GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI TUYỂN SINH
SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2013
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
♣♥♣
GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH
ĐỀ CƯƠNG ÔN THI TUYỂN SINH SAU
ĐẠI HỌCMÔN CƠ BẢN: TRIẾT HỌC
HUẾ 5/2013
ĐỀ CƯƠNG THI TUYỂN SAU ĐẠI HỌC
MÔN CƠ BẢN: TRIẾT HỌC
(cho các ngành không chuyên triết học)
1
GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI TUYỂN SINH
SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2013
I. NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH
1. Vấn đề cơ bản của triết học. Các trường phái triết học chủ yếu trong
lịch sử.
2. Phạm trù vật chất
- Quan niệm của các nhà triết học duy vật trước Mác.
- Định nghĩa của Lênin về vật chất.
3. Phạm trù vận động
- Khái niệm vận động.
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.
- Tính mâu thuẫn của vận động.
- Ý nghĩa của quan điểm triết học duy vật biện chứng về vận động.
4. Phạm trù ý thức
- Nguồn gốc của ý thức.
- Bản chất của ý thức.
5. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa
vật chất - ý thức và ý nghĩa phương pháp luận.
6. Phép biện chứng duy vật là một khoa học về mối liên hệ phổ biến và
sự phát triển.
- Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
- Nội dung nguyên lý về sự phát triển.
- Ý nghĩa phương pháp luận.
7. Những quy luật của phép biện chứng duy vật :
- Nội dung, ý nghĩa phương pháp luận quy luật thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập.
- Nội dung, ý nghĩa phương pháp luận của quy luật chuyển hóa những
thay đổi về lượng thành thay đổi về chất và ngược lại.
- Nội dung, ý nghĩa phương pháp luận của quy luật phủ định của phủ
định.
8. Các phạm trù cơ bản của triết học :
- Cái riêng và Cái chung - Nguyên nhân và kết quả
- Nội dung và hình thức - Tất nhiên và ngẫu nhiên
- Bản chất và hiện tượng - Khả năng và hiện thực
9. Lý luận nhận thức của triết học Mác - Lênin :
- Những nguyên tắc cơ bản của lý luận nhận thức.
- Bản chất của nhận thức.
- Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
- Vấn đề chân lý.
10. Phương thức sản xuất.
- Định nghĩa phương thức sản xuất.
- Kết cấu của phương thức sản xuất.
- Vai trò của phương thức sản xuất đối với sự tồn tại, phát triển xã hội.
2
GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI TUYỂN SINH
SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2013
11. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (quy luật về
sự phù hợp của sản xuất với trình độ lực lượng sản xuất)
- Khái niệm "trình độ của lực lượng sản xuất"
- Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
- Vận dụng quy luật vào thực tiễn nước ta hiện nay.
12. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
- Các khái niệm: cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng
- Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
- Vận dụng vào thực tiễn nước ta hiện nay.
13. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội.
- Khái niệm và kết cấu của hình thái kinh tế - xã hội.
- Tại sao nói sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình
lịch sử tự nhiên.
- Sự vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội trong công cuộc xây dựng
và phát triển đất nước ta hiện nay.
14. Vấn đề giai cấp và Nhà nước.
- Quan điểm của triết học Mác - Lênin về giai cấp.
- Quan điểm của triết học Mác - Lênin về Nhà nước.
15. Vấn đề cá nhân và xã hội.
- Quan điểm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người.
- Quan điểm của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ giữa cá nhân và xã
hội.
- Vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân anh hùng trong lịch sử.
16. Tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
- Khái niệm tồn tại xã hội.
- Khái niệm ý thức xã hội.
- Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
- Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
- Ý nghĩa thực tiễn của quan điểm mácxít về mối quan hệ biện chứng
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
II. TÀI LIỆU ÔN TẬP.
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình triết học Mác-Lênin (Dùng
cho các trường đại học, cao đẳng), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các môn
khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình triết học Mác-
Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1994), Giáo trình triết học
Mác - Lênin (chương trình cao cấp).
4. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X.
III. CÁC KHỐI KIẾN THỨC TRONG ĐỀ THI
- Câu 1. (2,5 điểm), thuộc khối kiến thức 1, 2, 3, 4, 5, 9.
- Câu 2. (2,5 điểm), thuộc khối kiến thức 6, 7, 8.
3
GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI TUYỂN SINH
SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2013
- Câu 3. (2,5 điểm), thuộc khối kiến thức 10, 11, 12, 13.
- Câu 4. (2,5 điểm), thuộc khối kiến thức 14, 15, 16.
Huế, ngày 10 tháng 06 năm 2007
TRƯỞNG TIỂU BAN HIỆU TRƯỞNG
(đă duyệt)
PGS TS Nguyễn Văn Tận
HƯỚNG DẪN CHI TIẾT
4
GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI TUYỂN SINH
SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2013
1. Vấn đề cơ bản của triết học. Các trường phái triết học chủ yếu
trong lịch sử
Triết học nghiên cứu hàng loạt các vấn đề chung của thế giới, nhưng vấn
đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức (giữa
tồn tại và tư duy, hay giữa tự nhiên và tinh thần).
Nó là vấn đề cơ bản của triết học bởi lẽ, trong thế giới có vô vàn sự vật,
hiện tượng, nhưng chung quy lại chúng chỉ phân thành hai loại: hiện tượng vật
chất (tồn tại, tự nhiên) và hiện tượng ý thức (tư duy, tinh thần). Mặt khác, từ
phương Đông sang phương Tây, từ cổ đại đến hiện đại tất cả các trường phái
triết học trước khi nghiên cứu các vấn đề chung khác, bao giờ cũng nghiên cứu
và giải quyết vấn đề mối liên hệ giữa vật chất và ý thức trước tiên. Việc giải
quyết vấn đề này là cơ sở nền tảng cho việc giải quyết những vấn đề khác của
triết học. Nói cách khác việc giải quyết nó là giải quyết về thế giới quan và
phương pháp luận của triết học.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt
Mặt thứ nhất giải quyết về thế giới quan. Tất cả các nhà triết học đều
phải trả lời câu hỏi: “Giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau,
cái nào quyết định cái nào?”. Tùy theo câu trả lời của các nhà triết học, mà các
học thuyết triết học đã chia thành hai trào lưu chính Duy Vật và Duy Tâm.
Các nhà triết học Duy Vật khẳng định vật chất có trước và quyết định đối
với ý thức. Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người. Chủ
nghĩa duy vật trong tiến trình phát triển từ cổ đại đến hiện đại đã trãi qua nhiều
hình thức khác nhau: cổ đại, tầm thường, cơ học, máy móc nói chung là duy
vật siêu hình, và duy vật biện chứng.
Ngược lại, các nhà triết học Duy Tâm lại khẳng định ý thức có trước và
quyết định đối với vật chất. Trong tiến trình phát triển của mình, chủ nghĩa duy
tâm cũng đã trãi qua nhiều hình thức khác nhau: duy cảm chủ quan, duy lý, nhị
nguyên, duy thức, duy ngã, nói chung là duy tâm chủ quan và duy tâm khách
quan.
Mặt thứ hai giải quyết về vấn đề nhận thức luận: tất cả các nhà triết học
đều phải trả lời câu hỏi: “Con người có khả năng nhận thức thế giới không?”.
Tùy theo câu trả lời của các nhà triết học mà các triết thuyết đã chia thành hai
phái:
Khả tri luận gồm các nhà triết học trả lời con người có khả năng nhận
thức thế giới. Họ bao gồm tất cả các nhà triết học duy vật, hầu hết các nhà triết
học duy tâm chủ quan và một số nhà triết học duy tâm khách quan.
Bất khả tri luận gồm các nhà triết học trả lời con người không có khả
năng nhận thức thế giới. Họ bao gồm hấu hết các nhà triết học duy tâm khách
quan và một số nhà triết học duy tâm chủ quan.
5
GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI TUYỂN SINH
SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2013
Trên cơ sở giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, lịch sử triết học chỉ ra
Triết học có hai nguồn gốc: Nguồn gốc nhận thức của chủ nghĩa duy vật là mối
liên hệ của nó với các thành tựu của các khoa học cụ thể. Nguồn gốc xã hội của
chủ nghĩa duy vật là các lực lượng xã hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng trong
từng giai đoạn phát triển của lịch sử. Nguồn gốc nhận thức của chủ nghĩa duy
tâm là mối liên hệ của nó với các đấng siêu nhiên, hoặc tuyệt đối hóa một hay
một số yếu tố nào đó của ý thức. Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy tâm
thông thường là mối liên hệ của nó với các lực lượng xã hội, các giai cấp phản
tiến bộ, giai cấp thống trị đang trên đà tan rã trong từng giai đoạn phát triển của
lịch sử.
2. Phạm trù vật chất
Phạm trù triết học là những khái niệm chung nhất, rộng nhất và khái quát
nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ
biến của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định.
Mỗi trường phái triết học khác nhau có quan niệm khác nhau về phạm
trù: Phái duy thực coi phạm trù là những bản chất ý niệm, tồn tại ở bên ngoài và
độc lập với ý thức của con người. Phái duy danh cho rằng phạm trù chỉ là
những từ trống rỗng không biểu hiện một cái gì cả. Cant và chủ nghĩa Cant cho
rằng phạm trù không phản ánh hiện thực mà là hình thức nhận biết vốn có sẵn
của tư duy, có trước mọi kinh nghiệm, không phụ thuộc kinh nghiệm, được lý
trí con người đưa vào tự nhiên.
Phép biện chứng duy vật (Triết học Mác-Lênin) quan niệm phạm trù
không là cái có sẵn trong bản thân con người một cách bẩm sinh. Các phạm trù
có nguồn gốc từ trong thực tiễn, được hình thành qua sự khái quát hóa, trừu
tượng hóa của tư duy lý luận và ngày càng được bổ sung thêm những phạm trù
mới. Phạm trù là kết quả của hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực
tiễn, nội dung của nó mang tính khách quan, bị thế giới khách quan quy định,
mặc dù hình thức tồn tại của chúng là chủ quan. Là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan, chịu sự chi phối của thế giới khách quan nên các phạm trù
cũng như phạm trù triết học luôn được bổ sung bằng những phạm trù mới.
Mỗi khoa học cụ thể đều có phạm trù riêng của mình. Phạm trù triết học
khác phạm trù của các khoa học cụ thể ở chỗ nó là những khái niệm chung
nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ
biến nhất của toàn bộ thế giới hiện thực. Trong các phạm trù cơ bản của triết
học thì phạm trù vật chất và ý thức là phạm trù cơ bản nhất.
a) Quan niệm của các nhà triết học duy vật trước Mác về vật chất
- Các nhà triết học duy vật cổ đại: Quy vật chất về vật thể. Nói cách khác
là quy bản nguyên của thế giới về một hay một số dạng cụ thể của vật chất.
Chẳng hạn: Đêmôcrít quy vật chất về nguyên tử; Hêraclit quy vật chất về lửa;
phái Âm-Dương sơ kỳ quy vật chất về âm và dương; v.v.
- Các nhà triết học duy vật tầm thường: Hoặc hạ thấp vai trò của ý thức
đối với vật chất (họ quan niệm óc tiết ra ý thức giống như gan tiết ra mật), hoặc
6
GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI TUYỂN SINH
SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2013
hòa tan ý thức vào vật chất ( họ quan niệm tư duy là bản chất của máu, hoặc
linh hồn được cấu tạo từ nguyên tử).
- Các nhà triết học duy vật cơ học máy móc: Quy vận động của vật chất
về vận động cơ học. Điển hình là F. Bêcơn đã quy vận động của vật chất về 19
hình thức vận động cơ học.
- Các nhà triết học duy vật siêu hình thế kỷ XVIII-XIX: thế giới quan của
họ là duy vật, nhưng phương pháp xem xét thế giới của họ là siêu hình.
b) Định nghĩa vật chất của Lênin
Phạm trù vật chất là một trong những phạm trù cơ bản nền tảng của chủ
nghĩa duy vật. Nó chứa đựng nội dung thế giới quan và phương pháp luận rất
khái quát và sâu sắc. Các triết thuyết duy vật trước Mác, tuy siêu hình nhưng
vật chất luôn được coi là thực thể, cơ sở đầu tiên, bất biến của các sự vật và
hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Nó có ý nghĩa to lớn trong cuộc
đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm và các biến tướng của nó.
Do đặc điểm lịch sử mà thời C.Mác, Ph.Ăng-ghen hai ông không định
nghĩa vật chất. Trước yêu cầu của lịch sử mới, trên cơ sử phân tích một cách
sâu sắc cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên và đấu tranh chống chủ nghĩa
duy tâm cùng các biến thể của nó mà đặc biệt là đấu tranh trực tiếp chống chủ
nghĩa kinh nghiệm phê phán, Lênin đã nêu ra một định nghĩa toàn diện, sâu sắc
và khoa học về phạm trù vật chất: “Vật chất là một phạm trù triết học, dùng để
chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chụp lại, chép lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào
cảm giác”
1
.
Trong định nghĩa này, Lênin đã phân tích rõ: Không thể hiểu vật chất như
các khái niệm vật chất thường dùng trong các lĩnh vực khoa học cụ thể hoặc đời
sống thường ngày, mà phải hiểu vật chất với tư cách là một phạm trù triết học,
tức phạm trù rộng nhất và khái quát nhất của thế giới.
“Tính thực tại khách quan và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” là dấu
hiệu cơ bản, bản chất để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật
chất.
Lênin cũng đã khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết
định ý thức bằng cách chỉ ra thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, nó tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Lênin cũng khẳng định con người có khả năng nhận thức thế giới, bởi
thực tại khách quan biểu hiện thông qua các dạng cụ thể, mà con người bằng
cảm giác có thể chụp lại, chép lại và phản ánh. Vật chất như vậy là nguồn gốc,
nội dung khách quan của ý thức.
Bằng cách định nghĩa đặc biệt, định nghĩa vật chất thông qua quan hệ với
cảm giác, Lênin đã không tách rời vật chất với ý thức mà đặt chúng trong mối
quan hệ quy định ràng buộc lẫn nhau.
1
V.I. Lênin toàn tập, Tập 18, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mat-xcơ-va 1980, Trang 151.
7
GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI TUYỂN SINH
SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2013
Như vậy, định nghĩa vật chất của Lênin đã giải quyết được vấn đề cơ bản
của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nó chống lại các
quan niệm duy tâm về phạm trù vật chất; Đấu tranh khắc phục triệt để tính trực
quan, siêu hình, máy móc cùng các biến tướng của nó trong quan niệm về vật
chất của các nhà khoa học tự nhiên và triết gia tư sản hiện đại; Định nghĩa vật
chât của Lênin khẳng định thế giới này chỉ duy nhất là thế giới vật chất, vật chất
là vô cùng, vô tận, vận động và phát triển không ngừng đã cổ vũ, khích lệ các
nhà khoa học đi sâu nghiên cứu thế giới vật chất để ngày càng tìm ra nhiều
dạng mới, thuộc tính mới của vật chất.
3. Phạm trù vận động
a) Khái niệm vận động
Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất là bao gồm mọi sự biến đổi nói
chung của vật chất, nó bao gồm mọi thay đổi trong vũ trụ, kể từ những sự thay
đổi vị trí đơn giản đến tư duy. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.
Ăng-ghen nói: ”Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là phương
thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất
cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí
đơn giản cho đến tư duy”
2
.
b) Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Vật chất tồn tại bằng vận động, thông qua vận động để biểu hiện sự tồn
tại của mình. Không có vật chất không vận động, cũng như không có vận động
nào không là vận động của vật chất.
Vận động của vật chất là khách quan. Mọi vận động đều có nguyên nhân
tự thân của nó là sự tác động qua lại giữa các mặt, các yếu tố, các quá trình,
ngay bên trong bản thân sự vật. Do vậy, các dạng vật chất chỉ được nhận thức
thông qua vận động của chúng. Một vật thể nào đó mà không vận động thì
không có gì để nói cả.
Vật chất không do ai sáng tạo ra và không thể bị tiêu diệt. Vận động là
thuộc tính cố hữu của vật chất nên vận động cũng không do ai sáng tạo ra và
cũng không thể bị tiêu diệt.
Các hình thức của vận động
Cho đến nay loài người đã biết đến năm dạng vận động cơ bản của vật
chất là: Vận động cơ học, tức sự thay đổi vị trí của các vật thể trong không gian.
Vận động vật lý, bao gồm trong đó cả vận động cơ học, nhưng đặc trưng
của nó là vận động của các hạt cơ bản, của các quá trình nhiệt, điện, quang, từ,
trường v.v.
Vận động hóa học, bao gồm trong đó cả vận động vật lý, nhưng đặc trưng
của nó là vận động của các nguyên tử, là vận động phân giải và hóa hợp của các
chất.
2
Ph. Ăng-ghen : Biện chứng của tự nhiên - Nxb Sự thật - Hà Nội 1974 - Tr 92
8
GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI TUYỂN SINH
SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2013
Vận động sinh học, bao gồm cả vận động hóa học nhưng đặc trưng là vận
động của cơ thể sống, là sự trao đổi chất giữa cơ thể và môi trường.
Vận động xã hội, bao gồm trong nó cả vận động sinh học, nhưng đặc
trưng của nó là vận động biến đổi xã hội, là sự thay thế nhau của các hình thái
kinh tế - xã hội.
Tuy có sự khác nhau về chất, nhưng giữa các hình thức vận động luôn có
sự liên hệ, tác động, chuyển hóa qua lại lẫn nhau. Sự phân biệt khác nhau giữa
các hình thức vận động là nhờ hình thức vận động đặc trưng nhất của nó.
c) Tính mâu thuẫn của vận động (Vận động và đứng im)
Thế giới vật chất không chỉ ở trong quá trình vận động. Triết học Mác
-Lênin chỉ ra vận động của vật chất là tuyệt đối, nhưng cũng thừa nhận tính
đứng im tương đối và tạm thời của vật chất.
Chính nhờ sự đứng im tương đối và tạm thời của vật chất mà thế giới vật
chất được phân hóa thành các sự vật hiện tượng phong phú và đa dạng.
Nói đứng im tương đối vì vật chất chỉ đứng im trong một mối liên hệ
nhất định và vận động trong những mối liên hệ khác.
Nói vật chất đứng im tạm thời vì nó chỉ đứng im trong một thời gian nhất
định khi nó chưa tích lũy đủ về lượng.
Như vậy, đứng im tương đối và tạm thời của vật chất là sự vận động
trong thăng bằng, là sự đứng im có điều kiện.
Lênin nói: “Thế giới không có gì khác ngoài vật chất đang vận động và
vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời
gian”
3
.
Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất, là thuộc
tính chung vốn có của mọi dạng vật chất.
Không gian là hình thức tồn tại của vật chất biểu hiện những thuộc tính
như cùng tồn tại và tách biệt, có kết cấu quãng tính. Không gian của vật chất có
ba chiều và cả ba chiều đều vô tận. Không gian của vật thể là hữu hạn.
Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất biểu hiện những thuộc tính độ
lâu của sự phát triển, trình tự xuất hiện và mất đi của các sự vật, các trạng thái
khác nhau của thế giới vật chất. Thời gian của vật chất chỉ có một chiều từ quá
khứ đên hiện tại, đến tương lai và thời gian của vật chất cũng là vô tận. Thời
gian của mọi vật thể là hữu hạn.
d) Ý nghĩa của quan điểm triết học duy vật biện chứng về vận động
- Với sự phân loại vận động của vật chất thành 5 hình thức cơ bản trên,
các hình thức này luôn quan hệ với nhau theo những nguyên tắc nhất định: 1)
Các hình thức ấy khác nhau về chất. Từ vận động cơ học đến vận động xã hội là
sự khác nhâu về trình độ của sự vận động. Những trình độ này tương ứng với
trình độ của các kết cấu vật chất. 2) Các hình thức vận động cao xuất hiện trên
cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm trong nó các hình thức vận động
3
Lênin toàn tập (bản tiếng Việt) - Tập 18 - Nxb tiến bộ, Matxcơva - Tr 209
9
GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI TUYỂN SINH
SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2013
thấp hơn. Nhưng các hình thức vận động thấp không bao hàm trong nó các vận
động cao hơn, vì vậy mọi sự quy giản hình thức vận động cao về các hình thức
vận động thấp đều là sai lầm. 3) Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể
gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau, nhưng bản thân tồn tại của sự
vật đó bao giờ cũng đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản. Chẳng hạn
ở con người có tất cả các hình thức vận động, nhưng vận động xã hội mới là
hình thức đặc trưng cho hoạt động của nó.
Từ giữa thế kỷ XIX, những người theo chủ nghĩa “Đácuyn xã hội” đã trở
nên rất phản động. Bởi họ xem co người như một sinh vật thông thường, họ giải
thích hoạt động xã hội trong quy luật sinh học mà cho rằng đấu tranh sinh tồn
dẫn đến sự tiêu diệt lẫn nhau của loài người là hiện tượng tự nhiên. Một trong
những nguyên nhân sai lầm của thuyết “Đácuyn xã hội” là không thấy được sự
khác nhau về trình độ giữa vận động sinh học và vận động xã hội, họ đã quy
giản một cách gượng ép vận động xã hội về vận động sinh học.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận quá trình vận động không
ngừng của thế giới vật chất bao hàm trong nó sự đứng im tương đối. Không có
hiện tượng đứng im tương đối thì không có sự vật nào tồn tại được. “Trong vận
động của các thiên thể, có vận động trong cân bằng và có cân bằng trong vận
động (một cách tương đối). Nhưng bất kỳ vận động tương đối riêng biệt nào
cũng đều có xu hướng khôi phúc lại sự đứng im tương đối, sự cân bằng. Khả
năng đứng im tương đối của các vật thể, khả năng cân bằng tạm thời là những
điều kiện chủ yếu của sự phân hóa của vật chất”
4
.
Hiện tượng đứng im tương đối hay trạng thái cân bằng tạm thời của sự
vật trong quá trình vận động của nó, trên thực tế, chỉ xảy ra khi sự vật được
xem xét trong một quan hệ xác định nào đó. “Vận động riêng biệt có xu hướng
chuyển thành cân bằng, vận động toàn bộ lại phá hoại sự cân bằng riêng biệt”
5
.
“Mọi sự cân bằng chỉ tương đối và tạm thời”
6
trong sự vận động tuyệt đối và
vĩnh viễn của thế giới vật chất.
4. Phạm trù ý thức
a) Nguồn gốc của ý thức
Ý thức có hai nguồn gốc: Nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên.
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức chính là bộ não người. Nói cách khác, ý
thức là thuộc tính phản ánh của bộ óc người.
Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất. Phản ánh là năng lực
lưu lại, giữ lại, tái hiện lại những đặc điểm của một hệ thống vật chất này trong
một hệ thống vật chất khác và ngược lại. Phản ánh của vật chất phát triển từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Phản ánh ý thức là phản ánh cao nhất.
4
C.Mác và Ph.Awngghen Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, t 20, tr 740.
5
Sđd, t 20, tr 740.
6
Sđd, t 20, tr 471.
10
GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI TUYỂN SINH
SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2013
Mọi dạng vật chất đều phản ánh, nhưng chỉ phản ánh ở bộ óc người mới
là ý thức. Oc người là dạng vật chất có tổ chức cao nhất, nó có cấu tạo từ 15 tỷ
đên 17 tỷ nơron thần kinh. Ý thức không tách rời khỏi sự hoạt động của bộ não
người. Ý thức phản ánh thế giới khách quan, nhưng diễn ra trong quá trình hoạt
động thần kinh của bộ não người.
Trẻ sơ sinh chưa có ý thức.
Người bị điên, bị bệnh đao nặng là không có ý thức.
Nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động. Sau lao động và đồng thời với
lao động là ngôn ngữ.
Lao động là hoạt động đặc thù của con người. Nhờ lao động mà vượn
người cổ đại đã biến thành người, làm cho con người khác so với tất cả các loài
động vật khác. Trong lao động con người biết sử dụng và chế tạo công cụ lao
động. Lao động của con người là lao động có định hướng, tác động vào thế giới
vì mục đích và nhu cầu của con người. Chính thông qua lao động, bộ não người
được hình thành, phát triển ngày càng hoàn thiện. Qua đó mà tư duy của con
người cũng ngày càng phát triển, hoàn thiện.
Lao động, mà trước hết là lao động sản xuất là hình thức cơ bản đầu tiên
của hoạt động thực tiễn mang tính lịch sử - xã hội của con người, nó cũng là cơ
sở của việc hình thành và phát triển ngôn ngữ. Ngôn ngữ hình thành và phát
triên bắt nguồn từ lao động và phát triển cùng lao động, lúc đầu là nhu cầu cần
thông báo cho nhau những thông tin gì đó. Về sau ngôn ngữ trở thành phương
tiện lưu giữ, truyền tải thông tin từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngôn ngữ là hệ
thống tín hiệu thứ hai, là cái vỏ vật chất của tư duy, vừa là phương tiện để con
người giao tiếp, đồng thời là phương tiện để con người tổng kết các hoạt động
thực tiên giữa các thế hệ người trong lịch sử.
Ăng-ghen nói: ”Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ, đó
là hai sức kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não của loài vật thành bộ
não của con người, tâm lý động vật thành ý thức”
7
.
b) Bản chất của ý thức
Ý thức có kết cấu phức tạp, bao gồm các yếu tố khác nhau như tri thức,
xúc cảm, tình cảm và ý chí trong đó tri thức là yếu tố quan trọng nhất.
Từ nguồn gốc tự nhiên, thì ý thức chỉ là thuộc tính phản ánh của bộ óc
người. Trước hết, như vậy bản chất của ý thức là phản ánh. Tức ý thức là hình
ảnh chủ quan của thế giớí khách quan trong bộ óc người.
Phản ánh tâm lý động vật cũng là phản ánh thế giới khách quan nhưng là
sự phản ánh bản năng. Phản ánh ý thức ngay từ đầu đã do nhu cầu cải biến thế
giới theo mục đích của con người thông qua hoạt động thực tiễn, vì thế nó mang
bản chất sáng tạo. Sáng tạo của ý thức nằm trong khuôn khổ của quy luật phản
7
Ph. Ăng-ghen: Biện chứng của tự nhiên - Nxb Sự thật - Hà Nội 1974 - Tr 257.
11
GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI TUYỂN SINH
SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2013
ánh. Phản ánh và sáng tạo là hai mặt của một quá trình đồng thời xảy ra trong
bộ não người.
Từ nguồn gốc xã hội, thì ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan một
cách chủ động và tích cực. Con người thông qua hoạt động thực tiễn có mục
đích, tác động vào thế giới khách quan buộc chúng phải bộc lộ những đặc tính,
kết cấu và quy luật vận động để phản ánh và nhận thức. Khi đã nhận thức được
bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng thì con người vận dụng tri thức đó
vào cải biến thế giới khách quan vì mục đích và nhu cầu của con người. Ý thức
như thế là mang bản chất xã hội.
Tóm lại: Bản chất của ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới khách
quan vào bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn. Nói cách khác, ý thức là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan được sáng tạo trong bộ óc người
thông qua hoạt động thực tiễn.
5. Quan niệm của triết học Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức, ý nghĩa phương pháp luận
Tính quyết định của vật chất đối với ý thức
Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức. Trong đời
sống xã hội, điều đó được biểu hiện là tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
Tính quyết định đó được biểu hiện ở vật chất là nguồn gốc, động lực, mục đích
và là tiêu chuẩn, thước đo kiểm tra tính chân lý của ý thức.
Nhưng nếu chỉ thấy tính quyết định của vật chất mà không thấy vai trò
của ý thức thì sẽ mắc phải những sai lầm của chủ nghĩa duy vật siêu hình.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất theo hai hướng: Khi ý thức
phản ánh đúng, phản ánh một cách khoa học những quy luật khách quan của sự
vận động khách quan của vật chất, thì ý thức có tác dụng tích cực là một động
lực của sự vận động và phát triển của vật chất. Ngược lại, nếu ý thức phản ánh
sai, phản ánh xuyên tạc những quy luật khách quan của sự vận động khách quan
của vật chất, thì ý thức có tác dụng tiêu cực làm cản trở hoặc phá vỡ sự vận
động và phát triển của vật chất.
Ý nghĩa phương pháp luận
Trong đời sống hiện thực, ý thức muốn tác động trở lại đối với đời sống
vật chất thì phải chính bằng lực lượng vật chất, tức phải thâm nhập vào con
người, được con người tổ chức thực hiện trong thực tiễn. Mác nói: “Vũ khí của
sự phê phán không thể thay thế được sự phê phán bằng vũ khí, lực lượng vật
chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận cũng sẽ trở
thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”
8
. Lênin cũng
chỉ ra: “Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng”
9
.
Nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của con người. Vai trò của ý
thức là ở chỗ chỉ đạo hoạt động đúng hay sai, thành công hay thất bại trên có sở
8
C. Mác - Ph. Ăng-ghen toàn tập - Nxb CTQG - Hà Nội 1995 - Tập 1 - Tr 580.
9
V.I. Lênin toàn tập (bản tiếng Việt) - Tập 6 - Nxb Tiến bộ - Mátxcơva 1975 - Tr 30.
12
GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI TUYỂN SINH
SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2013
những điều kiện khách quan nhất định. Vai trò của ý thức là ở chõ nhận thức thế
giới khách quan và từ đó con người hình thành mục đích, phương hướng, biện
pháp, ý chí cần thiết cho hoạt động của mình. Sức mạnh của ý thức là biết dựa
vào điều kiện vật chất đã có, phản ánh đúng quy luật khách quan để cải tạo thế
giới khách quan một cách chủ động, sáng tạo. Con người phản ánh càng đầy đủ
và chính xác thế giới khách quan thì càng cải tạo thế giới có hiệu quả.
Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức (năng động chủ quan của
con người) phải trên cơ sở thừa nhận và tôn trọng quy luật khách quan của thế
giới. Lênin thường căn dặn, không được lấy ý muốn chủ quan làm chính sách,
không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược, sách lược cách
mạng.
Nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức sẽ tránh cho
chúng ta những căn bệnh chủ quan duy ý chí trong hoạt động thực tiễn, chống
thái độ trông chờ, ỷ lại vào điều kiện vật chất, không phát huy sức mạnh của trí
tuệ tinh thần con người trong quá trình cải biến thế giới.
6. Phép biện chứng duy vật là một khoa học về mối liên hệ phổ biến
và sự phát triển
Phép biện chứng ra đời từ thời cổ đại. Trong lịch sử triết học đã có ba
hình thức cơ bản về phép biện chứng: Phép biện chứng ngây thơ, phép biện
chứng duy tâm, phép biện chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ gữa thế giới quan duy
vật và phương pháp luận biện chứng, bao hàm nội dung hết sức phong phú bởi
đối tượng phản ánh của nó là thế giới vật chất vô cùng vô tận. Trong đó nguyên
lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển có ý nghĩa khái quát
nhất. Ph.Ăngghen viết: “Phép biện chứng là môn khoa học về những quy luật
phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và
của tư duy”
10
.
Nguyên lý có ý nghĩa như các tiên đề trong các khoa học cụ thể. Nó là cái
không phải chứng minh mà phải chấp nhận và tuân thủ nghiêm nghặt nó. Nếu
không tuân thủ sẽ dẫn đến sai lầm cả trong nhận thức lẫn hành động.
a) Nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Tất cả mọi sự vật hiện tượng cũng như thế giới, bao giờ cũng tồn tại
trong mối liên hệ phổ biến quy định ràng buộc lẫn nhau, không có sự vật hiện
tượng nào tồn tại cô lập, riêng lẻ, không liên hệ.
Phân tích nội dung của nguyên lý.
Quan niệm của các nhà triết học duy tâm nếu có thừa nhận có mối liên
hệ, thì mối liên hệ đó do các đấng siêu nhiên hoặc do ý thức quyết định.
Quan niệm của các nhà triết học duy vật siêu hình coi sự vật, hiện tượng
tồn tại tách rời nhau, nếu có mối liên hệ thì là những mối liên hệ ngẫu nhiên,
hoặc không xét hết các khía cạnh của mối liên hệ.
10
C. Mác - Ph. Ăng-ghen toàn tập - Nxb CTQG - Hà Nội 1994 - Tập 20 - Tr 201.
13
GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI TUYỂN SINH
SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2013
Phép biện chứng duy vật quan niệm các sự vật hiện tượng trong thế giới
dù muôn hình muôn vẻ nhưng không tồn tại cô lập tách biệt mà chúng là một
thể thống nhất, tác động lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau, quy định và chuyển hóa
lẫn nhau.
Mối liên hệ này diễn ra trên mọi lĩnh vực, trên mọi quan hệ giữa các yếu
tố, các thuộc tính, các quá trình làm nên bản thân sự vật hiện tượng và giữa
các sự vật hiện tượng với nhau. Mối liên hệ này là khách quan, nó bắt nguồn từ
tính thống nhất của thế giới.
Thế giới là phong phú, đa dạng và nhiều vẻ, vì thế mọi sự phân loại mối
liên hệ đều chỉ có ý nghĩa tương đối, vì một mối liên hệ nào đó cụ thể thì chỉ là
một hình thức, một bộ phận, một mắt khâu của mối liên hệ phổ biến nói chung.
Tuy nhiên, sự phân loại mối liên hệ là cần thiết trong việc quy định sự vận
động và phát triển của sự vật, hiện tượng không giống nhau. Ph.Ăngghen viết:
“Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến”
11
.
Ý nghĩa phương pháp luận.
Nắm vững nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, trong nhận thức cũng như
trong hành động thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện khi xem xét đánh
giá sự vật hiện tượng và thế giới, nhất là các vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội. Khi
số mối liên hệ được xét đến càng nhiều thì kết luận về sự vật hiện tượng càng
chính xác.
b) Nội dung của nguyên lý về sự phát triển
Tất cả mọi sự vật, hiện tượng cũng như thế giới trong quá trình vận động
của mình, dù có chấp nhận những bước lùi nhưng cuối cùng vẫn đạt được sự
phát triển. Không có sự vật hiện tượng nào là không phát triển.
Phân tích nội dung nguyên lý.
Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến gắn
liền với nguyên lý về sự phát triển. Hai nguyên lý này thống nhất với nhau bởi
liên hệ là vận động, không vận động không có sự phát triển nào cả.
Khái niệm vận động là chỉ mọi biến đổi nói chung. Khái niệm phát triển
là chỉ những vận động đi lên, cái mới ra đời cao hơn, tiến bộ hơn cái cũ. Sự phát
triển diễn ra theo nhiều chiều hướng, đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện.
Sự phát triển và đổi mới là hiện tượng khách quan diễn ra không ngừng
trong vũ trụ. Nó diễn ra trên mọi lĩnh vực và trên mọi mối liên hệ. Nguồn gốc
của phát triển là sự đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập nằm ngay
trong bản thân sự vật hiện tượng. Sự phát triển không phải bao giờ cũng diễn ra
thẳng tắp, xét từng sự vật hiện tượng cụ thể, riêng lẻ thì có những vận động tuần
hoàn, đi lên hoặc đi xuống, nhưng xét trong quá trình dài và phạm vi rộng thì
vận động đi lên là khuynh hướng thống trị.
11
Ph. Ăng-ghen - Biện chứng của tự nhiên - Nxb Sự thật - Hà Nội 1963 - Tr 32.
14
GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI TUYỂN SINH
SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2013
Quan điểm biện chứng xem xét thế giới như là một quá trình tiến lên
thông qua những bước nhảy vọt, cái cũ mất đi cái mới ra đời, sự đấu tranh của
các mặt đối lập ngay trong bản thân sự vật hiện tượng là nguồn gốc của sự phát
triển. Lênin nói: “Lôgích biện chứng đòi hỏi phải xem xét sự vật trong sự phát
triển, trong sự vận động, trong sự biến đổi của nó”
12
Đối lập với phép biện chứng, quan điểm duy tâm nếu thừa nhận có sự
phát triển thì sự phát triển đó bị lệ thuộc bởi các đấng siêu nhiên hoặc do ý thức
quyết định. Các quan điểm siêu hình lại hoặc phủ nhận phát triển tuyệt đối hóa
tính ổn định của sự vật hiện tượng, hoặc xem sự phát triển chỉ là sự tăng, giảm
đơn thuần về lượng, hoặc sự lặp đi lặp lại đơn thuần về chất.
Ý nghĩa phương pháp luận.
Nắm vững nguyên lý về sự phát triển cần có quan điểm phát triển khi
xem xét đánh giá sự vật hiện tượng, phải ủng hộ cái mới, khắc phục tư tưởng
bảo thủ, trì trệ, nhìn nhận sự vật hiện tượng một cách trực quan tĩnh tại.
Nắm vững hai nguyên lý đòi hỏi phải có quan điểm toàn diện khi xem xét
đánh giá sự vật hiện tượng, đồng thời với việc đặt sự vật trong nhiều mối liên
hệ thì cũng phải có quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm phát triển trong đánh
giá xem xét.
7. Những quy luật của phép biện chứng duy vật
Quy luật là mối liên hệ bản chất, ổn định, phổ biến giữa các sự vật hiện
tượng hoặc giữa những mặt của mỗi sự vật hiện tượng.
Tùy theo tính chất và phạm vi của chúng, quy luật có nhiều loại: Quy luật
tự nhiên, quy luật xã hội, quy luật tư duy. Có quy luật chi phối trong phạm vi
rộng lớn, cũng có quy luật chỉ chi phối trong phạm vi hẹp. Mỗi loại quy luật
được một ngành khoa học nghiên cứu.
Phép biện chứng duy vật là khoa học nghiên cứu về những quy luật
chung nhất của sự vận động và phát triển của thê giới.
7a) QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦA CÁC
MẶT ĐỐI LẬP.
Quy luật này còn có tên gọi là quy luật đồng nhất, và gọi tắt là quy luật
mâu thuẫn. Đây là quy luật cơ bản quan trọng nhất của phép biện chứng duy
vật, nó vạch ra nguồn gốc động lực bên trong của sự phát triển.
Nội dung của quy luật
Tất cả mọi sự vật hiện tượng cũng như thế giới bao giờ cũng là một thể
thống nhất của các mâu thuẫn. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là
nguồn gốc, động lực bên trong của sự phát triển.
Phân tích nội dung của quy luật
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn
là khái niệm chỉ sự liên hệ và tác động lẫn nhau của các mặt đối lập. Các mặt
đối lập có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau, cùng tồn tại trong một sự
12
V.I. Lênin toàn tập (bản tiếng Việt) - Tập 29 - Nxb Tiến bộ Mátxcơva 1980 - Tr 364.
15
GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI TUYỂN SINH
SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2013
vật. Mâu thuẫn là hiện tượng phổ biến tồn tại bên trong mỗi sự vật hiện tượng ở
tất cả mọi lĩnh vực của thế giới.
Trong mỗi sự vật hiện tượng không chỉ có một mâu thuẫn mà có nhiều
mâu thuẫn và mỗi mâu thuẫn đều có đặc trưng riêng, có vai trò riêng đối với sự
vận động và phát triển. Ph.Ăngghen viết: “Nếu bản thân sự di động một cách
máy móc đơn giản đã chứa đựng mâu thuẫn, thì tất nhiên những hình thức vận
động cao hơn của vật chất và đặc biệt là sự sống hữu cơ lại càng phải chứa
đựng mâu thuẫn như vậy. Sự sống trước hết là ở chỗ một sinh vật trong mỗi lúc
vừa là nó nhưng lại vừa là cái khác.”
13
Khái niệm mặt đối lập trong quy luật là khái quát những mặt, những
thuộc tính, những khuynh hướng trái ngược nhau trong một chỉnh thể làm nên
sự vật hiện tượng. Mỗi mâu thuẫn ít nhất có hai mặt đối lập, nhưng không phải
bất kỳ mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Chỉ những mặt đối lập cùng
nằm trong một chỉnh thể có liên hệ khăng khít với nhau, tác động lẫn nhau mới
tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn mà quy luật nói đến là một chỉnh thể, trong đó
hai mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh với nhau.
Khái niệm đấu tranh giữa các mặt đối lập có nghĩa là các mặt đối lập bài
trừ lẫn nhau, phủ định lẫn nhau. Các mặt đối lập vẫn luôn có xu hướng phát
triển trái ngược nhau, không thể nằm yên bên nhau nhưng tồn tại trong mối liên
hệ quy định ràng buộc nhau.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp chia ra nhiều
giai đoạn. Khi hai mặt đối lập mâu thuẫn xung đột gay gắt nếu có điều kiện chín
muồi chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Sự đấu tranh
giữa các mặt đối lập làm cho sự vật hiện tượng không thể tồn tại một cách vĩnh
viễn. Chính thế đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực bên trong
của sự vận động và phát triển.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối, nó diễn ra liên tục trong
suốt quá trình ổn định cũng như trong lúc chuyển hóa của các mặt đối lập dẫn
tới sự vật mới thay thế cho sự vật cũ. Tính tuyệt đối, liên tục của sự đấu tranh
của các mặt đối lập là nguyên nhân của trạng thái tự thân vận động và phát triển
không ngừng của thế giới. Sự đứng im tương đối, tạm thời của sự vật hiện
tượng cũng là vận động trong thế cân bằng của các mặt đối lập.
Đấu tranh giữa các mặt đối lập là nhằm giải quyết mâu thuẫn. Việc giải
quyết mâu thuẫn thực hiện bằng chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Sự
chuyển hóa được thực hiện ở giai đoạn chín muồi của mâu thuẫn và phải có
điều kiện cụ thể tùy theo từng sự vật, diễn ra dưới nhiều hình thức. Hai khuynh
hướng khái quát nhất của sự chuyển hóa là: Mặt đối lập này được chuyển hóa
thành mặt đối lập kia và thành lập ngay cho mình mặt đối lập mới để tiếp tục
đấu tranh với nhau trong sự vật mới; Hai mặt đối lập cũ cùng mất đi và hình
thành hai mặt đối lập mới trong sự vật mới ở tính chất, trình độ cao hơn.
13
Ph. Ăng-ghen - Chống Đuy Rinh - Nxb Sự thật - Hà Nội 1975 - Tr 202.
16
GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI TUYỂN SINH
SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2013
Khái niệm thống nhất trong quy luật mâu thuẫn có nghĩa là hai mặt đối
lập liên hệ với nhau, ràng buộc nhau và quy định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia
làm tiền đề tồn tại cho mình (theo nghĩa này mà quy luật còn được gọi là quy
luật đồng nhất).
Sự thống nhất không tách rời sự khác nhau, sự đối lập. Mỗi sự vật hiện
tượng vừa là nó vừa không là nó. Trong thống nhất bao hàm cả sự khác nhau,
sự đối lập nhau, sự đấu tranh lẫn nhau. Sự thống nhất các mặt đối lập cụ thể nào
cũng đều có tính tương đối, tạm thời, tức nó chỉ tồn tại trong một thời gian nhất
định. Sự thống nhất của các mặt đối lập là nguyên nhân của trạng thái đứng im
tương đối, tạm thời của thế giới. Lênin viết: “Sự thống nhất của các mặt đối lập
là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối
lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt
đối.”
14
Một số loại mâu thuẫn
Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Mâu thuẫn bên trong là những mâu thuẫn nằm ngay bên trong bản thân
sự vật hiện tượng. Nó có vai trò là nhân tố quyết định sự vận động và phát triển
của sự vật hiện tượng. Nó là nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và
phát triển.
Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các sự vật hiện tượng với nhau.
Nó không giữ vai trò quyết định nhưng có ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát
triển của sự vật hiện tượng. Sự ảnh hưởng này muốn phát huy tác dụng phải
thông qua các mâu thuẫn bên trong.
Sự phân biệt mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ có ý nghĩa
tương đối, nó hoàn toàn tùy thuộc các mối quan hệ cụ thể.
Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn xuất hiện, tồn tại và phát triển cùng sự
xuất hiện, tồn tại và phát triển của sự vật hiện tượng. Nó quyết định sự phát
triển của sự vật hiện tượng từ khi hình thành cho đến khi kết thúc. Khi mâu
thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật hiện tượng có sự thay đổi về chất.
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn xuất hiện, tồn tại và phát triển
cùng sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của sự vật hiện tượng nhưng không giữ
vai trò quyết định mà chỉ ảnh hưởng đến sự vận động và phát triển của sự vật
hiện tượng.
Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu.
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn phát
triển nhất định của sự vật hiện tượng. Nó giữ vai trò quyết định đối với những
mâu thuẫn khác trong cùng giai đoạn của quá trình phát triển.
14
V. I. Lênin toàn tập - Tập 29 - Nxb Tiến bộ - Mátxcơva - 1981 - Tr 379.
17
GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI TUYỂN SINH
SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2013
Mâu thuẫn không chủ yếu là những mâu thuẫn phát sinh trong từng giai
đoạn phát triển của sự vật hiện tượng, không giữ vai trò quyết định mà chỉ ảnh
hưởng đến sự phát triển của sự vật hiện tượng.
Ranh giới giữa mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu chỉ là
tương đối. Tùy điều kiện cụ thể chúng có thể chuyển hóa cho nhau. Mâu thuẫn
chủ yếu thường là biểu hiện cụ thể của mâu thuẫn cơ bản trong từng giai đoạn
của sự phát triển của sự vật hiện tượng. Do đó việc giải quyết mâu thuẫn chủ
yếu cũng là quá trình giải quyết dần dần mâu thuẫn cơ bản.
Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các khuyng hướng, những lực
lượng xã hội có lợi ích cơ bản trái ngược nhau không thể điều hòa được. Loại
mâu thuẫn này chỉ có trong các xã hội có đối kháng giai cấp. Việc giải quyết
mâu thuẫn này phải dùng đến bạo lực cách mạng.
Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa các khuynh hướng, lực
lượng xã hội có lợi ích cơ bản thống nhất nhau. Việc giải quyết mâu thuẫn này
thường là phương pháp hòa bình, phương pháp giáo dục.
Ý nghĩa phương pháp luận
Trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn cần phải thừa nhận
tính khách quan của mâu thuẫn đối với sự vật hiện tượng. Lênin nói: “Sự phân
đôi của cái thống nhất, và sự nhận thức các bộ phận đối lập của nó, đó là thực
chất của phép biện chứng.”
15
Cần phải biết phân loại các mâu thuẫn một cách khoa học. Phải biết phân
tích và giải quyết cụ thể từng mâu thuẫn với những biện pháp thích hợp.
Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn. Mẫu thuẫn chỉ được
giải quyết khi chín muồi. Bất kỳ mâu thuẫn nào và bất kỳ ở giai đoạn nào, mâu
thuẫn chỉ được giải quyết bằng đấu tranh giữa các mặt đối lập, tuyệt nhiên
không được điều hòa mâu thuẫn.
7b) QUY LUẬT SỰ TÍCH LŨY DẦN DẦN VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN
SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI
Đây là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Nó có
tên gọi tắt là quy luật lượng chất. Quy luật này nói rõ cách thức của sự vận động
và phát triển của sự vật hiện tượng và thế giới.
Nội dung của quy luật
Mọi sự vật hiện tương cũng như thế giới là một thể thống nhất của hai
mặt lượng và chất. Sự tích lũy dần dần về lượng sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất.
Khi chất mới ra đời đến lượt nó lại tạo tiền đề điều kiện cho sự tích lũy dần dần
về lượng mới. Sự tích lũy dần dần về lượng mới sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất
tiếp theo Quá trình cứ thế tiếp tục, đó là cách thức của sự phát triển.
Phân tích nội dung của quy luật
Khái niệm lượng và chất.
15
Sđd - Tập 29 - Tr 378.
18
GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI TUYỂN SINH
SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2013
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính cơ bản vốn có
quy định cấu thành nên bản thân các sự vật hiện tượng, nói lên sự vật hiện
tượng đó là gì và phân biệt nó với các sự vật hiện tượng khác.
Mỗi sự vật, hiện tượng có nhiều thuộc tính cơ bản, nhưng không phải
thuộc tính cơ bản nào cũng là chất. Chỉ những thuộc tính cơ bản nào nói lên sự
vật, hiện tượng đó là gì và phân biệt nó với các sự vật, hiện tượng khác mới là
chất. Chất không tồn tại một cách thuần túy. Chất là cái khách quan vốn có của
sự vật, hiện tượng và chỉ tồn tại thông qua các mối quan hệ cụ thể. Chính thế sự
phân biệt chất và thuộc tính cơ bản chỉ có ý nghĩa tương đối. Chất biểu hiện
tình trạng tương đối ổn định của sự vật, hiện tượng, không tách rời với sự vật,
hiện tượng. Mỗi sự vật, hiện tượng có nhiều chất. Khi chất thay đổi thì sự vật,
hiện tượng cũng thay đổi.
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính cơ bản vốn có
quy định của bản thân sự vật, hiện tượng nói lên quy mô, trình độ, tốc độ của sự
phát triển của sự vật, hiện tượng.
Lượng bao giờ cũng được biểu thị bằng số lượng, nhưng không phải mọi
số lượng đều là lượng. Mỗi sự vật, hiện tượng hiện tượng có nhiều lượng. Cũng
như chất, lượng không tồn tại một cách thuần túy mà tồn tại thông qua các mối
liên hệ cụ thể. Lượng tồn tại khách quan và là thuộc tính bên trong năng động
của sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, lượng đôi khi còn phải được xác định không
phải là các con số mà phải tư duy một cách trừu tượng, thậm chí còn xác định
lượng dường như là nhân tố bên ngoài.
Sự phân biệt giữa lượng và chất chỉ là tương đối, nó tùy thuộc mối quan
hệ xác định, tức cùng một thuộc tính cơ bản nhưng có thể ở mối quan hệ này là
lượng ở mối quan hệ khác là chất và ngược lại.
Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất.
Chất và lượng là hai mặt đối lập nằm trong một thể thống nhất là sự vật,
hiện tượng. Chúng không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện
chứng. Sự thống nhất giữa chúng chỉ ở trong một độ nhất định khi sự vật hiện
tượng đang tồn tại.
Độ là giới hạn trong đó sự vật, hiện tượng luôn có sự biến đổi về lượng
nhưng chất của nó chưa đổi. Tức trong phạm vi độ, lượng và chất luôn tác động
lẫn nhau làm cho sự vật, hiện tượng vận động và phát triển.
Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định (điểm nút), thì dẫn đến sự
thay đổi về chất. Giới hạn đó tùy thuộc sự vật, hiện tượng cụ thể. Sự thay đổi về
chất qua điểm nút gọi là bước nhảy (nhảy vọt). Đó là bước ngoặt căn bản kết
thúc một giai đoạn trong sự biến đổi về lượng, là sự gián đoạn trong quá trình
biến đổi liên tục, chấm dứt một dạng tồn tại cụ thể của sự vật, hiện tượng.
Khi chất mới ra đời lại có một lượng mới thích hợp tạo nên sự thống nhất
mới giữa lượng và chất. Sự tác động của chất mới đối với lượng mới biểu hiện
ở quy mô, trình độ, tốc độ vận động của lượng mới. C.Mác viết: “Những thay
19
GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI TUYỂN SINH
SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2013
đổi đơn thuần về lượng, đến một mức độ nhất định sẽ chuyển thành những sự
vật khác nhau về chất”
16
Sự thay đổi về chất của các sự vật, hiện tượng là rất phong phú đa
dạng,với nhiều hình thức nhảy vọt khác nhau. Tính chất của các bước nhảy
được quyết định bởi chính bản thân sự vật, hiện tượng bởi chính những mâu
thuẫn vốn có của nó và do những điều kiện trong đó diễn ra sự thay đổi về
lượng. Nhìn chung có một số các bước nhảy cơ bản như sau: Đột biến, Dần dần,
Toàn phần và Cục bộ.
Nhảy vọt đột biến là bước nhảy trong đó chất của sự vật, hiện tượng biến
đổi một cách nhanh chóng ở tất cả các các bộ phận cấu thành nó. Nhảy vọt dần
dần là quá trình thay đổi về chất diễn ra bằng con đường tích lũy dần dần những
nhân tố của chất mới và mất đi dần dần những nhân tố của chất cũ.
Sự nhảy vọt dần dần là sự chuyển hóa chất này sang chất khác, là sự đứt
đoạn của tính liên tục. Sự tích lũy dần dần về lượng diễn ra một cách liên tục
trong khuôn khổ của chất đang có.
Sự phân biệt giữa nhảy vọt đột biến và nhảy vọt dần dần vừa dựa trên
thời gian, vừa dựa trên tính chất của sự thay đổi về chất. Sự khác nhau giữa
nhảy vọt đột biến và nhảy vọt dần dần thể hiện không chỉ ở thời gian diễn ra sự
biến đổi mà còn cả ở cơ chế của sự thay đổi đó. Bước nhảy dần dần là quá trình
rất phức tạp, trong đó bao gồm cả bước nhảy toàn bộ lẫn bước nhảy cục bộ.
Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi về chất ở tất cả các mặt,
các bộ phận, các yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng. Bước nhảy cục bô là
bước nhảy làm thay đổi một số mặt, một số bộ phận, một số yếu tố cấu thành
sự vật, hiện tượng ấy. Những sự vật, hiện tượng phức tạp về cấu trúc, tính chất,
bộ phận cấu thành thì bước nhảy thường từ nhảy vọt cục bộ đến nhảy vọt toàn
bộ.
Tóm lại, quy luật lượng chất chỉ rõ cách thức biến đổi của sự vật, hiện
tượng. Đó là quá trình tác động lẫn nhau giữa hai mặt lượng - chất. Chất tương
đối ổn định, lượng thường xuyên biến đổi. Lượng biến đổi mâu thuẫn với chất
cũ. Mâu thuẫn được giải quyết chất mới được hình thành với lượng mới. Những
lượng mới lại tiếp tục biến đổi đến những điểm nút mới phá vỡ chất cũ đang
kìm hãm nó tạo nên những chất mới. Sự vận động liên tục của sự vật, hiện
tượng từ biến đổi dần dần về lượng đến nhảy vọt về chất, rồi biến đổi dần dần
về lượng chuẩn bị cho bước nhảy về chất tiếp theo. Quá trình cứ thế tiếp diễn
làm cho sự vật, hiện tượng không ngừng biến đổi và phát triển.
Ý nghĩa phương pháp luận
Trong tư duy cũng như trong hoạt động thực tiễn, cần xác định quy mô,
tốc độ, trình độ của những bước nhảy một cách khách quan, khoa học. Cần tạo
điều kiện thuận lợi cho sự tích lũy về lượng và biết chớp thời cơ để thực hiện
các bước nhảy về chất không được rập khuôn giáo điều hay bảo thủ ngại khó.
16
Các Mác - Tư bản, quyển I, tập 1, Nxb Sự thật Hà Nội 1973, Tr 573.
20
GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI TUYỂN SINH
SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2013
Nếu tuyệt đối hóa về chất, chỉ chú trọng thực hiện các bước nhảy mà
không chú ý tích lũy về lượng là rơi vào chủ nghĩa tả khuynh (nôn nóng, chủ
quan, duy ý chí, hành động phiêu lưu mạo hiểm).
Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa sự tích lũy về lượng, hạ thấp vai trò của
bước nhảy về chất sẽ dẫn dến chủ nghĩa hữu khuynh (Bảo thủ, trì trệ, ngại
khó ), hoặc sẽ rơi và chủ nghĩa cải lương và tiến hóa luận.
7c) QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG CỦA PHỦ ĐỊNH BIỆN
CHỨNG
Nội dung của quy luật
Mọi sự vật, hiện tượng cũng như thế giới vận động và phát triển có tính
chu kỳ. Để thực hiện một chu kỳ của sự phát triển thì sự vật, hiện tượng phải
trãi qua ít nhất hai lần phủ định biện chứng. Khuynh hướng của sự phát triển
của sự vật, hiện tượng và thế giới là theo đường xoáy trôn ốc.
Phân tích nội dung quy luật
Phủ định siêu hình và phủ định biện chứng.
Phủ định siêu hình dù hiểu theo cách nào cũng có ba đặc điểm chính là:
Biến sự vật, hiện tượng thành cái khác nó hoặc đối lập với chính nó; Là sự phủ
định sạch trơn không kế thừa, không chọn lọc; Là sự phủ định khách quan hoặc
chủ quan.
Phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, là
mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, tiến bộ hơn so với cái bị
phủ định. Như vậy, phủ định biện chứng cũng có ba đặc điểm chính: Chuyển
hóa sự vật, hiện tượng thành cái khác nó hoặc đối lập với nó; Là sự phủ định có
kế thừa có chọn lọc; Chỉ là sự phủ định khách quan.
Phủ định biện chứng của phủ định biện chứng.
Phủ định biện chứng lần thứ nhất tạo ra cái khác cái ban đầu hoặc đối lập
với cái ban đầu. Phủ định biện chứng lần thứ hai dường như tái lập lại cái ban
đầu nhưng trên cơ sở tính chất và trình độ cao hơn. Sự phủ định biện chứng lần
hai gọi là phủ định biện chứng của phủ định biện chứng (gọi tắt là phủ định của
phủ định).
Phủ định của phủ định xuất hiện với tư cách là cái tổng hợp tất cả những
yếu tố tích cực và loại bỏ những yếu tố tiêu cực trong các giai đoạn trước.
Chính thế, cái mới ra đời có nội dung phong phú, toàn diện, cao hơn cái cũ.
Phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển,
đồng thời là điểm xuất phát cho một chu kỳ tiếp theo.
c) Số lần phủ định biện chứng trong một chu kỳ của sự phát triển.
Sự vật hiện tượng trong thế giới là rất phong phú đa dạng, vì thế chu kỳ
của sự phát triển ở từng sự vật, hiện tượng cũng rất khác nhau. Số lần phủ định
trong mỗi chu kỳ vì thế ít hoặc nhiều là tùy theo từng sự vật, hiện tượng cụ thể.
Chẳng hạn, vòng đời của cây lúa trãi qua hai lần phủ định biện chứng,
nhưng vòng đời của con ếch phải trãi qua ba lần, con tằm phải trãi qua bốn lần
21
GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI TUYỂN SINH
SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2013
phủ định biện chứng Số lượng các lần phủ định trong một chu kỳ phát triển cụ
thể nhiều hay ít, nhưng để đạt được sự phát triển thì ít nhất phải trải qua hai lần.
Con đường của sự phát triển.
Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng như
nêu trên là sự thống nhất giữa loại bỏ, giữ lại và phát triển. Nó biểu hiện sự phát
triển do mâu thuẫn, khái quát tính chất tiến lên của phát triển. Sự phát triển đó
không diễn ra theo con đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”. Lênin viết: “Sự
phát triển dường như diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một hình
thức khác, ở một trình độ cao hơn; sự phát triển có thể nói là theo đường trôn ốc
chứ không theo đường thẳng”
17
.
Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc thể hiện một trình độ, tính chất cao
hơn của sự phát triển, đồng thời dường như quay lại cái đã qua. Sự nối tiếp của
các vòng xoáy thể hiện tính liên tục, tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến
cao.
Ý nghĩa phung pháp luận của quy luật
Quá trình phát triển của thế giới không diễn ra theo một đường thẳng mà
rất quanh co, phức tạp, trãi qua nhiề lần phủ định, nhiều khâu trung gian, đặc
biệt là trong lĩnh vực đời sống xã hội. Bởi thế, việc nắm vững quy luật cho ta
cách nhìn biện chứng, khoa học về xu thế phát triển của thế giới và của thời đại
hiện nay.
Cần phải có quan điểm khoa học, biết phát hiện, đánh giá và ủng hộ cái
mới. Chống phủ định sạch trơn cũng như kế thừa nguyên xi cái cũ.
Trên thực tế hiện nay có những kẻ, trong đó có những người vốn là mác-
xít luôn ra sức phủ nhận những thành quả to lớn của Chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô và Đông Âu. Họ không thấy được trong 70 năm tồn tại, Chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô đã để lại những giá trị tích cực có ảnh hưởng lâu dài đối với lịch sử
toàn thế giới.
Ở Việt Nam trong thời đổi mới cũng có một số biểu hiện lệch lạc trên
lĩnh vực văn hóa. Đảng ta đã nhận định rằng, trong những năm gần đây, “nhiều
hủ tục cũ lan tràn, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội ”
18
.
8. Các phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
8a) Cặp phạm trù cái Riêng-cái Chung
Các khái niệm
a) Cái Riêng: Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một
hiện tượng hoặc một quá trình riêng lẻ nhất định. Chẳng hạn: một người, một
ngôi sao, một con sông, một lớp học
17
V.I Lênin toàn tập - Nxb Tiến bộ - Mátxcơva 1980 - Tập 26 - Tr 65.
18
ĐCSVN - Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCHTW khóa VIII - Nxb CTQG - Hà Nội 1998 - Tr 46.
22
GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI TUYỂN SINH
SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2013
b) Cái Chung: Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những
mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ giống nhau ở nhiều sự vật hiện tượng
hay quá trình riêng lẻ. Chẳng hạn vận động, mâu thuẫn, đồng hóa, dị hóa, hô
hấp
c) Cái đơn nhất (Đặc thù): Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ
những nét, những mặt, những đặc điểm chỉ có ở một sự vật, hiện tượng nào đó
mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác.
Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung
Phái duy thực quan niệm cái chung tồn tại độc lập không phụ thuộc vào
cái riêng và sinh ra cái riêng. Cái chung tồn tại vĩnh viễn không biến đổi còn cái
riêng chỉ tồn tại tạm thời và mất đi (tiêu biểu là Platôn). Ngược lại phái duy
danh lại cho rằng chỉ cái riêng tồn tại thực sự, còn cái chung chỉ là tên gọi do lý
trí đặt ra chứ không phản ánh một cái gì hiện thực.
Quan niệm của phép biện chứng duy vật cho rằng: Cái riêng và cái chung
tồn tại một cách khách quan và luôn quan hệ lẫn nhau. Không có riêng, chung
tồn tại thuần túy không liên hệ.
Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện.
Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Chẳng hạn, vận động chỉ
biểu hiện thông qua các hình thức vận động cụ thể. Trong sản xuất, bất cứ nước
nào cũng phải tuân thủ quy luật quan hệ sản xuất phải luôn luôn phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Cái riêng là cái toàn thể phong phú hơn cái chung, vì ngoài những mặt
những thuộc tính gia nhập vào cái chung, nó còn những cái đơn nhất. Cái
chung là cái bộ phận nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng. Bởi nó phản ánh
những mặt những thuộc tính, những mối liên hệ bên trong, tất nhiên, ổn định,
phổ biến tồn tại trong cái riêng cùng loại. Cái chung bởi thế thường gắn với bản
chất quy định phương hướng tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Cái đơn nhất và cái chung là những phạm trù cùng loại nên trong những
mối liên hệ nhất định chúng có thể chuyển hóa lẫn nhau. Sở dĩ có điều này là do
trong hiện thực, cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay một lúc, mà xuất
hiện ở dạng cá biệt, đơn nhất rồi theo quy luật phát triển, hoàn thiện thành cái
chung. Trong khi đó cái cũ từ là cái chung ngày càng biến dần thành cái đơn
nhất.
Ý nghĩa phương pháp luận
Trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, cần phải biết phát
hiện cái chung và vận dụng cái chung để cải tạo cái riêng. Nhưng muốn phát
hiện cái chung phải xuất phát từ những cái riêng cụ thể.
Khi vận dụng cái chung vào cái riêng, phải biết cá biệt hóa cái chung cho
phù hợp với những đặc điểm của cái riêng. Không áp đặt một cách nguyên xi
cái chung cho mọi cái riêng.
23
GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI TUYỂN SINH
SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2013
Cần biết tạo điều kiện thuận lợi cho những cái đơn nhất có lợi chuyển
hóa thành cái chung, ngược lại phải tạo điều kiện cho những cái chung lỗi thời
không là điều mong muốn của ta biến thành cái đơn nhất.
Trong thực tiễn, khi vận dụng cặp phạm trù cái riêng và cái chung nếu
tuyệt đối hóa vai trò của cái chung mà hạ thấp vai trò của cái riêng sẽ dẫn đến
chủ nghĩa giáo điều, rập khuôn, máy móc (hữu khuynh). Ngược lại, nếu tuyệt
đối hóa vai trò của cái riêng mà hạ thấp vai trò của cái chung sẽ dẫn đến tư
tưởng địa phương chủ nghĩa, tập thể phường hội, chủ nghĩa cá nhân (tả
khuynh).
8b) Cặp phạm trù Nguyên nhân-Kết quả
Các khái niệm
Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa
các mặt, các yếu tố trong sự vật, hiện tượng hay giữa sự vật, hiện tượng với
nhau gây ra một sự biến đổi nhất định.
Kết quả là phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự
tác động lẫn nhau của các mặt, các yếu tố trong một sự vật hiện tượng hay
giữa các sự vật hiện tượng với nhau.
Ví dụ: Sự tự quay xung quanh mình và quay xung quanh mặt trời của quả
đất là nguyên nhân dẫn đến kết quả có ngày, đêm, bốn mùa.
Nguyên nhân khác với nguyên cớ và điều kiện: Nguyên cớ là khái niệm
dùng để chỉ những gì xảy ra trước kết quả, không sinh ra kết quả, có liên quan
không bản chất với kết quả và nằm ngoài sự vật, hiện tượng. Điều kiện là khái
niệm dùng để chỉ sự tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên
nhân, không tham gia vào kết quả, nhưng để có kết quả thì không thể thiếu nó.
Mối quan hệ nhân - quả là khách quan của bản thân sự vật, hiện tượng.
Nó tồn tại không lệ thuộc vào ý muốn của con người. Nhân - quả là cái vốn có
của bản thân sự vật, hiện tượng vì thế nó cũng không thể đồng nhất với khả
năng tiên đoán. Ngược lại, Chủ nghĩa duy tâm lại cho rằng nó bị lực lượng siêu
nhiên, hoặc ý thức của con người quyết định (Công giáo, Hium).
Mối quan hệ nhân - quả là phổ biến trong tồn tại của sự vật, hiện tượng
và thế giới (nguyên tắc quyết định luận). Chủ nghĩa duy tâm hiện đang phủ
nhận nguyên tắc này và thay thế vào đó nguyên tắc vô định luận, cho rằng có
hiện tượng không có nguyên nhân. Đây là vấn đề đang được tranh luận sôi nổi
trong các hiện tượng vi mô.
Mối quan hệ nhân - quả là một tất yếu. Tức có những kết quả muốn ra
đời phải có những điều kiện nhất định (hoàn cảnh). Nhưng trong những hoàn
cảnh nhất định, với một nguyên nhân nhất định chỉ có thể gây ra kết quả nhất
định. Chẳng hạn vật trong chân không luôn rơi ở vận tốc 9,8m/s
2
. Nước ở áp
suất 1 átmốtphe luôn sôi ở nhiệt độ 100
0
C v.v. Tính tất yếu của quan hệ nhân -
2
Số này đọc là giây.
0
24
GVC ThS HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI TUYỂN SINH
SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2013
quả cần được hiểu: Nếu nguyên nhân và hoàn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu
thì các kết quả do nguyên nhân gây nên càng ít khác nhau bấy nhiêu.
Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
- Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả. Nguyên nhân luôn là cái có trước
kết quả, sản sinh ra trước kết quả. Kết quả chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân
xuất hiện và bắt đầu tác động. Nhưng mối quan hệ nhân - quả phải bao gồm
đồng thời cả hai quan hệ thứ tự và sản sinh. Mối quan hệ liên tục về thời gian
mà thiếu quan hệ sản sinh như ngày - đêm và bốn mùa không là quan hệ nhân-
quả. S = π.R
2
là công thức tính diện tích hình tròn nhưng giữa S và R không là
quan hệ nhân - quả.
Một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc hoàn
cảnh, cũng như một kết quả có thể được gây nên từ nhiều nguyên nhân khác
nhau. Nếu các nguyên nhân tác động lên sự vật, hiện tượng theo cùng một
hướng chúng sẽ cùng gây nên ảnh hưởng cùng chiều với sự hình thành kết quả.
Ngược lại, nếu các nguyên nhân tác động lên sự vật, hiện tượng theo các hướng
khác nhau thì chúng sẽ làm suy yếu lẫn nhau, thậm chí hoàn toàn triệt tiêu tác
dụng của nhau.
Căn cứ vào tính chất và vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết
quả, có thể phân chia nguyên nhân thành các loại sau: Nguyên nhân chủ yếu là
những nguyên nhân mà thiếu nó thì không thể xảy ra kết quả. Nguyên nhân thứ
yếu là những nguyên nhân mà sự có mặt của nó chỉ quyết định những đặc điểm
nhất thời, không ổn định, cá biệt của sự vật, hiện tượng. Nguyên nhân bên trong
là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố của cùng một sự vật, hiện
tượng gây ra những biến đổi nhất định. Nguyên nhân bên trong bao giờ cũng
quyết định sự hình thành, tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Nguyên
nhân bên ngoài là sự tác động lẫn nhau giữa những sự vật, hiện tượng khác
nhau gây nên những biến đổi thích hợp trong những sự vật, hiện tượng ấy.
Nguyên nhân bên ngoài chỉ phát huy tác dụng của mình thông qua những
nguyên nhân bên trong. Nguyên nhân khách quan là những nguyên nhân xuất
hiện và tác động độc lập với ý thức của con người. Nguyên nhân chủ quan là
những nguyên nhân xuất hiện và tác động phụ thuộc vào ý thức của con người.
Nếu hoạt động của con người phù hợp với quan hệ nhân - quả khách quan thì sẽ
đẩy nhanh sự biến đổi của các sự vật, hiện tượng và thế giới. Ngược lại, nếu
hoạt động của con người không phù hợp với nguyên nhân khách quan thì nó
kìm hãm sự biến đổi ấy.
- Nguyên nhân sinh ra kết quả, nhưng kết quả không thụ động đối với
nguyên nhân mà nó có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đối với nguyên nhân.
Chẳng hạn, khi nhấn một khối gỗ vào một chậu nước đầy sẽ làm cho nước trong
chậu tràn ra. Đến lượt nó, chính do nước tràn ra ngoài mà lực đẩy của nó đối
với khối gỗ bị giảm đi.
2
Số này đọc là bình phương
25