Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

THỰC TRẠNG và TÌNH HÌNH NGHIÊN cứu POPs trên THẾ GIỚI và ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.68 KB, 7 trang )

I. THỰC TRẠNG VÀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CÚU POPs TRÊN THẾ GIỚI
I.1 Ở Hoa Kỳ
DDT được biết đến vào cuối thập niên 1930 là DDT. Nó là chất diệt côn trùng nó có tác
dụng mạnh mẽ đối với các loại côn trùng gây hại. Nhưng cũng như những loại hoá chất
khác, DDT có những ảnh hưởng không thể dự đoán trước. Những tác động đó bắt nguồn
từ sự bền vững của nó. Khối lượng DDT đã sử dụng trước năm 1959 thống kê được
khoảng 80 triệu pounds và sau đó giảm dần, đến năm 1972 thì dừng hẳn. Tổng khối
lượng DDT đã sử dụng trong nông nghiệp và trong sinh hoạt ở Hoa Kỳ trong suốt 30 năm
là 1350 triệu pound, ngoài việc sử dụng trong nước nó còn được xuất khẩu đi nhiều nơi
trên thế giới. Cũng trong thời gian này các nhà khoa học nghiên cứu về DDT đã hiểu rõ
chiều hướng vận động, tính khuyếch đại sinh học, sự bền vững và ảnh hưởng độc hại của
nó đối với con người và môi trường, vì thế DDT đã bị cấm sử dụng.
Phạm vi nghiên cứu đầu tiên về DDT chính là việc sử dụng DDT với nồng độ đủ để
diệt côn trùng ăn chồi ở cây vân sam, nghiên cứu này tập trung vào các ảnh hưởng
nghiêm trọng của DDT đối với các chim, cá, côn trùng và động vật không xương sống bị
chết. Chỉ số LD50 ở động vật có vú trong phòng thí nghiệm từ 60 – 800mg/ kg ở chuột, ở
chim có LD50 là 400 – 1200ppm. Cũng vào khoảng giữa thập niên 1950, DDT được sử
dụng trực tiếp như là một loại thuốc diệt con trùng ở hồ Clear, California để diệt muỗi.
Với nồng độ ban đầu là 0.02ppm trong nước, sau một thời gian sinh ra một lượng dư
DDD với nồng độ 10ppm khi kiểm tra phiêu sinh. Đến lúc các loài cá ăn phiêu sinh đã có
900ppm trong mỡ, cuối cùng trong loài chim lặn ăn cá ăn thịt có 2134ppm. Ngoài ra, còn
có thêm khám phá rằng trong gan cá mập có chứa DDT và chuyển hoá của nó. Cuối cùng
các nhà khoa học kết luận DDT đã thải vào đại dương và việc gan cá mập bị nhiễm DDT
mang tính cục bộ điều này chứng tỏ khả năng di chuyển trên phương diện rộng của DDT
cũng như quá trình khuyếch đại sinh học của dư lượng DDT và chúng tăng dần đến mức
không thể tin được.
Hoa Kỳ là nước sản xuất ra nhiều DDT hơn bất kỳ nơi nào trên thế giới và sau khi lệnh
cấm sử dụng được áp dụng trên phạm vi cả nước một lượng chất thải đáng kể và các sản
phẩm hoá chất có liên quan khác được đổ vàp khu vực Thái Bình Dương và một số nước
khác. Theo kết quả thống kê, mỗi năm có khoảng 67.000 người Mỹ bị nhiễm độc thuốc
trừ sâu, đa số đều là công nhân làm việc tại các nông trại hoặc làm nghề có thời gian tiếp


xúc với các loại thuốc trừ sâu nhiều, đặc biệt là DDT.
Bảng 2.6. Kết quả phân tích một số loại thuốc trừ sâu trong nhóm POPs trong cơ
thể động vật sống ở phía Bắc khu vực Bắc Mỹ
STT Loại thuốc sâu Đối tượng Mức độ nhiễm (ppb)
Chim ưng 100 - 2500
01 Chlordane
Cá 3 - 220
Gấu Bắc cực 1810 - 7090
Mỡ của loài ăn cỏ 2 - 7.4
Cá voi 620 - 2380
Phiêu sinh vật 10
02
DDT
Chim ưng 1650 - 63000
Cá 0 - 29000
Gấu Bắc cực 5 - 1190
Mỡ của loài ăn cỏ 5 - 55
Cá voi 670 - 6830
Phiêu sinh vật 0
03
Dieldrin
Chim ưng 80 - 3450
Cá 0 - 750
Loài ăn cỏ 0.07 - 2.2
Về PCBs, ở Hoa Kỳ, vào năm 1979 có hiện tượng PCBs rò rỉ ra trong một máy biến
thế, PCB nhiễm vào thức ăn của thịt và nguồn thực phẩm này được chuyển đến 17 bang
khác nhau trong đó có một tỉnh của Canada. Các nhà khoa học giải thích về hiện tượng
này là vì POPs có cơ chế chuyển động rất rộng trong môi trường cho nên điểm phát thải
của POPs không nói lên tác động của nó mà nhìn chung POPs được tìm thấy ở mọi nơi
trên thế giới từ các hồ nước, đại dương (đặc biệt là những loại các đánh bắt được ), trong

các nguồn nước mưa, trong cơ thể con người…Một số thí nghiệm gần đây cho thấy hàm
lượng POPs ngày càng tăng cao trong một số loài cá sống ở nước ngọt (trong các hồ nước
ngọt). Cho nên một số nước phát triển người ta đã ngăn cấm việc đánh bắt cá trong các
hồ chứa nước ngọt trong khu vực đô thị,con người có thể giải trí qua việc câu cá thể thao
chứ không được dùng nó làm nguồn thực phẩm. Trong thời gian gần đây, trên thế giới
một số loại thực phẩm đã có dấu hiệu bị nhiễm PCBs và một số nghiên cứu minh chứng
về tai nạn sức khoẻ do sử dụng thực phẩm dư lượng PCB. Đã có hiện tượng như vậy xảy
ra cho nên những năm gần đây chính phủ Hoa Ky vàø Canada đã cấm sử dụng PCBs
trong các thao tác vận hành nam châm điện thang máy. Và vì thế năm 1980, quốc hội Hoa
Kỳ đã thông qua bộ luật Superfund để trợ giúp tài chính cho công tác làm sạch tại các vị
trí, khu vực có POPs.
I.2 Ở Canada
Ở Canada, đã có một số minh chứng cho tai nạn sức khoẻ do sử dụng thực phẩm dư
lượng PCB và sử dụng một số thiết bị có chứa PCBs. Hiện tượng thấy rõ nhất là lượng
PCB trong các thang máy chứa nam châm điện bị rò rỉ, dính vào các băng chuyền tải
trong thang máy và khi thải bỏ chúng chính phủ đã phải mất một khoảng tiền lớn cho
việc xử lý. Do có hiện tượng như vậy xảy ra cho nên trong những năm gần đây chính phủ
Hoa Kỳ và Canada đã cấm sử dụng PCB trong các thao tác vận hành của nam châm điện.
Vào năm 1979, có hiện tượng PCB rò rỉ ra trong một máy biến thế, nhiễm vào thức ăn
(thịt). Nguồn thực phẩm này lại chuyển đến 17bang khác nhau trong đó có một tỉnh của
Canada và như thế số người bị ảnh hưởng tăng lên rất nhiều. Bởi vì PCBs có cơ chế
chuyển động rất lớn trong môi trường do đó khi xem xét về nó khi chỉ dừng lại ở điểm
phát thải PCB mà nhìn vào tác động của nó trong môi trường. PCBs được tìm thấy ở mọi
nơi trên thế giới từ các hồ nước, đại dương (đặc biệt là những loại cá đánh bắt được),
nước mưa, cơ thể con người…Một số thí nghiệm gần đây cho thấy hàm lượng PCB ngày
càng tăng cao trong một số loài cá sống ở nước ngọt (trong các hồ nước ngọt) cho nên
một số nước phát triển đã cấm đánh bắt cá trong các hồ nước ngọt trong khu vực đô thị,
con người có thể giải trí qua việc câu cá chứ không được dùng nó làm nguồn thực phẩm.
I.3 Ở Châu Âu
Trong những năm 80, POPs đã bị cấm sản xuất ở các nước trong khu vực Châu Âu.

Đến năm 1996, liên minh Châu Aâu đã ra chỉ thị ‘đến năm 2010 POPs phải bị xoá sổ
hoàn toàn. Sự nhiễm POP strong thực phẩm làm cho xã hội quan tâm nhiều hơn về POPs.
Đã có phát hiện cho rằng trong mỡ động vật như cá (cá Hồi), thịt, sản phẩm sữa, trứng và
một số thực phẩm khác bị nhiễm POPs do nhiều lý do khách quan và chủ quan. Nó có thể
dó sự hiện diện sẵn có trong thiên nhiên, sau khi rơi vãi xuống đất, ngấm vào cây cỏ và
tích tụ qua chuỗi thức ăn. Qua kết quả phân tích các mẫu của 3 loại sản phẩm gồm bơ, cá
hồi và bắp cải xanh ở bốn nướcgồm Bỉ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Ý kết luận rằng
lượng PCB có trong các loại thực phẩm vừa nêu và đặc biệt hơn ở Ý các loại thực phẩm
chứa PCBs có khả năng gâyra ngộ độc. Các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, cho dù các
loại thuốc trừ sâu nói riêng và các hoá chất trong nhóm các hợp chất hữu cơ có cấu trúc
bền vững đã cấm vào năm 1972 nhưng nó vẫn còn trôi nổi và sử dụng trên thị trường.
Bảng tổng kết sau cho chúng ta thấy điều đó:
Bảng 2.7. Mức độ phát thải PCDD/ PCDFs vào môi trường ở Châu Âu
Nguồn
phát thải
(kg/năm
)
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999
Năng 35 35 32 27 25 24 22 18 18 16
lượng
Năng
lượng
trong lò
đốt chất
thải rắn
101 102 125 173 242 199 98 12 4 3
Nhà máy
tư nhân
74 75 73 74 71 67 68 66 66 67
Nung

sắt, thép
50 49 48 48 48 48 48 49 47 45
Nung
kim loại
không
chứa sắt
25 22 23 24 23 22 23 22 21 21
Sản xuất
thủy tinh
0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Các
ngành
công
nghiệp
khác
68 70 72 69 68 64 61 58 56 59
Sản xuất
sắt, thép
31 26 28 29 29 30 28 30 26 17
Bãi chôn
lấp chất
thải rắn
2 2 2 2 2 2 2 2 2 2
Lò đốt
rác thải
581 579 556 508 357 285 160 49 53 54
Đốt cháy
động cơ
6 6 6 6 7 7 7 7 7 7
Quá

trình đốt
29 26 23 20 18 16 14 11 8 5
Nông
nghiệp
57 49 36 1 0 0 0 0 0 0
Trong tự
nhiên
6 6 6 6 6 6 6 6 6 6
Tổng
cộng
1142 1123 1098 1049 953 819 589 384 361 346
Hiện nay, ở Châu Âu vẫn còn một số tập đoàn sản xuất POPs, đặc biệt là PCBs, cụ thể
như tập đoàn Caffaro ở Italy, Công ty Protolec ở Pháp, Công ty Bayer ở Đức. Tổng lượng
PCBs sản xuất trên toàn cầu ước tính khoảng 1.5triệu tấn, trong đó gần một nửa do công
ty Monsanto sản xuất (ở Nhật Bản),công ty sản xuất lớn thứ hai là Bayer chiếm khoảng
10% sản lượng, còn lại là cáccông ty khác. Và hiện nay có ít nhất 1/3 sản lượng PCBs đã
đi vào môi trường.
I.4 Ở Malaysia
Malaysia là một trong những nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, láng giềng của
Việt Nam nhưng từ năm 1972 đã bắt đầu có nghiên cứu về ảnh hưởng của các chất ô
nhiễm hữu cơ bền đối với con người và môi trường, điển hình là qua việc nghiên cứu
quần thể Chim cắt bị suy giảm và vỏ trứng của loài chim này bị mỏng đi. Và thời gian
sau đó, các nhà khoa học đã cho rằng dư lượng thuốc trừ sâu là nguyên nhân quan trọng
trong việc suy giảm quá trình sinh sản ở chim. Một vài năm sau, một nhà sinh vật học
chuyên nghiên cứu về sinh vật biển đã nêu ra những tác hại của việc sử dụng thuốc trừ
sâu không kiểm soát đối với sinh vật sống trong môi trường tự nhiên. Đến năm 1974, các
loại thuốc trừ sâu bị cấm sử dụng. Nguyên nhân cơ bản của là do những tác động về mặt
sinh thái và tác hại đối với sức khoẻ con người. Ngay cả đến ngày nay, bằng chứng về tác
hại của thuốc trừ sâu đối với sức khoẻ con người vẫn chưa mang tính thuyết phục, nhưng
tác hại của nó đối với hệ sinh thái là rất nhiều và có thuyết phục. Cũng như thế, quyết

định cấm sử dụng thuốc trừ sâu nói riêng và các chất trong nhóm POPs nói chung chỉ là
giới hạn sử dụng để kiểm soát sự di chuyển của nó khi nó phóng thích vào môi trường.
Bảng 2.8. Mức độ phát thải PAHs vào môi trường ở Malaysia
Nguồn
phát thải
(tấn/năm
)
1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Nhà máy
lọc dầu
4 4 4 4 4 4 5 5 5 5
Sử dụng
dung môi
103 103 103 103 103 103 103 103 103 103
Quá trình
đốt
267 262 253 232 214 193 175 156 135 114
Sản xuất
công
nghiệp
106 98 90 84 86 86 86 85 85 80
Năng
lượng
5 5 5 4 4 3 3 3 2 2
Nông
nghiệp
933 800 582 12 0 0 0 0 0 0
Chất thải 1 1 1 1 1 1 1 0 0 0
Trong tự
nhiên

95 95 95 95 95 95 95 95 95 95
Nhà máy
tư nhân
797 818 760 739 591 464 485 471 486 540
Nung sắt,
thép
24 24 23 23 22 22 23 23 23 22
Các
ngành
công
nghiệp
khác
367 41 497 415 396 326 251 22 143 166
Sản xuất
kim loại
không
chứa sắt
3490 3354 3219 3083 2947 2307 735 432 394 277
Quá trình
chuyển
đổi khác
9 9 9 9 9 8 7 6 5 4
Tổng
cộng
6243 6030 566 4829 4492 3629 1985 1617 1485 1414
II. THỰC TRẠNG VÀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CÚU POPs Ở VIỆT
NAM
Ở Việt Nam, theo thống kê của Bộ Tài Nguyên – Môi trường đến nay các tỉnh thành
trong cả nước đều tồn lưu một khối lượng lớn các loại POPs, trong đó có DDT, Dioxin,
dầu biến thế chứa PCBs và các chất tương tự như PCBs. Chỉ riêng 31 tỉnh thành đã thống

kê đợt 1, đã có đến khoảng 8.000 tấn dầu các loại có chứa PCB và các hợp chấ tương tự
như PCB. Trên cơ sở đó có thể nói rằng tình hình đang rất đáng báo động về việc thải bỏ,
tồn lưu và nguy cơ gây ô nhiễm môi trường tiềm tàng do các hợp chất của PCBs. Do tính
chất vô cùng độc hại của các hợp chất POPs nên đã từ lâu Liên hiệp quốc đã cấm sản
xuất và sử dụng các hợp chất từ PCBs trong mọi lĩnh vực, đồng thời khuyến khích nghiên
cứu các nguồn vật liệu thay thế. Tuy nhiên, do lượng POPs tồn trữ ở tất cả các quốc gia là
quá lớn cho nên POPs đã, đang và sẽ là một trong những nguồn gây ô nhiễm môi trường
nghiệm trong và chủ yếu trên phạm vi toàn thế giới trong một thời gian dài.
Ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu về POPs đã được thực hiện chủ yếu dưới góc độ
phân tích tìm kiếm sự hiện diện của chúng trong các đối tượng môi trường khác nhau.
Tuy nhiên, chúng ta chưa có một nghiên cứu đầy đủ vì tính hệ thống POPs được đề cập
trong Công Ước Stockholm cũng như chưa xác định đầy đủ các nguồn phát thải, mức độ
phát thải của POPs và ảnh hưởng của nó lên con người, các hệ sinh thái . Đồng thời cũng
chưa có hệ thống quan trắc POPs trong môi trường nhằm đánh giá khả năng tích lũy sinh
học của POPs trong chuỗi thức ăn mà đối tượng chịu ảnh hưởng nhiều nhất là con người.
Do đó cần thiết phải có một nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống nguồn POP được ghi nhận
trong các phụ lục của Công Ước Stockholm nhằm góp phần vào việc xây dựng một kế
hoạch hành động quốc gia trong quá trình tham gia, thực hiện và hiệu lực hóa Công Ước
Stockholm. Công ước Stockholm sẽ chi khoảng 500 triệu USD cho quá trình tiêu huỷ các
hoá chất độc hại và nghiên cứu chất thay thế POPs.
Từ ngày 17/05/2004, công ước Stockholm về POPs chính thức có hiệu lực, với tư cách
là thành viên công ước Việt Nam đã khởi động dự án xây dựng kế hoạch hành động quốc
gia nhằm giảm thiểu và loại trừ các chất này, trong đó có nhóm cực kỳ độc hại là PCB,
DDT, Dioxin và Furan. Cục Bảo vệ Môi trường, cơ quan điều hành dự án cho biết từ nay
đến tháng 03/2005, bên cạnh việc xây dựng Dự án kế hoạch hành động quốc gia dự án sẽ
thống kê trên toàn quốc về cáchoá chất nằm trong nhóm POPs, đồng thời đề xuất các hoạt
động tiếp theo nhằm giảm thiểu hoàn toàn POPs. Trước mắt, dự án sẽ hướng vào xử lý
những hoá chất trong nhóm POPs có tính nguy hiểm cao, đặc biệt là PCB. Theo UNEP,
đơn vị tài trợ dự án, tại Việt Nam từ năm 1991, tất cả các hoá chất thuộc nhóm POPs nằm
trong danh mục của công ước Stockholm đều không được phép sản xuất hay sử dụng, tuy

nhiên, do lịch sử để lại nhiều chất trong số này vẫn còn tồn tại trong các kho chứa thuốc
trừ sâu cũ gây độc hại cho môi trường.
Và trong những năm gần đây, đã có đề xuất cho rằng dùng lò nung ximăng để đốt
những loại hoá chất trong nhóm POPs như vậy sẽ không tốn kém chi phí cho việc chôn
lấp chất thải mà còn có thể tiết kiệm được 20–25% nhiên liệu, 5 – 10% nguyên liệu và
hạn chế những ảnh hưởng đến môi trường. Thêm nữa, nhà máy ximăng có thể thu phí đốt
từ những cơ sở có rác thải cần thiêu đốt. Hiện tại, Cục Bảo vệ môi trường kết hợp với Dự
án môi trường Việt Nam – Canada (VCEP) đang phối hợp thực hiện dự án thí điểm tại
công ty Holcim và Cục đang xem xét áp dụng công nghệ này cho một số nhà máy
ximăng khác là Nghi Sơn (Thanh Hoá) và Chinfon (Hải Phòng). Các chất thải có thể đốt
trong lò nung ximăng gồm: dung môi hữu cơ, dầu thải chứa PCB, sơn, PVC, plastic, đất
nhiễm chất độc hại, thuốc trừ sâu…, công nghệ chỉ áp dụng với những lò nung ximăng
kiểu hiện đại, loại có lắp hệ thống thiêu đốt chất thải. Tại lò nung, nhiệt độ lên đến 1.400
– 2.000
o
C đủ để phá vỡ cấu trúc bền vững của chất thải độc hại, đồng thời lò nung tận
dụng nhiệt năng từ các chất ô nhiễm hữu cơ để thay thế, tiết kiệm một phần nhiên liệu.
TÀI LIỆU KHAM KHẢO
1. GS.TS.LÂM MINH TRIẾT- TS.LÊ THANH HẢI(2006) Giáo trình quản lý chất
thải nguy hại, Nhà xuất bản xây dựng Hà Nội, Hà Nội
2. Công ước STOCKHOLM về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (POP), 2001
3. TỔNG CỤC MÔI TRƯỜNG – BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG, Cổng
thông tin POPs Việt Nam, Công ước STOCKHOLM-VN, />

×