Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

những giải pháp kích cầu nền kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.9 KB, 18 trang )

ĐỀ TÀI: NHỮNG GIẢI PHÁP KÍCH CẦU NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
CHƯƠNG I:TỔNG QUAN VỀ KÍCH CẦU
1.1. Khái niệm:
Chính sách kích cầu là một loạt các biện pháp kinh tế nhằm duy trì và gia
tăng tổng cầu của một nước thông qua sự can thiệp của Nhà nước.
1.2. Tại sao phải kích cầu? (nguồn gốc và cơ sơ của chính sách)
Chính sách kích cầu xuất phát từ học thuyết kinh tế của nhà kinh tế học
nổi tiếng người Anh John Maynard Keynes (1883-1946). Trong lý thuyết của
mình, Keynes rất coi trọng tổng cầu của nền kinh tế. Theo ông, nền kinh tế chịu
tác động của hai nhân tố cơ bản: Tổng cung, tức toàn bộ số hàng hóa bán trong
nền kinh tế không phải là tổng cung mà chính là tổng cầu. Tổng cung giữ vai trò
thụ động, nó chịu sự tác động của tổng cầu. Tổng cẩu phụ thuộc vào cac yếu tố:
mức chi tiêu cá nhân của mỗi gia đình, mức chi tiêu cho đầu tư, mức chi tiêu của
chính phủ và chi tiêu ròng của nước ngoài đối với hàng hóa sản xuất trong nước
( xuất khẩu ròng) trên thị trường và tổng cầu, tức toàn thể số hàng hóa mà người
ta muốn mua. Nhân tố trực tiếp quyết định mức sản lượng và việc làm.
Theo Keynes, trong quá trình vận động của nền kinh tế, tổng cầu thường
không theo kịp so với tổng cung. Điều đó ảnh hưởng đến tình hình sản xuất, thu
hẹp đầu tư, gây ra nạn thất nghiệp cũng như khủng hoảng kinh tế. Để giải quyết
tình trạng này phải tăng tổng cầu. Tổng cầu lớn hơn tổng cung sẽ làm gia tăng
đầu tư. Do đó sẽ gia tăng việc làm và gia tăng thu nhập. Cuối cùng sản lượng
quốc gia cũng được gia tăng.Đồng thời, Keynes cũng đề cao vai trò của Nhà
nước trong việc điều tiết nền kinh tế thông qua chính sách kich cầu của Chính
phủ. Ông cho rằng để thoát khỏi khủng hoảng và thất nghiệp cần có sự can thiệp
của Nhà nước vào kinh tế để tăng tổng cầu, gia tăng việc làm và thu nhập. Sự
can thiệp của Nhà nước thông qua các công cụ như chương trình đầu tư Nhà
nước; Chính sách tài chính, tín dụng và lưu thông tiền tệ; Mở rộng việc làm
bằng cách mở rộng đầu tư thậm chí cả vào các ngành thuộc lĩnh vực quân sự;
Khuyến khích tiêu dùng cá nhân
1.3. Mục đích chính sách kích cầu
Mục tiêu của gói kích cầu là tạo thêm cầu để đối ứng với năng lực sản


xuất hiện tại của nền kinh tế khi suy thoái, tránh để dư thừa năng lực sản xuất ở
mức quá cao gây lãng phí nguồn lực cũng như gây ra những vấn đề về xã hội do
thất nghiệp tăng cao gây ra. Nếu không nhanh chóng ngăn chặn, thất nghiệp sẽ
tiến đến ngưỡng nguy hiểm đẩy suy giảm kinh tế vào vòng xoáy luẩn quẩn: thất
nghiệp sẽ dẫn đến cắt giảm thu nhập (thực tế và kỳ vọng) làm giảm tiêu dùng,
- 1 -
càng làm khó khăn về đầu ra của doanh nghiệp phải tiếp tục cắt giảm sản xuất
và lao động, đẩy thất nghiệp tăng lên ở vòng tiếp theo và cứ tiếp tục như vậy. Do
vậy mục đích lớn nhất của gói kích cầu là duy trì việc làm.
1.5. Điều kiện áp dụng các biện pháp kích cầu
Khủng hoảng- phục hồi- hưng thịnh- suy thoái là các pha trong chu kì của
một nền kinh tế,đây là yếu tố khách quan mà không một chính phủ hay một tổ
chức nào có thể thay đổi được. Suy thoái kinh tế có thể liên quan đến sự suy
giảm đồng thời của các chỉ số kinh tế của toàn bộ hoạt động kinh tế như việc
làm,đầu tư,lợi nhuận.Suy thoái có thể gắn liền với hạ giá cả (giảm phát) hoặc
ngược lại giá cả tăng nhanh(lạm phát). Một sự suy thoái lâu dài và trầm trọng
được gọi là khủng hoảng kinh tế. Khi lý thuyết bàn tay vô hình của Adamsmith
sụp đổ với đỉnh điểm là cuộc đại khủng hoảng 1929-1933 phải nhường lại cho
kinh tế học vĩ mô “Keynes” với trọng tâm chính là nêu bật vai trò tăng trưởng
tiền lương(để tăng tổng cầu) và vai trò của nhà nước trong việc quản lý nền kinh
tế. Từ khi kinh tế học keynes ra đời với các biện pháp can thiệp của chính phủ
vào nền kinh tế để điều chỉnh những méo mó của thị trường thì nền kinh tế thị
trường ở các nước có sự chuyể biến rõ nét. Khi nền kinh tế có dấu hiệu bắt đầu
suy thoái kéo dài, để tránh tình trạng trở nên tồi tệ hơn, chính phủ các nước đã
áp dụng nhiều chính sách kinh tế vĩ mô và vi mô để kích cầu nhằm đưa nền
kinh tế tăng trưởng trở lại. Trong đó kích cầu đầu tư là biện pháp hữu hiệu của
các chính phủ.
1.6. Kinh nghiệm kích cầu trên thế giới
Có thể nói rằng không có một công thức cụ thể cho một gói kích cầu áp
dụng với tất cả các nước trên thế giới, mà các nước tùy theo hoàn cảnh của mình

thực hiện các gói kích
cầu khác nhau. Đối với một số nước như Mỹ và EU, thì
gói kích cầu được hiểu là gói
kích thích kinh tế sử dụng các biện pháp tài khóa
(bao gồm tăng chi tiêu của chính phủ và cắt giảm thuế) - Điều này là do thông
thường khi nền kinh tế gặp khó khăn, thì các nước này thường hay sử dụng công
cụ kinh tế là chính sách tiền tệ (điều chỉnh lãi suất cho vay,
thực hiện nghiệp vụ
thị trường mở), và chỉ cân nhắc sử dụng chính sách tài khóa khi
chính sách tiền
tệ dường như không còn tác dụng, hoặc không thể thực hiện được (ví dụ như khi
lãi suất đã giảm xuống rất thấp). Nhưng với một số nước khác, thì gói kích cầu
lại
được thực hiện đồng thời cùng với chính sách tiền tệ như một số chính sách
khác.
Hiện nay, nước ta vẫn còn thiếu kinh nghiệm trong việc thực hiện các gói
kích cầu, nên việc khảo sát kinh nghiệm kích cầu của các nước trên thế giới trong
hoàn cảnh suy thoái, theo quan điểm của chúng tôi, sẽ giúp chúng ta rút ra được
những bài học quí báu. Dưới đây chúng ta sẽ nghiên cứu các gói kích cầu của cả
các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển.
- 2 -
Một điểm phải lưu ý là tại các nước thực hiện gói kích cầu, tùy theo hoàn
cảnh, mà gói
kích cầu có thể chỉ bao gồm các biện pháp tài khóa, hoặc có thể
bao gồm cả các biện pháp tài khóa cũng như các biện pháp tiền tệ. Chính sách
kích cầu khi nền kinh tế có
nguy cơ đi xuống và chìm vào suy thoái tại các
nước, đặc biệt là các nước phát triển
không phải là điều mới lạ.Trong phần khảo
sát này chúng tôi tập trung vào các nước có nền kinh tế lớn như: Mỹ, EU, Nhật

Bản, Hàn Quốc và Úc; đồng thời cũng khảo sát các nước đang phát triển và đặc
biệt là các nước đang phát triển trong khu vực châu Á có nền kinh tế có nhiều nét
tương đồng với Việt Nam hiện cũng đang thực hiện các chính sách kích cầu để
giúp nền kinh tế của các nước này thoát khỏi khủng hoảng Trung Quốc, Ấn độ,
Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore. Một điều có thể nhận thấy là các nước
này tiến hành các gói kích cầu khá bài bản và có nhiều điểm tương đồng. Mục
tiêu chính của các gói kích cầu đều là tăng tổng cầu trong nền kinh tế và tạo ra
nhiều công ăn việc làm. Ta có thể chia các gói kích cầu của các nước này thành ba
(03) nhóm biện pháp như sau:
(i) Nhóm biện pháp kích thích tiêu dùng đối với người dân:
Một cách làm tăng cầu là làm tăng tiêu dùng của hộ gia đình. Điều này có
thể được thực hiện một cách hiệu quả nhất bằng cách định hướng gói kích cầu tới
những hộ gia đình có xu hướng tiêu dùng hơn là xu hướng tiết kiệm số tiền được
trợ cấp. Nhóm biện pháp mà
các nước kích cầu sử dụng chủ yếu dưới dạng trợ
cấp cho dân trực tiếp hoặc miễn
giảm/hoàn thuế cho dân. Tuy nhiên các sáng
kiến của các nước này lại khá đa dạng, bao gồm các biện pháp cụ thể như cấp tiền
trực tiếp hoặc phát phiếu tiêu dùng cho người dân (Nhật), hoàn thuế cho người
dân, gia đình có thu nhập thấp, trợ cấp cho các gia đình có
trẻ em (Mỹ, Hàn
Quốc), trợ cấp cho người nghèo, người thất nghiệp (Mỹ, Đài Loan),
cũng như
hỗ trợ đối với các đối tượng khó khăn trong hoàn cảnh cụ thể của nền kinh tế
(hỗ
trợ người mua nhà gặp khó khăn ở Mỹ, Australia, Đài Loan; hỗ trợ cho ngư
dân,
người già ở Hàn Quốc, hỗ trợ cho nông dân ở Trung Quốc, Thái Lan; trợ
cấp tiêu dùng các sản phẩm tiết kiệm năng lượng và ít ô nhiễm ở Đài Loan).
(ii) Nhóm biện pháp kích thích chi đầu tư đối với doanh nghiệp

Một cách để làm tăng cầu là khuyến khích các doanh nghiệp tiến hành đầu
tư, hoặc thuê thêm nhân công. Để làm điều này một cách có hiệu quả, chính sách
kích cầu thường tập trung vào các biện pháp khuyến khích các dự án đầu tư mới
hoặc thuê thêm nhân công, chứ không trợ cấp cho các hạng mục đầu tư đã thực
hiện
27
. Thông thường các biện pháp kích thích tăng đầu tư đối với khu vực doanh
nghiệp được thực hiện thông qua việc giảm thuế dưới nhiều hình thức cho các
doanh nghiệp - không trợ cấp hoặc cấp vốn trực tiếp.

Ví dụ như cho phép khấu
hao nhanh các khoản đầu tư (Mỹ), cho nợ thuế, ưu đãi khuyến khích doanh
- 3 -
nghiệp sử dụng lao động và sử dụng thêm lao động mới (Mỹ, Nhật), tăng hoàn
thuế XK đối với một số mặt hàng sử dụng nhiều lao động (Trung Quốc), bỏ thuế
đánh vào lãi trên vốn (capital gain) đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa (Mỹ),
giảm thuế tạm thời cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (Australia), giảm thuế đối
với các dự án đầu tư mới (Đài Loan) khuyến khích ngân hàng cho vay đối với
khối doanh nghiệp nhỏ
và vừa (Trung Quốc). Hình thức hỗ trợ tín dụng cũng
được thực hiện tại một số nước
cũng như hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp
nhỏ và vừa (Nhật) cho vay với lãi suất ưu đãi.
Tuy nhiên, tiến hành kích cầu đối với nền kinh tế trong ngắn hạn thông qua
các biện pháp khuyến khích doanh nghiệp thường rất khó khăn. Điều này là do các
doanh nghiệp sẽ chỉ tiến hành mua sắm, đầu tư, thuê tuyển thêm nhân công mới
nếu như họ thấy có lợi, thấy có cầu đối với hàng hóa mà họ sản xuất ra, chứ
không chỉ dựa trên các khuyến khích về thuế, hay ưu đãi về lãi suất.
(iii) Nhóm biện pháp kích thích bằng chi đầu tư của chính phủ
Các hạng mục đầu tư của chính phủ để kích cầu thường là các gói đầu tư

vào cơ sở hạ
tầng, công trình công cộng, giao thông, đường xá, y tế, giáo dục
(Mỹ, Australia, Hàn
Quốc, Đài Loan, Trung Quốc), hỗ trợ chính quyền địa
phương qua việc giảm thuế (Mỹ) hoặc cho phép chính quyền địa phương đi vay
(Ấn độ).
Ngoài ba nhóm ở trên, tại một số nước còn kết hợp một số chính sách cụ
thể như tại điều
kiện thuận lợi hơn để thu hút đầu tư nước ngoài (Ấn độ), trợ
cấp xuất khẩu sang thị
trường mới (Đài Loan).
- 4 -
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ CHÍNH SÁCH
KÍCH CẦU CỦA VIỆT NAM
1.1. Thực trạng phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam
Năm 2012, đặc biệt trong nửa đầu năm, đã được cảnh báo
như là một trong những năm khó khăn nhất của kinh tế Việt
Nam và thế giới.
Thực tế 4 tháng đầu năm 2012 cho thấy những tín hiệu
khả quan về kiềm chế lạm phát. Đặc biệt, chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) bình quân quý I-2012 thấp xa so với tốc độ tăng bình quân
quý I trong 8 năm trước. CPI tháng 4-2012 chỉ tăng 0,05% và là
tháng thứ 8 liên tiếp tăng chậm lại so với tháng 12-2010. Tính
đến hết tháng 4-2012, chỉ số CPI tăng 2,6% so với tháng 12-
2011.
Điểm tích cực nữa là chỉ số giá lương thực sau Tết giảm
nhẹ, cước bưu chính viễn thông tiếp tục xu hướng liên tục giảm.
Giá cả một số hàng tiêu dùng trong siêu thị giảm bớt nhờ đợt
“khuyến mại trái mùa” của một số siêu thị những tháng sau Tết,
giúp người nghèo dễ thở hơn. Thực tế những tháng đầu năm

đang cho thấy, khả năng hiện thực hóa mục tiêu kiềm chế lạm
phát năm 2012 xuống một con số được xác lập bởi những nhân
tố tích cực, như: Nhận thức và quyết tâm chính trị từ cấp cao
nhất; sự nhất quán chính sách tài chính-tiền tệ linh hoạt và thận
trọng, theo hướng tiếp tục thắt chặt, giảm bớt khối lượng và
nâng cao hiệu quả đầu tư công; xúc tiến đổi mới mô hình và cơ
chế phát triển; sự dồi dào của các nguồn hàng hóa và lao động;
sự năng động và bản lĩnh thương trường của đội ngũ doanh
nghiệp; vị thế quốc tế và lòng tin của thế giới đối với tiềm năng
phát triển trung và dài hạn của Việt Nam ngày càng được củng
cố
Tính đến hết tháng 4-2012, cả nước có tổng nhập siêu
khoảng 176 triệu USD, bằng khoảng 0,53% tổng kim ngạch xuất
khẩu, mức thấp hơn nhiều so với cùng kỳ nhiều năm gần đây.
Cơ cấu chất lượng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
được cải thiện cả về nguồn vốn và lĩnh vực thu hút (FDI giải
ngân là 400-600 và 1.500 triệu USD). Đặc biệt, khác với năm
2011, những tháng đầu năm 2012 cho thấy sự hồi phục lòng tin
và nhu cầu về trái phiếu chính phủ, với kết quả đấu thầu thành
- 5 -
công trái phiếu Chính phủ khả quan hơn nhiều so với năm
trước.
Ngoài ra, những dấu hiệu cải thiện trong 4 tháng đầu năm
2012 về sản xuất điện (tăng 15,1%), khai thác dầu thô (tăng
10,3%), phát triển nông nghiệp, tính thanh khoản ngân hàng và
dự trữ ngoại hối cũng được ghi nhận.
1.2. Những chính sách kích cầu của Việt Nam
Để kích cầu đầu tư và tiêu dùng có hiệu quả cần chú ý đến
những vấn đề chính sau: Một là, tập trung kích cầu đầu tư vào
các dự án sắp hoàn thành, đưa nhanh vào sử dụng các dự án có

dung lượng và triển vọng thị trường tiêu thụ tốt, các dự án góp
phần trực tiếp duy trì và mở rộng năng lực sản xuất, kinh doanh
cần thiết của doanh nghiệp và nền kinh tế. Ưu tiên các dự án có
khả năng tạo được thị trường tiêu thụ, các dự án kết hợp phát
triển kinh tế - xã hội - môi trường. Hai là, để kích cầu tiêu dùng
cần giảm giá hàng tiêu dùng, giảm lãi suất, điều chỉnh tăng
lương, giảm thuế thu nhập cá nhân và doanh nghiệp, tăng cho
vay tiêu dùng, đồng thời giãn, khoanh nợ và tăng hỗ trợ an sinh
xã hội. Hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo, người có thu nhập
thấp, đồng bào dân tộc thiểu số, các vùng núi khó khăn, thiên
tai, bệnh dịch… Đơn giản hóa các thủ tục trợ cấp cho người
nghèo.
Điểm nhấn nổi bật của bức tranh toàn cảnh doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay là số lượng các doanh nghiệp gặp khó khăn
phải giải thể, dừng hoạt động có thời hạn hoặc không phát sinh
doanh thu, thua lỗ, phá sản, nợ nần chồng chất và thu hẹp sản
xuất-kinh doanh, hàng tồn kho lớn, thị trường xuất khẩu khó
khăn trong khi sức mua và thị phần trong nước thu hẹp Nhiều
doanh nghiệp không nộp thuế, bỏ trốn hoặc không thực hiện nổi
các nghĩa vụ tài chính, kéo theo nhiều hệ lụy kinh tế-xã hội ở cả
cấp vĩ mô và vi mô. Tình trạng vay "nóng" hay siết nợ hàng loạt
hiện diễn ra khá phổ biến. Mối lo nợ đọng và phá sản gia tăng ở
mọi ngành và doanh nghiệp, dù là đại gia như Công ty CP
Hoàng Anh Gia Lai (HAG), Vinacafe Buôn Ma Thuột, hay doanh
nghiệp nhỏ và vừa tiểu thủ công nghiệp. Không ít doanh nghiệp
chuyển sang “buôn chuyến”, từ sản xuất chuyển qua làm
thương mại, nhập hàng bán ở nội địa, lấy ngắn nuôi dài, hoạt
động cầm chừng nuôi nhân sự; không đủ động lực tái cấu trúc
- 6 -
theo chiều sâu như kêu gọi của Chính phủ và đòi hỏi của thực

tiễn cạnh tranh thị trường ngày càng gay gắt…
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) trong
báo cáo gửi Thủ tướng trước thềm phiên họp thường kỳ tháng 4-
2012 của Chính phủ, cũng nhấn mạnh, trong quý I-2012, các chỉ
số về hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đều
có chiều hướng xấu đi về lợi nhuận, doanh số, hàng tồn kho,
hiệu suất sử dụng máy móc, cũng như số lượng lao động…, đặc
biệt là nhóm doanh nghiệp bất động sản hay có ngành nghề
liên quan (như kinh doanh, môi giới bất động sản, tư vấn thiết
kế, kiến trúc, san lấp, xây dựng, giám sát, thi công công trình,
sản xuất, buôn bán vật liệu xây dựng, hàng trang trí nội thất ),
công nghiệp chế biến, chế tạo.
Theo Tổng cục Thống kê, GDP quý I-2012 ước đạt 4% ,
thấp hơn so cùng kỳ nhiều năm trước (năm 2011, GDP của Việt
Nam tăng 5,89% so với năm 2010, trong đó quý I tăng 5,57%;
quý II tăng 5,68%; quý III tăng 6,07% và quý IV tăng 6,10%).
Điều đáng ngại là mức tăng GDP công nghiệp quá thấp (2,94%),
chỉ xấp xỉ mức tăng của nông nghiệp (2,84%). Chỉ số sản xuất
công nghiệp (IIP) 4 tháng đầu năm 2012 tăng 4,3% so với cùng
kỳ năm 2011 là mức tăng rất thấp. Một số nhóm hàng chủ lực
trong kim ngạch xuất khẩu như dệt may, giày dép và có độ phụ
thuộc cao vào nguyên vật liệu nhập ngoại thì nhập khẩu các
nguyên vật liệu đầu vào của nhóm hàng này trong các tháng
đầu năm 2012 giảm mạnh, cho thấy khó khăn trong tìm kiếm
thị trường xuất khẩu thời gian tới. Lượng gạo xuất khẩu mới
bằng một nửa cùng kỳ năm trước. Chỉ số tồn kho của toàn
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tính đến 1-4-2012 đã tăng
32,1%, là mức cao so với cùng thời điểm năm trước.
Trước thực trạng đó, ngày 10-5-2012, Chính phủ đã ban
hành Nghị quyết số 13/NQ-CP về một số giải pháp tháo gỡ khó

khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường. Việc ban hành
Nghị quyết 13 vào lúc này là hết sức cần thiết.
Các gói kích cầu kinh tế có tác dụng như chiếc phao cứu
sinh làm gia tăng lòng tin của các doanh nghiệp, các ngân hàng
và nhà đầu tư trong nước và quốc tế vào trách nhiệm của chính
phủ trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp đang gặp khó khăn,
cũng như tin vào triển vọng thị trường và môi trường đầu tư
- 7 -
trong nước. Gói kích cầu trực tiếp hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp
cận được các nguồn vốn ngân hàng với chi phí rẻ hơn, từ đó
giảm bớt các chi phí kinh doanh, góp phần giảm giá thành sản
phẩm, tăng khả năng cạnh tranh và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ
trên thị trường. Nhiều doanh nghiệp nhận được sự hỗ trợ kịp
thời của gói kích cầu đã có thêm cơ hội giữ vững và mở rộng
sản xuất, từ đó góp phần giảm bớt áp lực thất nghiệp và đảm
bảo ổn định xã hội. Bên cạnh đó, gói kích cầu còn trực tiếp góp
phần gia tăng các hoạt động đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
kinh tế và xã hội, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo nền
tảng và động lực của sự phát triển xã hội cả hiện tại và tương
lai.
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ lãi suất vốn
vay mua máy móc, thiết bị vật tư phục vụ nông nghiệp và vật
liệu xây dựng nhà ở tập trung vào khu vực nông nghiệp, nông
dân và nông thôn; chương trình xúc tiến thương mại (XTTM) thị
trường trong nước đã được triển khai tích cực. Ngành cơ khí đã
chuyển đổi từ thụ động sang chủ động hơn trong sản xuất, đầu
tư và tìm thị trường; sáng tạo công nghệ mới, nâng cao khả
năng cạnh tranh và thích nghi với cơ chế thị trường. Các sản
phẩm máy nông nghiệp của Tổng Công ty Máy động lực và máy
nông nghiệp đã giữ được mức tăng trưởng cao, trong đó sản

lượng máy kéo và xe vận chuyển tăng 88,6%, máy cắt lúa gặt
đập tăng 24%, máy phun thuốc trừ sâu tăng trên 3 lần Tổng
Công ty Xây dựng Công nghiệp là một trong những đơn vị đi đầu
trong việc triển khai sản phẩm cơ khí nội địa. Riêng Nhà máy Xi
măng Thái Nguyên, công suất 1,51 triệu tấn/năm đã nội địa hóa
thiết bị đến 73%. Nhằm mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất
khẩu, các chương trình XTTM tiếp tục được triển khai. Thông
qua các chương trình "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt
Nam", đưa hàng Việt về thị trường nông thôn… các DN đã quan
tâm hơn đến phát triển thị trường nội địa, góp phần đáp ứng
được nhu cầu của người dân và nâng cao doanh thu. Ngành dệt
may là một ví dụ, ngoài việc duy trì các thị trường xuất khẩu
truyền thống như Hoa Kỳ, châu Âu ngành còn mở rộng các thị
trường tiềm năng như Hàn Quốc, Ấn Độ và các nước Trung
Đông. Cùng với việc mở rộng thị trường ngoài nước, nhiều DN
dệt may đã khai thác thị trường nội địa và đạt được kết quả khả
- 8 -
quan. Nhiều DN sản xuất giày dép nay cũng đã nhận đơn hàng
sản xuất đến cuối năm với sản lượng tương đương như năm
2011. Riêng mặt hàng dép các loại, giày vải, các DN có đơn
hàng sản xuất ổn định trong cả năm, không phải dừng sản xuất
trong giai đoạn giãn vụ như các năm trước.
Tình hình triển khai thực hiện các giải pháp chống suy
giảm và ổn định vĩ mô nền kinh tế
1- Về chính sách tài chính tiền tệ
Chính phủ đã cho phép giảm, giãn thời hạn nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2011 và số thuế thu nhập
doanh nghiệp phải nộp của năm 2012 để hỗ trợ các doanh
nghiệp nhỏ và vừa; doanh nghiệp có hoạt động sản xuất, gia
công, chế biến nông, lâm, thuỷ sản, dệt may, da giày, linh kiện

điện tử. Đây là khối doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động và
chịu nhiều ảnh hưởng từ cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu.
Tạm hoàn 90% số thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với
hàng hóa thực xuất khẩu trong trường hợp doanh nghiệp chưa
có chứng từ thanh toán qua ngân hàng; giãn thời gian ân hạn
nộp thuế nhập khẩu, cải cách thủ tục thông quan hàng hóa xuất
nhập khẩu và tỷ lệ phế liệu, phế phẩm không phải chịu thuế
nhập khẩu trong gia công hàng hóa xuất khẩu, nhập nguyên
liệu sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Mặc dù những chính sách này
không trực tiếp giải quyết được vấn đề cơ bản của doanh
nghiệp là đầu ra cho sản phẩm, nhưng đây vẫn là một chính
sách được cộng đồng doanh nghiệp hoan nghênh vì doanh
nghiệp giảm được thời gian và chi phí.
Để góp phần bảo đảm nguồn nguyên liệu cho sản xuất
trong nước, hạn chế xuất khẩu tài nguyên, khoảng sản chưa
qua chế biến, chúng ta đã điều chỉnh tăng thuế xuất khẩu của
một số mặt hàng khoáng sản như cát, đá (từ 12% lên 17%); một
số loại khoáng sản (điều chỉnh tăng từ 0% lên 10% do thực hiện
Biểu khung mới); than củi và gỗ nguyên liệu (từ 0% lên 10%);
kim cương, đá quý, bạc. Để hỗ trợ sản xuất trong nước, chúng
ta đã điều chỉnh tăng thuế nhập khẩu đối với phôi thép từ 2%
lên 5%; thép xây dựng từ 8% lên 12%; điều chỉnh giảm thuế
nhập khẩu đối với một số nhóm nguyên liệu đầu vào cho sản
xuất như nguyên liệu để sản xuất thuốc kháng sinh; 8 nhóm xơ,
sợi tổng hợp; một số loại linh kiện, phụ tùng điện tử; nguyên
- 9 -
liệu nhựa, nguyên vật liệu xây dựng… đồng thời thực hiện điều
chỉnh giảm thuế đối với 8 nhóm thuốc chữa bệnh để góp phần
bình ổn thị trường, giảm giá thuốc (từ các mức 2%, 5% và 8%
xuống 0%).

Về chính sách tiền tệ, đã điều chỉnh tăng tỷ giá USD/VND
và hạ lãi suất cơ bản. Đây là những chính sách cần thiết để góp
phần vừa giảm chi phí vay vốn cho doanh nghiệp vừa giúp cải
thiện cán cân ngoại thương.
Trong chính sách này, ngân hàng thương mại đóng vai trò
trung gian giữa Ngân hàng Nhà nước và doanh nghiệp để thực
hiện việc hỗ trợ lãi suất.
Chủ động xử lý các tác động tiêu cực của cuộc khủng
hoảng tài chính thế giới đối với hoạt động kinh doanh, thực hiện
đồng bộ các giải pháp để tăng cường huy động vốn, mở rộng tín
dụng có hiệu quả và phù hợp với quy định của pháp luật, áp
dụng lãi suất cho vay hợp lý trong điều kiện sản xuất, kinh
doanh gặp khó khăn; cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi
vốn vay, điều chỉnh giảm lãi suất cho vay và không phạt quá
hạn theo cơ chế hiện hành; tăng cường kiểm tra, kiểm toán nội
bộ, thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro.
Yêu cầu các ngân hàng thương mại nhà nước xem xét, chủ
động giảm lãi suất cho vay các khoản nợ được ký kết trước đây
xuống mức lãi suất cho vay hiện hành để thúc đẩy cạnh tranh,
giảm lãi suất cho vay; phối hợp với Hiệp hội ngân hàng để chỉ
đạo, khuyến khích các ngân hàng thương mại thực hiện các giải
pháp tăng cường huy động vốn, mở rộng tín dụng có hiệu quả
và phù hợp với quy định của pháp luật, giảm lãi suất cho vay
nhằm chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp.
Nhìn chung, phản hồi của các bộ, ngành và địa phương,
doanh nghiệp và người dân cho thấy, cơ chế hỗ trợ lãi suất do
Thủ tướng Chính phủ ban hành là giải pháp kích cầu phù hợp
với yêu cầu của nền kinh tế và được triển khai kịp thời, có tác
động thiết thực đối với các tổ chức và cá nhân để khắc phục khó
khăn, duy trì sản xuất, kinh doanh và tạo việc làm cho người lao

động; đồng thời, cũng hỗ trợ cho các ngân hàng thương mại
khắc phục khó khăn, giữ được an toàn hoạt động kinh doanh; cơ
chế này nhận được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi trong xã hội.
- 10 -
Cơ chế hỗ trợ lãi suất được ban hành và phổ biến một cách
công khai, rõ ràng, minh bạch và có tính giám sát cao đối với
các ngân hàng thương mại thực hiện và đối tượng thụ hưởng là
tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất, kinh doanh;
các ngân hàng thương mại đã khẩn trương thực hiện bằng việc
ban hành cơ chế nghiệp vụ, làm tốt công tác thông tin truyền
thông đối với khách hàng vay.
2 – Về kích cầu đầu tư
Chính phủ đã thực hiện các chính sách thúc đẩy đầu tư
bằng nguồn vốn ngân sách tập trung, vốn trái phiếu chính phủ,
vốn tín dụng ưu đãi và vốn của doanh nghiệp,…
Đi đôi với việc thực hiện các chính sách kích cầu đầu tư,
chúng ta đang thực hiện việc rà soát lại các vướng mắc, khó
khăn đối với các nhà đầu tư nước ngoài để kiến nghị các cơ
quan có chức năng giải quyết, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho
các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
3 – Về kích cầu tiêu dùng
Nhằm kích thích tăng trưởng, phòng ngừa suy giảm kinh
tế, Chính phủ đã sử dụng cả chính sách tài khóa và tiền tệ.
Trong phạm vi của chính sách tài khóa, kích thích tiêu dùng nội
địa là một biện pháp quan trọng hàng đầu. Điều này sẽ giải tỏa
trực tiếp khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp trong giai đoạn
hiện nay, đó là sự sụt giảm nhu cầu của thị trường xuất khẩu.
Phát triển thị trường nội địa là một giải pháp được nhiều quốc
gia trên thế giới lựa chọn trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế
toàn cầu hiện nay. Để tăng sức mua trong nước, Chính phủ đã

quyết định giảm 50% thuế VAT đối với 19 nhóm mặt hàng và
hoãn thu thuế thu nhập cá nhân.
4 – Về công tác bảo đảm an sinh xã hội
Chính phủ đã hỗ trợ các địa phương và người dân bị thiệt
hại do lũ lụt: cấp không thu tiền 275 tấn lúa giống dự trữ quốc
gia để hỗ trợ các địa phương khắc phục hậu quả mưa lũ; xuất
cấp tiếp không thu tiền 20.350 tấn gạo dự trữ quốc gia, trị giá
khoảng 173 tỉ đồng, hỗ trợ các địa phương để cứu đói cho dân
và bảo đảm an sinh xã hội trong dịp Tết Nguyên đán; tổ chức
mua bổ sung 100.000 tấn gạo trị giá khoảng 880 tỉ đồng để
tăng thêm dự trữ quốc gia về lương thực.
- 11 -
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH KÍCH CẦU
HIỆU QUẢ TẠI VIỆT NAM
3.1.Quan điểm và định hướng phát triển kinh tế của Đảng và Nhà
nước ta
Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta với những mục tiêu cụ thể như: Thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo,
khuyến khích mọi người dân vươn lên làm giàu chính đáng, Phát triển nền kinh
tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội. Hoàn thiện chế độ phân phối theo lao động, hiệu quả kinh tế.
Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước hay Nhà nước cần tập
trung làm tốt các chức năng: Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, qui
hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của
thị trường. Hỗ trợ phát triển, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
quan trọng. Tác động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách và
các công cụ kinh tế; đồng thời sử dụng kịp thời có hiệu quả một số biện pháp
cần thiết khi thị trường trong nước hoạt động không có hiệu quả hoặc thị trường
khu vực và thế giới có biến động lớn. Bảo đảm tính ổn định và sự phát triển bền

vững của nền tài chính quốc gia.
Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các thị trường cơ
bản, theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh như: Phát triển thị trường hàng hóa và
dịch vụ. Đẩy mạnh tự do hóa thương mại phù hợp các cam kết hội nhập kinh tế
quốc tế. Từng bước phát triển vững chắc thị trường tài chính, hoàn thiện thị
trường tiền tệ; lành mạnh hóa các hoạt động giao dịch vốn ngắn hạn và mua bán
các giấy tờ có giá trên thị trường. Phát triển thị trường bất động sản. Thực hiện
- 12 -
công khai, minh bạch và tăng cường tính pháp lý, kỷ luật, kỷ cương trong quản
lý đất đai.
Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất,
kinh doanh như: Hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh
tế .Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo
hình thức sở hữu. Thực hiện chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp.
Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Tiếp
tục đổi mới và phát triển các loại hình kinh tế tập thể. Phát triển mạnh các hộ
kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân. Thu hút mạnh
nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài.
Với những định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nêu trên, thì
mục tiêu hàng đầu phát triển kinh tế thị trường ở nước ta được xác định là giải
phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế, động viên mọi
nguồn lực trong nước và ngoài nước để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế,
trên cơ sở đó, cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, từng bước thực hiện
sự công bằng, bình đẳng và lành mạnh các quan hệ xã hội. Từ đó sẽ khắc phục
được tình trạng tự túc tự cấp của nền kinh tế, thúc đẩy phân công lao động xã
hội phát triển, mở rộng ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động. Áp dụng
khoa học, công nghệ, kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động
xã hội, tăng số lượng, chủng loại và chất lượng hàng hóa, dịch vụ. Thúc đẩy tích
tụ, tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng

lãnh thổ, với các nước trên thế giới. Động viên mọi nguồn lực trong nước và
tranh thủ các nguồn lực bên ngoài. Phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của
mỗi người lao động, mỗi đơn vị kinh tế, tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả
cao của nền kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Đưa nước
ta thoát khỏi tình trạng một nước nghèo và kém phát triển, thực hiện được mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
3.2.Các giải pháp kích cầu
Một là, việc sử dụng các nguồn lực kích cầu cần bảo đảm nguyên tắc kịp
thời, đúng đối tượng, đem lại hiệu quả, trong mức độ cho phép và mang tính
ngắn hạn. Kích cầu phải có trọng tâm, trọng điểm và triển khai đồng bộ trên cả
hai góc độ sản xuất và tiêu dùng, trong đó cần ưu tiên cho các đối tượng bị “tổn
thương” nhiều trong khủng hoảng kinh tế; các lĩnh vực, dự án, công trình có tính
chất cấp bách, quan trọng, quay vòng vốn nhanh, có khả năng kích thích phát
triển kinh tế - xã hội của các vùng, miền, vừa mang lại nguồn thu cho ngân sách
nhà nước, vừa tạo, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống người lao động. Với
tiêu chí đó, kích cầu ở nước ta hiện nay cần coi trọng ưu tiên cho nông nghiệp,
- 13 -
nông dân, nông thôn; kinh tế tư nhân; các doanh nghiệp nhỏ và vừa; giãn và
dừng các dự án kém hiệu quả. Kích cầu là để chống suy giảm kinh tế, bảo đảm
an sinh xã hội, bởi vậy kích cầu phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm thước đo,
cần kết hợp chặt chẽ việc thực hiện kích cầu với cải cách hành chính, đặc biệt là
giảm cơ chế “xin - cho”.
Hai là, kích cầu cần phải đặt trong tổng thể chính sách vĩ mô của Nhà
nước chứ không thể tách riêng. Trong điều kiện hiện nay, để tiếp tục triển khai
các “gói kích cầu” một cách hiệu quả cần có sự đánh giá kịp thời, nghiêm túc,
chính xác tác dụng của “gói kích cầu” ngắn hạn đã triển khai. Qua đó để thấy rõ
hơn những gì đã đạt được và chưa đạt được so với mục tiêu đề ra của “gói kích
cầu”, nhất là những bài học kinh nghiệm cần thiết cho việc xác định các giải
pháp tiếp theo một cách phù hợp.
Ba là, cần có sự cạnh tranh, bình đẳng, minh bạch trong việc tiếp cận vốn

kích cầu. Theo đó, mục tiêu, thời gian, cách thức triển khai “gói kích cầu”và
những đối tượng, dự án nào được hưởng vốn kích cầu, những ai làm chủ đầu
tư cần được công bố công khai rộng rãi để có một sự cạnh tranh nhất định.
Tránh tình trạng “mù mờ”, khép kín, làm nảy sinh tiêu cực và hạn chế tác dụng,
hiệu quả của các “gói kích cầu”.
Bốn là, tăng cường kiểm tra, giám sát chặt chẽ của các cấp, các ngành từ
Trung ương đến các địa phương trong việc thực hiện “gói kích cầu” nhằm hạn
chế việc chi sai mục tiêu, đối tượng sử dụng, gây lãng phí, thất thoát các nguồn
lực, đồng thời ngăn chặn nguy cơ lạm phát tăng trở lại sau giai đoạn kích cầu
làm tổn hại đến nền kinh tế. Thường xuyên cập nhật thông tin để có những đánh
giá và dự báo chính xác tình hình kinh tế - xã hội trong và ngoài nước, trên cơ sở
đó điều chỉnh hệ thống chính sách phù hợp với tình hình cụ thể. Kịp thời phát
hiện và xử lý nghiêm các hiện tượng tiêu cực trong việc thực hiện “gói kích
cầu”.
Năm là, để việc thực hiện các giải pháp kích cầu hiện nay một cách hiệu
quả, đi đôi với những việc làm trên cần tập trung rà soát, khắc phục các vướng
mắc, khó khăn đối với các nhà đầu tư nước ngoài nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Đồng thời, kết hợp chặt
chẽ giữa kích cầu đầu tư với kích cầu tiêu dùng, giữa đẩy mạnh xuất khẩu với
mở rộng khai thác thị trường nội địa, trong đó cần chú trọng cả thị trường ở khu
vực nông thôn và thị trường khu vực thành thị.
Cuối cùng, là giảm thiểu các tác động trái chiều: Để giảm thiểu các tác
động trái chiều của “gói kích cầu” cần chú ý: Không “kích cầu” tuỳ tiện theo
thành tích hoặc theo lợi ích ngắn hạn; Thực hiện tốt hơn việc lựa chọn hợp lý và
công khai các tiêu thức, cũng như thuận lợi hoá các thủ tục giải ngân cho các dự
- 14 -
án thuộc danh mục được kích cầu; Tập trung đầu tư cho các dự án sắp hoàn
thành, đưa nhanh vào khai thác sử dụng, các dự án có dung lượng và triển vọng
thị trường tiêu thụ tốt, các dự án góp phần trực tiếp duy trì và mở rộng năng lực
sản xuất và kinh doanh cần thiết của doanh nghiệp và nền kinh tế, các dự án thúc

đẩy chuyển dịch và cải thiện cơ cấu, sức cạnh tranh kinh tế theo hướng phát
triển bền vững Đặc biệt, ưu tiên vốn cho các dự án có tính thúc đẩy phát triển
liên ngành cao, hoặc tạo thị trường tiêu thụ tiềm năng; nhất là các dự án có ý
nghĩa tổng hợp cả kinh tế-xã hội và môi trường Bên cạnh đó, cần thúc đẩy
mạnh và hiệu quả các hoạt động xúc tiến đầu tư và thương mại, kể cả bằng
nguồn vốn trong gói kích cầu nhằm khơi thông thị trường vốn và thị trường tiêu
thụ nước ngoài mới cho các doanh nghiệp trong nước; thực hiện các CCHC cải
thiện căn bản môi trường đầu tư theo hướng tự do hoá, thuận lợi hoá, dỡ bỏ
những hạn chế lạc hậu về hạn điền, thời hạn giao đất ; khuyến khích xã hội
hoá; mạnh dạn giảm thuế, tăng các hoạt động bảo lãnh tín dụng cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ từ các quỹ hỗ trợ doanh nghiệp có một phần vốn nhà nước;
phát triển, hiện đại hoá và tự do hoá cao hơn thị trường vốn; tiếp tục quá trình cổ
phần hoá và nới rộng hơn các tỷ lệ sở hữu tư nhân và nước ngoài trong các
DNNN và cung cấp các hàng hoá tốt cho TTCK. Cần nhấn mạnh rằng, về trung
hạn và dài hạn cần tăng cường sử dụng các công cụ chứng khoán hoá nợ thông
qua Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước cũng như các công ty
mua bán nợ Nhà nước khác để thực hiện các trợ giúp từ gói kích cầu của Chính
phủ. Nói cách khác, cần giảm dần việc hỗ trợ trực tiếp lãi suất cho các doanh
nghiệp như hiện nay, để chuyển sang mở rộng việc Chính phủ thông qua Tổng
công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước, cũng như các công ty kinh doanh
nợ khác tiến hành mua bán chứng khoán của các công ty cần hỗ trợ theo những
định hướng lựa chọn phù hợp thực tiễn phát triển doanh nghiệp và mục tiêu kích
cầu cụ thể cho từng giai đoạn. Cách thức này cho phép đưa sự hỗ trợ Nhà nước
phù hợp hơn các nguyên tắc thị trường và thông lệ quốc tế, cũng như góp phần
phát triển thị trường tài chính trong nước Ngoài ra, cần theo dõi chặt chẽ, nâng
cao chất lượng phân tích và dự báo tình hình trong nước và quốc tế, đặc biệt là
những biến động về tình hình kinh tế, tài chính thế giới, chủ động xây dựng các
phương án ứng phó; Linh hoạt trong điều hành lãi suất và tỷ giá, chủ động kiểm
soát mức tăng tổng phương tiện thanhphó; Linh hoạt trong điều hành lãi suất và
tỷ giá, chủ động kiểm soát mức tăng tổng phương tiện thanh toán; Tăng cường

công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán để kịp thời ngăn ngừa các sai phạm, đẩy
mạnh công tác kiểm soát giá cả, chống gian lận thương mại, đầu cơ, buôn lậu,
nâng giá, kiếm lời bất chính. Trong vấn đề kiểm soát thị trường, chú ý đến liều
- 15 -
lượng, thời lượng, chính sách bổ trợ khi xây dựng và thực thi những giải pháp
đã, đang và sẽ triển khai
3.3. Các giải pháp kích cầu đầu tư trong dài hạn
3.3.1. Giải pháp kích cầu đầu tư trong nước
Một là: Tập trung mọi nguồn lực tài chính đầu tư hỗ trợ các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế phát triển sản xuất, mở rộng dịch vụ theo hướng
tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Nguồn lực quan
trọng nhất là vốn để đầu tư cho các ngành kinh tế, các doanh nghiệp, các hộ sản
xuất, kinh doanh dịch vụ chất lượng cao, giá thành hạ. Do vậy, kích cầu bằng
giải pháp đầu tư trực tiếp và gián tiếp thông qua hỗ trợ lãi suất ngân hàng là giải
pháp quan trọng hàng đầu của Nhà nước. Trong kích cầu đầu tư, nguồn tiền sẽ
được trích từ ngân sách nhà nước về xây dựng cơ bản hằng năm, trái phiếu
Chính phủ và vốn ODA. Khuyến khích các thành phần kinh tế, doanh nghiệp
tham gia, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tư
vào các lĩnh vực như xây dựng kết cấu hạ tầng, giao thông vận tải, điện, xi
măng…
Hai là: Triển khai sớm chủ trương hỗ trợ lãi suất của Chính phủ đối với
các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thương mại. Hỗ trợ lãi suất vốn vay trong
chương trình kích cầu nên ưu tiên cho những doanh nghiệp vừa và nhỏ để có thể
tạo thêm nhiều việc làm, thu hút nhiều lao động đang thất nghiệp hoặc lao động
dư thừa ở khu vực nông thôn vốn đang thiếu việc làm nghiêm trọng .Các doanh
nghiệp toàn quyền quyết định vốn vay để sản xuất, kinh doanh sao cho hiệu quả
nhất (tức cũng có lợi cho nền kinh tế). Nhà nước chỉ hỗ trợ lãi suất cho các
khoản vay nằm trong danh mục được hỗ trợ (hoặc nằm ngoài danh mục không
được hỗ trợ) trong ý nghĩa là giúp cho các doanh nghiệp giảm bớt gánh nặng chi
phí tài chính với mục tiêu khuyến khích họ tiếp tục duy trì sản xuất, kinh doanh.

Ba là: Tập trung cao độ cho những ngành và lĩnh vực yếu thế nhưng còn
nhiều tiềm năng phát triển toàn diện, tăng trưởng cao, hấp thụ vốn nhanh, trước
hết là nông nghiệp, nông dân và nông thôn.Tăng cường và ưu tiên kích cầu cho
nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn. Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn
cũng là một hướng cần ưu tiên cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp thông qua
hỗ trợ lãi suất tín dụng. Khu vực nông thôn, nông nghiệp, thủy sản chiếm hơn
70% dân số và lao động xã hội. Đây cũng là khu vực ít chịu tác động trực tiếp
của cuôc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nên nếu được ưu tiên đầu tư thỏa đáng
sẽ có bước phát triển mới, không chỉ tăng nhanh nông sản hàng hóa phục vụ tiêu
dùng trong nước, xuất khẩu, tăng giá trị GDP bù đắp phần nào cho sự giảm sút
từ công nghiệp và dịch vụ, mà còn tạo thêm chỗ làm mới để thu hút lao động
thất nghiệp từ thành phố, từ các khu công nghiệp trở về nông thôn làm việc. Một
- 16 -
trong những giải pháp quan trọng là tăng cường đầu tư vốn, khoa học - công
nghệ và mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản thông qua gói kích cầu của
Chính phủ.
Bốn là: Tăng cường sự phối hợp của các bộ, ngành Trung ương, các địa
phương trong chỉ đạo, triển khai các biện pháp kích cầu của Chính phủ cho sản
xuất, dịch vụ. Các giải pháp trước mắt là: Các bộ, ngành quan liên quan rà soát
lại toàn bộ các văn bản pháp luật hiện hành về đầu tư, sửa đổi những bất cập làm
ảnh hưởng đến tiến độ các dự án đầu tư kích cầu. Nghiên cứu, ban hành các văn
bản pháp quy mới nhằm tiếp tục thu hút và đẩy nhanh tiến độ giải ngân các
nguồn vốn FDI và ODA, nhất là các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng, các dự án
đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao có giá trị xuất khẩu lớn, những dự án
giải quyết việc làm, các dự án công trình có quy mô lớn tiếp cận nguồn vốn
giải phóng mặt bằng lãi suất kích cầu của Chính phủ
3.3.2. Giải pháp kích cầu đầu tư nước ngoài
Thứ nhất, về nhóm giải pháp liên quan tới chính sách thu hút đầu tư,
Chính phủ chỉ đạo, tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách về đầu tư, kinh
doanh, ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư vào một số lĩnh vực, thực hiện

các biện pháp thúc đẩy giải ngân
Thứ 2, Nhóm giải pháp về quy hoạch. Theo đó, công bố rộng rãi các quy
hoạch đã được phê duyệt đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng các dự án đầu
tư, quán triệt và thực hiện thống nhất quy định của Luật Đầu tư trong công tác
quy hoạch
Thứ 3, là nhóm giải pháp về cơ sở hạ tầng, bao gồm tổng rà soát, điều
chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020,
huy động tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, tăng cường
năng lực cạnh tranh.
Thứ 4, trong nhóm giải pháp về nguồn nhân lực, Chính phủ yêu cầu hoàn
thiện các văn bản pháp lý về hợp tác đầu tư trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, tạo
điều kiện thuận lợi để thu hút ĐTNN đào tạo lao động ở các trình độ, nghiên cứu
điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
nâng cao trình độ lao động, đặc biệt đối với người nông dân bị thu hồi đất sản
xuất để giao cho dự án.
Thứ 5, là nhóm giải pháp về công tác phối hợp trong quản lý Nhà nước
đối với hoạt động ĐTNN. Theo đó, Trung ương và địa phương sẽ phối hợp chặt
chẽ trong việc cấp phép và quản lý các dự án ĐTNN. Tăng cường đào tạo bồi
dưỡng cán bộ quản lý ĐTNN, tiến hành tổng kết, đánh giá việc phân cấp trong
quản lý nhà nước về hoạt động ĐTNN
- 17 -
Thứ 6, là nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư, gồm nghiên cứu đề xuất
chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như
có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và các đối tác trọng điểm, tổ chức
khảo sát, nghiên cứu và xây dựng mô hình cơ quan xúc tiến đầu tư ở Trung
ương và địa phương
Bên cạnh 6 nhóm trên, Chính phủ cũng đề ra một số giải pháp khác như
đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, duy
trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các Bộ, ngành với
các nhà đầu tư, đặc biệt là Diễn đàn doanh nghiệp hàng năm, tăng cường công

tác thanh tra, kiểm tra
- 18 -

×