Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC MÔN CƠ SỞ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.71 KB, 81 trang )

HƯỚNG DẪN ÔN THI CAO HỌC TRIẾT HỌC – MÔN CƠ SỞ - THS HOĂNG NGỌC VĨNH - 2013
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
♣♥♣
GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH
ĐỀ CƯƠNG ÔN THI TUYỂN SINH
SAU ĐẠI HỌCMÔN CƠ SỞ: LỊCH SỬ
TRIẾT HỌC
HUẾ 5/2013
ĐỀ CƯƠNG CHƯƠNG TRÌNH THI TUYỂN CAO HỌC
VÀ NGHIÊN CỨU SINH
1

HƯỚNG DẪN ÔN THI CAO HỌC TRIẾT HỌC – MÔN CƠ SỞ - THS HOĂNG NGỌC VĨNH - 2013
MÔN CƠ SỞ : LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
(Cho chuyên ngành Triết học)
A. NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH
Chương trình được xây dựng theo trình độ Đại học có bổ sung và nâng cao
với thời lượng 120 tiết (8 ĐVHT) nhằm:
- Giúp học viên hệ thống và phần nào nâng cao những kiến thức cơ bản về
lịch sử triết học đã được trang bị ở bậc đại học.
- Qua nội dung chương trình giúp học viên sẽ tạo được một cơ sở kiến thức
để tiếp thu một chương trình mới được nâng cao về lịch sử triết học ở bậc cao học
và nghiên cứu sinh sau này:
I. LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG CỔ TRUNG ĐẠI
1. Lịch sử triết học Ấn Độ cổ đại.
- Hoàn cảnh lịch sử và đặc điểm triết học Ấn Độ cổ đại.
- Một số trường phái triết học Ấn Độ cổ đại: những tư tưởng triết học cơ
bản trong Veda; triết học Phật giáo
2. Lịch sử triết học Trung Hoa cổ, trung đại.


- Hoàn cảnh lịch sử và đặc điểm triết học Trung Hoa cổ, trung đại.
- Một số trường phái triết học tiêu biểu: Nho gia; Mặc gia; Đạo gia.
II. LỊCH SỬ TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Hoàn cảnh lịch sử và đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại.
2. Một số triết gia tiêu biểu: Hêracơlít; Đêmôcơrít; Platon; Arixtốt.
III. LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI TRUNG CỔ
1. Hoàn cảnh lịch sử và đặc điểm của triết học Tây Âu thời trung cổ.
2. Một số triết gia tiêu biểu: Ôguýtxtan; T. Đacanh; Đơnxcốt.
IV. LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI KỲ PHỤC HƯNG, CẬN
ĐẠI
1. Triết học Tây Âu thời kỳ Phục Hưng (thế kỷ XV - XVI).
- Điều kiện ra đời và đặc điểm của triết học Tây Âu thời kỳ Phực hưng.
- Một số triết gia tiêu biểu: N. Côpécních; G. Brunô; G. Galilê.
2. Triết học Tây Âu thời kỳ cận đại (thế kỷ XVII - XVIII).
- Điều kiện ra đời và đặc điểm của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại.
- Một số triết gia tiêu biểu: Ph. Bêcơn; G. Béccơli; R. Đêcáctơ; các nhà duy
vật pháp thế kỷ XVIII: Điđơrô, Hônbách.
V. LỊCH SỬ TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
1. Điều kiện ra đời và đặc điểm của triết học cổ điển Đức.
2. Một số triết gia tiêu biểu: I. Cantơ; Ph. Hêgen; L. Phơbách.
VI. LỊCH SỬ TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
1. Điều kiện lịch sử , tiền đề lý luận và khoa học tự nhiên cho sự ra đời của
triết học Mác - Lênin.
2. Sự hình thành và phát triển các quan điểm triết học duy vật biện chứng
của C. Mác và Ph. Ăngghen
3. Giai đoạn Lênin trong lịch sử triết học Mác.
2

HƯỚNG DẪN ÔN THI CAO HỌC TRIẾT HỌC – MÔN CƠ SỞ - THS HOĂNG NGỌC VĨNH - 2013
B. TÀI LIỆU ÔN TẬP

1. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các môn
khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình triết học Mác -
Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1999), Lịch sử triết học, (Giáo trình dùng cho
các trường đại học và cao đẳng), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Nguyễn Hữu Vui chủ biên (1998), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
4. Vũ Ngọc Pha, Nguyễn Ngọc Long, Nguyễn Hữu Vui (1999), Triết học
(3 tập), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Triết học, Lịch sử tư tưởng Việt
Nam (2 tập), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
6. Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, Viện Triết học, Lịch sử phép biện
chứng (6 tập), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Viện nghiên cứu lịch sử chủ nghĩa Mác - Lênin Trường Đại học Nhân
dân Trung quốc (2003), Lịch sử chủ nghĩa Mác (4 tập), Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
8. C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập (50 tập), Nxb Chính trị Quốc gia,Hà
Nội.
9. V.I. Lênin, Toàn tập (55 tập), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
C. CÁC KHỐI KIẾN THỨC TRONG ĐỀ THI
- Câu 1. (2,5 điểm), thuộc khối kiến thức I.
- Câu 2. (2,5 điểm), thuộc khối kiến thức II. III.
- Câu 3. (2,5 điểm), thuộc khối kiến thức IV.
- Câu 4. (2,5 điểm), thuộc khối kiến thức V, VI.

TRƯỞNG TIỂU BAN HIỆU TRƯỞNG
(đã ký duyệt)
PGS.TS. Nguyễn Văn Tận
HƯỚNG DẪN CHI TIẾT


I. LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG CỔ TRUNG ĐẠI
3

HƯỚNG DẪN ÔN THI CAO HỌC TRIẾT HỌC – MÔN CƠ SỞ - THS HOĂNG NGỌC VĨNH - 2013
1. 1. LỊCH SỬ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ TRUNG ĐẠI
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ trung đại
Triết học Ấn Độ ra đời trên cơ sở của một nền văn minh cổ nhất của loài
người, những truyền thống hàng ngàn năm của nó bắt nguồn từ thế kỷ XV TCN -
X SCN vẫn được bảo tồn cho đến ngày nay. Có thể chia Lịch sử các học thuyết
Ấn Độ thành bốn thời kỳ:
- Thời kỳ Veda (XV TCN - VII TCN).
- Thời kỳ cổ điển hay còn gọi là thời kỳ Phật giáo - Balamôn (VI TCN đến
thế kỷ X SCN).
- Thời kỳ sau cổ điển (X - XVIII).
- Triết học Ấn Độ cận đại và hiện đại.
Cũng có quan niệm triết học Ấn Độ cổ-trung đại là phát triển trong khoảng
từ thế kỷ VI TCN đến thế kỷ XV SCN.
Thời kỳ văn hóa Veda (XV -VII TCN):
Veda bắt nguồn từ căn tự “vid” có nghĩa đen là “hiểu biết”, “tri thức”.
Veda cũng được dùng chung với ý nghĩa là “kinh thánh”. Đối với các trường phái
chính thống Veda là những tri thức cao cả, thiêng liêng. Trong cụ thể, Veda là
một khối lượng các tác phẩm văn học được sáng tác trong khoảng thời gian trên
dưới 2000 năm, không đồng nhất về nội dung và văn phong. Cùng với sự hình
thành chế độ chiếm hữu nô lệ, từ thế kỷ X TCN Thánh kinh Vêda là triết lý tôn
giáo đa thần, mà bộ phận mang tính triết học nhiều nhất là Upansát. Đạo Bàlamôn
dựa trên triết lý của Upanisát và chế độ phân biệt đẳng cấp nghiệt ngã của Ấn Độ
cổ, là tôn giáo thờ một thần: Tinh thần tối cao, toàn năng, tuyệt đối, sáng tạo ra tất
cả và chi phối tất cả - Thần Brahman. Đây là hình thức ban đầu của đạo Hinđu và
ảnh hưởng lớn đến thế giới quan triết học Ấn Độ cổ đại.
Kinh Veda là bộ kinh cổ nhất của Ấn Độ và cũng là cổ nhất của loài người.

Nó được soạn từ thế kỷ XII đến thế kỷ V TCN. Người ta cho rằng, về nguồn gốc
thần học, kinh Veda là những chân lý do Thượng đế mặc khải cho loài người ở
đầu mỗi chu kỳ của vũ trụ (Mỗi chu kỳ là 4320 triệu năm). Những chân lý ấy tự
tồn tại, tuyệt đối và tiên thiên siêu thời gian. Con người chỉ nhận thức được nó
bằng trực giác. Người thấu thị được nó phải có một quá trình tu luyện, chiêm
nghiệm nội tâm lâu dài cả về hành động lẫn tri thức. Về lịch sử nó không là tác
phẩm của một người, mà là sự tổng hợp, thu lượm tất cả những câu ca dao, vịnh
phú, tư tưởng, quan niệm, tập tục lễ nghi của nhiều bộ lạc người Aryan ở nhiều
địa phương thuộc sông Inđus, Gangơ và chân núi Hymalaya. Từ thế kỷ X đến thế
kỷ VIII TCN nó mới được sưu tập, biên chép thành sách bằng tiếng Phạn cổ.
Thời tiền Veda có 4 tập. Bộ phận sớm nhất của Veda là những khúc hát
tụng ca truyền miệng của dân du mục Arya, những khúc hát này được truyền qua
ký ức và truyền miệng, nó chỉ được in thành sách từ thế kỷ XIV là Rig-Veda. Sau
đó là Sama-Veda, Yajur-Veda, Atharva-Veda.
+ Rig-veda: Rig có nghĩa là tán ca. Đây là bộ phận cổ nhất nó có 1028 khúc
hát với 10552 khổ, nó ra đời vào khoảng thế kỷ XXV - XX TCN, được phổ biến
4

HƯỚNG DẪN ÔN THI CAO HỌC TRIẾT HỌC – MÔN CƠ SỞ - THS HOĂNG NGỌC VĨNH - 2013
ở Ấn Độ vào thế kỷ XV TCN. Những khúc ca ở đây dùng để cầu nguyện, chúc
tụng công đức các thần thánh. Hai vị thánh được nhắc đến nhiều nhất là thần Sấm
Indra và thần Lửa Agni. Bộ kinh này chuyên dùng cho các bậc Khuyến thỉnh sư
(Hotri).
+ Sama-Veda còn gọi là ca vịnh Veda: Là tuyển tập các đoạn trích của Rig-
veda, gồm 1549 bài. Nó là những câu hát dành cho các tư tế (udgtri) trong tiến
trình nghi lễ. Trong lễ hiến tế người ta đồng thanh hát ngân nga những bài ca có
vần dài tới 9 giây và thường kết thúc bằng từ UM (ôm) huyền bí. Nó chuyên dùng
cho các bậc Ca vịnh sư (Udgrat). Nó còn được coi như những quyết định về luật
lệ cho sinh hoạt thị tộc. Chính điểm này, làm Ấn Độ trở nên một quốc gia khó
cách tân về phong tục, tập quán. Bởi vì, nếu cách tân là phạm lời dạy của thánh.

+ Yajur-Veda gọi là Tế tự Veda. Nó là sự tập hợp những công thức khấn
bái dùng trong lễ nghi hiến tế. Đây là bộ kinh dành cho Hành lễ sư (Adhvaryu).
Bộ này gồm 2 bộ (Đen: Krispa và Trắng: Sukla). Bộ Trắng chỉ có các thần chú
và các công thức sử dụng cho các nghi lễ. Bộ Đen là những ý kiến về nghi lễ và
thảo luận những ý kiến đó.
Thần chú trong Yajur-Veda bao gồm cả thơ và văn xuôi mang tính công
thức khấn bái dùng trong nghi lễ hiến tế. Các công thức này thường không có
nghĩa. Nếu có thì là sự vô lý hỗn loạn nên được coi là có sức mạnh ma thuật.
Các hành lễ sư phải thuộc lòng các công thức trong thánh kinh này. Thánh
kinh này dạy những thể thức hành lễ, cúng bái, cách bày các loại tế khí, các đồ lễ
lên bàn thờ và cách dâng đồ lễ khi cúng tế.
+ Atharva-Veda là tập các thần chú ma thuật dùng cho các sự khẩn cầu
khác nhau, tách riêng với ba bộ kinh trên. Nó gồm 731 bài văn vần là những lời
khấn bái mang tính bùa chúa, phù phép, ma thuật nhằm đem lại những điều tốt
lành cho bản thân và người thân, gây tai họa cho kẻ thù. Atharva-Veda buổi sơ
khai của đạo Balamôn được coi là thánh kinh quan trọng nhất. Về sau, Rig-Veda
thay thế vị trí của nó, nó dược xếp xuống hàng thứ tư trong thánh kinh Veda
chuyên dùng cho giới thầy pháp, thầy tu.
Mỗi bộ kinh trên, đều có những quyển chủ yếu và những quyển không chủ
yếu. Loại chủ yếu gọi là Samhita. Những quyển kinh thuộc Samhita gọi là thánh
kinh Veda. Những thánh kinh căn bản, trọng yếu, thông dụng Samhita có ba loại:
Tế nghi thư (Brahmana), Sấm lâm thư (Aranyaka), Áo nghĩa thư (Upanishad)
quen gọi là các bộ kinh Hậu Veda. Thời Hậu Veda gồm 3 bộ: Brahmana-Veda,
Aranyaka-Veda, Upanishad.
+ Brahmana-Veda (Tế nghi thư) là kinh Balamôn. Bộ này nói về nghi lễ tế
tự (có sách nói là nó bàn về cách thức hiến tế). Bộ này thường dùng cho những
người có chức sắc cao cấp gần như những giáo chủ, tăng lữ Balamôn.
Theo thánh kinh Brhmanna, các đồ khí tế và lễ vật cũng có năng lực tự
nhiên mạnh mẽ, vô hình, mầu nhiệm có thể chuyển lay được ý muốn, hành động
của thần linh.

5

HƯỚNG DẪN ÔN THI CAO HỌC TRIẾT HỌC – MÔN CƠ SỞ - THS HOĂNG NGỌC VĨNH - 2013
+ Aranyaka-Veda là sự kế tiếp sự phát triển của Brahmanna. Nó có tên gọi
là “Kinh rừng” (Sấm lâm thư). Tập này tính triết học còn rất ít. Nó chủ yếu giải
thích ý nghĩa huyền bí, bí truyền của những lễ nghi và phát hiện những ý nghĩa
triết lý cao siêu. Muốn được bí truyền các tăng đồ phải vào sâu trong rừng, núi
rậm, u tịch, vắng lặng và đem hết tâm trí ra mà suy tư trong nhiều năm. Những
cao tăng thấu đạt nghĩa lý siêu hình, uyên thâm của thánh kinh Vêđa được tôn
trọng ngang gần giới Balamôn.
+ Upanishad là tập muộn nhất và có nhiều tri thức triết học hơn cả. Nó là
những lời bình giải tôn giáo - triết học về các lẽ thiết yếu và ý nghĩa của từng
cuộc tế lễ, về những lẽ huyền bí sâu kín trong các kinh cầu nguyện, các bài thần
chú và về những điều chủ yếu trong các bài thần chú. Upanishad nghĩa là tư
tưởng bí mật, là ngồi xung quanh ai đó để trao đổi riêng. Nó có 18 tập với 200 bài
kinh, được biên soạn qua những niên đại khác nhau từ thế kỷ X đến thế kỷ VI
TCN. Trong đó có các bộ kinh quan trọng như: Brithda âranyaka, Chândogya,
Isha, Katha
Nội dung Upanishad là sự giải phóng tư duy người Ấn Độ cổ, nó biểu hiện
những tinh thần mới: Giải phóng tư duy tư biện khỏi ma thuật. Mặc dù ngây thơ
đơn giản, vẫn có những ảnh hưởng của tư biện về nghi lễ, nhưng Upanishad đã
đặt ra và trả lời được câu hỏi triết học: Cái gì là nguyên nhân? Brahman là gì?
Nguyên nhân của sự xuất hiện con người như thế nào? Nó lý giải những vấn đề
tối cao, mục đích tối cao của kinh Veda nên nó còn được gọi là kinh Vedanta
(Anta tiếng Phạn có nghĩa là kết thúc, hoàn tất, mục đích).
Cho đến nay vẫn còn nhiều tranh luận, thậm chí trái ngược nhau khi cho
rằng Upanisadd là cơ sở của những quan điểm khác nhau của các trường phái triết
học khác nhau. Chẳng hạn: Vedanta chỉ dựa vào Upanishad, nó không nghi ngờ
Sama-veda và Brahmanna-veda nhưng đã lờ đi. Mimansa cố đưa những chứng cớ
phức tạp để chứng minh Upanishad là đúng, là vĩnh hằng nhưng trên thực tế nó

ủng hộ những quan điểm triết học mà Upanishad chống lại. Cái say mê của
Mimansa là nghi lễ, là những điều cấm kỵ. Điều này đúng ở Yajur-veda và
Brahmanna-veda chứ không thể là của Rig-veda và Upanishad. Tuy vậy, triết lý
Veda và Upanishad cùng với đạo Balamôn là hệ tư tưởng thống trị trong đời sống
tinh thần người Ấn Độ cổ đại. Uy thế của nó mạnh đến mức nó được mệnh danh
là tư tưởng triết học chính thống của Ấn cổ. Tất cả những trào lưu vô thần, duy
vật, chống lại uy thế của nó đều bị coi là tà giáo, là không chính thống.
1.1.2. Những đặc điểm cơ bản của Triết học Ấn Độ cổ trung đại
Về mặt lịch sử:
Triết học Ấn Độ ra đời trên cơ sở của một trong những nền văn minh cổ
nhất của nhân loại. Những truyền thống văn minh ngàn năm của nó bắt nguồn từ
thế kỷ XXV-X TCN, vẫn còn bảo tồn cho đến ngày nay.
Có những quan điểm khác nhau về sự phân chia những thời kỳ phát triển
của triết học Ấn Độ, cũng như có những quan điểm khác nhau về sự phân loại các
6

HƯỚNG DẪN ÔN THI CAO HỌC TRIẾT HỌC – MÔN CƠ SỞ - THS HOĂNG NGỌC VĨNH - 2013
trường phái triết học Ấn Độ. Điều đó, chứng tỏ tư duy triết học Ấn Độ là rất
phong phú, đa dạng, đồ sộ và phức tạp.
Thông thường, trong lịch sử triết học Ấn Độ, người ta thường chia nó thành
bốn thời kỳ: 1) Thời kỳ Veda, thế kỷ XXV - thế kỷ VII TCN. 2) Thời kỳ cổ điển,
còn gọi là thời kỳ Phật giáo - Balamôn từ thế kỷ VI TCN - thế kỷ X SCN. 3) Thời
kỳ sau cổ điển từ thế kỷ X - thế kỷ XVIII. 4) Triết học Ấn Độ cận đại và hiện đại
từ thế kỷ XIX trở đi.
Thời kỳ Veda, xã hội Ấn Độ chuyển biến từ công xã thị tộc lên công xã
nông thôn. Thời kỳ này, đã xuất hiện sự phân chia đẳng cấp nghiệt ngã, làm trì trệ
nền kinh tế - xã hội Ấn Độ, cũng như làm cho các quan hệ xã hội Ấn Độ rất nặng
nề, rất phức tạp.
Thời kỳ cổ điển, là thời kỳ chiến tranh thôn tính lẫn nhau giữa các tiểu
vương quốc dẫn đến sự hình thành quốc gia lớn Maurya. Từ vương triều Maurya

(IV TCN) trở đi, xã hội nô lệ Ấn Độ hà khắc không kém gì các xã hội nô lệ khác.
Nhưng quan hệ chủ nô - nô lệ mang nét bóc lột gia trưởng là chính. Chính đặc
điểm này đã ảnh hưởng không tốt đến cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp nô lệ
chống lại giai cấp chủ nô, bởi lẽ sự phân tán của nô lệ trong các gia đình chủ nô là
rất cao.
Về mặt triết học:
- Thời cổ - trung đại, các nhà triết học Ấn Độ đã có một tư duy phân loại
cao và sự phân tích sâu sắc đáng kinh ngạc. Họ không dừng lại ở các vấn đề nhân
sinh, mà đặc biệt quan tâm đến các vấn đề bản thể luận. So với triết học Trung
Quốc, triết học Ấn Độ quan tâm nhiều đến vấn đề bản thể luận hơn, và lôgíc học
cũng phát triển hơn.
- Triết học Ấn Độ cổ trung đại luôn gắn với vấn đề tôn giáo, bởi thế hầu hết
các hệ thống triết học Ấn Độ luôn là triết học duy tâm và hữu thần. Phải chăng,
chính vì gắn với tôn giáo mà các nhà triết học Ấn Độ cổ - trung đại có thể phân
tích một cách tinh tế và sâu sắc mọi ngõ ngách của tinh thần, của cái tâm, của cái
thức. Mối quan hệ giữa tồn tại - không tồn tại luôn làm các nhà triết học Ấn Độ
khắc khoải, với sự đặc biệt chú ý của họ đến phạm trù “không”.
Có thể nói, niềm hạnh phúc và nỗi bất hạnh của con người luôn được triết
học Ấn Độ cổ - trung đại quan tâm, thì bản thân nền triết học ấy cũng đã có
những bất hạnh và may mắn do xã hội Ấn Độ cổ - trung đại quy định. Cuối thời
cổ điển, thuyết Jaina mất hết ý nghĩa của nó, Phật giáo bị đồng hóa bởi đạo
Hinđu. Thời Hinđu, với sự phát triển của các hệ thống Hinđu-ViShnu, Hinđu-
Shiva cho thấy các đạo sỹ Balamôn được thay bằng các thần Shiva và Vishnu. Từ
thế kỷ X trở đi, triết lý tín ngưỡng đa thần được thay bởi triết lý tôn giáo nhất
thần Hồi giáo.
- Trong sự phản tỉnh, nhân sinh là nét nổi trội, hầu hết các hệ thống triết
học Ấn Độ cổ - trung đại đều biến đổi theo xu hướng từ vô thần đến hữu thần, từ
ít nhiều duy vật đến duy tâm hay nhị nguyên. Đây là sự phản ánh trạng thái trì trệ
7


HƯỚNG DẪN ÔN THI CAO HỌC TRIẾT HỌC – MÔN CƠ SỞ - THS HOĂNG NGỌC VĨNH - 2013
của “phương thức sản xuất châu Á” ở Ấn Độ. Và triết học, đến lượt nó, triết học
trở thành một trong những nguyên nhân của trạng thái trì trệ đó.
- Triết học Ấn Độ cổ trung đại luôn đan xen giữa duy vật với duy tâm, biện
chứng với siêu hình, vô thần với hữu thần không chỉ ở hệ thống mà ngay mỗi
trường phái và trong tư tưởng mỗi nhà triết học.
- Triết học Ấn Độ cổ trung đại luôn đan xen với tôn giáo. Triết học-tôn
giáo, Tôn giáo-triết học và Giải thoát luận luôn là khuynh hướng nổi trội nhất của
triết học Ấn Độ cổ trung đại.
1.1.3. MỘT SỐ TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ TRUNG - ĐẠI CƠ
BẢN
1.1.3.1. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CƠ BẢN TRONG KINH VEDA
Kinh Veda là bộ kinh cổ nhất của Ấn Độ và cũng là cổ nhất của loài người.
Nó được soạn từ thế kỷ XII đến thế kỷ V TCN. Người ta cho rằng, về nguồn gốc
thần học, kinh Veda là những chân lý do Thượng đế mặc khải cho loài người ở
đầu mỗi chu kỳ của vũ trụ (Mỗi chu kỳ là 4320 triệu năm). Những chân lý ấy tự
tồn tại, tuyệt đối và tiên thiên siêu thời gian. Con người chỉ nhận thức được nó
bằng trực giác. Người thấu thị được nó phải có một quá trình tu luyện, chiêm
nghiệm nội tâm lâu dài cả về hành động lẫn tri thức. Về lịch sử nó không là tác
phẩm của một người, mà là sự tổng hợp, thu lượm tất cả những câu ca dao, vịnh
phú, tư tưởng, quan niệm, tập tục lễ nghi của nhiều bộ lạc người Aryan ở nhiều
địa phương thuộc sông Inđus, Gangơ và chân núi Hymalaya. Từ thế kỷ X đến thế
kỷ VIII TCN nó mới được sưu tập, biên chép thành sách bằng tiếng Phạn cổ.
Thời tiền Veda có 4 tập. Bộ phận sớm nhất của Veda là những khúc hát
tụng ca truyền miệng của dân du mục Arya, những khúc hát này được truyền qua
ký ức và truyền miệng, nó chỉ được in thành sách từ thế kỷ XIV là Rig-Veda. Sau
đó là Sama-Veda, Yajur-Veda, Atharva-Veda.
+ Rig-veda: Rig-veda không có tư duy triết học mà chỉ nêu lên những
nguyện vọng hàng ngày của nhân dân như thức ăn, gia súc, mưa, an cư, mạnh
khỏe, nhiều con cái. Tuy vậy, các nhà triết học về sau thường cố gắng trích dẫn

Rig-veda để chứng minh nó có ảnh hưởng đến quan điểm triết học, xác nhận
quyền uy của Rig-veda với học thuyết của mình. Thật ra việc làm này là miễn
cưỡng và vô nghĩa.
+ Sama-Veda còn gọi là ca vịnh Veda: Nó là những câu hát dành cho các
tư tế (udgtri) trong tiến trình nghi lễ. Nó còn được coi như những quyết định về
luật lệ cho sinh hoạt thị tộc. Chính điểm này, làm Ấn Độ trở nên một quốc gia
khó cách tân về phong tục, tập quán. Bởi vì, nếu cách tân là phạm lời dạy của
thánh.
+ Yajur-Veda gọi là Tế tự Veda. Nó là sự tập hợp những công thức khấn
bái dùng trong lễ nghi hiến tế. Bộ này gồm 2 bộ (Đen: Krispa và Trắng: Sukla).
Bộ Trắng chỉ có các thần chú và các công thức sử dụng cho các nghi lễ. Bộ Đen
là những ý kiến về nghi lễ và thảo luận những ý kiến đó.
8

HƯỚNG DẪN ÔN THI CAO HỌC TRIẾT HỌC – MÔN CƠ SỞ - THS HOĂNG NGỌC VĨNH - 2013
Thần chú trong Yajur-Veda bao gồm cả thơ và văn xuôi mang tính công
thức khấn bái dùng trong nghi lễ hiến tế. Các công thức này thường không có
nghĩa. Nếu có thì là sự vô lý hỗn loạn nên được coi là có sức mạnh ma thuật.
Các hành lễ sư phải thuộc lòng các công thức trong thánh kinh này. Thánh
kinh này dạy những thể thức hành lễ, cúng bái, cách bày các loại tế khí, các đồ lễ
lên bàn thờ và cách dâng đồ lễ khi cúng tế.
+ Atharva-Veda. Nó gồm 731 bài văn vần là những lời khấn bái mang tính
bùa chúa, phù phép, ma thuật nhằm đem lại những điều tốt lành cho bản thân và
người thân, gây tai họa cho kẻ thù. Atharva-Veda buổi sơ khai của đạo Balamôn
được coi là thánh kinh quan trọng nhất. Về sau, Rig-Veda thay thế vị trí của nó,
nó dược xếp xuống hàng thứ tư trong thánh kinh Veda chuyên dùng cho giới thầy
pháp, thầy tu.
Trên cơ sở của thánh kinh Veda, đặc biệt là Rig-veda, Veda giáo đã hình
thành, đây là hình thức tôn giáo cổ nhất của Ấn Độ. Tôn giáo này thờ cúng thiên
nhiên với các vị thần tượng trưng cho các hiện tượng tự nhiên đa dạng, huyền

diệu biểu hiện những tín ngưỡng, phù phép, lễ nghi, truyền thuyết của thổ dân
Dravidian mà chủ yếu là những tộc người Arian hệ Ấn-Âu. Tôn giáo này tin và
giải thích rằng trong vũ trụ đồng thời tồn tại ba lực lượng liên quan nhau là Thần
linh, Con người và Ác quỷ tương ứng với ba thế giới của vũ trụ là Thiên giới,
Trần thế và Địa ngục. Thần linh trong Veda ngụ khắp ba cõi của vũ trụ. Thần linh
rất phong phú đa dạng và chia nhau chi phối mọi hoạt động của vũ trụ theo
nguyên lý Rita (nghĩa đen là chân xác, thích hợp, là trật tự vận hành của vũ trụ
vạn vật). Theo họ, hiện thân của Thượng đế toàn năng là Trời hay thiên giới
(Dyaus), không giới hạn, chứa đựng toàn vũ trụ. Cùng với Trời là cha, là khí
dương, là tinh thần có Aditi là mẹ, là khí âm, là vật chất (vô tận). Do nguyên lý
âm dương, Trời cha Đất mẹ giao hợp mà sinh ra, nuôi dưỡng, điều hành toàn bộ
vạn vật trong vũ trụ. Thần cai quản trần thế là thần lửa Agni, thần cai quản không
trung là thần gió Vâyu, thần cai quản thiên giới là thần mặt trời Surya. Đây là ba
vị thần tối cao trong thánh kinh Veda. Ngoài ra Veda còn nhắc nhiều đến thần
sấm sét Indra. Người Ấn Độ cổ còn tôn thờ thần mặt trăng Mosa, thần mưa
Parjanya, thần không trung công lý Varuna, thần điều khiển trật tự Rita, thần
nước Apas, thần bão Rudra, thần rạng đông Ushas, thần hoàng hôn Apasra, thần
hạn hán Vittra, thần trí thức Samjnâ, thần ánh sáng Prabhâ, thần bóng tối Châyâ,
thần tài sản Kubera, thần chiến tranh Kârtikuya v.v
Trong kinh Veda còn đưa ra quan niệm về sự sản sinh ra chư thần, vạn vật,
muôn loài từ một đấng nguyên nhân đầu tiên và duy nhất Purusha. Vị thần này có
ngàn đầu, ngàn tay, ngàn mắt, ngàn chân phân ra khắp vũ trụ bao la. Từ miệng
Ngài sinh ra dòng họ Balamôn, từ đùi Ngài sinh ra thứ dân Vaishya và từ bàn
chan của Ngài sinh ra bầy nô lệ Shudra, từ tâm trạng Ngài sinh ra thần mặt trăng
Mosa, từ mắt Ngài sinh ra mặt trời Pusan hay Surya, từ miệng Ngài cũng sinh ra
thần sấm sét Indra, thần lửa Agni, bằng hơi thở của mình Ngài sinh ra cõi Trời,
chân làm cõi Đất, Tay làm bốn phương trời đất.
9

HƯỚNG DẪN ÔN THI CAO HỌC TRIẾT HỌC – MÔN CƠ SỞ - THS HOĂNG NGỌC VĨNH - 2013

Mỗi bộ kinh trên, đều có những quyển chủ yếu và những quyển không chủ
yếu. Loại chủ yếu gọi là Samhita. Những quyển kinh thuộc Samhita gọi là thánh
kinh Veda. Những thánh kinh căn bản, trọng yếu, thông dụng Samhita có ba loại:
Tế nghi thư (Brahmana), Sâm lâm thư (Aranyaka), Áo nghĩa thư (Upanishad)
quen gọi là các bộ kinh Hậu Veda. Thời Hậu Veda gồm 3 bộ: Brahmana-Veda,
Aranyaka-Veda, Upanishad.
+ Brahmana-Veda (Tế nghi thư) là kinh Balamôn. Theo thánh kinh
Brhmanna, các đồ khí tế và lễ vật cũng có năng lực tự nhiên mạnh mẽ, vô hình,
mầu nhiệm có thể chuyển lay được ý muốn, hành động của thần linh. Bởi thế, với
tấm lòng thành thanh khiết, tế lễ đúng phép, bày đồ tế lễ và dâng lễ vật đúng ý
thần linh sẽ được thần linh chấp nhận lễ và ban ân huệ đúng như cầu nguyện. Tất
cả những linh nghiệm, ứng báo đó đều do nguyên lý tối cao mà ra.
Dưới cái vỏ thần bí, đầy ắp các yếu tố thần thoại - tôn giáo, kinh
Brahmanna cũng chỉ ra cách lý giải căn nguyên và quá trình hình thành vũ trụ: Đi
từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao. Vạn vật sinh, diệt, nóng, lạnh đều do
âm - dương, đực - cái giao hợp trong không gian, thời gian mà tồn tại mãi mãi.
Căn nguyên của sự tồn tại mãi mãi này đều được quy về “nguyên lý chủ đề tối
cao” - Thần Brahman. Tưởng rằng nhất thần nhưng trên thực tế họ tôn sùng ba vị
thần đại diện cho một lực lượng tối cao, trừu tương, khái quát chi phối sự hình
thành, tồn tại, biến đổi của vạn vật trong vũ trụ. Ba vị thần ba xu hướng, nhưng
chỉ là sự thể hiện của một quá trình thống nhất của vũ trụ: Thần sáng tạo Brahma,
thần hủy diệt Shiva còn gọi là Tamas, thần bảo vệ Vishnu còn gọi là thần Sattava
(thuần khiết, tính tĩnh).
Khi bàn về con người, kinh Brahmanna cho rằng, giữa mỗi kiếp người luôn
có cái duyên ràng buộc. Càng tu nhân, tích đức, làm nhiều điều thiện thì càng tạo
ra nhiều những nhân duyên tốt của hạnh phúc, cực lạc cho kiếp sau. Điều đó chỉ
có thể thực hiện và đạt được hiệu quả ứng nghiệm hiện tại nếu con người kính
cẩn, tôn sùng, siêng năng khấn bái, chiêm nghiệm sự linh báo ở thần linh.
+ Aranyaka-Veda là sự kế tiếp sự phát triển của Brahmanna. Nó có tên gọi
là “Kinh rừng” (Sấm lâm thư). Tập này tính triết học còn rất ít. Nó chủ yếu giải

thích ý nghĩa huyền bí, bí truyền của những lễ nghi và phát hiện những ý nghĩa
triết lý cao siêu. Muốn được bí truyền các tăng đồ phải vào sâu trong rừng, núi
rậm, u tịch, vắng lặng và đem hết tâm trí ra mà suy tư trong nhiều năm. Những
cao tăng thấu đạt nghĩa lý siêu hình, uyên thâm của thánh kinh Vêđa được tôn
trọng ngang gần giới Balamôn.
+ Upanishad là tập muộn nhất và có nhiều tri thức triết học hơn cả. Nó là
những lời bình giải tôn giáo - triết học về các lẽ thiết yếu và ý nghĩa của từng
cuộc tế lễ, về những lẽ huyền bí sâu kín trong các kinh cầu nguyện, các bài thần
chú và về những điều chủ yếu trong các bài thần chú. Upanishad nghĩa là tư
tưởng bí mật, là ngồi xung quanh ai đó để trao đổi riêng. Nó có 18 tập với 200 bài
kinh, được biên soạn qua những niên đại khác nhau từ thế kỷ X đến thế kỷ VI
10

HƯỚNG DẪN ÔN THI CAO HỌC TRIẾT HỌC – MÔN CƠ SỞ - THS HOĂNG NGỌC VĨNH - 2013
TCN. Trong đó có các bộ kinh quan trọng như: Brithda âranyaka, Chândogya,
Isha, Katha
Nội dung Upanishad là sự giải phóng tư duy người Ấn Độ cổ, nó biểu hiện
những tinh thần mới: Giải phóng tư duy tư biện khỏi ma thuật. Mặc dù ngây thơ
đơn giản, vẫn có những ảnh hưởng của tư biện về nghi lễ, nhưng Upanishad đã
đặt ra và trả lời được câu hỏi triết học: Cái gì là nguyên nhân? Brahman là gì?
Nguyên nhân của sự xuất hiện con người như thế nào? Nó lý giải những vấn đề
tối cao, mục đích tối cao của kinh Vêda nên nó còn được gọi là kinh Vêdanta
(Anta tiếng Phạn có nghĩa là kết thúc, hoàn tất, mục đích).
Upanishad chia nhận thức của con người thành hai trình độ: Hạ trí (apara -
viday) và Thượng trí (para - viday). Hạ trí là tri thức phản ánh những sự vật, hiện
tượng cụ thể, riêng lẻ có hình tướng, danh sắc, phong phú, đa dạng, hiện thực.
Ngay cả việc nhận thức kinh Vêda cũng được xếp vào nhận thức hạ trí. Thượng
trí là trình độ nhận thức vượt qua tất cả thế giới hữu hình, có hạn thường xuyên
biến đổi từ hình thức tồn tại này sang hình thức tồn tại khác, để nhận thức một
thực tại tuyệt đối, duy nhất, bất diệt (akasara), thường hằng, vô hình ẩn dấu đằng

sau tất cả những cụ thể, hữu hình, hữu hạn. Nó sáng tạo và chi phối tất cả thế giới
hiện tượng ấy.
Theo Upanishad, hạ trí là phương tiện cần thiết để hiểu biết thượng trí.
Thượng trí là mục đích tối cao của nhận thức. Khi có hiểu biết thượng trí sẽ đưa
con người tới giải thoát. Cái thực tại tối cao căn nguyên của sáng tạo mà chỉ
thượng trí mới nhận thức được ấy, theo Upanishad là bản chất nội tại của vũ trụ
và muôn vật, nó ở ngoài tất cả mọi giới hạn của không gian, thời gian và nhân
quả. Đó là “tinh thần vũ trụ tối cao”, là “thượng đế”, là thần Brahman.
Theo Upanishad, Brahman là thực tại tuyệt đối, tinh khiết, hằng cửu, toàn
thiện; là tinh thần vũ trụ đại đồng, là nguyên lý sáng tạo nên toàn vũ trụ; là thực
thể duy nhất, trước nhất, tuyệt đối, vĩnh viễn, chung nhất, phổ biến nhất ẩn sau
toàn bộ thế giới hữu hình. Brahman biểu hiện trong con người là Atman (linh
hồn), sự sống của con người. Atman đồng nhất với Brahman nên Atman cũng tồn
tại vĩnh viễn, tuyệt đối, bất diệt. Do ý chí, ham muốn, dục vọng mà gây ra những
hậu quả đau khổ cho linh hồn và thể xác (nghiệp báo - Karma) ở kiếp này và cả
kiếp sau (luân hồi - Samshara). Vậy, chỉ bằng tu luyện để Atman đồng nhất với
Brahman thì con người mới được giải thoát khỏi luân hồi, nghiệp báo.
Upanishad không là công trình của một người mà là kết quả của sự tư biện
hình thành qua nhiều thế hệ. Với nội dung phong phú, đa dạng, Upanishad trở
thành nguồn gốc lý luận cho tất cả các trường phái triết học duy tâm và tôn giáo
của Ấn Độ sau này, đặc biệt là đối với đạo Balamôn và Hindu.
Cho đến nay vẫn còn nhiều tranh luận, thậm chí trái ngược nhau khi cho
rằng Upanisadd là cơ sở của những quan điểm khác nhau của các trường phái triết
học khác nhau. Chẳng hạn: Vedanta chỉ dựa vào Upanishad, nó không nghi ngờ
Sama-veda và Brahmanna-veda nhưng đã lờ đi. Mimansa cố đưa những chứng cớ
phức tạp để chứng minh Upanishad là đúng, là vĩnh hằng nhưng trên thực tế nó
11

HƯỚNG DẪN ÔN THI CAO HỌC TRIẾT HỌC – MÔN CƠ SỞ - THS HOĂNG NGỌC VĨNH - 2013
ủng hộ những quan điểm triết học mà Upanishad chống lại. Cái say mê của

Mimansa là nghi lễ, là những điều cấm kỵ. Điều này đúng ở Yajur-veda và
Brahmanna-veda chứ không thể là của Rig-veda và Upanishad. Tuy vậy, triết lý
Veda và Upanishad cùng với đạo Balamôn là hệ tư tưởng thống trị trong đời sống
tinh thần người Ấn Độ cổ đại. Uy thế của nó mạnh đến mức nó được mệnh danh
là tư tưởng triết học chính thống của Ấn cổ. Tất cả những trào lưu vô thần, duy
vật, chống lại uy thế của nó đều bị coi là tà giáo, là không chính thống.
Trong các trường phái triết học Ấn Độ cổ trung đại, thì Vedanta là trường
phái tuyệt đối trung thành với Upanishad. Vedanta có nghĩa là kết thúc veda. Nó
được coi như là sự kế tục giai đoạn cuối vùng của veda. Vedanta đã phát huy
những tư tưởng triết học trong Upanishad, kinh chủ yếu của Vedanta là Vedanta-
sutra được coi là của Badarayana, nhưng cho đến nay ta vẫn chưa có tiểu sử của
người này. Bộ chú giải kinh này có nhiều tác giả, trải qua nhiều thời kỳ khác
nhau. Ta chỉ biết nó được xếp là đối lập với Samkhya, như vậy rất có thể nó ra
đời từ thế kỷ VII TCN.
Nói chung có thể chia Vedanta thành hai thuyết chính:
1.1.3.1.1. Thuyết nhất nguyên của Vedanta (Vedanta - Advaita)
Phái này còn gọi là lý thuyết ảo ảnh, coi Brahman là tồn tại tuyệt đối, nó
đồng nhất với cái “tôi” (Atman) với nghĩa là ý thức thuần túy. Theo họ, thế giới
vật chất tuyệt đối không hiện thực, hình ảnh của nó là ảo ảnh do vô minh
(Avidya) sinh ra. Thuyết này (nhất nguyên, duy nhất (Advaita) tuyết đối) không
thừa nhận sự tồn tại của bất cứ cái gì ngoài Brahaman hay ý thức thuần túy.
Thuyết duy nhất (Advaita) được coi là của Samkara (700 - 750) sáng lập.
Các tác phẩm của Samkara thường có tính lôgic sắc bén, văn phong trong sáng.
Cụ thể :
+ Trên thế giới không có thực tại nào ngoài bản chất tinh thần tối cao duy
nhất, vĩnh cửu, dị dạng nhưng đồng tính là Brahman. Brahman là thực thể tinh
thần thuần túy thực hữu, nó vô cùng, vô tận, tự biến mất nhưng vẫn hiện hữu, tồn
tại, ở ngoài vô tận nhưng có ở khắp trong những cái hữu hạn, là chất liệu và động
lực của mọi cái cũng như thế giới, là cái sinh ra vạn vật và thế giới, cũng đồng
thời là cái để thế giới và vạn vật quy về nó.

+ Họ quan niệm, do vô minh mà con người đã ngộ nhận sự phong phú đa
dạng của sự vật hiện tượng là tồn tại chân thực, vô hạn. Thực ra chúng chỉ là
những hữu hạn biến đổi vô thường và chỉ là những ảo tưởng, ảo giác thuần túy
mà thôi. Họ thừa nhận nguyên nhân của thế giới là từ hư không do Brahman tạo
ra.
+ Theo họ con người luôn sống giữa những ảo ảnh tự huyễn, giả tưởng và
luôn bị nó quyến rũ rồi mê muội đi, nhầm tưởng là ý chí của mình sống ở đời.
Trên thực tế như vậy, con người chỉ thấy cái hữu hạn, hữu hình mà không thấy
được cái vô hình tuyệt đối, cái vô hạn và cái vĩnh viễn thực sự của bản tính của
mình đồng nhất với Brahman.
12

HƯỚNG DẪN ÔN THI CAO HỌC TRIẾT HỌC – MÔN CƠ SỞ - THS HOĂNG NGỌC VĨNH - 2013
+ Họ đưa ra 4 phương pháp nhận thức là trực giác, khải thị, kết luận và cảm
giác. Theo họ, kết luận và cảm giác là nhận thức hạ trí chỉ biết được cái hữu
hình, hữu hạn, ảo ảnh. Chỉ có trực giác mới nhận thức được một cách đích thực
thế giới. Từ đó, theo họ, mọi cố gắng và mục đích tối cao của con người là phải
đạt cái trực giác để có được sự đồng nhất giữa linh hồn cá thể với linh hồn tối
cao. Là nhằm giải thoát con người khỏi thế giới ảo, thoát khỏi nghiệp báo, luân
hồi. (Đây là giải thoát luận của họ).
+ Những người theo nhất nguyên (Advaita) bên cạnh thờ thần sáng tạo tối
cao là Brahma họ còn thờ thần hủy diệt (shiva). Về thực chất 2 thần này nhất thể.
1.1.3.1.2. Thuyết không nhị nguyên có phân lập (Visistadvaita)
Thuyết này do Ramanuja (1016 - 1091) sáng lập. Ông là một triết gia nổi
tiếng vùng Nam Ấn lúc ấy. Về nguyên tắc, triết học của phái này không khác mấy
so với phái nhất nguyên. Nếu có điều khác biệt thì là ở chỗ: nếu nhất nguyên chỉ
thừa nhận duy nhất Brahman tồn tại, hiện hữu thì họ thừa nhận có 3 thực thể tồn
tại là Brahman, linh hồn cá thể (Atman) và thế giới vạn vật. Cụ thể.
+ Theo họ, Brahman là đấng sáng tạo tối cao duy nhất, toàn năng, toàn đức
mà ngoài Vishnu (thần bảo vệ tồn tại, thuần khiết còn gọi là Sattva) không có

thần nào sánh kịp. Brahman sáng tạo ra tinh thần, kết hợp tinh thần thành linh hồn
cá thể (thực thể linh hồn) sau đó tạo ra thế giới vật chất. Brahman là cái có trước
thế giới, là cái tạo ra thế giới. Mọi sự vật hiện tượng và thế giới đều là hiện thực
của Brahman.
+ Theo họ, 3 thực thể luôn tồn tại trong mối quan hệ phụ thuộc quy định
nhau. Trong đó, thực thể tối cao là Brahman, có quyền uy toàn năng, vừa sáng tạo
duy nhất đối với linh hồn và thế giới vạn vật. Thế giới vật chất, thể xác là thực thể
thấp nhất, luôn thụ động. Còn linh hồn là hiện thân của Brahman nó trú ngụ hội
nhập trong thể xác và làm chủ thể xác.
+ Khi bàn về con người, nội dung tư tưởng triết học của phái này vẫn là
giải thoát luận. Theo họ, linh hồn cá biệt là một bộ phận và cùng một thể với
Brahman. Nhưng linh hồn có tư duy ý tưởng để sinh ra ý thức, nhận thức chỉ huy
hành vi, hành động của thể xác. Từ đó, họ cho rằng ý thức, hành vi cũng như
hành vi có ý thức của con người đều phải nhận biết rõ bản chất, nguồn gốc của
mình là thành tâm, thiện ý, tôn sùng, kính yêu đấng sáng tạo Brahman. Tức phải
nổ lực để linh hồn của mình hòa nhập với Brahman, là giải thoát linh hồn khỏi
thực thể thấp nhất - vật chất.
+ Nhìn chung, tư tưởng triết học của phái không nhị nguyên phân lập
hướng con người vào quy y, vào “tín ngưỡng tâm” thờ hai thần nhất thể Brahma
(sáng tạo, toàn năng) và Vishnu (bảo vệ, thuần nhất).
1.1.3.1.3. Về sau Vedanta được phân thành nhiều hệ phái
+ Phái đồng nhất trong sự khác nhau, coi Brahman và Atman là thống nhất
về bản chất, đều là tinh thần. Nhưng Atman trú ngụ trong vạn vật còn Brahman
khách quan, độc lập với con người, giữa Brahman và Atman được ví như biển và
sóng biển.
13

HƯỚNG DẪN ÔN THI CAO HỌC TRIẾT HỌC – MÔN CƠ SỞ - THS HOĂNG NGỌC VĨNH - 2013
+ Nhất nguyên có giới hạn (không nhị nguyên có phân lập ở thế kỷ IX)
coi Brahman là cái tồn tại tuyệt đối, toàn năng, sáng tạo. Đồng thời tồn tại linh

hồn (cit), và vật chất (a cít) nhưng sự tồn tại của chúng là tồn tại trong Brahman.
+ Phái nhất nguyên nhị phân (thế kỷ XII) phái này cho rằng Brahman và
Atman vừa phân đôi vừa không phân đôi. Nó chỉ phân đôi khi được Brahman tạo
ra thế giới tinh thần với vật chất dưới dạng các thể thô. Khi nó ở trong Brahman
chúng đều ở dạng tinh tế.
+ Thuyết nhị nguyên (thế kỷ XIII) chỉ rõ sự khác nhau giữa Brahman với
Atman (tinh thần cá thể). Ở đây không phải là nhị nguyên về hai bản thể vật chất -
ý thức. Phái này chỉ ra 5 sự khác nhau giữa Brahman với tinh thần cá thể. Đó là
những sự khác giữa: 1) Brahman với Atman, 2) giữa Atman với vật chất; 3) giữa
hai Atman; 4) giữa hai dạng vật chất ; 5) giữa Brahman với vật chất. Phái này
kịch liệt chống lại phái nhất nguyên, họ coi phái nhất nguyên sakara là Phật giáo
trá hình.
+ Phái nhị nguyên thuần túy (thế kỷ XV) đưa ra quan niệm so sánh thượng
đế với linh hồn cá thể có quan hệ như vàng và đồ trang sức bằng vàng, còn linh
hồn cá thể được coi là tia lửa của linh hồn tối cao (Brahman). Họ cho rằng linh
hồn cá thể là một bộ phận của linh hồn tối cao nên cũng phải được tôn trọng. Họ
chống lại việc tu khổ hạnh đầy đọa linh hồn cá thể. Thực chất họ theo chủ nghĩa
khoái lạc.
+ Thuyết sự đồng nhất trong sự khác biệt không hiện rõ. Theo phái này
thì mọi người đều bình đẳng trước Brahman và trước các bàn cầu nguyện.
Tóm lại, dù có nhiều hình thức, nhưng Vedanta đều chung nhau ở quan
điểm coi linh hồn cá biệt (Atman) là hiện thân của linh hồn tuyệt đối toàn năng tối
cao (Brahman). Họ duy tâm hữu thần (đa thần nhất thể), khá trung thành với
Upanishad. Họ đều giải thoát linh hồn con người khỏi thế giới hiện thực bằng
trực giác. Triết học Vedanta có vị trí quan trọng trong triết học Hinđu sau này.
1.1.3.2. BUDDAHA (Phật giáo)
1.1.3.1.1. Các nội dung tư tưởng triết học chính trong đạo Phật
Tư tưởng triết học Phật giáo được chứa đựng trong “Tam tạng”. Kho kinh
điển này gồm hơn 8400 cuốn, thuộc tiếng Paly (Nam Ấn) và Sanskrit (Bắc Ấn).
Ngoài ra sự phát triển của Tiểu thừa và Đại thừa đã làm phong phú thêm những

tư tưởng triết học sơ kỳ của Phật giáo. Dù sao, tư tưởng cốt lõi cũng không ngoài
phạm vi những tư tưởng sơ kỳ sau đây :
a. Bản thể luận (thế giới quan):
a1) Lý “nhân duyên khởi”
Nguyên lý “Nhân duyên khởi” coi vạn vật trong vũ trụ đều có nguyên nhân
tự thân, không do một đấng thần linh nào tạo ra cả. Sự đa dạng của tồn tại là do
“Nhân duyên” tạo ra: nhân duyên hội thì sự vật tạo ra. Nhân duyên hết thì sự vật
không còn.
“Nhân duyên” quan hệ chặt chẽ với “nhân quả”. Nhân là nghiệp lực. Quả là
nghiệp lực đã thành hiện thực nhờ hội đủ duyên.
14

HƯỚNG DẪN ÔN THI CAO HỌC TRIẾT HỌC – MÔN CƠ SỞ - THS HOĂNG NGỌC VĨNH - 2013
“Nhân duyên khởi” và “nhân quả” là nguyên lý phổ biến tuyệt đối của mọi
tồn tại. “Duyên” ở đây phải được hiểu vừa là nguyên nhân sinh ra cái mới, vừa là
kết quả của quá trình biến đổi cái cũ trước đó. Nhân nhờ duyên mà thành quả, quả
nhờ duyên mà thành nhân mới, nhân mới nhờ duyên thành quả mới, Quá trình
cứ thế nối nhau vô cùng, vô tận mà thế giới, vạn vật, muôn loài cứ sinh sinh hóa
hóa không ngừng.
Lý nhân duyên giải thích căn nguyên biến hóa vô thường của vạn pháp. Tất
cả vạn pháp không thoát ra được sự chi phối của luật nhân quả. Cái gì tác động ở
vật gây ra kết quả gọi là nhân. Cái gì kết tập lại từ nhân gây ra gọi là quả. Duyên
là sự tương hợp, là điều kiện giúp cho sự khởi sự của vạn pháp. Có lục nhân, tam
duyên, tứ duyên và thập nhị nhân duyên.
Lục nhân gồm: 1) Tương ứng nhân: nhân của tâm vương và tâm sở tương
ứng nhau mà có (Tâm vương là cái tâm làm chủ cái thức, tâm sở là cái tâm đã thụ
tưởng, hành, thức).
2) Câu hữu nhân: Nhân của tâm vương và tâm sở cùng có mà giúp lẫn
nhau.
3) Đồng loại nhân: Nhân cùng một loại.

4) Biến hành nhân: Nhân cùng khởi một lúc khắp cả trong khổ đế và tập đế.
5) Dị thục nhân: Nhân làm điều thiện hoặc ác ở đời này thì đời sau sẽ thành
ra ở đời sau thành thiện báo hay là ác báo.
6) Năng tác nhân: Nhân nhờ có duyên khác mà tạo ra kết quả.
Tam duyên gồm: 1) Thân duyên (duyên thân với Phật): Ba nghiệp (thân,
khẩu, ý) của chúng sinh và ba nghiệp của Phật chẳng lìa bỏ nhau.
2) Cận duyên (duyên gần với Phật): chúng sinh nguyện thấy Phật, Phật
liền ứng niệm mà hiện ra trước mắt.
3)Tăng thượng duyên (duyên thêm lên cõi Phật): chúng sinh xưng niệm
Phật mỗi giây nghĩ (niệm niệm) trừ được tội nhiều kiếp, khi lâm chung Phật,
thánh sẽ tiếp rước về cõi cực lạc.
Tứ duyên gồm:
1) Nhân duyên: Cái duyên làm cho nhân thành quả. Chẳng hạn, lục căn
(mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý) làm nhân; lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp) làm duyên mà thành ra lục thức (thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc
giác, ý giác).
2) Thứ đệ duyên: Cai duyên của tâm vương, tâm sở cứ thứ tự theo nhau
sinh ra liên tục không dứt.
3) Sở duyên duyên: Duyên này nhờ duyên khác mà sinh ra.
4) Tăng thượng duyên: Đối với sinh vật, kinh Phật tìm thấy sự liên kết của
nghiệp quả từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện tại đến tương lai mà đưa ra thập nhị
nhân duyên (xem phần tập đế).
a2) Tư tưởng “Vô thường”, “Vô ngã”:
Vạn pháp đều không vượt qua nguyên lý “Vô thường” và “vô ngã”.
15

HƯỚNG DẪN ÔN THI CAO HỌC TRIẾT HỌC – MÔN CƠ SỞ - THS HOĂNG NGỌC VĨNH - 2013
“Vô ngã” là không có cái ta; sự vật bản chất không thường tồn bất biến,
nên “ngã” chỉ là “ảo”, “giả”. Nó là “ảo” là “giả” vì hội đủ nhân duyên thì có, cái
“có” ấy tự tính vốn chẳng “có” mà là “không”.

“Vô thường”: vạn vật chẳng thường hằng, thường trụ mà luôn trôi đi, biến
đi đến mức vạn pháp hiện trước nhận thức của con người đều là “ảo”. Là “ảo” vì
biến đổi “vô thường” nên cái thấy chẳng thật. Chỉ trong một Shadna thì sự vật đã
chẳng còn là nó, thế thì cái thấy chỉ là huyễn hoặc.
Theo Phật giáo, thì thế giới được tạo nên bởi ngũ uẩn: “sắc” (vật chất), thụ,
tưởng, hành, thức (tinh thần). Cũng có quan niệm cho rằng thế giới được tạo nên
từ lục đại: phong, thủy, địa, hỏa, không (sắc), thức (danh).
“Duyên danh - sắc” chỉ hội tụ nhau một thời gian ngắn rồi lại biến đổi sang
trạng thái khác. Vì vạn pháp “vô thường” nên cũng “vô ngã”. Bản thân thế giới là
một dòng chuyển liên tục (vô thường), không thể tìm ra nguyên nhân đầu tiên,
không ai tạo ra thế giới cả, không có cái gì là tồn tại vĩnh hằng cả. Sự biểu hiện
của thế giới sự vật hiện tượng luôn theo quy trình sinh, trụ, dị, diệt (hoặc thành,
trụ, hoại, không hoặc sinh, lão, bệnh, tử) theo luật “nhân quả” và lý “nhân duyên
khởi”.
Như vậy, Phật giáo coi mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ đều là “ảo” và
“giả”, không có thực, chỉ do vô minh đem lại và chấp mà có. “Tất cả mọi vật đều
là vô thường đều thay đổi, không có vật nào là ngã cả”. Dòng biến chuyển ấy là
vô thủy, vô chung, vô cùng, vô tận, không có khởi đầu, không có kết thúc.
a3) Vài điểm khác nhau của Tiểu thừa và Đại thừa
Hai phái của Tiểu thừa nhìn chung là “chấp hữu“, nhưng Phái “Nhất thiết
hữu bộ” (Savatyvàda) đã tập trung nghiên cứu phạm trù thời gian. Theo họ, có tồn
tại hiện tại là do có tác động ở trong quá khứ, có tác động hiện tại là có tồn tại
trong tương lai. Như vậy, là họ đã đi gần đến chỗ coi tồn tại là “bất biến”. Phái
“Kinh bộ” (sautràmtika) chống lại luận điểm “vô thường” của phái trên. Họ xây
dựng “lý thuyết về tính chốc lát”, và có đóng góp cho phát triển tư tưởng biện
chứng. Theo họ, trạng thái biến chuyển rõ ràng không xẩy ra sau một loạt các
biến chuyển không rõ ràng.
Hai phái của Đại thừa nhìn chung “Chấp không”, nhưng Phái “Trung luận”
(Madhymika) cho rằng: vật chất và ý thức vốn là “không” do vô minh mà hiện ra
là “có”. Bởi vậy, nhìn thế giới phải vừa là “không” vừa “dả”, tức cách nhìn

“trung”. Theo họ, con người tu luyện khi căn cơ thuần thục, bát nhã xuất hiện thì
thế giới “ảo” biến đi về trạng thái “không” - Niết bàn. Người sáng lập ra phái này
là sư Long Thọ (Trung Quốc). Phái “Du già” (Yogacara) cho rằng vạn pháp đều
biến tướng và là sự thể hiện của thức thứ tám (Tàng thức). Phái này nặng về duy
thức luận. Theo họ, “tàng thức” không mất đi mà tồn tại vĩnh hằng. Phái này do
hai anh em ruột Vô Trước (Asanga) và Thế Thân (Vasubađla) sáng lập.
Nói chung, thế giới quan Phật giáo là tư tưởng vô thần luận, có tính biện
chứng sâu sắc. Triết học Phật giáo cũng thể hiện tính duy tâm chủ quan, nặng về
16

HƯỚNG DẪN ÔN THI CAO HỌC TRIẾT HỌC – MÔN CƠ SỞ - THS HOĂNG NGỌC VĨNH - 2013
duy thức luận. Họ quá nhấn mạnh về sự biến đổi của sự vật hiện tượng và phủ
nhận sự đứng im tương đối của vạn vật.
b) Nhân sinh quan Phật giáo
Đây là nội dung trọng tâm của triết học Phật giáo. Những tư tưởng triết học
bản thể nói trên chỉ là nền tảng lý luận cho việc luận chứng những tư tưởng nhân
sinh thể hiện ở bốn luận điểm cơ bản trong “tứ diệu đế”.
b1) Quan niệm về con người: Phật giáo cho rằng con người không do
thượng đế sinh ra, cũng không do một đấng thiêng liêng nào tạo ra cả, mà con
người là một pháp đặc biệt của vạn pháp. Con người bao gồm phần sinh lý, tâm
lý, và là sự kết hợp của ngũ uẩn:
Phần sinh lý gồm “sắc” là thần sắc, hình tướng giới hạn trong không gian
bằng xương, thịt, da, tạo bởi bốn yếu tố (Tứ đại) là: thủy, hỏa, địa, phong. Phần
tâm lý hay tinh thần, ý thức gồm thụ, tưởng, hành, thức, được biểu thị bằng bảy
lĩnh vực tình cảm (thất tình) là: Ái, ố, nộ, hỷ, lạc, ai, dục. Phần tâm lý bao giờ
cũng nhờ, dựa vào phần sinh lý (không có tinh thần, ý thức ngoài cơ thể vật chất).
Con người cũng như vạn pháp khác của vũ trụ phải tuân thủ: sinh, trụ, dị, diệt và
thực chất là giả hợp của ngũ uẩn, do vậy con người cũng chỉ là giả - “Vô ngã”.
Con người khi chết không hết cũng chẳng còn (chấp đoạn). Phật giáo giải
thích cái chết của con người sau chết bằng thuyết “Nghiệp báo” (karma) và luân

hồi (Samsara).
Nghiệp (Karma) theo truyền thống Ấn Độ cổ phải được hiểu là: Mỗi hành
động là kết quả tất nhiên của những điều kiện có trước; là khuynh hướng của
nhân thành quả (thiện = thiện, ác = ác); là cái tâm linh cao hơn cái tự nhiên vốn
có của con người (con người là bộ phận của tự nhiên và là bộ phận cao hơn có
quan hệ xã hội); là tự do của con người bằng sự hợp nhất tự do của linh hồn với
thượng đế (Brahman); là ánh sáng tâm linh bên trong của con người (Đức sáng tự
mình). Ánh sáng tâm linh này có phản chiếu ánh sáng tối cao hay không là
chuyện bất khả tri; cách truyền nghiệp là tâm truyền (muốn là được).
Nghiệp theo Phật giáo phải được hiểu là nghiệp theo kiểu truyền thống ấy
nhưng có đôi điểm khác biệt như: Bí truyền và hành động như một định luật nhân
quả khắt khe (là nhân quả), có thể hiểu như định mệnh trong các tôn giáo khác.
Nghiệp của Balamôn là sự tái sinh của một Atman vào một trong sáu cõi
[(thần tiên), Atula (thần), nhân (người), địa ngục, ngạ quỷ (ma đói), súc sinh (thú
vật)];
Nghiệp của Phật là một dây liên tục các nghiệp riêng - chung, nó không là
định mệnh mù quáng, không là tự do muốn gì được nấy mà có luật nghiệp được
định bởi trật tự của tự nhiên và tinh thần. Khi nói đến nghiệp, Phật giáo chỉ
chứng minh con người có ý chí có khả năng làm chủ được nghiệp trong khi phải
tuân thủ luật nghiệp. Khi giác ngộ với nghiệp không còn tác dụng. Nghiệp là sức
mạnh ngấm ngầm thúc đẩy từ bên trong, là tiềm thức của con người mà muốn
nhìn thấy nó phải nhất tâm thiền định.
17

HƯỚNG DẪN ÔN THI CAO HỌC TRIẾT HỌC – MÔN CƠ SỞ - THS HOĂNG NGỌC VĨNH - 2013
Nghiệp có phúc nghiệp, tội nghiệp. Nghiệp cũng có nghĩa là tạo tác, việc
làm. Tam nghiệp góp chung thành một sức mạnh gọi là nghiệp của người đang
sống: bao gồm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp. Khi chết có một trong bốn
nghiệp sau chi phối mà quen gọi là dẫn nghiệp: cực trọng nghiệp (cơ thể thiện
hoặc ác); cận tử nghiệp; tập quán nghiệp; tích lũy nghiệp.

Trong vòng tam giới (Dục, sắc, vô sắc), vạn pháp đều chịu 4 nghiệp là:
nghiệp đen (ác), nghiệp trắng (thiện), nghiệp đen và nghiệp trắng (có thiện có ác),
nghiệp không đen cũng không trắng (nghiệp vô vi của hàng đắc đạo - nghiệp vô
lậu). Ngoài ra, tùy hoàn cảnh còn có nhiều loại nghiệp khác.
Với thuyết “nhân quả” và “Nghiệp - Nghiệp báo”, Phật giáo cho rằng
không có một hành vi nào dù thiện, ác, to, nhỏ, của con người, dù được bưng bít
che đậy mà tránh khỏi “quả báo”. “Tu tâm”, “Nghiệp dần luân hồi trong lục đạo”
nói rất rõ về điều này.
Luân hồi: luân là bánh xe quay tròn, hồi là trở về. Luân hồi là nói đến vạn
pháp trong tam giới luôn luân chuyển không ngừng theo chu kỳ: Thành - trụ -
hoại - không (sinh - trụ - dị - diệt hoặc sinh - lão - bệnh - tử). Đối với con người
có thân thì có nghiệp, có nghiệp thì vào luân hồi để trả nghiệp báo.
Ba giới được hiểu theo 3 cách là vật lý, sinh lý, tâm lý; dục giới, sắc giới,
vô sắc giới; thảo mộc, động vật và quỷ thần.
b2) Quan niệm về đời người thể hiện trong Tứ Diệu Đế
“Tứ diệu đế” là nội dung chủ yếu về nhân sinh quan Phật giáo - luận điểm
về giải thoát và cứu khổ - Niết bàn.
Khổ đế : tất cả những cái có, vốn là tồn tại đều khổ. Đau khổ là quá trình
tồn tại. Đời là bể khổ “nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước của bốn biển”.
Những cái khổ tóm lại trong bát khổ: Sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt
ly khổ, oán tăng hội khổ, sở cầu bất đắc khổ, thủ ngũ uẩn khổ.
Tập đế (nhân đế): Mọi cái khổ đều có nguyên nhân. Nguyên nhân của đau
khổ nằm trong trần tục là vô minh, là dục vọng. “Thập nhị nhân duyên” là những
nguyên nhân cho cái tồn tại kéo dài không ngừng và liên tục trong vòng quay
vĩnh cửu. Mười hai nguyên nhân ấy là: Vô minh, hành, thức, danh - sắc, lục
nhập, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão - tử đều gây khổ. Duyên “lão - tử” vừa là kết
quả cuối của một quá trình, nhưng cũng là nguyên nhân của vòng luân hồi mới từ
vô minh của cuộc đời khác. Tất cả 12 nguyên nhân này quan hệ ràng buộc lẫn
nhau, dẫn tới cay đắng của cuộc đời.
Diệt đế: Phật giáo khẳng định cái khổ có thể diệt được. Có thể chấm dứt

được đau khổ, chấm dứt được luân hồi nhờ đạt trạng thái niết bàn.
Niết bàn phải được hiểu với những nghĩa sau: Là cảnh trí của nhà tu hành
đã diệt sạch các phiền não và tự biết rằng, mình chẳng còn luyến ái; là ra khỏi
cảnh rừng mê tối, rừng phiền não; Đã dứt nhân quả sinh tử, dứt hết nghiệp, luân
hồi; là vô vi, trống không, lặng lẽ, yên ổn chấm dứt cái tai hại của sinh tử; là
không sinh ra những khổ quả nữa; là không nhân duyên tạo tác nghiệp lầm (vô
vi); là yên ổn, khoái lạc, hết khổ (an lạc); là lìa khỏi phiền não (giải thoát).
18

HƯỚNG DẪN ÔN THI CAO HỌC TRIẾT HỌC – MÔN CƠ SỞ - THS HOĂNG NGỌC VĨNH - 2013
Niết bàn theo Phật giáo cũng có những nghĩa như thế, nhưng cần phải được
hiểu là: Cõi tĩnh, tịch, cực lạc siêu không gian, siêu thời gian (hư không, thế giới
bên kia); đã diệt trừ hết mọi dục vọng, thù ghét, mê lầm đạt đến sự giải thoát tuyệt
đỉnh, đồng nhất Niết bàn, Pháp, Phật (Niết bàn có ngay trong hiện thực); là thế
giới đại đồng, bình đẳng, bắc ái (khát vọng về tương lai).
Diệt đế cũng là niết bàn. Muốn đạt niết bàn phải diệt đế, phải chứng quả
“duyên giác”. Diệt đế trước hết là diệt vô minh. Trong đó vô minh bao gồm cả
việc thừa nhận sự tồn tại thực của con người và của vạn pháp.
Ở đây trong bản thể luận, Phật giáo cứu cánh con người không phải bằng
đấu tranh giai cấp, bằng cách mạng mà bằng diệt dục. Để đạt được trạng thái giải
thoát, Phật giáo đã “đặt thế giới lầm lỗi và trần tục, tức thế giới thường ngày và
tồn tại kinh nghiệm đối lập với sự yên tĩnh vĩnh hằng đạt được, bằng cách giảm
bớt dần nguyên nhân sự tồn tại trần tục”.
Trong lý thuyết về giải thoát của Tiểu thừa và Đại thừa có đôi chút khác
nhau. Chúng sinh - theo Tiểu thừa - chìm đắm trong bể khổ sẽ đến nơi yên tĩnh và
ai cũng muốn hướng tới trạng thái Alahán (vị thánh đã đạt niết bàn). Nhưng muốn
tới trạng thái ấy, mỗi cá nhân tự phấn đấu mà đi. Đức Phật chỉ vạch ra mục đích
và hướng dẫn con đường. Các vị La Hán không quan tâm và không thể quan tâm
tới mọi người và không ai có thể giúp được, mỗi người tự tạo ra nghiệp của mình,
tự đạt tới niết bàn. Với Đại thừa, Alahán được thay bằng Bồ Tát. Bồ Tát chứng

quả niết bàn nhưng khước từ bước vào trạng thái yên lặng ấy, các ngài lại thường
quan tâm giúp chúng sinh khác cũng đạt tới trạng thái như vậy. Theo Đại thừa,
mọi chúng sinh đều liên kết với nhau bởi có cái chung là tâm Phật. Tất cả chúng
sinh đều là Bồ Tát, là Phật vị lai. Mỗi chúng sinh đều ẩn dấu một phần của cái
chung đó: Đức Phật tuyệt đối duy nhất. Bồ Tát tuy giúp đỡ mọi người khi mình
đã được giải thoát, nhưng không làm cho họ đắc đạo được, chỉ Đức Phật mới làm
được điều đó. Nơi nào thờ Bồ Tát thì đó là Phật giáo Đại thừa.
Đạo đế: Là những con đường chân chính dẫn đến sự giải thoát, là những
con đường tu đạo. Thực chất của những con đường này là diệt “vô minh”. Có tám
con đường gọi là “bát chánh đạo”:
. Chính ý: Tư duy, suy nghĩ đúng.
. Chính ngữ: Giữ lời nói chân chính.
. Chính kiến: Có sự hiểu biết đúng đắn, nhất là hiểu biết đúng đắn về Tứ
diệu đế.
. Chính nghiệp: Có nghiệp tà và nghiệp chính. Nghiệp tà thì tu sữa, cải tạo.
Nghiệp chính thì giữ cho vững, Thân, khẩu, ý nghiệp đều phải giữ cho chính, cho
thanh tịnh.
. Chính mệnh: Sống trung thực,cư xử đúng đắn, tiết chế dục vọng và giữ
nghiêm giới luật.
. Chính tinh tiến: Thường xuyên tích cực tiên kiên truyền bá chân lý của
Phật. Hoằng dương Phật pháp chân chính.
. Chính niệm: Thường giữ vững và nhớ Phật, niệm Phật.
19

HƯỚNG DẪN ÔN THI CAO HỌC TRIẾT HỌC – MÔN CƠ SỞ - THS HOĂNG NGỌC VĨNH - 2013
. Chính định: Tĩnh lặng tập trung và suy nghĩ về “tứ diệu đế”, “vô ngã”,
“vô thường” và “khổ”.
Tám con đường ấy qui về thực hiện ba nguyên tắc: Giới - Định - Huệ.
Giới: Giữ những điều kiêng kỵ để con người trở nên trong sạch, làm cho
thân, khẩu, ý được thanh tịnh.

Định: Làm cho thân, tâm trụ, định, an lạc không bị tán loạn, không bị chi
phối bởi hoàn cảnh. Định gồm có Chỉ và Quán. Nhờ Chỉ mà mọi nghiệp dừng lại
và ngưng đọng. Nhờ Quán mà trí tuệ minh triết phát minh.
Huệ (tuệ): Nhờ định mà trí tuệ bát nhã phát sinh, lúc đó con người liền
vượt qua bể khổ đạt đến bờ giải thoát (giác ngộ, niết bàn, quốc độ, tĩnh lặng v.v.).
b3) Tóm lại: Cứu vớt và giải thoát luôn là mục đích và nội dung của nhân
sinh quan tư tưởng triết học Đạo Phật. Phật giáo bác bỏ “sự tồn tại” của Brahman,
“đấng sáng tạo” và “ngã” (Atman) của Upanishad, nhưng lại tiếp thu tư tưởng
“Luân hồi” (Samsara) và “nghiệp” (Karma) của Upanishad trong toàn bộ hệ
thống triết học Ấn Độ cổ.
Phật giáo chỉ thừa nhận bốn điều thường tồn là: Mọi chúng sinh đều sinh
ra từ “vô minh”; Tất cả mọi đối tượng của dục vọng đều là vô thường, là sự khổ,
là điều thay đổi; Tất cả mọi tồn tại đều vô thường, đều khổ là điều thay đổi;
“Ngã” cũng không phải là gì thuộc về ta.
Nhân sinh quan Phật giáo nói gọn là giải thoát luận. Tuy vậy, hạn chế là để
đạt mục đích cuối cùng, Phật giáo lại thực hiện bằng cách loại bỏ dần nguyên
nhân của sự tồn tại của thế giới hiện thực. Bởi lẽ: Đối tượng giải thoát và cứu rỗi
của Phật giáo là tất cả chúng sinh không phân biệt sang hèn, giàu nghèo, nam, nữ,
già, trẻ. Tất cả đều có thể giải thoát, có thể thành Phật. Bản thân Phật cũng không
phải là vị thánh thần mà là một con người đã giải thoát, đã giác ngộ. Niết bàn hay
trạng thái giải thoát chính là trạng thái đã đoạn trừ được những ràng buộc trần thế,
những đau khổ, phiền não do “vô minh”, “tham dục” gây ra. Niết bàn là trạng thái
tâm hồn hoàn toàn được giải thoát, tĩnh lặng, trong sáng thanh tịnh, cực lạc siêu
không gian, siêu thời gian.
1.1.3.2.2. Một số tông phái Đạo Phật ảnh hưởng ở Việt Nam
Ở Việt Nam hiện nay có 3 tông phái lớn có ảnh hưởng đến Phật giáo Việt
Nam là:
Mật tông: Hình thành từ Đạo Phật Đại thừa và các yếu tố bùa chú, pháp
thuật thần linh của Ấn Độ, ra đời từ thế kỷ thứ VII khi Phật giáo ở Ấn Độ đã suy
yếu và Ấn Độ giáo đang hình thành. Những người tu hành trong phái này có tính

chất bí truyền, lễ thức thờ phụng rờm rà phức tạp. Mật tông đã ảnh hưởng lớn
Phật giáo Việt Nam thời nhà Lý với các sư Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Khổng
Minh Không phái này đề cao vai trò của người xuất gia tu hành, thậm chí còn
coi là hiện thân của Phật.
Tịnh độ tông: Do sư Tuệ Viễn (Viễn Công) lập ra ở Trung Quốc cuối thế
kỷ thứ IV. Phái này thờ Tam Bảo. Tam Bảo tức là ba ngôi báu: Phật (Đại giác,
đại ngộ, hiểu biết tất cả); Pháp (những giáo thuyết của Đức Phật); Tăng (những
20

HƯỚNG DẪN ÔN THI CAO HỌC TRIẾT HỌC – MÔN CƠ SỞ - THS HOĂNG NGỌC VĨNH - 2013
người xuất gia cùng hòa hợp, cùng chung nhau tu học giáo thuyết của Phật). Tam
Bảo là Phật Bảo, Pháp bảo và Tăng bảo.
Quy y tam bảo là gửi thân vào đức Phật, vào đạo Phật, vào tăng chúng của
Phật. Tức là nương theo đức Giác có đủ phước và huệ; là nương theo sự Chính
không tà kiến; là nương theo đức Tịnh không nhiễm ô trọc, không chấp nê (Như
vậy Phật tức là giác, Pháp tức là chính, tăng tức là tịnh).
Có ba thứ tam bảo là đồng thể tam bảo (3 ngôi quý đều như nhau), xuất thế
tam bảo (ba ngôi quý ra khỏi thế gian), thế gian trụ trì tam bảo (ba ngôi còn ở
trong thế gian).
Họ niệm Phật, chủ trương dựa vào Phật lực để giải thoát là chủ yếu. Điều
quan trọng không phải là nơi niệm hoặc cách niệm Phật, cái chính là giữ cho tâm
tính yên tĩnh, không vọng động, phải hướng thiện và hướng thượng, luôn nhớ
công đức cũng như lời răn dạy của Phật. Phải có niềm tin vào sự giác ngộ.
Thiền tông: Được hình thành ở Trung Quốc vào thế kỷ thứ VI. Sư tổ là Bồ
Đề Đạt Ma (Bodhidharma). Ông cho rằng giáo thuyết Phật giáo trừu tượng lại
nhiều kinh sách, người bình dân khó tiếp thu chân lý của Phật, nên ông chủ
trương tu thiền (Dhyana = yên lặng mà suy nghĩ). Tu thiền là cách tốt nhất để
thấy được tâm, tính và giác ngộ, vì Phật tại tâm, tại tính chứ không ở ngoài. Có
tu tiệm ngộ (thông qua 52 bậc mới đạt quả Phật). Có tu đốn ngộ (giác ngộ nhanh
với điều kiện người tu hành phải tạo ra được công án làm trí tuệ bừng sáng). Thật

ra thì tiệm là nhân của đốn, đốn là quả của tiệm trong cả quá trình tu hành.
1.1.3.2.3. Đánh giá về những giá trị triết học của Đạo Phật
Trên thực tế có rất nhiều những đánh giá khác nhau về giá trị tư tưởng của
triết học Phật giáo. Ăng Ghen đã từng cho rằng, những tư tưởng về “Vô ngã”, “vô
thường” của Đạo Phật chứa đựng tư tưởng biện chứng sâu sắc.
Về nhân sinh quan, có người cho rằng Phật giáo là bi quan, yếm thế về
cuộc sống con người, không đề ra nỗi khổ của áp bức giai cấp, không đề ra biện
pháp cách mạng để cải tạo xã hội mà đi sâu vào con đường giải thoát mang tính
cá nhân tiêu cực. Cũng có ý kiến cho rằng Đạo Phật đã đề cập đến sự thật nơi
cuộc sống của mỗi con người, bất kể đó là ai đều không thoát khỏi sự ràng buộc
của sinh - lão - bệnh - tử và luân hồi. Đạo Phật đã đề ra và định hướng giải quyết
một vấn đề mà bất cứ ai dù ít, dù nhiều đều không thể lãng tránh.
Thật ra, Đạo Phật đã đặt ra và giải quyết một vấn đề rất có liên quan tới
mỗi con người. Ở đây cần phải đứng trên quan điểm: Đạo Phật đã phản ánh nhu
cầu nào của con người và có ý định giải quyết những vấn đề đó có cần thiết đặt ra
cho con người hay không ? Ở quan điểm này, đạo Phật đã có những suy tư hết
sức sâu sắc. Đó là giá trị về mặt tư duy và về mặt tư tưởng triết học của Đạo Phật.
Tuy vậy, trong những giá trị nhân bản của Đạo Phật cũng hàm chứa nhứng hạn
chế nhất định của nó: chỉ chú trọng giải quyết nhân bản ở góc độ là tính nhân bản
nhân loại, mà thiếu mất góc độ của những giới hạn nhân bản về tính giai cấp, tính
dân tộc v.v. nên triết học nhân bản Phật giáo vì thế mới ở mức độ nhân bản trừu
tượng về con người.
21

HƯỚNG DẪN ÔN THI CAO HỌC TRIẾT HỌC – MÔN CƠ SỞ - THS HOĂNG NGỌC VĨNH - 2013
1.2. LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
Trung Quốc cổ đại là một nước có nền văn minh phát triển phong phú và
đa dạng. Triết học Trung Quốc cổ đại là một trung tâm lớn của triết học phương
Đông và nhân loại. Thời đại lịch sử này kéo dài từ thiên niên kỷ III tcn đến thế kỷ
III tcn.

1.2.1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRUNG QUỐC
CỔ TRUNG ĐẠI
1.2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử
Trung Quốc có diện tích 9.597.000 km
2
, chiếm gần 7% diện tích toàn cầu,
có trên 60 dân tộc trong đó dân tộc Hán chiếm 90% dân số cả nước.
- Trung Quốc cộng sản nguyên thủy bắt đầu từ thời “Tam Hoàng”, “Ngũ
Đế”
1
. Theo “Sử ký” của Tư Mã Thiên thì tam hoàng là Thiên Hoàng, Địa Hoàng
và Nhân Hoàng. Nhưng theo “Thượng thư đại truyện” thì tam hoàng là Toại
Nhân, người phát hiện ra lửa; Phục Hy, người phát hiện ra lưới săn bắt và biết
cách chăn nuôi gia súc; Thần Nông, ông tổ của nghề cày cấy, trồng trọt. Sau đó là
thời kỳ đồ gốm với các ngũ đế: Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đường Nghiêu,
Ngu Thuấn (Vua Nghiêu truyền ngôi cho vua Thuấn không theo cha truyền con
nối) thời kỳ này được tính từ 4477 tcn - thế kỷ XXV tcn.
- Xã hội chiếm hữu nô lệ Trung Quốc được hình thành từ nhà Hạ, phát triển
qua nhà Ân-Thương đến nhà Chu, tức từ thế kỷ XXV tcn đến thế kỷ III tcn. Đây
là thời kỳ xã hội Trung Quốc có rất nhiều biến động:
+ Ở thế kỷ XXI tcn, nhà Hạ ra đời đánh dấu sự mở đầu của chế độ chiếm
hữu nô lệ ở Trung Quốc. Giai đoạn này người Trung Quốc đã biết khai thác, sáng
chế, sử dụng các công cụ bằng đồng và đã có dấu hiệu sự ra đời của văn tự.
+ Ở thế kỷ XVII tcn, Thành Thang lật đổ vua Kiệt của nhà Hạ lập nên nhà
Thương đặt kinh đô ở đất Bạc (thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay), đến thế kỷ XIV thì
dời đô về đất Ân (cũng thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay). Thời Ân - Thương nông
nghiệp là ngành sản xuất chủ yếu, công cụ bằng đồng được sử dụng rộng rãi, chữ
viết đã xuất hiện, thiên văn phát triển. Người Trung Quốc đã biết dùng 12 chi và
10 can để sáng tạo ra lịch phục vụ nông nghiệp.
+ Ở thế kỷ XI tcn, Chu Vũ Vương lật đổ vua Trụ của nhà Ân - Thương lập

nên nhà Chu đưa xã hội chiếm hữu nô lệ Trung Quốc phát triển đến đỉnh cao. Nhà
Chu có 37 đời vua, kéo dài gần chín thế kỷ và chia thành hai giai đoạn Tây Chu
(1066 tcn - 770 tcn); Đông Chu (770 tcn - 221 tcn). Thời Đông Chu lại chia thành
hai thời kỳ Xuân Thu (770 tcn - 475 tcn) và Chiến Quốc (475 tcn - 221 tcn).
Thời Tây Chu, chế độ đẳng cấp, tông pháp và trật tự xã hội được duy trì
nghiêm nghặt: Thiên tử thống trị toàn bộ đất đai và thần dân. Các chư hầu có
quân đội riêng nhưng hàng năm vẫn phải thực hiện chế độ triều cống, triều hội và
2
1
Đây là thời kỳ Cộng sản nguyên thủy, hiện chưa có chính sử, mà chỉ là truyền thuyết.
22

HƯỚNG DẪN ÔN THI CAO HỌC TRIẾT HỌC – MÔN CƠ SỞ - THS HOĂNG NGỌC VĨNH - 2013
lệnh chinh phạt của Thiên tử. Toàn xã hội Trung Quốc là một hệ thống ràng buộc
nhau không chỉ về huyết thống mà cả về kinh tế, chính trị - xã hội.
Thời Đông Chu, chế độ tông pháp dần bị loại bỏ, vương đạo suy vi, bá đạo
tiếm quyền Thiên Tử. Mọi lễ pháp, cương thường đạo lý bị đảo lộn. Chư hầu
xưng hùng, xưng bá, thôn tính lẫn nhau, chiến tranh triền miên. Đây cũng là hậu
quả của sự phát triển sức sản xuất sử dụng công cụ bằng sắt và sự phát triển của
các khoa học khác bị kìm hãm bởi chế độ chiếm hữu nô lệ tập quyền:
- Thời Xuân Thu có 483 cuộc chiến tranh, từ hàng nghìn nước thời đầu Tây
Chu, đến cuối Xuân Thu chỉ còn hơn 100 nước, cục diện Ngũ bá Tề (Hoàn Công)
- Tống (Trương Công) - Tấn (Văn Công) - Tần (Mục Công) - Sở (Trang Vương)
đua nhau làm bá chủ thiên hạ. Cuối Xuân Thu có thêm hai nứơc Ngô (Phù Sai) và
Việt (Câu Tiễn) cùng tham gia tranh hùng, xưng bá.
- Thời Chiến Quốc, Trung Quốc chỉ còn thất hùng Hàn - Ngụy - Tần - Tề -
Triệu - Sở - Yên, trong đó Tần là nước mạnh nhất. Cuối thế kỷ III tcn, Tần Doanh
Chính sử dụng học thuyết pháp gia của Hàn Phi tử đã lần lượt chinh phục các
nước khác và thống nhất Trung Quốc, lập nên quốc gia phong kiến trung ương tập
quyền đầu tiên ở Trung Quốc năm 221 tcn.

1.2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của triết học Trung Quốc
cổ trung đại
Từ thời Tam hoàng - Ngũ đế cho đến đầu Đông Chu, Trung Quốc đã xuất
hiện các biểu tượng tôn giáo như đế, thượng đế, thiên mệnh, quỷ, thần, âm dương,
ngũ hành đã tạo điều kiện cho sự phát triển triết học Trung Quốc trong thời Đông
Chu.
Thời Đông Chu, về kinh tế có sự tan rã của mô hình kinh tế “tỉnh điền” (sở
hữu ruộng đât thuộc về nhà nước, quyền sử dụng ruộng đất được phân chia cho
các thành viên công xã thông qua các cơ sở công xã). Sự tan rã này làm xuất hiện
một lực lượng chính trị mới - Địa chủ - đối lập với tầng lớp quý tộc thị tộc cũ.
Về chính trị - xã hội, đây là thời kỳ phân hóa giai cấp và đấu tranh giai cấp
quyết liệt, chiến tranh triền miên.
Thực chất đây là giai đoạn chế độ chiếm hữu nô lệ suy tàn, Trung Quốc bắt
đầu chuyển sang chế độ phong kiến. Là thời kỳ mà các giá trị đạo đức bị đảo lộn
căn bản: cái cũ chưa mất hẳn, cái mới vừa xuất hiện chưa được khẳng định.
Thực tế này đã đặt ra một loạt các vấn đề xã hội và triết học buộc các nhà
tư tưởng phải lý giải như làm thế nào để thống nhất Trung Quốc? Vì sao thời nào
cũng có hưng, vong, trị, loạn? Bản chất con người là gì? Nguyên lý nào chi phối
vạn vật? Hành động thế nào để không trái đạo trời, không trái bản tính tiên
thiên? Hoàn cảnh kinh tế - chính trị đặc biệt này đã làm nảy sinh hàng loạt các
nhà triết học, các trường phái triết học đa dạng, phong phú.
1.2.1.3. Triết học Trung Quốc cổ đại có những đặc trưng sau đây
1. Nó được hình thành rất sớm ngay từ cuối thiên niên kỷ thứ II tcn và phát
triển rực rỡ vào thời Đông Chu.
23

HƯỚNG DẪN ÔN THI CAO HỌC TRIẾT HỌC – MÔN CƠ SỞ - THS HOĂNG NGỌC VĨNH - 2013
2. Triết học Trung Quốc cổ đại rất phong phú đa dạng và đã đề cập đến hầu
hết các lĩnh vực khác nhau của triết học như thế giới quan, nhân sinh quan, nhận
thức luận, đạo đức, chính trị - xã hội, lôgíc học, phương pháp trị nước

3. Cuộc đấu tranh giữa duy vật với duy tâm, giữa biện chứng với siêu hình,
giữa vô thần với hữu thần dù chủ yếu xảy ra trên phương diện nhân sinh quan
nhưng không kém phần gay gắt, phức tạp.
4. Trong mỗi trường phái triết học thường có sự đan xen giữa các yếu tố
duy vật, duy tâm, biện chứng, siêu hình, vô thần và hữu thần.
Nói chung, triết học Trung Quốc cổ đại có những đóng góp hợp lý vào kho
tàng tri thức lịch sử triết học thế giới và đặt nền tảng cho sự phát triển của triết
học Trung Quốc sau này. Triết học Trung Quốc cổ đại có ảnh hưởng đến nhiều
nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
1.2.2. CÁC TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC TIÊU BIỂU
1.2.2.1. Trường phái Nho gia sơ kỳ
Nho gia là một trong ba trường phái triết học lớn nhất thời Trung Quốc cổ
đại (cùng với Đạo gia và Mặc gia). Trong hai ngàn năm phong kiến Trung Quốc
cũng như các triều đại phong kiến của các nước vùng Á Đông như Nhật Bản, Việt
Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của những tư tưởng Nho học.
Nho gia ra đời từ thế kỷ VI tcn cho tới sự phát triển sau đó 2000 năm đã có
những bổ sung, hoàn thiện nhưng về bản chất những quan niệm triết học của Nho
gia thì đã được hình thành ngay từ thời cổ đại.
Nho gia được Khổng tử lập ra thời Xuân Thu, thời kỳ này chỉ nên gọi là
Khổng học hay Nho học mới đúng. Học thuyết của ông được Mạnh tử và Tuân tử
tiếp tục hoàn thiện ở thời Chiến Quốc, thời kỳ này gọi là Khổng gia hay Nho gia.
Nếu gọi là Khổng giáo hay Nho giáo thì "giáo" ở đây phải hiểu là giáo dục, giáo
học. Học thuyết của Khổng tử chỉ thực sự trở thành một tôn giáo phải kể từ Đổng
Trọng Thư trở đi. Khổng tử được các học trò tôn xưng là bậc “chí thánh tiên sư,
vạn thế sư biểu”. Mạnh tử cũng được tôn xưng là bậc “nhị thánh” của Nho giáo.
Kinh sách Nho gia thường được kể đến là tứ thư và ngũ kinh. Tứ thư gồm
bốn cuốn: Luận ngữ, Đại học, Trung dung, Mạnh tử . Trong hệ thống tứ thư thì
“luận ngữ” thường được coi là sách quan trọng nhất để nghiên cứu về tư tưởng
của Khổng tử. Đây là cuốn sách do các học trò của Khổng tử ghi chép những lời
thầy dạy mình khi thầy còn tại thế. Ngũ kinh gồm năm cuốn: Kinh Thư, Kinh Thi,

Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu.
Trong hệ thống ngũ kinh, theo tương truyền “kinh Xuân Thu” do chính
Khổng tử biên soạn. Theo “Sử ký” của Tư Mã Thiên thì người đời sau khen Khâu
hay chê Khâu là căn cứ vào kinh Xuân Thu. Theo tương truyền, Khổng tử cũng là
người đã chỉnh lý, biên soạn các bộ kinh Thư, kinh Dịch Ông đã bổ sung vào
kinh Dịch mười thiên (gọi là thập dực). Như vậy, Khổng tử là bậc đại trí thức
đương thời, ông thông thái mọi tri thức hiện có của người Trung Quốc cổ đại và
tập hợp thành một hệ thống.
a). Những tư tưởng triết học cơ bản của Nho giáo cổ đại
24

HƯỚNG DẪN ÔN THI CAO HỌC TRIẾT HỌC – MÔN CƠ SỞ - THS HOĂNG NGỌC VĨNH - 2013
Trung tâm của tư tưởng triết học Nho giáo cổ đại không là những tư tưởng
triết học về bản thể, về vũ trụ. Mối quan tâm hàng đầu của Khổng tử không phải
là đạo Trời, mặc dù một số lần ông có nhắc đến Thiên mệnh và nói đến quỷ thần.
Điều mà Khổng tử đặc biệt chú ý giải quyết là những vấn đề triết học về đạo
Người (Nhân đạo). Nói theo ngôn ngữ hiện đại thì điều Khổng tử quan tâm là
những quan niệm triết học về xã hội con người. Có lần học trò hỏi ông về quỷ
thần và cuộc sống của con người sau khi chết, ông trả lời ”Kính quỷ thần nhi viễn
chi” (quỷ thần chỉ nên kính trọng nhưng chớ có gần); rằng “hãy đợi đến khi chết
cũng chưa muộn”; rằng “đạo người chưa biết sao tỏ được việc quỷ thần” Điều
này cho thấy Khổng tử nặng lo đạo Người hơn đạo Trời và việc quỷ thần. Điều ấy
cũng phản ánh những ảnh hưởng chính trị - xã hội của thời Xuân Thu đặc biệt rõ
nét trong triết học Khổng tử.
Có quan niệm đánh giá không coi Khổng tử là nhà triết học mà chỉ xem
ông như một nhà giáo dục, một người dạy học, một quân sư về chính trị đương
thời. Quả là Khổng tử đã từng là thầy dạy học và nêu tấm gương sáng cho đạo
làm thầy mãi muôn đời sau. Ông cũng đã từng làm chính trị, làm quan, làm tể
tướng trong một thời gian ngắn và ông đúng là người đã đào tạo nhiều nhà chính
trị xuất sắc đương thời cũng như sau này. Ông có những tư tưởng chính trị độc

đáo, tạo ra nền tảng quan niệm về chính trị quân chủ trung ương tập quyền vùng
Á Đông mãi về sau này.
Có thể khái quát những tư tưởng triết học của Khổng tử cũng như của Nho
giáo nói chung ở những điểm sau:
Một là: Phương pháp luận định hướng tiếp cận giải quyết những vấn đề xã
hội của Nho giáo không xuất phát từ việc phân tích cơ sở kinh tế của xã hội. Nho
giáo quy toàn bộ quan hệ xã hội về những quan hệ chính trị - đạo đức, coi đó là
quan hệ nền tảng của đời sống xã hội. Đồng thời, Nho giáo lại quy những quan hệ
chính trị - đạo đức của xã hội vào ba mối quan hệ chính trị - đạo đức cơ bản: Vua
- Tôi; Chồng - Vợ; Cha - Con. Quan hệ thứ nhất thuộc quan hệ quốc gia, hai quan
hệ sau thuộc quan hệ gia đình. Điều này chứng tỏ Nho giáo coi quan hệ gia đình
là quan hệ nền tảng của xã hội. Quan hệ gia đình Trung Quốc cổ đại mang tính
chất tông tộc, dòng họ. Ba quan hệ ấy gọi là “tam cương” của xã hội. Xã hội trị
hay loạn trước hết thể hiện ở việc có giữ vững được tam cương hay không.
Hai là: Lý tưởng xã hội của Nho giáo là hướng tới một xã hội “đại đồng”.
Khái niệm “xã hội đại đồng” của Nho giáo không phải là một xã hội đặt trên nền
tảng của một nền sản xuất phát triển cao, mà là một xã hội “an hòa”. Trong đó sự
an hòa được đặt trên nền tảng của sự “công bằng” xã hội. Công bằng Nho giáo
không là sự “cào bằng” tiểu nông, mà là công bằng trên cơ sở địa vị xã hội của
mỗi cá nhân, mỗi dòng họ.
Ba là: Phương thức để duy trì trật tự công bằng của xã hội theo quan niệm
Nho giáo là phải nêu cao “Chính danh”. “Chính danh” nghĩa là mỗi người cần
nhận thức và hành động theo cương vị, địa vị của mình: vua cho ra vua, tôi phải
ra tôi; chồng phải ra đạo chồng, vợ phải ra đạo vợ; cha ra cha, con phải ra con
25

×