơ thứ hai có 10 dòng vẫn theo từng cặp tơng ứng để cuối cùng dồn lại một
hành động thay cho muôn lời : "Thơng nhau tay nắm lấy bàn tay". Tình đồng chí giữa những
ngời lính vệ quốc, nói nh Chính Hữu :
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run ngời vầng trán ớt mồ hôi
áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cời buốt giá
Chân không giày
Là tình cảm của cha ông thuở mới nổi dậy chống Pháp hồi giữa thế kỉ XIX truyền lại.
Tình của những dân ấp, dân lân, "Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm -
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt cha từng ngó" (Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc -
Nguyễn Đình Chiểu). Những con ngời ấy vốn dĩ không đi vào cuộc chiến đấu cam go, thiếu
thốn này bằng óc lãng mạn. Nhng cuộc chiến đấu trên chiến hào bảo vệ Tổ quốc đã khiến họ
thành oai hùng, lãng mạn. Bức tợng đài cuối bài thơ là sự phát triển tất yếu từ tình đồng chí :
Đêm nay rừng hoang sơng muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Đó là cuộc đời thực của những ngời lính nông dân nghèo khổ nơi : nớc mặn đồng chua, đất
cày lên sỏi đá, áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày đợc tình cảm cách mạng
cao đẹp tạc thành dáng hình mới.

Nếu Đồng chí là hình ảnh của anh lính nông dân cha biết chữ thời kì đầu kháng Pháp thì
ngời lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một hóa thân khác. Họ là những thanh
niên học sinh đã qua 20 năm dới mái trờng Miền Bắc đi chiến đấu, giải phóng Miền Nam
thống nhất đất nớc. Ngời chiến sĩ trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính, cũng nh Đồng chí
vẫn cùng bốn phơng hội tụ, nhng với tất cả sự trong sáng, hồn nhiên, vô t. Họ, những ngời
chiến sĩ lái xe, những chiếc xe từ trong bom đạn : đã về đây họp thành tiểu đội : Không có
kính rồi xe không có đèn, không có mui xe Bởi vì : Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi. Nên
phải chịu bao gian khổ : gió, bụi, ma xối xả song :
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trớc
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Tình đồng chí, đồng đội trong bài thơ của Phạm Tiến Duật có cái tên chung là ta, chúng ta.
Tất cả đều là đồng chí : trẻ, khỏe, dũng cảm bất chấp nguy hiểm. Không có kính không phải
vì xe không có kính / bom giật bom rung kính vỡ đi rồi. Nhng : Ung dung buồng lái ta ngồi/
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng /Bụi phun tóc trắng cời ha ha / Ma tuôn mau thôi / Gặp
bè bạn kính vỡ rồi / Họ không cần nhiều tìm hiểu, không cần phải đồng cảnh ngộ, với họ
từ trong bom rơi họp thành tiểu đội. Nếu hình ảnh ngời chiến sĩ trong bài Đồng chí là một
bức tợng đài : Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới/ Đầu súng trăng treo thì ngời lính trong thơ
Phạm Tiến Duật là một phù điêu những khuôn mặt trai trẻ, hồn nhiên. Đồng chí của Chính
Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật là hai tiêu điểm trong các tiêu
điểm của hình tợng ngời lính - Anh bộ đội Cụ Hồ mà thơ ca dựng lên từ 30 năm chiến đấu
gian khổ đến ngày toàn thắng 1975.
Đề số 6
1. Không khí lao động khẩn trơng, khỏe khoắn và tơi vui trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
của Huy Cận.
2. Chép lại theo trí nhớ 4 câu thơ đầu và 4 câu thơ cuối bài Đoàn thuyền đánh cá.
a) Phân tích ý nghĩa của hai hình ảnh thơ Mặt trời xuống biển và Mặt trời đội biển. Bình luận
tính chính xác của hai từ xuống và đội.
b) Trong hai đoạn thơ này, tác giả diễn tả tâm trạng của ai ? Đó là tâm trạng gì ?
Bài văn tham khảo
Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là một "bài thơ cuộc đời". Bài thơ đợc sáng tác năm

1958 nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hòn Gai, Cẩm Phả. Thông qua một đêm đánh cá
của đoàn thuyền lớn trên biển, tác giả ca ngợi kiểu lao động mới mẻ của ngời lao động tràn
đầy lạc quan tin tởng, làm chủ thiên nhiên, biển cả bao la. Qua bài thơ ta cảm nhận đợc
không khí lao động khẩn trơng, hăng say, nhộn nhịp của miền Bắc thời kì xây dựng CNXH.
Bài thơ mở đầu bằng khung cảnh :
Mặt trời xuống biển nh hòn lửa
Giới thiệu một ngày sắp kết thúc, sự vật bắt đầu nghỉ ngơi sau hành trình 12 giờ mệt mỏi.
Thế nhng với con ngời làm nghề đánh cá thì lại khác, dấu hiệu mặt trời xuống biển mở ra
một sự bắt đầu với Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi. Đánh cá trên biển là công việc nặng
nhọc, đầy nguy hiểm. Vậy mà những ngời đánh cá "lại" ra khơi với một tinh thần sảng khoái,
tràn trề niềm vui, phấn chấn :
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Tiếng hát đợc nhắc đi nhắc lại nhiều lần nh một điệp khúc và nó trở thành âm thanh chủ đạo
trong bài thơ :
- Hát rằng : cá bạc biển Đông lặng
- Ta hát bài ca gọi cá vào
Tác giả miêu tả những con cá, những đàn cá gợi nên bức tranh sinh động về biển cả. Hình
ảnh đàn cá lóng lánh màu sắc nh một bức tranh sơn mài.
Giữa khung cảnh mênh mông, rộng lớn, hình ảnh ngời lao động xuất hiện với t thế làm chủ
thiên nhiên, biển cả, làm chủ công việc của mình. Hình ảnh thật khỏe khoắn, rắn chắc :
Sao mờ kéo lới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Bằng cảm hứng lãng mạn, Huy Cận đã tô đậm lên hình ảnh những ngời lao động mới
với tầm vóc ngang tầm vũ trụ và hòa nhập với khung cảnh trời nớc bao la :
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lớt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lới vây giăng
Trên cái không gian bát ngát của trăng, gió, trời, biển ấy, hình ảnh con ngời mới xuất hiện
với chiều kích của không gian. Đó chính là bởi niềm vui hăng say lao động, làm giàu cho Tổ

quốc.
Công việc nặng nhọc của ngời lao động đánh cá đã trở thành bài ca lạc quan, nhịp nhàng
cùng thiên nhiên :
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Tiếng hát bay bổng, chứa chan tình cảm. Bóng trăng xô sóng nớc nh gõ vào mạn thuyền. Cái
hiện thực đã đợc bút pháp lãng mạn chắp cánh làm đẹp thêm công việc đánh cá của ngời lao
động. Con ngời lao động hoà vào thiên nhiên, cất baìo ca giữa thiên nhiên. Bài thơ kết thúc
với cảnh rạng đông khi đoàn thuyền quay trở về :
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
Cuối câu thơ đậm bức tranh sống động, hấp dẫn về thành quả của ngời lao động. Sau một
đêm làm việc vất vả, mệt nhọc, khẩn trơng nay họ đã về bến với hình ảnh mắt cá huy hoàng
cá phơi dài muôn dặm.
Đoàn thuyền đánh cá là khung cảnh lao động đầy khí thế của những con ngời mới, của
cuộc sống mới những tháng ngày hăng say xây dựng CNXH. Bài thơ là bài ca yêu nghề, yêu
đời, yêu cuộc sống, yêu sự nghiệp xây dựng đất nớc của những ngời lao động. Với bút pháp
lãng mạn và cảm hứng không gian quen thuộc, Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là một bài
thơ hay của thơ ca hiện đại sau cách mạng Tháng Tám.
2. Bài văn tham khảo
Khổ thơ đầu :
Mặt trời xuống biển nh hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Khổ thơ kết :
Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời

Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
a) Đoàn thuyền đánh cá là bài thơ nổi tiếng của Huy Cận, lấy cảm hứng từ cuộc sống lao
động đánh cá trên biển Hòn Gai vào cuối những năm 50 của thế kỷ XX. Trong bài thơ này
tác giả sử dụng rất nhiều hình ảnh đẹp, kì vĩ của thiên nhiên, vũ trụ, đặc biệt là hình ảnh "mặt
trời xuống biển" và "mặt trời đội biển" ở khổ thơ đầu và khổ thơ kết. Đây là hai hình ảnh
nghệ thuật đặc sắc góp phần làm nên thành công của bài thơ.
"Mặt trời xuống biển" và "Mặt trời đội biển" là hai không gian, thời gian gắn liền với
hoạt động của đoàn thuyền đánh cá. Đoàn thuyền xuất phát khi biển vào đêm, lúc vũ trụ nghỉ
ngơi là lúc con ngời hoạt động. Đoàn thuyền trở về khi một ngày mới xuất hiện trên biển,
con ngời lao động thật hăng say, nâng lên tầm vóc vũ trụ.
Từ "xuống" rất chính xác, diễn tả cảnh mặt trời lặn, nhng là xuống biển, tức là đoàn
thuyền xuất phát từ đảo xa bờ, không có bóng dáng đất liền, chỉ có bốn bề là biển mênh
mông. Còn từ "đội" ở phần kết cũng rất chính xác vì diễn tả cảnh bình minh trên biển, mặt
trời nh đợc mọc lên từ biển, xuyên qua biển, tạo nên bình minh rực rỡ. Hai hình ảnh này có ý
nghĩa diễn tả đoàn thuyền lênh đênh trên biển, nh thách thức biển khơi.
b) Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là tiếng hát lãng mạn, hăng say lao động trên biển. Cái tôi
trữ tình của nhà thơ hòa vào cái ta chung để diễn tả tâm trạng của những con ngời lao động
mới xây dựng miền Bắc XHCN. Đó là cái chất hào hùng không còn phải cúi mình trớc biển
khơi. Bài thơ đem đến một cảm hứng lạc quan, khắc tạc t thế chiến thắng của con ngời. Họ
lao mình vào biển và đêm trở về trong ánh hào quang. Họ là những con ngời làm chủ thiên
nhiên, làm nên những kì tích.
Đề số 7
1. Hãy chọn một số câu thơ có giá trị nghệ thuật độc đáo trong bài Đoàn thuyền đánh cá của
Huy Cận để viết một bài văn có tiêu đề :
Những hình ảnh thơ tráng lệ và lãng mạn
2. Viết lời bình cho khổ thơ sau đây :
Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
(Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận)
1. Bài văn tham khảo
Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là bài ca tuyệt đẹp của con ngời lao động mới hăng
say, khỏe khoắn giữa thiên nhiên kì ảo. Gam màu chủ yếu của bức tranh thơ này là màu sáng
lóng lánh. Để rồi, khi đọc thi phẩm ta cảm tởng lạc vào đêm hoa đăng chiến thắng trên biển -
hào hùng, tráng lệ và lãng mạn.
Nh bao bài thơ khác của Huy Cận, thiên nhiên xuất hiện trong Đoàn thuyền đánh cá
thật quen thuộc : mặt trời, trăng, sao, gió, mây Tuy nhiên, bằng cái nhìn của thi sĩ XHCN,
đi giữa miền Bắc hòa bình với ngòi bút miêu tả theo phong cách ấn tợng đầy tài năng ở bài
thơ này, thiên nhiên đã trở nên chân thực, sống động mà tráng lệ, rực rỡ kì vĩ, lớn lao mà tinh
tế. Bên cạnh hình ảnh thiên nhiên ấy, con ngời hiện lên khoáng đạt, lãng mạn, tin yêu cuộc
sống và tinh thần hăng hái lao động. Đặt mình vào t cách con ngời lao động trên biển khơi
mênh mông, Huy Cận đã lắng nghe đợc sự hòa hợp tuyệt diệu giữa thiên nhiên và con ngời.
Bài thơ miêu tả hành trình ra khơi và trở về trong thắng lợi của đoàn thuyền đánh cá
gắn với hình ảnh mặt trời tráng lệ : "Mặt trời xuống biển nh hòn lửa" - "Mặt trời đội biển
nhô màu mới". Trong câu thơ đầu tác giả sử dụng hình ảnh ví von vô cùng biểu cảm, giàu sức
gợi và chuẩn xác. Khi mặt trời xuống biển là lúc có hình dáng quả cầu đỏ sẫm. Những tia
sáng phản chiếu dới mặt nớc, lung linh nh hoa lửa. Vẫn mang nét tráng lệ, nhng khác với
hình ảnh mặt trời hoàng hôn ở phần đầu bài thơ, hình ảnh mặt trời ở cuối bài thơ lại là linh
hồn của bình minh và đồng hiện cùng với sự cập bến đầy tốt lành của đoàn thuyền đánh cá.
Hình ảnh bao quát bài thơ cho ta cảm giác về vũ trụ bao la thơ mộng. Đó là mối quan
hệ tơng hợp giữa con ngời với thiên nhiên trong lao động, với mặt trời tráng lệ, với đêm trăng
huyền ảo, với mây trời, sóng nớc và với cá - sinh lực, tinh lực của biển.
Những hình ảnh thơ tráng lệ và lãng mạn trong bài chủ yếu là những hình ảnh miêu tả
trực tiếp thiên nhiên nhng đã gián tiếp làm rõ vẻ đẹp khỏe khoắn, khoáng đạt, tinh thần lao
động hăng say, nhiệt tình của con ngời. Chúng ta hãy đọc những vần thơ :
Câu hát căng buồm cung gió khơi
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Ta hát bài ca gọi cá vào

Đêm thở : sao lùa nớc Hạ Long
Hàng loạt các hình ảnh thiên nhiên hiện ra cùng với hoạt động và tiếng hát của con ng-
ời cùng đa con thuyền lao động tiến vào trùng dơng. Trăng, sao, điểm tô cho bức vẽ con ngời
xông pha vào đại dơng bao la thêm phơi phới hơn. Nhịp điệu lao động của con ngời đã mang
nhịp thiên nhiên, vũ trụ một cách nhịp nhàng, hài hòa. Trong bài thơ : trời, mây, biển cả đợc
tráng lệ hóa để mang hồn lao động, con ngời lao động đợc cao cả hóa để mang tầm vũ trụ.
Gấp trang thơ của Huy Cận lại, những hình ảnh thơ tráng lệ và lãng mạn vẫn còn mãi
trong trí tởng tợng của chúng ta. Với cách sử dụng màu sắc, với cách vận dụng các thủ pháp
ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa và thậm xng, Huy Cận đã sáng tạo nhiều hình ảnh đẹp, đầy ý nghĩa.
Một không gian tráng lệ tràn ngập niềm vui và câu hát, một rạng đông trên biển và một rạng
đông trong lòng ngời, vì đối với Huy Cận "Trời mỗi ngày lại sáng" và "biển đang hát" .
2. Bài văn tham khảo
Đoàn thuyền đánh cá là bài thơ nổi tiếng của Huy Cận sau Cách mạng Tháng Tám, đ-
ợc in trong tập thơ "Trời mỗi ngày lại sáng". Đây là bài thơ có kết cấu độc đáo : đoàn thuyền
đánh cá xuất phát khi đêm xuống trên biển và trở về khi bình minh đón chào một ngày mới
trên biển. Cả bài thơ là bức tranh lao động lung linh sáng đẹp trên biển, vừa là tiếng hát lạc
quan của những chủ nhân biển khơi.
Khổ thơ cuối khép lại bài thơ bằng âm hởng của tiếng hát vui say lao động vẫn ngân
nga trong lòng ngời :
Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
Câu đầu tiên của khổ thơ này đợc lặp lại gần nh nguyên vẹn câu thứ t của khổ thơ đầu
bài thơ, chỉ thay chữ "cùng" bằng chữ "với", nhng đã tạo ra cảm giác tuần hoàn. Câu hát
căng buồm đa thuyền đi thì giờ đây vẫn câu hát căng buồm lại đa thuyền về. Và bây giờ đoàn
thuyền đã trở về trong một t thế mới "chạy đua cùng mặt trời ". Màu nắng chan hòa làm
thành quả lao động thêm rực rỡ. Hình ảnh mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi là sự kết hợp
giữa màu sắc của mắt cá sống động, long lanh và ánh sáng chan hòa của mặt trời. Câu thơ kết
là hay nhất bởi cách dùng chữ thật tài tình : Mặt trời đội biển nhô màu mới - Mắt cá huy

hoàng muôn dặm phơi. Huy Cận miêu tả chính xác chuyển động của mặt trời, chuyển động
từ từ, ban đầu là ánh sáng hừng lên, sau đó mặt trời nhô lên kết thúc một đêm. Khổ thơ này
tạo tơng xứng với mặt trời xuống biển - đoàn thuyền ra khơi ở đầu bài thơ. Và thành quả tốt
đẹp (mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi) chính là cao trào của bài ca lao động.
Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là bài ca ngợi ca lao động, ngợi ca biển trời quê hơng
giàu đẹp cùng những chủ nhân của đất nớc. Sự hài hòa giữa con ngời, thiên nhiên, tấm lòng,
tình cảm của nhà thơ trong một trí tởng tợng phong phú đã giúp thơ gây đợc sức hấp dẫn, ấn
tợng về cuộc sống mới và con ngời mới.
Đề số 8
1. Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt
2. Bằng một bài văn ngắn, hãy viết cảm nhận của em về hình ảnh ngời bà trong bài thơ Bếp
lửa.
1. Bài văn tham khảo
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tơng
Đó là tâm trạng của những ngời xa quê. Những cái bình thờng quen thuộc hàng ngày
tởng chừng nh chẳng có gì đáng nhớ nhng đến khi xa rồi mới biết chẳng thể nào quên. Nhng
nỗi nhớ quê ấy ở mỗi ngời có những sắc thái cảm xúc khác nhau. Có khi là hình ảnh dung dị
một bát canh rau muống, một chén cà dầm tơng, Có khi lại là một ánh trăng quê Còn
riêng với Bằng Việt, trong những năm tháng du học ở Liên xô, nhà thơ nhớ da diết bếp lửa
của bà :
Một bếp lửa chờn vờn sơng sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đợm
Cảm xúc về bếp lửa của Bằng Việt bắt đầu từ đây. Chúng ta hãy cùng đọc và khẽ
ngâm lên từng lời thơ để hòa nhập hồn mình bâng khuâng theo dòng cảm xúc đang trào dâng
của tác giả.
Thật xúc động biết bao ! Từ một đất nớc công nghiệp chỉ toàn bếp điện, bếp hơi, với
những ống khói con tàu, tác giả nhớ về một bếp lửa đang chờn vờn trong sơng sớm. Và từ bếp
lửa, nhớ đến kỉ niệm ấu thơ : Cháu thơng bà biết mấy nắng ma. Cả một thiên hồi ức hiện về
trong tâm trí nhà thơ, suốt một quãng đời vất vả bà cháu bên nhau : Mới lên bốn tuổi đã quen

mùi khói. Làng đói kém, bố đi đánh xe thật vất vả - Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay. Hồi t-
ởng những năm tháng bà cháu cùng sớm hôm có nhau. Bà kể chuyện những ngày ở Huế, bà
dạy cháu làm, bà chăm cháu học, bà dặn cháu viết th cho bố ở chiến khu, bà sớm chiều nhen
bếp lửa Lời kể sao mà tha thiết thế ! Nó gợi trong lòng ngời bao niềm xúc động sâu xa.
Làm sao quên đợc : Những năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi. Bà đã dặn cháu :
Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày có viết th chớ kẻ này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn đợc bình yên
Hình ảnh ngời bà hiện lên trong lời thơ ấy đẹp làm sao ! Bà lúc nào cũng sẵn sàng chịu
đựng. Bà là thế đấy! Suốt một đời tận tụy vì con, vì cháu. Nhng không chỉ có thế. Vợt lên
trên tình thơng ấy, bà còn là ngời làm việc âm thầm, lặng lẽ, biểu lộ ý thức trách nhiệm của
mình với Tổ quốc. Bà đã cùng chịu đựng gian khổ, cùng chia sẻ hi sinh cho cuộc kháng chiến
này. Càng lớn khôn, tác giả càng nhận thức rõ tấm lòng cao quí của bà. Ngời đã lận đận biết
mấy nắng ma để nhen nhóm trong lòng đứa cháu yêu quí của mình ngay từ tuổi thơ một tình
cảm rộng lớn hơn tình bà cháu thông thờng, đó là một ngọn lửa chứa chan niềm tin dai dẳng
đối với đất nớc, con ngời :
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đợm
Nhóm niềm thơng yêu khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng bếp lửa
Hình ảnh bếp lửa đợc lặp lại nhiều trong bài thơ có giá trị tu từ độc đáo. Đây là hình
ảnh tả thực trong cuộc sống đời thờng. Song, đối với ngời đi xa quê hơng lại là một dấu ấn
khó phai mờ - Bởi vì chính bên cạnh bếp lửa hồng ấy, hình ảnh ngời bà, "chập chờn trong s-
ơng sớm" in đậm tâm trí tác giả từ tuổi nhỏ. Nhờ bếp lửa mà thời ấu thơ của tác giả êm đềm,
ấm áp nh những câu chuyện cổ tích mà bà thờng hay kể. Bếp lửa và ngời bà chính là nguồn
sáng tâm hồn, nuôi dỡng tình cảm thơng yêu cho ngời cháu.
Điều đáng nói nhất về bài thơ chính là ý nghĩa tợng trng của hình tợng bếp lửa. Đó là
ngọn lửa niềm tin, ngọn lửa tình yêu, ngọn lửa của tâm hồn dân tộc đã nhóm lên trong tâm
hồn trẻ thơ những cảm xúc và suy nghĩ chân tình, đẹp đẽ. Hình ảnh bếp lửa trong quá khứ,

trong hiện tại đan cài vào nhau, nâng cảm xúc và t duy nhà thơ bay bổng dạt dào, hớng về gia
đình, về nguồn cội, về quê hơng đất nớc. Sức hấp dẫn của bài thơ chính là ở đó. Với giọng
thơ ân tình tha thiết, nhà thơ hồi tởng những năm tháng cùng bà "nhóm lửa". Hình ảnh chim
tu hú kêu trên những cánh đồng xa gợi lên không khí của một buổi sớm tinh mơ, vắng vẻ,
quạnh hiu Cùng với hình ảnh chim tu hú, hình ảnh bà cũng hiện lên lụi cụi, vất vả. Các vần
nối tiếp nhau để diễn tả cảm xúc ấy : Xa, nhà, Huế, thế, về tạo âm hởng kéo dài liên tục
không dứt. Nhạc điệu buồn, tha thiết, trầm lặng thể hiện nỗi nhớ nhung bà :
Giờ cháu đi xa có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên cha ?
Chính tình bà cháu cao đẹp và thiêng liêng kì diệu đã nhen nhóm trong lòng nhà thơ
niềm tin yêu cuộc sống, con ngời, tình yêu quê hơng đất nớc. Đây là một bài thơ dạt dào cảm
xúc. Tác giả đã khéo léo sử dụng cách gieo vần, láy điệp từ và những hình ảnh có sức liên t-
ởng độc đáo tạo nên giá trị cho bài thơ. Ta cảm nhận đợc tấm lòng biết ơn, nỗi nhớ nhung
của nhà thơ giành cho bà yêu dấu của mình. Bếp lửa đã khơi dậy trong ta một tình cảm cao
đẹp đối với gia đình, quê hơng, đất nớc. Đặc biệt là lòng biết ơn sâu nặng đối với bà.
2. Bài văn tham khảo
Bếp lửa tái hiện hình ảnh ngời bà quen thuộc, yêu thơng mà trong thơ hiện đại không
phải dễ gặp.
Bẳng Việt đã đem đến một biểu tợng tình bà yêu cháu vô cùng sâu nặng. Đó là những
tháng năm xa chỉ còn trong kí ức, mẹ cha bận công tác, giữa thời bom đạn, bà chăm chút,
yêu thơng dạy bảo cháu nên ngời. Bà là nguồn sống gia đình, là những gì tảo tần, nhẫn nại,
giàu niềm tin, hết lòng yêu thơng, chăm lo, chi chút cho cháu và gia đình. Bà là ngọn lửa của
tình thơng hạnh phúc con cháu. Bà khơi dậy và làm bùng lên khát vọng. Hành động nhóm
bếp không chỉ là hình ảnh đời thờng ấm áp mà chính là ngọn lửa của sự sống. Khi viết những
dòng thơ Bếp lửa, tác giả đang ở xa Tổ quốc và đã trởng thành. Đây là một bài thơ thật sự sâu
sắc về tình yêu đất nớc, quê hơng trong hình ảnh dung dị của bà. Bà ta cũng nh mẹ ta không
ra chiến trờng, lập nên chiến công lừng lẫy nhng là nơi giữ gìn cội nguồn bền chắc cho mỗi
chúng ta khi bay cao, bay xa.

Hồi ức về những ngời thân yêu bao giờ cũng sinh động, ta càng rời xa tuổi thơ thì kỉ
niệm càng thân thiết, gần gũi, cảm động. Bếp lửa là một hồi ức tuyệt đẹp về bà, nhắc nhở
mỗi ngời về một tình yêu thân thiết trong tâm hồn và trái tim những ngời Việt Nam yêu nớc.
Đề số 9
1. Phân tích hình ảnh ngời mẹ trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lng mẹ của
Nguyễn Khoa Điềm
2. Phân tích đoạn thơ :
Em Cu Tai ngủ trên lng mẹ ơi

Lng đa nôi và tim hát thành lời
(Khúc hát ru những em bé lớn trên lng mẹ)
. Bài văn tham khảo
Khúc hát ru những em bé lớn trên lng mẹ đợc Nguyễn Khoa Điềm sáng tác vào ngày
25 tháng 3 năm 1971, là một trong số những bài thơ hay của ông. Nổi bật trong bài là hình
ảnh ngời mẹ Tà Ôi nh là biểu tợng về ngời mẹ Việt Nam anh hùng. Đó là một con ngời rất
mực thơng con nhng cũng vô cùng yêu nớc. Dờng nh đứa con yêu quí và đất nớc thân thơng
nuôi con nên ngời và đánh giặc giải phóng quê hơng là những gì trọng đại nhất cao quí nhất
của ngời mẹ này trong những năm đất nớc phải gồng mình chống đế quốc Mĩ xâm lợc.
Bài thơ đồng thời là lời hát ru. Tác giả ru em Cu Tai ngủ ngoan (đồng thời miêu tả hình
ảnh ngời mẹ). Ngời mẹ trong bài ru em ngủ ngoan nhng đó là lời ru thầm, lời ru trong tim (L-
ng đa nôi và tim hát thành lời). Lời ru của tác giả và lời ru của ngời mẹ nối tiếp nhau, đan
cài, hoà quyện vào nhau làm nên những khúc hát ru vừa đằm thắm, dịu dàng, vừa trầm t, sâu
lắng. Vì kết cấu bài thơ nh những khúc hát ru nên bài thơ cứ trở đi trở lại một số khúc giống
nhau nh những nét nhạc chủ đạo trong một bài hát. Bài thơ có ba khúc ru. Mỗi khúc hát ru là
một đoạn thơ. ở đoạn thơ thứ nhất, ngời mẹ ru con khi địu con trên lng và giã gạo nuôi bộ
đội. Giấc ngủ của em nghiêng nghiêng theo nhịp chày, thấm mồ hôi lao động vất cả của mẹ.
Ngời mẹ Tà Ôi thơng con nhất mực không lúc nào chịu rời con đã lấy lng làm nôi và đôi vai
gầy làm gối cho con. Và lời ru con của mẹ cất lên bên cối gạo giữa sàn nhà cũng chính là lời
tâm sự, lời tự nhủ, lời mẹ thầm nói với chính mình. Lòng yêu con của mẹ gắn liền với tình th-
ơng yêu bộ đội :

Mẹ thơng A Kay, mẹ thơng bộ đội
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sân
Ước mơ của ngời mẹ nối liền với giấc mơ của con và cùng hội tụ lại trong tình thơng
yêu sâu sắc những anh bộ đội. Trong đoạn thơ thứ hai, bà mẹ Tà Ôi địu con đi tỉa bắp trên
núi Ka Li. Tình thơng yêu và niềm hi vọng vô bờ của ngời mẹ đối với đứa con đợc thể hiện
bằng lời và những hình ảnh độc đáo :
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ con nằm trên lng.
Trong câu thơ trên hình ảnh mặt trời là một hình ảnh thực. Mặt trời đem lại ánh sáng, sự
sống cho cây cỏ, làm cho cây cỏ thêm tơi tốt, nh cây ngô bắp to, hạt mẩy. Hình ảnh mặt trời
ở câu thơ sau là ẩn dụ. Tác giả so sánh ngầm Cu Tai là mặt trời của mẹ. Coi con nh mặt trời
thì quả là lòng mẹ yêu quí con vô hạn, mong đợi ở con rất nhiều. Đó là ánh sáng, là nguồn
sống, là niềm vui, là niềm hạnh phúc, là tất cả tơng lai của mẹ. Hai câu thơ, hai hình ảnh tôn
nhau lên, đối ý với nhau, đã làm nổi bật tình thơng yêu sâu sắc và niềm hi vọng lớn lao của
ngời mẹ đối với đứa con. Lời ru của ngời mẹ Tà Ôi ngân nga trong trái tim mẹ khi mẹ địu
con đi tỉa bắp vẫn hớng về đứa con thơ yêu quí của mình. Lòng thơng yêu con của mẹ trong
hoàn cảnh này gắn liền với tình thơng yêu dân làng - những ngời dân lao động nghèo đói :
Mẹ thơng A Kay, Mẹ thơng làng đói
Con mơ cho mẹ hạy bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mời Ka Li .
Trong đoạn thơ thứ ba, ngời mẹ địu con trong t thế đang chuyển lán , đạp rừng . Bà
mẹ băng rừng, địu con trên lng đa con đi để giành trận cuối . Lòng yêu con của mẹ đến đây
gắn liền với lòng yêu nớc : Mẹ thơng A Kay mẹ thơng đất nớc. Ngời mẹ gửi gắm vào giấc
mơ của con niềm khao khát đợc gặp Bác Hồ và mong đất nớc đợc độc lập tự do :
Con mơ cho mẹ đợc gặp Bác Hồ
Mai sau con lớn thành ngời tự do .
Tiếng hát ru con của ngời mẹ Tà Ôi không phải đợc cất lên bên cánh võng hay trên gi-
ờng ấm nệm êm trong phòng ngủ. Tiếng hát ru ấy ngân lên trong trái tim của mẹ khi mẹ địu
con giã gạo, tỉa bắp trên núi, khi mẹ chuyển lán , đạp rừng hoặc trên đờng ra chiến trờng

để giành trận cuối. Nh vậy, bà mẹ Tà Ôi là một ngời mẹ lao động, trực tiếp sản xuất, phục vụ
cho chiến đấu của toàn dân tộc. Tình thơng con, thơng bộ đội, thơng dân làng, thơng đất nớc
hoà quyện vào nhau trong tấm lòng của một ngời mẹ miền núi yêu nớc trong những năm
tháng chống Mĩ khó khăn, gian khổ.
Theo lời ru (và cũng là tình yêu thơng của mẹ), theo bớc chân của ngời mẹ Tà Ôi, không
gian cũng đợc mở rộng dần: từ sân (khi mẹ giã gạo) đến ngọn núi Ka Li (khi mẹ đi tỉa bắp)
rồi đến những rừng những suối khi mẹ chuyển lán đạp rừng. Và ớc mơ, khát vọng của ngời
mẹ gửi gắm qua lời hát ru tha thiết, nặng tình nặng nghĩa ấy cũng mỗi lúc một lớn dần :
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần đến Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều Từ mong
muốn Mai sau con lớn vung chày lún sân đến Mai sau con lớn phát mời Ka Li cuối cùng
cũng bùng lên thành một khát vọng cháy bỏng Mai sau con lớn làm ngời tự do. Tinh thần,
không khí sục sôi của đất nớc trong những năm tháng đánh Mĩ đã đi vào lời hát ru của những
bà mẹ. Cuộc chiến tranh nhân dân khiến cả đến những bà mẹ miền núi có con nhỏ vào cuộc
chiến đấu hi sinh, gian khổ. Biết bao em bé đã lớn trên lng mẹ đi đến chiến tr ờng và
trong số họ không ít những ngời đã thành những anh hùng dũng sĩ. Qua những khúc hát ru
với những điệp khúc đã trở đi trở lại nhng vẫn có sự biến hoá phát triển, Nguyễn Khoa Điềm
đã thể hiện thật sinh động, ám ảnh đầy sức mạnh nghệ thuật về tình mẹ con và khát vọng
mãnh liệt độc lập tự do của toàn dân tộc.
2. Bài văn tham khảo
Nhà thơ Nguyễn Duy đã viết :
Ta đi trọn kiếp con ngời
Vẫn cha đi hết những lời mẹ ru
Lời ru của mẹ chính là nguồn năng lợng tinh thần để giúp mỗi chúng ta trởng thành
nên ngời. Bởi thế cảm xúc về lời ru của mẹ đã đi vào nghệ thuật và thơ ca. Nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm cũng xuất phát từ truyền thống này nhng có sự sáng tạo rất mới với Khúc hát ru
những em bé lớn trên lng mẹ.
Bài thơ đợc viết năm 1971 in trong tập "Đất và khát vọng". Cảm xúc bao trùm bài thơ
là tình cảm chân thành của tác giả về hình ảnh ngời mẹ dân tộc Tà Ôi với tình thơng con, th-
ơng bộ đội, yêu đất nớc.
Đoạn thơ mở đầu chính là lời hát ru của tác giả nói về hình ảnh mẹ giã gạo nuôi bộ đội và

rất yêu thơng con :
Em cu Tai ngủ trên lng mẹ ơi

Lng đa nôi và tim hát thành lời
Mở đầu là điệp khúc ngọt ngào tha thiết: Em Cu Tai ngủ trên lng mẹ ơi/ Em ngủ cho
ngoan đừng rời lng mẹ.Tác giả vỗ về em Cu Tai ngủ bởi vì : mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội, nhịp
chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng. Tiếng ru con ngủ "nghiêng" theo nhịp chày làm cho giấc
ngủ của em cũng "nghiêng" theo. Con cũng đang chia sẻ theo công việc của ngời mẹ. Vì sự
nghiệp chung của toàn dân tộc kháng chiến chống Mĩ.
Đặc biệt hình ảnh mẹ đợc diễn tả chân thật và xúc động.
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lng đa nôi và tim hát thành lời
Hàng loạt các hoán dụ : mồ hôi, vai, lng, má, tim, đợc sử dụng rất đắt thể hiện trái tim
yêu thơng mênh mông của ngời mẹ nghèo. Đặc biệt là các hình ảnh "mẹ nôi đa. Vai mẹ là
gối, lng mẹ là nôi để con lớn lên, tim mẹ dạt dào tình mẫu tử hát thành lời. Đó là tiếng hát từ
trái tim, từ cảm xúc yêu thơng con và tình yêu đất nớc của ngời mẹ.
Qua đoạn thơ thứ nhất, khúc hát ru của tác giả, ta thấy đợc tình cảm chân thành của ngời
mẹ nghèo vất vả, lam lũ nhng thơng con, yêu nớc. Ngời mẹ Tà Ôi đã trở thành biểu tợng của
đất nớc.
Đề số 10
1. Viết về những kỉ niệm sâu sắc với bà kính yêu trong đó có sử dụng yếu tố nghị luận.
2. Từ hai câu thơ :
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lng
Hãy viết một bài văn với nhan đề : Mặt trời của mẹ
1. Bài văn tham khảo
Bố mẹ tôi đều làm ruộng nên ngày ấy nhà tôi nghèo lắm. Bấy giờ, bà nội tôi tuy tuổi đã
cao, những vẫn còn khoẻ mạnh nên bà thờng đỡ đần bố mẹ tôi công việc nội trợ, bếp núc. Bà
tôi bảo : Đối với con ng ời, hạt gạo là quí giá nhất !. Mỗi lần đong gạo từ thùng ra cái rá, bà

tôi thờng làm rất thong thả, cẩn thận : không bao giờ để vơng vãi hạt nào ra ngoài. Một lần
bà tôi bị mệt nên tôi phải lo chuyện cơm nớc. Khi tôi bê cái rá gạo ra cửa, chẳng may trợt
chân, nhng vẫn gợng gạo đi, chỉ có vài ba hạt gạo văng ra ngoài. Tôi thản nhiên đi xuống bếp
nấu cơm. Xong việc, tôi định bụng khoe với bà về cái sự giỏi giang của mình thì Tôi bỗng
đứng sững Bà tôi đang chống gậy dò đi từng bớc để nhặt các hạt gạo vơng vãi trên nền
nhà Tôi vội chạy lại đỡ bà, nói : Bà ơi có mấy hạt gạo bõ bèn gì mà bà phải khổ sở thế ?.
Bà tôi thều thào : Cháu ơi thóc gạo là Đức Phật đấy Không có nó thì cũng chẳng có ai
hơng khói nơi cửa Phật đâu . Lúc ấy, tôi cha hiểu câu nói của bà lắm, nhng bây giờ tôi đã
hiểu Suốt một đời tần tảo lam lũ, bà tôi không có gì cả đâu, ngoài những hạt thóc do chính
bà làm ra bằng một nắng hai sơng và cũng chính do bà xay, giã, giần, sàng.
2. Bài văn tham khảo
Khúc hát ru những em bé lớn trên lng mẹ đợc Nguyễn Khoa Điềm sáng tác năm 1971, là
một tợng đài bằng thơ khắc hoạ hình ảnh ngời mẹ Việt Nam anh hùng trong chống Mĩ cứu n-
ớc. Tình yêu nớc thiết tha, tình mẹ con ruột thịt sâu nặng tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ và
một trong những câu thơ trong đó đã làm rung động hàng triệu trái tim bạn đọc :
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lng .
Điều lí thú ở đây là cách t duy rất cụ thể của bà mẹ Tà Ôi. Trong suy nghĩ của mẹ, mặt
trời là của bắp và con là mặt trời của mẹ. Những cây bắp đang lớn lên từng ngày trên nơng
rộng lớn kia là nhờ công sức của mẹ, nhờ có nguồn sáng, hơi ấm vô tận nhận đợc hàng ngày
từ mặt trời tự nhiên. Còn em Cu Tai, đứa con bé bỏng, nhng lại là nguồn sáng, nguồn năng l-
ợng to lớn không thể thiếu đợc của đời mẹ. Nhờ có đứa con ngủ yên trên lng này, mà với sức
vóc dù nhỏ yếu, mẹ vẫn lao động hăng say, vẫn giã gạo, để nuôi bộ đội. Ta hiểu những hạt
gạo nuôi quân trắng trong nhờ nhịp chày của mẹ đã góp phần không nhỏ vào chiến công của
các chiến sĩ ngoài mặt trận. Rồi cũng nhờ có em Cu Tai ngủ ngoan không rời lng mẹ, mà dù
lng núi thì to, lng mẹ thì nhỏ, mẹ vẫn kiên trì gieo tỉa để những hạt bắp mọc xanh núi Ka Li.
Phép tu từ so sánh và tu từ ẩn dụ khiến cho hình ảnh thơ hiện lên thật giản dị mà cũng
thật giàu ý nghĩa. Trên cái nền xanh của cây bắp mênh mông lng núi ngút ngàn, lồng lộng
một ngời mẹ lng địu con đang lao động say sa. Trên cao là mặt trời toả sáng, trên lng mẹ là
gơng mặt đứa con cũng đang ngời sáng trong giấc ngủ say sa.

Hình ảnh mặt trời của mẹ sẽ mãi đi vào thơ ca nh biểu tợng nghệ thuật về tình mẫu tử,
về ngời mẹ - chiến sĩ trong những tháng năm chống Mĩ cứu nớc.
Đề số 11
Từ bài thơ ánh trăng của Nguyễn Duy hãy viết về những suy t của ngời lính sau chiến
tranh.
Bài văn tham khảo
Cuộc kháng chiến đã qua đi, ngời lính trong chiến tranh giờ đây đã về với cuộc sống
hàng ngày. Sự bận rộn hôm nay khiến ngời ta quên lãng quá khứ. Nhng có một lúc nào đó
trong đời thờng những kỉ niệm chiến tranh lại nh những thớc phim quay chậm hiện về.
Nguyễn Duy gửi tới bạn đọc thi phẩm ánh trăng cũng chính là gửi tới bạn đọc thông điệp :
Không nên sống vô tình, phải biết thủy chung nghĩa tình cùng quá khứ.
Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ .
Hình ảnh những đồng, sông, bể, rừng nguyên sơ, thuần hậu trong khổ thơ đầu này là nơi
đã nuôi dỡng, che chở cho tuổi thơ và năm tháng chiến tranh, cả một quãng đờng dài sống
trong tình thơng yêu, gắn bó với thiên nhiên, với những miền quê ấy, vầng trăng thành tri kỉ.
Trăng nh mái nhà, nh ngời bạn thân thiết của tâm hồn. ở đó tâm hồn tình cảm con ngời cũng
đơn sơ thuần phác nh chính thiên nhiên. Trăng và ngời đã tạo nên mối giao tiếp, giao hoà
thủy chung tởng nh không bao giờ có thể quên đợc.
Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện cửa gơng
Vầng trăng đi qua ngõ
Nh ngời dng qua đờng .
Khi chiến tranh kết thúc. Ngời lính trở về bị hấp dẫn bởi đô thị, với ánh điện, cửa gơng,
những ánh sáng nhân tạo đã làm họ quên đi ánh sáng tự nhiên hiền dịu của trăng. Cuộc sống
hiện đại với nhiều tiện nghi đã làm cho con ngời thờ ơ, vô tình với những ngày gian khổ,
cùng đồng đội, đồng chí chung một chiến hào mà trăng là biểu tợng.
Vầng trăng đi qua ngõ

Nh ngời dng qua đờng.
Từ hình ảnh vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa trở thành ngời dng qua đờng,
Nguyễn Duy đã diễn tả đợc cái đổi thay của lòng ngời, cái lãng quên, dửng dng cùng thời
gian xa mặt cách lòng đến phũ phàng. So sánh thật thấm thía: nh ngời dng qua đờng.
Cũng nh dòng sông có khúc phẳng lặng êm đềm, cũng có khúc ghềnh thác dữ dội. Cuộc
đời vốn cũng nhiều biến động. Ghi lại một tình huống, cuộc sống nơi thị thành của những
con ngời từ rừng về thành phố, Nguyễn Duy đặt con ngời vào bối cảnh.
Thình lình đèn điện tắt
Phòng buynh đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn .
Khi ánh trăng nhân tạo vụt tắt, bóng tối bao trùm khắp không gian thì vầng trăng xuất
hiện khiến con ngời ngỡ ngàng trớc ánh trăng thân thơng của tuổi thơ trên những nẻo đờng ta
sống và trong cuộc chiến gian khổ, ác liệt. Cuộc sống hiện đại làm cho lòng ngời thay đổi
Trớc ngời bạn vô tình ấy, trăng chẳng nói, chẳng trách khiến ngời lính cảm thấy có cái gì rng
rng. ánh trăng soi chiếu khiến ngời ta nhận ra độ lệch của nhân cách mình.
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi ngời vô tình
ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình .
ánh trăng trớc sau vẫn vậy mộc mạc, giản dị và thủy chung. Trăng lặng lẽ tròn đầy một
cách trong sáng, vô t, mặc cho thời gian trôi, mặc cho bạn bầu xa ai đó quay lng dù trong quá
khứ vốn là tri kỉ. Nhng trăng cũng khơi gợi niềm xúc động, đánh thức lơng tâm ở con ngời.
Cái giật mình đợc diễn tả trong khổ thơ vô ngôn thể hiện sự thức tỉnh đáng quí này. Qua
bài thơ, Nguyễn Duy đã khám phá ra vẻ đẹp không bao giờ kết thúc của lơng tri. Dờng nh
cuộc sống mới đầy đủ hơn khiến cho con ngời lãng quên ánh trăng. Hành trình đi tìm những
hạt ngọc ẩn dấu trong tâm hồn con ngời không bao giờ ngơi nghỉ và việc hoàn thiện mình
của chính mỗi con ngời cũng không phải một sớm một chiều.
Cuộc đấu tranh hớng thiện âm thầm mà khốc liệt, nó đòi hỏi lòng dũng cảm của con ng-
ời. Ngời lính năm xa đã dành trọn quá khứ soi mình trong hiện tại để đấu tranh loại bỏ sự vô

tình vô nghĩa của bản thân, hớng tới sự cao cả, tốt đẹp.
ánh trăng là bài thơ không quên về quá trình hớng thiện, quá trình hoàn thiện mình
của mỗi con ngời trong cuộc sống hôm nay.
Đề số 12
1. Phân tích bài thơ ánh trăng của Nguyễn Duy để cảm nhận đợc bài học sâu sắc mà tác giả
muốn gửi gắm.
2. Viết lời bình cho đoạn thơ sau :
Ngửa mặt lên nhìn mặt

Đủ cho ta giật mình
(ánh trăng, Nguyễn Duy)
1. Bài văn tham khảo
Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu n-
ớc. Nguyễn Duy nổi tiếng với các bài thơ nh : Tre Việt Nam, Hơi ấm ổ rơm, Hiện
nay, Nguyễn Duy vẫn tiếp tục sáng tác, ông viết đều những bài thơ tài hoa, đậm chất suy t.
ánh trăng (1978) là một trong những bài thơ của Nguyễn Duy đợc nhiều ngời a thích
bởi tình cảm chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ, mới lạ.
Hai khổ thơ đầu, tác giả nhắc đến những kỉ niệm đẹp :
Hồi nhỏ sống với đồng.
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ .

×