Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Giới thiệu Bò tót ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (654.71 KB, 14 trang )

ĐỀ TÀI : GIỚI THIỆU LOÀI BÒ TÓT Ở VIỆT NAM
Giáo viên hướng dẫn: TS Hoàng Thu Hương.
Tên các thành viên trong nhóm 6
Tên MSSV
Bùi Như Hiển 20123112
Trần Quang Mạnh (Nhóm trưởng) 20123294
Lê Văn Thanh 20123496
Trần Thị Hoài Ngân 20123345
Bảng phân công công việc
Tên Mục
Bùi Như Hiển I. Giới thiệu loài bò tót ở Việt
Nam
Trần Quang Mạnh IV. Một số hoạt động và đề
suất bảo tồn bò tót ở Việt Nam;
Kết Luận
Lê Văn Thanh Mở đầu;
III. Vai trò của bò tót trong hệ
sinh thái
Trần Thị Hoài Ngân IV. Hiện trạng bò tót ở Việt
Nam
MỤC LỤC
DANH MỤC HÌNH
DANH MỤC BẢNG
MỞ ĐẦU
Họ Trâu bò ( Bovidae), thuộc bộ Thú móng guốc ngón chẵn (Artiodactyla),
bao gồm nhiều lòai thú ăn thực vật có kích thước lớn. Các giống trong họ
Trâu bò có phân bố tự nhiên ở Việt Nam đã được thống kê gồm có: giống Bò
hoang, giống Trâu rừng, giống Sơn dương và giống Sao la và giống Bò sừng
xoắn. Đây là các loài thú đặc hữu và có giá trị bảo tồn cao của vùng Nam và
Đông Nam Á.
Bò tót là một trong những loài thú có kích thước và trọng lượng lớn trong họ


Trâu bò và là một trong nhiều loài đặc trưng cho các khu vực rừng nhiệt đới.
Bò tót phân bố rộng, có mặt ở nhiều dạng sinh cảnh khác nhau, từ rừng
thường xanh, rừng bán thường xanh, rừng khô và các khu trảng cỏ ở khu vực
Nam Á và Đông Nam Á. Ở nhiều khu vực bò tót được chọn là biểu tượng về
sức mạnh và vẻ đẹp của thiên nhiên. Ở Việt Nam, bò tót luôn được đánh giá
là loài thú quý hiếm và có tiềm năng kinh tế phục vụ con người. Chính vì
những giá trị đó loài bò tót đã bị săn bắn và vùng sồng của chúng bị phá hủy
dẫn đến sự suy giảm nhanh chóng, hiện nay bò tót chỉ được ghi nhận ở
những dạng quần thể nhỏ, sống rải rác ở các khu vực rừng bị chia cắt thuộc
các vùng Tây Bắc , Bắc Trung Bộ, Tây nguyên và Đông Nam Bộ. Bò tót được
xếp vào loài SẮP BỊ ĐE DỌA (VU) trong danh mục Đỏ của IUCN (2008). Sách
Đỏ Việt Nam (1992, 2002, 2007) xếp bò tót vào nhóm NGUY CẤP (EN) và
nhóm IB – nghiêm cấm khai thác và sử dụng vì mục đích thương mại, trong
Nghị định số 32/2006/ND-CP.
Nhằm giới thiệu cho các bạn về loài bò tót ở Việt Nam, được sự hướng dẫn
của cô giáo TS. Hoàng Thu Hương nhóm 6 chúng em thực hiện đề tài tiểu
luận “Giới thiệu loài bò tót ở Việt Nam”. Trong quá trình thực hiện nhóm chúng
em không thể tránh khỏi những sai sót mong cô giáo và các bạn thông cảm.
I. Giới thiệu bò tót ở Việt Nam
I.1 Đặc điểm bò tót VN
1. Phân loài
Bò tót tại Việt Nam thuộc loại bò tót Đông Nam Á, tên quốc tế là Bos gaurus
laosiensis hay Bos gaurus reade (có mặt ở Myanma và Trung Quốc), Việt
Nam, Lào và Campuchia.
2. Đặc điểm sinh học
Tại Việt Nam, bò tót được người dân tộc thiểu số gọi là con min, nghĩa là
trâu rừng, do chúng có hình dáng tương tự loài trâu( giống như trâu ở phía
trước và giống như bò ở phía sau). Bò tót là loài thú có tầm vóc khổng lồ. Một
con bò đực trưởng thành cao trung bình 1,8-1,9m, dài trung bình khoảng 3 m,
khối lượng trung bình khoảng 1,5 tấn. Những con to có thể cao tới 2,1 - 2,2m,

dài 3,6 - 3,8m và nặng hơn 1,7 tấn. Với vóc dáng này, bò tót là loài thú lớn thứ
hai trên cạn về tầm vóc và chiều cao, chỉ xếp sau voi, chúng cao hơn cả 5 loài
tê giác. Về khối lượng, bò tót đứng thứ tư trên cạn, sau voi, tê giác trắng và tê
giác Ấn Độ. Con cái thấp hơn con đực khoảng 20 cm và nặng khoảng 60 -
70% khối lượng con đực.
Hình 1: Một con bò tót ở Việt Nam
Nguồn(1)
Bò đực có màu đen bóng, lông ngắn và gần như trụi hết khi về già. Bò cái
có màu nâu sẫm, những cá thể sống ở địa hình khô và thưa còn có màu hung
đỏ. Bò đực và cái đều có sừng. Sừng to, chắc, và uốn cong về phía trước.
Chiều dài trung bình của sừng thường từ 80 – 85 cm ở bò đực, sừng bò cái
ngắn, nhỏ hơn và uốn cong hơn. Trên trán, giữa 2 gốc sừng là 1 chỏm lông,
thường có màu vàng. Mũi sừng có màu xanh xám, chuyền dần sang xám đen
rồi đen bóng ở những chú bò già. Gốc sừng có màu xám đen, và có những
lằn rãnh nằm ngang, gọi là răng. Phần giữa gốc sừng và mũi sừng có màu
vàng nhạt. Đuôi chỉ dài ngang đến khuỷu chân sau. Ở cả 4 chân, từ khuỷu
chân trở xuống có màu trắng, trông giống như đi tất trắng. Con đực còn có 1
luống cơ bắp chạy dọc sống lưng đến quá bả vai, và một cái yếm lớn trước
ngực, tạo ra một dáng vẻ rất kỳ vĩ. Về mặt di truyền, trước đây người ta cho
rằng chúng có quan hệ họ hàng gần với trâu, nhưng các phân tích gen gần
đây cho thấy chúng gần với bò hơn, với bò chúng có thể sinh ra con lai có khả
năng sinh sản. Người ta cho rằng họ hàng gần nhất của chúng là bò
banteng và cho rằng chúng có thể sinh ra con lai có khả năng sinh sản.
a) Số Lượng cá thể trong đàn
Trong tự nhiên, bò tót sống thành từng đàn từ 8-10 cá thể. Những con
thường bò đực già sống đơn độc hoặc hợp với nhau thành từng nhóm nhỏ từ
1-3 cá thể. Các đàn bò tót ở phía nam có số lượng cá thể nhiều hơn các đàn
Bò tót ở phía Bắc.
b) Thức ăn
Bò tót thích ăn lá non, mầm tre non, cỏ non mới mọc ở nương rẫy cháy.

Thống kê có thấy đã xác định được 125 loài thuộc 42 họ thực vật là thức ăn
của bò tót. Đó là : họ Hoà Thảo (Gramineae) gồm 28 loài, họ
Đậu( Leguminnosae) gồm 11 loài, họ Thầu Dầu( Euphorbiaceae) gồm 6 loài,
họ Ô rô (Acanthaceae) gồm 5 loài và họ Cỏ roi ngựa (Verbenacaea) gồm 5
loài.
c) Nhu cầu nước và muối khoáng
Bên cạnh sự phù hợp về thức ăn, địa hình và thảm thực vật, các địa điểm
nước và muối khoáng cũng là những yếu tố quan trọng trong sự lựa chọn
vùng sống của bò tót
- Các địa điểm nước của bò tót thường nhiều hơn 2 điểm trong vùng đàn
sinh sống và thường cách nơi nghỉ ngơi ngủ khoảng 1km. Ở các vùng địa lý
bị chia cắt mạnh thì các địa điểm nước thường cách xa nơi sống.
- Thường chỉ có 1 địa điểm muối khoáng trong vùng sinh sống ít hơn so với
điểm nước và khoảng cách từ nơi ngủ đến điểm muối khoáng thường là ~
1,5km xa hơn điểm nước.
d) Sinh Cảnh sống và vùng sống
Bò tót thường sống ở 5 kiểu sinh cảnh chính là: Rừng thường xanh; rừng
bán thường xanh; rừng rụng lá; rừng tre nứa/ hỗn giao tre nứa; trảng cỏ và
cây bụi; Trong đó kiêu sinh cảnh rừng thường xanh; rừng tre nứa; tràng cỏ và
cây bụi là những sinh cảnh bò tót xuất hiện và hoạt động nhiều nhất. Vùng
sống của bò tót trong năm không có sự khác biệt nhiều vào khoảng 3100 ha.
e) Sinh Sản
Bò tót dường như không sinh sản giới hạn vào một khoảng thời gian nhất
định mà rải rác ở nhiều tháng trong năm. Bò tót có thai khoảng 270 ngày, đẻ
mỗi năm một lứa, mỗi lứa một con. Ngoài sự kết hợp cùng loài một số con bò
tót còn mò về giao phối với bò nhà, Năm 2008, tại Việt Nam người dân địa
phương phát hiện con bò tót đực cường tráng từ đại ngàn về làng, đuổi theo
những con bò cái nhà ở khu vực nương rẫy dưới chân núi Tà Nin. Đến mùa
động dục, con bò đó lại mò về. Nó sẵn sàng chiến đấu với đối thủ là những
chú bò đực nhà đi chung bầy, nó đã hạ gục 7 bò đực trưởng thành, đồng thời

cho ra đời hơn 12 con bò tót lai vượt trội về thể trọng và có các đặc điểm về
lông, sừng.
Hình 2:Bò tót đuổi theo bò nhà vào thời kỳ động dục
Nguồn(2)
3. Kẻ thù
Với vóc dáng khổng lồ và sức mạnh của mình, bò tót hầu như không có kẻ
thù trong tự nhiên, ngoại trừ hổ. Hổ là loài thú săn mồi duy nhất có thể đánh
hạ một con bò tót trưởng thành, tuy nhiên chỉ những con hổ trưởng thành có
kích thước lớn và giàu kinh nghiệm mới dám đối đầu với chúng.
I.2 Phân bố bò tót ở Việt Nam
Hiện nay bò tót còn ghi nhận được ở 27 khu vực thuộc 15 tỉnh là : Tây Bắc-
Điện Biên: Mường Nhé (Mường Tè); Bắc Trung Bộ- Thanh Hoá: Pù hu
(Mường Lát); Xuân Liên (Thường Xuân); Nghệ An: Pù Hoạt (Quế Phong), Pù
Mát (Con Cuông); Hà Tĩnh:Vũ Quang (Vũ Quang); Quảng Bình: Thượng Hoá
(Minh Hoá), U Bò (Quảng Ninh); Quảng Trị: Vĩnh Ô (Vĩnh Linh), Triệu nguyên
(ĐaKrông); Tây Nguyên- Kon Tum: Chư Mom Rây (Sa Thầy); Gia Lai: Chư
Prong; Đắk Lawsk: Yok Đôn (Buôn Đôn, Cư Jút), Ea Sô (Ea Kar), Chư Yang
Sin (Krông Bông, Lắk); Đăk Nông: Tà Đùng (Đắk R’lấp). Nam Nung (Đak
Min); Lâm Đồng: Bì Đúp- Núi Bà (Lac Dương), Bảo Lộc, Cát Lộc; Đông Nam
Bộ- Bình Phướng: Tân Lập. Nghĩa Trung( Đồng Phú), Bù Gia Mập (Phước
Long), Lộc Ninh; Đồng Nai: Cát Tiên (Tân Phú), Vĩnh Cửu, La Ngà; Ninh
Thuận: Phước Bình (Bác Ái), Ninh Sơn. Nguồn(3)
Ở Miền Bắc, cùng phân bố tự nhiên của bò tót giới hạn phía hữu ngạn sông
Đà và các tỉnh biên giới Việt Nam- Lào, từ miên Trung đến miền Nam, Bò tót
phân bố ở các tỉnh biên giới Việt Nam- Lào và Cam-pu-chia. Ghi nhận xa nhất
về phía Bắc là Lai Châu; ghi nhân xa nhất về phía Tây nam là tỉnh Bình
Phước. Giới hạn cực Bắc vùng phân bố của bò tót là vĩ tuyến22
o
24’10’’ tại
Mường Nhé (Điện Biên); giới hạn cực Đông Nam là vĩ tuyến 11

o
07’52’’ tại
Vĩnh Cửu (Đồng Nai); và giới hạn ở cực Tây Nam là vĩ tuyến 11
o
40’54’’ ở Lộc
Ninh (Bình Phước).
II. Vai trò của bò tót trong hệ sinh thái
II.1 Mối quan hệ của bò tót với động vật khác trong vùng sống
Ghi nhận được nhiều loài thú móng guốc lớn như bò rừng, nai, hoẵng, lợn
rừng, các loài thú ăn thịt nhỏ như cầy và một số loài chim như cò ruồi, sáo
nâu sống và kiếm ăn trong vùng hoạt động của bò tót. Dường như không có
xung đột giữa bò tót và các loài sinh vật khác và bò tót cũng không coi sự có
mặt của các loài động vật khác trong vùng sống là mối đe dọa đối với chúng.
II.2 Ký sinh trùng ở bò tót
Các kết quả nghiên cứu về nội ký sinh trùng cho thấy, các loài cầu trùng,
sán lá gan, sán lá dạ cỏ, giun đũa, giun kết hạt là các loài ký sinh trùng được
ghi nhận phổ biến ở bò tót. Kết quả nghiên cứu về ngoại ký sinh trùng ở cá
thể bò tót tại Thảo Cầm Viên cho thấy, các loài ve và côn trùng ký sinh là
ngoài ký sinh trùng đã ghi nhận được.
III. Hiện trạng bò tót ở Việt Nam
III.1 Quần thể bò tót ở Việt Nam
1. Số lượng cá thể
Bảng 1: Số lượng cá thể bò tót theo các vùng
STT Vùng địa lý 1980-1999 2000-2007 Tỉ lệ giảm %
1 Tây Bắc 52 10 81
2 Bắc Trung Bộ 67-111 63 43
3 Nam Trung Bộ 56-61 0 100
4 Tây Nguyên 184-286 112 39-61
5 Đông Nam Bộ 130 159 +22
Tổng số 489-630 344 32-45

Nguồn (3)
Hiện có 344 cá thể bò đã được thống kê ở các vùng phân bố của bò tót ở Việt Nam.
So sánh các ghi nhận về bò tót trước và sau năm 2000 cho thấy, với số lượng cá thể
như hiện tại (344) đã giảm 32-45% so với số lượng đã ước tính năm 2000 (489-630).
So sánh sự suy giảm cá thể theo vùng địa lý cho thấy, các khu vực có tốc độ giảm
mạnh là: Nam Trung Bộ (100%), Tây Bắc (81%) và khu vực Tây Nguyên (39-61%)
Hình 3: Đàn bò tót ở vườn quốc gia Cát Tiên
Nguồn (4)
2. Mật độ cá thể
So sánh mật độ cá thể bò tót ở 21 khu vực phân bố cho thấy, mật độ cao nhất ở Cát
Tiên với 11,6 cá thể/10000ha, thấp nhất ở Pù Mát 0,5 cá thể/10000ha.Mật độ trung
bình của 21 khu vực phân bố là 3 cá thể/ 10000ha (296 cá thể/ 1017162 ha). Kết quả
nghiên cứu cũng cho thấy, các khu vực phân bố cả bò tót ở phía Bắc có mật độ thấp
hơn các khu vực phía Nam. Có lẽ, các quần thể bò tót ở Việt Nam đang bị suy giảm,
làm cho mật độ của chúng đều thấp ở các vùng phân bố.
3. Hiện trạng quần thể
Kết quả nghiên cứu cho thấy, quần thể bò tót của Việt Nam có số lượng là 344 cá
thể, giảm so với các thống kê từ năm 1980-1999 (489-630).Tốc độ suy giảm của bò
tót ở Việt Nam trong 20 năm là 32,4-45,4%. Do bị suy giảm số lượng cá thể ở hầu hết
các vùng phân bố của bò tót (trừ Cát Tiên và Ea Sô), bò tót đều có số lượng và mật độ
thấp, hơn thế, vùng sống của chúng ngày càng bị thu hẹp.Chính vì nững suy giảm đó,
bò tót được đánh giá là một trong những loài động vật bị đe dọa tuyệt chủng cao ở
Việt Nam và trên thế giới. Bò tót được xếp trong nhóm Nguy cấp (EN) trong Sách ĐỎ
Việt Nam (2007) và thuộc nhóm Sắp bị đe dọa của IUCN.
So sánh hiện trạng quần thể bò tót ở Việt Nam với các tiêu chí đe dọa của IUCN
năm 2001 cho thấy, quần thể bò tót của Việt Nam đang ở mức nguy cấp. Tương tự như
vậy , so sánh các tiêu chí của IUCN cho các quần thể nhỏ ở các khu vực cho thấy các
quần thể bò tót ở Việt Nam đều đang ở trong tình trạng CỰC KỲ NGUY CẤP.
III.2 Các mối đe dọa sự tồn tại của bò tót ở Việt Nam
Có 6 yếu tố đang đe dọa sự tồn tại và phát triển của quần thể bò tót tại Việt Nam là:

- Săn bắn bất hợp pháp
- Quần thể bị cô lập về di truyền
- Suy giảm vùng sống
- Nguy cơ từ gia súc nuôi
- Dịch bệnh tự nhiên
- Thú săn mồi
Đánh giá theo mức độ ảnh hưởng của từng mối đe dọa cho thấy, săn bắt bất
hợp pháp, quần thể bị cô lập về di truyền, suy giản vùng sống là 3 mối đe dọa
nghiêm trọng nhất đang đe dọa sự tồn tại và phát triển của quần thể bò tót ở
Việt Nam.
1. Săn bắn bất hợp pháp
Săn bắn và buôn bán trái phép các sản phẩm từ bò tót luôn là nguyên nhân làm suy
giảm quần thể bò tót ở tất cả các vùng phân bố của chúng trong khu vực. do bò tót là
loài có hình dáng đẹp, trọng lượng lớn, nên luôn là đối tượng bị săn bắn để phục vụ
cho các nhu cầu của con người. Kết quả nghiên cứu về ăn, bầy bò tót ở 27 vùng phân
bố của bò tót cho thấy, ít nhất 22 cá thể bò tót bị săn và bẫy bất hợp pháp từ năm 2003
đến 2007, trong 4 năm (2004-2007), hoạt động săn bắn đã làm giảm 6.4% (22/344)
quần thể bò tót ở Việt Nam.
Hình 4: Bò tót bị bắn chết ở Quảng Nam
Nguồn (5)
2. Nguy cơ quần thể nhỏ và giới hạn trao đổi di truyền.
Ở các khu vực phân bố của bò tót, hiện tượng các quần thể nhỏ bò tót tồn tại ở dạng
chỉ gồm một đàn với số lượng cá thể rất thấp được ghi nhận phổ biến. Tổng cộng có
16/27 (59%) quần thể nhỏ được ghi nhận ở dạng chỉ có 1 đàn và có 11/27 (41%) quần
thể nhỏ có nhiều hơn hai đàn. Các khu vực phân bố của bò tót ở phía Bắc và Trung Bộ
à khu vực các quần thể nhỏ bò tót bị cô lập nhiều nhất. Quần thể nhỏ và sự cô lập là
nguy cơ tiềm năng làm suy giảm quần thể bò tót ở Việt Nam do dịch bệnh và khả năng
suy thoái di truyền do giao phối cận huyết.
3. Suy giảm vùng sống
Sự suy giảm diện tích và chất lượng vùng sống của bò tót do các hoạt động của con

người được ghi nhận phổ biến ở các vùng phân bố của bò tót. Beeb cạnh các nguyên
nhân làm suy giảm vùng sống, hoạt động khai thác lâm sản như khai thác gỗ, mấy,
cá… làm mất tính yên tĩnh tự nhiên ở các khu vực bò tót hoạt động. Các hoạt động
khai thác diễn ra thường xuyên trong vùng sống của bò tót buộc chúng phải đi nơi
khác.
Tại khu vực rừng giáp ranh Khu Dự trữ sinh quyển Đồng Nai, đán bò tót đang bị đe
dọa bởi rừng tự nhiên bị chuyển đổi khiến sinh cảnh sống của loài bò tót bị thu hẹp.
Theo điều tra hiện nay, trên các cánh rừng quanh khu vực Khu Dự trữ dinh quyển
Đồng Nai hiện đang có khoảng hơn 100 cá thể bò tót sinh sống. Trong đó điều đáng
mừng là các đàn bò tót đều có những con đực, con cái và con non. Điều đó chững tỏ
loài thú móng guốc này vẫn sinh trưởng.
Nhưng do sinh cảnh sống của loài bò tót bị thu hẹp, nguồn thức ăn khan hiếm và
tình trạng săn bắn đã khiến loài thú được xếp vào Sách đổ thế giới này đang đứng
trước nguy cơ bị đe dọa giảm đàn và tình trạng lây chéo bệnh giữa bò nhà và bò tót.
Hình 5: Bò tót tại sân bay Phú Bài
Nguồn (5)
4. Các ảnh hưởng từ gia súc
Hoạt động chăn thả gia súc như bò, trâu, dê trong các khu vực sinh sống của bò tót
cũng được ghi nhận ở nhiều nơi, đặc biệt là ở Ea Sô, Cát Tiên, Yok Đôn, Tân Lập, Lộc
Ninh và ĐaKrông. Ngoài khả năng gây truyền nhiễm bênh, còn có khả năng xẩy ra sự
lai ghép của bò tót và bò nhà, có thể gây suy thoái gen của bò tót.
5. Ảnh hưởng của dịch bệnh và thú săn mồi.
Rất ít các thông tin và ghi nhận về dịch bệnh của bò tót ở Việt Nam trong 50 năm
gần đấy. Có thể nói do mật đọ thú săn mồi ở Việt Nam rất thấp, nên không còn là mối
đe dọa lớn đối với bò tót.
IV. Một số hoạt động và đề suất bảo tồn Bò tót ở Việt Nam
IV.1 Các giải pháp về kỹ thuật
1. Bảo tồn nguyên vị
Bảo tồn nguyên vị luôn là một biện pháp tốt nhất được đề suất. Cụ thể cần tăng
cường các hoạt động chống săn bắt bò tót ở các vùng phân bố quan trọng của bò tót

như Ea Sô, Cát Tiên, Yok Đôn và các khu vực ghi nhận nhiều hoạt động bẫy và săn
bắt bò tót như vùng Tây Nguyên. Cần quy hoạch vùng sống của bò tót cho phù hợp.
Ví dụ, sinh cảnh ưu thích của bò tót không phải rừng nguyên sinh mà là các rừng thưa,
rừng thứ sinh và các khu vực tràng cây bụi/trảng cỏ, do đó quy hoạch các vùng sống
cho bò tót phải tính ở mức độ phù hợp tỷ lệ của các kiểu sinh cảnh là nơi kiếm ăn và
hoạt động chính của bò tót.
Hoạt động mở rộng đất canh tác và thực hiện các công trình xây dựng ở trong vùng
sống của bò tót làm thu hẹp và gây ra sự chia cắt vùng sống, do đó để bảo vệ và phát
triển được quần thể của loài bò tót đang bị nguy cấp ở Việt Nam, cần phải quản lý
nghiêm túc các tác động như trên lên vùng sống của bò tót.
Cần quản lý và hạn chế các hoạt động chăn thả gia súc trong vùng hoạt động của
động vật hoang dã đặc biệt là bò tót, phải xác định khoanh vùng các vùng hoạt động
của bò tót để quản lý chăn thả gia súc ở các khu vực đó.
Hình 6: Khu dự trữ sinh quyển Đồng nai
Nguồn (6)
2. Bảo tồn chuyển vị
Ở Việt Nam, có 2 cá thể bò tót được nuôi thành công ở Thảo Cầm Viên (> 16 năm).
Đây có thể là kinh nghiệm tốt là tiền đề cho các hoạt động bảo tồn bò tót ở Việt Nam
hơn thế sự đồn nhất di truyền của quần thể bò tót ở Việt Nam cho thấy không có sự
cản trở nào về di truyền cho hoạt động nuôi bảo tồn bò tót. Nuôi bảo tồn sẽ là cơ hội
để tái thả nhằm hạn chế nguy cơ giao phối cận huyết co các quần thể nhỏ bị cô lập.
Đối với các vùng mà bò tót có số lượng cá thể ít, vùng sống bị thu hẹp cô lập hoàn
toàn như ở Lộc Ninh, Tân Lập, Pù Hu, Ninh Sơn, cần xem di chuyển gộp các đàn bò
tót này vào khu vực phân bố có điều kiện phát triển tốt hơn hoặc di chuyển các cá thể
bò tót đó đến các trung tâm nuôi bảo tồn để làm nguồn giống bố mẹ cho các hoạt động
bảo tồn.
Hoạt động bảo tồn nguồn gien của quần thể bò tót ở Việt Nam cũng được quan tâm
thực hiện bằng cách, thu thu thập và lưu giữ các vật liệu di truyền như phôi, trứng,
tinh trùng, mô… Việc lưu giữu cần được thực hiện ở cả Việt Nam và ở Ngân hàng
Gien quốc tế để đảm bảo các vật liệu di truyền của quần thể bò tót ở Việt Nam luôn

được bảo vệ trong điều kiện an toàn nhất.
IV.2 Các biện pháp về chính sách
Bò tót là một trong các loài được ưu tiên ở Việt Nam (Nghị định 39/CP, 18/HĐBT,
48/2002/NĐ-CP, 32/2006/NĐ-CP, 32/2006/NĐ-CP, Sách đỏ Việt Nam (1992, 2000,
2007). Vi phạm về săn bắt trái phép, phá hủy vùng sống của bò tót cần phải được xử
lý nghiêm khắc, mang tính răn đe mạnh thì mới làm giảm các hoạt động buôn bán bất
hợp pháp.
Cần phải xây dựng quy chế quản lý vùng bảo tồn bò tót, trong đó liệt kê các hoạt
động bị cấm và hạn chế trong vùng hoạt động sống của bò tót.
IV.3 Biện pháp tuyên truyền và giáo dục cộng đồng
Các hoạt động tuyên truyền và bảo tồn bò tót, thú móng guốc nguy cấp hiện tại vẫn
chưa được thực hiện và quan tâm đúng mức ở Việt Nam, vì thế sự hiểu biết và quan
tâm của xã hội đối với những hoạt động bảo về bò tót còn ít. Do đó cần có các hoạt
động giáo dục tuyên truyền, nhằm nâng cao hiểu biết và sự quan tâm của cộng đồng
đối với hoạt động bảo vệ và phát triển quần thể bò tót ở Việt Nam. Cần gắn các hoạt
động tuyên truyền về bảo vệ loài bò tót với hoạt động giáo dục môi trường trong
trường học ở các vùng phân bố của bò tót.
KẾT LUẬN
Sau hổ và tê giác, bò tót – loài thú dũng mãnh nhất còn lại trong những cánh rừng
Việt Nam – đã bước chân vào “nhóm CỰC KỲ NGUY CẤP “ đứng trước bờ vực
tuyệt chủng.
Săn bắt bất hợp pháp, quần thể bị cô lập về di truyền, suy giảm vùng sống là 3 mối
đe dọa nghiêm trọng nhất đang đe dọa sự tồn tại và phát triển của quần thể bò tót ở
Việt Nam.
Hiện nay quần thể bò tót của Việt Nam có số lượng là 344 cá thể, giảm so với các
thống kê từ năm 1980-1999 (489-630). Tốc độ suy giảm của bò tót ở Việt Nam trong
20 năm là 32,4-45,4%. Do bị suy giảm số lượng cá thể ở hầu hết các vùng phân bố của
bò tót (trừ Cát Tiên và Ea Sô), bò tót đều có số lượng và mật độ thấp, hơn thế, vùng
sống của chúng ngày càng bị thu hẹp.
Để bảo tồn loài bò tót Việt Nam nhà nước cần có những phương án, chính sách bảo

tồn quyết liệt hơn. Bên cạnh đó cần tăng cường giáo dục và tuyên truyền nhằm nâng
cao hiểu biết và sự quan tâm của cộng đồng đối với hoạt động bảo vệ và phát triển
quần thể bò tót ở Việt Nam.
TÀI LIỆU KHAM KHẢO
1.
guage/vi-VN/Default.aspx#&panel1-5
2. />3. Nguyễn Mạnh Hà (2008), Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học – sinh thái
và bảo tồn loài bò tót ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ sinh học.
4. />thuy-dien-01545293.html
5. />ra-chet-d75253.html
6.
co_id=30679&cn_id=673684

×