Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Luận văn thạc sĩ phát triển du lịch làng nghề tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 109 trang )



I HC QUC GIA H NI
TRNG I HC KHOA HC X HI V NHN VN
***





TRN TH HNG HNH



phát triển du lịch làng nghề
tỉnh vĩnh phúc





luận văn thạc sĩ du lịch





H Ni - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***






TRẦN THỊ HỒNG HẠNH



PHÁT TRIỂN DU LỊCH LÀNG NGHỀ
TỈNH VĨNH PHÚC
Chuyên ngành: Du lịch
(Chương trình đào tạo thí điểm)



LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Hải



Hà Nội - 2014

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 1
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8

5. Phương pháp nghiên cứu 8
6. Cấu trúc của đề tài 9
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN DU
LỊCH LÀNG NGHỀ 10
1.1. Các khái niệm liên quan 10
1.1.1. Làng nghề truyền thống 10
1.1.2. Du lịch làng nghề truyền thống 11
1.2. Các điều kiện phát triển du lịch làng nghề 12
1.2.1 Điều kiện cung 12
1.2.2. Điều kiện cầu 15
1.2.3. Chính sách phát triển du lịch 16
1.3. Các đặc điểm của làng nghề truyền thống phục vụ du lịch 18
1.4. Ý nghĩa của việc phát triển du lịch làng nghề 20
1.5. Một số bài học kinh nghiệm về phát triển du lịch làng nghề 23
1.5.1. Du lịch làng nghề của Thái Lan 23
1.5.2 Du lịch làng nghề tại Hà Nội 25
1.5.3 Du lich làng nghề tại Thừa Thiên – Huế 27
1.5.4 Du lịch làng nghề tại Quảng Nam 29
1.5.5 Bài học cho phát triển du lịch làng nghề Vĩnh Phúc 30
Tiểu kết chương 1 31
Chương 2: THỰC TRẠNG DU LỊCH LÀNG NGHỀ TỈNH VĨNH
PHÚC 33
2.1. Giới thiệu khái quát tỉnh Vĩnh Phúc 33
2.1.1. Điều kiện tự nhiên 33
2.1.2. Điều kiện kinh tế- xã hội 35
2.2. Các điều kiện phát triển du lịch làng nghề tỉnh Vĩnh Phúc 36
2.2.1. Điều kiện cung 36
2.2.2. Điều kiện cầu 44
2.2.3. Chính sách phát triển du lịch của tỉnhVĩnh Phúc 48
2.2.4. Đánh giá chung 49

2.3. Thực trạng hoạt động du lịch tại một số làng nghề 50
2.3.1. Giới thiệu làng nghề và các sản phẩm làng nghề 50
2.3.2. Khách du lịch 54
2.3.3 Doanh thu du lịch 56
2.3.4 Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch 57
2.3.5 Nguồn nhân lực du lịch tại các làng nghề 58
2.3.6 Công tác quảng bá 60
2.3.7 Thực trạng môi trường 57
2.3.8 Tác động của hoạt động du lịch tại các làng nghề 61
Tiểu kết chương 2 66
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH
LÀNG NGHỀ CỦA TỈNH VĨNH PHÚC 67
3.1. Định hướng phát triển 67
3.1.1. Cơ sở định hướng 67
3.1.2. Các định hướng chính 69
3.2. Giải pháp phát triển 70
3.2.1. Giải pháp về quy hoạch 70
3.2.2.Giải pháp về thị trường 71
3.2.3. Giải pháp về sản phẩm và liên kết các tuyến du lịch 73
3.2.4. Giải pháp về đầu tư vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật 75
3.2.5. Giải pháp về hỗ trợ cộng đồng địa phương 77
3.2.6. Giải pháp về bảo tồn và phát huy giá trị làng nghề 79
3.2.7. Giải pháp về bảo vệ tài nguyên môi trường 81
3.2.8. Giải pháp về xúc tiến, quảng bá 83
3.3. Một số kiến nghị 84
Tiểu kết chương 3 86
KẾT LUẬN 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO 90
PHỤ LỤC 95
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


CNH – HĐH Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
CSSX Cơ sở sản xuất
BVMT Bảo vệ môi trường
DNNN Doanh nghiệp Nhà nước
DLLN Du lịch làng nghề
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSH Đồng bằng sông Hồng
GD – ĐT Giáo dục - đào tạo
PTTTĐC Phương tiện thông tin đại chúng
KT – XH Kinh tế - xã hội
LATS Luận án tiến sĩ
LN Làng nghề
LNTT Làng nghề truyền thống
LT – TP Lương thực – thực phẩm
NN & PTNT Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
NXB Nhà xuất bản
SX Sản xuất
TP Thành phố
TX Thị xã
UBND Ủy ban nhân dân
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Các làng nghề truyền thống tỉnh Vĩnh Phúc 36
Bảng 2.2: Số lượng cơ sở lưu trú du lịch tỉnh Vĩnh Phúc (2006 - 2013) 42
Bảng 2.3: Lao động trong ngành du lịch tỉnh Vĩnh Phúc (2007 - 2013) 43
Bảng 2.4: Điểm hấp dẫn du khách khi đến với làng nghề 48
Bảng 2.5: Lượng khách du lịch đến các làng nghề giai đoạn 2009-2013 54
Bảng 2.6: Hình thức đi du lịch của khách 55
Bảng 2.7: Số lần khách đến làng nghề 55
Bảng 2.8 : Doanh thu từ sản phẩm làng nghề giai đoạn 2008 – 2013 56

Bảng 2.9: Mức độ đáp ứng nhu cầu của khách 56
Bảng 2.10: Tình hình tiêu dùng các dịch vụ du lịch của làng nghề 57
Bảng 2.11: Kênh thông tin khách biết về làng nghề 60
Bảng 2.12. Lượng chất thải rắn phát sinh tại một số làng nghề 62
Bảng 2.13: Khách du lịch nội địa đến Vĩnh Phúc (Giai đoạn 2007- 2013) 95
Bảng 2.14: Khách du lịch quốc tế đến Vĩnh Phúc (Giai đoạn 2007- 2013) 95
Bảng 2.15: Cơ cấu khách du lịch quốc tế đến Vĩnh Phúc phân theo thị trường
96
Bảng 2.16: Cơ cấu thị trường khách du lịch quốc tế đến Vĩnh Phúc phân theo
mục đích chuyến đi (Giai đoạn 2006 - 2013) 97
Bảng 2.17: Mức chi tiêu của khách du lịch 97
Bảng 2.18: Số ngày lưu trú trung bình của khách 98
Bảng 2.19: Doanh thu từ du lịch của tỉnh Vĩnh Phúc 99





1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Những năm gần đây, du lịch làng nghề đã và đang trở thành xu hướng
phổ biến của nhiều quốc gia trên thế giới và khu vực. Du lịch làng nghề còn
được xem là sản phẩm đặc thù của các quốc gia đang phát triển.
Việt Nam cũng như các nước đang phát triển trên thế giới phát triển du
lịch chủ yếu dựa vào nguồn lực tự nhiên và sự đa dạng về bản sắc văn hóa dân
tộc, coi đó là vốn để phát triển du lịch. Ở nước ta du lịch làng nghề cũng được
xác định là một trong những loại hình du lịch đặc thù, có thế mạnh và tiềm
năng phát triển phong phú, thu hút nhiều khách du lịch trong nước và quốc tế.


Các làng nghề truyền thống với các sản phẩm độc đáo thiết thực luôn đem lại
lợi ích kinh tế cho người lao động. Sản phẩm làng nghề không chỉ phục vụ
đắc lực cho cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của người dân mà giờ đây chúng
đã trở thành những sản phẩm có giá trị xuất khẩu, mang lại thu nhập cao hơn
cho người lao động, mang lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Hiện nay,
công việc khôi phục và bảo vệ các làng nghề là rất quan trọng. Đó không phải
là công việc riêng của từng cá nhân của từng làng nghề mà là công việc chung
của các cấp, các ngành có liên quan vì thực trạng làng nghề Việt Nam nói
chung đang gặp nhiều khó khăn, cần có sự quan tâm giúp đỡ để giữ gìn, phát
huy một nét đẹp văn hoá trong kho tàng văn hoá truyền thống của dân tộc.
Làng nghề thủ công truyền thống với các bí quyết nghề nghiệp riêng là
sản phẩm độc đáo của nền văn hóa Việt Nam. Đó là một cộng đồng có sự liên
kết chặt chẽ bởi những mối liên hệ khăng khít về lãnh thổ, kinh tế, văn hóa
tâm linh. Đây là nơi lưu giữ kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể vô
cùng quý giá, phong phú, nơi biểu hiện cụ thể, sinh động bản sắc văn hóa dân
tộc.
2

Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của
nền kinh tế thị trường thì các làng nghề truyền thống cũng có những cơ hội
phát triển. Tuy nhiên, đi liền với sự phát triển của hoạt động sản xuất, nhiều
giá trị văn hóa bị mai một, bí quyết nghề nghiệp bị thất truyền cùng với sự ra
đi của các nghệ nhân lớn tuổi.
Xu hướng thương mại hóa do chỉ hướng tới mục tiêu lợi nhuận làm cho
bản sắc văn hóa của làng nghề bị phai mờ. Không phải ai cũng nhận thức rõ
được rằng, đánh mất bản sắc văn hóa là điều nguy hiểm đối với sự tồn tại bền
vững của mỗi một làng nghề. Nếu chúng ta cứ chạy theo lợi nhuận kinh tế mà
không lưu tâm bảo tồn giá trị văn hóa thì nguy cơ mai một các làng nghề sẽ
không có cách nào chống đỡ nổi.

Từ những thông tin khảo sát ban đầu về các làng nghề ở Vĩnh Phúc, tôi
thấy cần có những nghiên cứu để có thể vừa khai thác các giá trị văn hóa của
các làng nghề tại Vĩnh Phúc để tạo ra các sản phẩm phục vụ cho phát triển du
lịch. Bên cạnh đó cũng cần có những chính sách khai thác phù hợp, bảo tồn
và phát huy hơn nữa những giá trị văn hóa truyền thống của các làng nghề ở
Vĩnh Phúc nói riêng và trong cả nước nói chung để tạo ra được các sản phẩm
du lịch làng nghề đặc trưng cho phát triển du lịch.
Để có thể khôi phục, khai thác các làng nghề truyền thống tại Vĩnh
Phúc phục vụ cho nhu cầu phát triển du lịch đồng thời đóng góp vào sự phát
triển bền vững cho các làng nghề tại Vĩnh Phúc, tôi quyết định chọn đề tài
"Phát triển du lịch làng nghề tỉnh Vĩnh Phúc" làm đề tài luận văn của
mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Việt Nam vốn là một nước nông nghiệp nên có rất nhiều làng nghề
truyền thống ở khắp các tỉnh, thành trong cả nước. Vì vậy, vấn đề làng nghề
3

truyền thống được rất nhiều nhà khoa học quan tâm ở những góc độ khác
nhau. Khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi gặp nhiều thuận lợi khi được tiếp
xúc với nguồn tài liệu rất phong phú về làng nghề truyền thống.
Nghề và các làng nghề thủ công truyền thống luôn là đối tượng nghiên
cứu của nhiều lĩnh vực: Văn hóa, lịch sử, du lịch Trong du lịch, làng nghề
thủ công truyền thống được xem như là một yếu tố của tài nguyên du lịch. Vì
vậy, những nghiên cứu về các làng nghề thì có nhiều, nhưng nghiên cứu để
đánh giá nó như một tài nguyên cho ngành du lịch thì hầu như rất ít.
Hiện nay, ở nước ta có nhiều quan điểm khác nhau về làng nghề.
Chúng tôi xin tập trung vào một số quan điểm chủ yếu sau:
Theo Trần Quốc Vượng, làng nghề được hiểu như sau: “Làng nghề là
làng ấy vẫn có trồng trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhỏ (lợn, gà…), cũng
có một số nghề phụ khác (đan lát, làm tương, làm đậu phụ…) song nổi trội

một số nghề cổ truyền, tinh xảo với một tầng lớp thủ công chuyên nghiệp hay
bán chuyên nghiệp, có phường (cơ cấu tổ chức), có ông trùm, ông phó cả…
cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định
“sinh ư nghệ, tử ư nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, sống chủ yếu được
bằng nghề đó và sản xuất ra những mặt hàng thủ công, những mặt hàng đã có
tính mỹ nghệ, đã trở thành sản phẩm hàng hóa và có quan hệ tiếp thị với một
thị trường là vùng xung quanh và với thị trường đô thị, thủ đô và tiến tới mở
rộng ra cả nước rồi có thể xuất khẩu ra cả thị trường nước ngoài. Những làng
nghề ấy ít nhiều đã nổi danh từ lâu (có một quá khứ hàng trăm năm) “dân biết
mặt, nước biết tên, tên làng đã đi vào lịch sử, vào ca dao tục ngữ trở thành di
dản văn hóa dân gian”. [45]
Cùng với quan điểm của Trần Quốc Vượng, Bùi Văn Vượng cũng cho
rằng: Làng nghề truyền thống là làng nghề cổ truyền làm nghề thủ công. Ở
đấy không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công. Người thợ
thủ công nhiều trường hợp cũng đồng thời là người làm nghề nông (nông dân)
4

nhưng yêu cầu chuyên môn hóa cao đã tạo ra những người thợ chuyên sản
xuất hàng nghề truyền thống ngay tại làng quê của mình. [44]
Trong những quan điểm trên, các tác giả đã đưa ra những dấu hiệu rất cụ
thể để nhận biết về làng nghề nhưng dường như những dấu hiệu đó chỉ đúng
với những làng nghề truyền thống, đã có lịch sử phát triển lâu đời mà chưa
đúng với những làng nghề nói chung, đặc biệt là những làng nghề mới ra đời
trong thời gian gần đây.
Theo Dương Bá Phượng, “Làng nghề là làng ở nông thôn có một hay
một số nghề thủ công tách hẳn khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập”.
Quan điểm này đã nêu được hai yếu tố là làng (ở nông thôn) và nghề (thủ
công tách khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập) nên có khả năng bao quát
hơn về các làng nghề ở nước ta nói chung tuy nhiên nó không hoàn toàn phù
hợp với hiện trạng các làng nghề ở Việt Nam vẫn tồn tại đan xen cả thủ công

nghiệp và nông nghiệp, nhiều làng ở nước ta có nghề nhưng vẫn chưa được
gọi là làng nghề [28]
Có rất nhiều nhà nghiên cứu đưa ra khái niệm làng nghề kèm theo
những tiêu chí rất cụ thể về lao động và việc làm như: Làng nghề là những
làng đã từng có từ 50 hộ hoặc từ 1/3 tổng số hộ hay lao động của địa phương
trở lên làm nghề chiếm phần chủ yếu trong tổng thu nhập của họ trong năm.
Cùng với quan điểm này, trong Dự thảo Nghị định của Chính phủ về một số
chính sách khuyến khích phát triển làng nghề nông thôn được Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn đệ trình tháng 5/2005, Làng nghề là thôn, ấp,
bản có trên 35% số hộ tham gia hoạt động ngành nghề nông thôn và thu nhập
từ ngành nghề nông thôn chiếm trên 50% tổng thu nhập của làng… Như vậy,
các quan điểm này đã quan tâm đến tỷ lệ người làm nghề và thu nhập từ
ngành nghề nhưng lại cố định tiêu chí xác định làng nghề. Điều này sẽ tạo ra
nhiều khó khăn trong việc hoạch định các chính sách phát triển khi chế độ ưu
đãi với các làng nghề thay đổi.
5

Từ các quan niệm trên cho thấy, khái niệm về làng nghề được cấu
thành từ hai yếu tố là làng và nghề. Bởi vậy, không phải bất cứ làng nào có
nghề cũng được gọi là làng nghề. Quan niệm về làng nghề phải được thể hiện
trên hai mặt định tính và định lượng. Xét về mặt định tính, làng nghề phải thể
hiện sự khác biệt so với các làng thuần nông hoặc so với các phố nghề ở thành
thị. Xét về mặt định lượng, làng nghề phải đạt đến quy mô nhất định và có
tính ổn định tương đối cao. Vì có điểm xuất phát là làng gắn với nông nghiệp
nên quy mô của làng phải phát triển đến một mức độ nào đó mới được gọi là
làng nghề. Việc xác định sự phát triển của làng nghề vừa phải đặt nó trong
quy mô làng về số hộ, số lao động, thu nhập từ hoạt động kinh tế của nghề,
vừa phải xem xét bản thân hoạt động nghề của làng.
Với một lịch sử phát triển lâu đời của làng xã, Việt Nam là một đất nước có
rất nhiều làng nghề tồn tại và phát triển. Có những làng chỉ có một nghề nhưng

cũng có những làng tồn tại đan xen nhiều nghề. Có những làng có nghề truyền
thống, có lịch sử hàng trăm năm, gắn với những mặt hàng tinh xảo nhưng cũng có
những làng nghề mới ra đời được vài chục năm gần đây trong thời kỳ đổi mới,
chuyển sang kinh tế thị trường. Sự tồn tại đan xen các làng nghề này đã tạo nên
một diện mạo phong phú, nhiều vẻ cho nông thôn Việt Nam.
Du lịch làng nghề là một biểu hiện đặc thù của phương Đông và là một thế
mạnh của Việt Nam. Điều đó phần nào phản ánh qua việc khái quát tình hình khai
thác loại hình du lịch này ở một số nước châu Á, và đặc biệt là ở nước ta. Nhưng
du lịch làng nghề Việt Nam vẫn còn trong tình trạng khai thác tự nhiên và đầu tư
thăm dò. Chưa có những nghiên cứu đầy đủ cũng như chưa có những hoạt động
thực tiễn đem lại cho chúng ta một mô hình tốt trong vấn đề này. Tuy vậy, du lịch
làng nghề vẫn là một trong những hướng đi có nhiều triển vọng nhất của du lịch
Việt Nam.
Trong xu thế hội nhập và mở cửa, làng nghề truyền thống đang dần lấy
lại vị trí quan trọng của mình trong đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của mỗi
dân tộc mỗi quốc gia. Những làng nghề này như một hình ảnh đầy bản sắc,
6

khẳng định nét riêng biệt, độc đáo không thể thay thế. Một cách giới thiệu
sinh động về đất, nước và con người của mỗi vùng, miền, địa phương. Phát
triển du lịch làng nghề chính là một hướng đi đúng đắn và phù hợp, được
nhiều quốc gia ưu tiên trong chính sách quảng bá và phát triển du lịch. Những
lợi ích to lớn của việc phát triển du lịch làng nghề không chỉ thể hiện ở những
con số tăng trưởng lợi nhuận kinh tế, ở việc giải quyết nguồn lao động địa
phương mà hơn thế nữa, còn là một cách thức gìn giữ và bảo tồn những giá trị
văn hoá của dân tộc. Đó là những lợi ích lâu dài không thể tính được trong
ngày một ngày hai.
Du lịch làng nghề truyền thống ngày càng hấp dẫn du khách và đang là
một hướng phát triển du lịch ở nhiều quốc gia trên thế giới. Bên cạnh những
lợi ích về kinh tế, xã hội, hình thức du lịch này còn góp phần bảo tồn và phát

huy những bản sắc văn hoá độc đáo của từng vùng miền, địa phương.
Một địa phương muốn thu hút khách du lịch, tạo ra nhiều loại hình du
lịch hấp dẫn đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách thì phải bắt tay vào việc
xây dựng và phát triển các sản phẩm du lịch gắn liền với việc khai thác có
chiều sâu và khai thác đúng tài nguyên du lịch của địa phương đó.
Làng nghề vừa là sản phẩm du lịch đặc trưng khi làng nghề đó có khả
năng hấp dẫn, thu hút khách, vừa là sản phẩm du lịch bổ sung khi tạo ra
những mặt hàng lưu niệm cho du khách.
Trong những năm gần đây, loại hình du lịch làng nghề ở Việt Nam ngày
càng hấp dẫn du khách, đặc biệt là du khách nước ngoài, bởi những giá trị văn
hóa lâu đời và cách sáng tạo sản phẩm thủ công đặc trưng ở mỗi vùng.
Đi dọc chiều dài đất nước hình chữ S, du khách gần như có thể dừng
chân ở bất cứ địa phương nào để tìm hiểu về làng nghề truyền thống. Theo
thống kê của Hiệp hội làng nghề Việt Nam, hiện nay cả nước có khoảng hơn
3000 làng nghề thủ công, thuộc 11 nhóm nghề chính là sơn mài, gốm sứ, thêu
ren, mây tre đan, cói, dệt, giấy, tranh dân gian, gỗ, đá, kim khí
7

Lợi thế của phần lớn các làng nghề là nằm trên trục giao thông thuận
lợi, cả đường bộ lẫn đường sông nên thuận tiện để xây dựng các chương trình
du lịch kết hợp. Có thể kế đến các địa phương khá năng động trong việc phát
huy lợi thế làng nghề để phát triển du lịch như Hà Nội, Hà Tây, Vĩnh Phúc,
Hoà Bình, Bắc Ninh, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam
Tuy nhiên, các chuyên gia du lịch cho rằng, mặc dù ở một số làng nghề
cụ thể nói riêng như lụa Vạn Phúc (Hà Tây cũ), gốm Bát Tràng (Hà Nội),
tranh Đông Hồ, mộc Đồng Kỵ (Bắc Ninh), làng đá mỹ nghệ Non Nước (Đà
Nẵng)… và Du lịch làng nghề Việt Nam nói chung trên thực tế đã thu hút một
lượng du khách đáng kể nhưng vẫn chỉ là những nỗ lực tự phát, chưa hình
thành được cách làm chuyên nghiệp.
Bởi vậy, vấn đề đi tìm các biện pháp để du lịch làng nghề thực sự phát

huy tiềm năng và hiệu quả, đóng góp ngày một lớn bền vững hơn cho mục
tiêu phát triển du lịch cũng như phát triển kinh tế, xã hội, bảo tồn các giá trị
văn hóa… được coi là nhiệm vụ hết sức cấp thiết, nhất là trong giai đoạn Việt
Nam đang từng bước hội nhập toàn diện cùng với châu lục và thế giới.
Từ những đề tài mang tính chất chuyên biệt hóa nêu trên, tác giả luận
văn mong muốn tìm hiểu một hướng đi chung cho hoạt động du lịch làng
nghề ở tỉnh Vĩnh Phúc sao cho có hệ thống và ngày càng đa dạng hơn nữa
trong du lịch Vĩnh Phúc nói chung và du lịch làng nghề nói riêng. Vì thế học
viên đã quyết định chọn đề tài "Phát triển du lịch làng nghề tỉnh Vĩnh Phúc"
làm luận văn tốt nghiệp. Từ đề tài này có thể có cái nhìn khái quát về lịch sử
các làng nghề ở Vĩnh Phúc, hiện trạng của các làng nghề, vấn đề môi trường,
vấn đề phát triển kinh tế cũng như văn hóa các làng nghề, khai thác cho phát
triển du lịch làng nghề
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Mục đích của luận văn là góp phần phát triển du lịch làng nghề ở tỉnh
Vĩnh Phúc cũng như góp phần bảo tồn di sản văn hóa trong kinh doanh du lịch.
8

* Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ tiến hành giải quyết các nhiệm
vụ chính:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về du lịch làng nghề để vận dụng chúng vào
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
- Thu thập tư liệu, điều tra, khảo sát và phân tích các điều kiện phát triển
cũng như thực trạng hoạt động du lịch tại một số làng nghề ở tỉnh Vĩnh Phúc.
- Đề xuất định hướng và các giải pháp phát triển du lịch làng nghề ở
tỉnh Vĩnh Phúc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Thực tiễn hoạt động du lịch làng nghề tỉnh Vĩnh Phúc, cụ thể về

các vấn đề: cơ sở vật chất phục vụ du lịch làng nghề, nhân lực du lịch, thị
trường khách, công tác tổ chức quản lý du lịch làng nghề, hoạt động xúc
tiến quảng bá du lịch Vĩnh Phúc.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi về không gian: Nghiên cứu các làng nghề trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc, trong đó tập trung vào một số làng nghề tiêu biểu, có khả năng
phát triển du lịch, là những điểm thu hút khách du lịch của tỉnh Vĩnh Phúc.
+ Phạm vi về thời gian: số liệu, tài liệu sẽ thu thập từ thời điểm năm
2006 đến nay, các định hướng và giải pháp phát triển được đưa ra cho thời
gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ đặt ra, các phương pháp nghiên cứu chủ yếu
sau đã được sử dụng:
Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp. Các thông tin này được thu
thập từ các công trình nghiên cứu, giảng dạy như giáo trình, bài báo của các
tác giả trong và ngoài nước.
Phương pháp khảo sát thực địa (điền dã): Phương pháp này sử dụng
nhằm điều tra tổng hợp về điều kiện tự nhiên, KTXH của khu vực nhằm bổ
9

sung, chỉnh sửa, cập nhật số liệu, thông tin đã thu thập. Đồng thời, việc trực
tiếp tham quan, khảo sát tại các làng nghề đã giúp tác giả đánh giá sâu sắc
hơn về điều kiện phát triển du lịch làng nghề tại địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, đồng
thời giúp đề xuất một số giải pháp sát với thực tế của địa phương hơn.
Phương pháp thống kê: Là phương pháp tổng hợp các số liệu của các hiện
tượng để tiến hành phân tích, so sánh nhằm làm rõ những vấn đề thuộc bản
chất của hiện tượng nghiên cứu. Qua các số liệu thống kê, ta có thể thấy được
tính quy luật của các hiện tượng và rút ra được nhận xét và kết luận đúng đắn.
6. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục luận văn

được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển du lịch làng nghề
Chương 2: Thực trạng du lịch làng nghề tỉnh Vĩnh Phúc
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển du lịch làng nghề tỉnh
Vĩnh Phúc




10

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
DU LỊCH LÀNG NGHỀ
1.1. Các khái niệm liên quan
1.1.1. Làng nghề truyền thống
Từ buổi ban đầu, ngay trong một làng, phần lớn người dân đều làm
nông nghiệp, càng về sau có những bộ phận dân cư sống bằng nghề khác, họ
liên kết chặt chẽ với nhau, khiến cho nông thôn Việt Nam có thêm một số tổ
chức theo kiểu nghề nghiệp, tạo thành các phường hội như phường gốm,
phường đúc đồng, phường dệt vải… Từ đó, các nghề được lan truyền và phát
triển thành các làng nghề. Như vậy, làng xã Việt Nam là nơi sản sinh ra nghề
thủ công truyền thống và các sản phẩm mang dấu ấn tinh hoa của nền văn
hóa, văn minh dân tộc. Quá trình phát triển của làng nghề là quá trình phát
triển của tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn. Lúc đầu sự phát triển đó từ một
vài gia đình, rồi đến cả họ và sau đó lan ra cả làng. Trải qua một thời gian dài
lịch sử, lúc thịnh, lúc suy, có những nghề được lưu giữ, có những nghề bị mai
một hoặc mất hẳn và có những nghề mới ra đời.
Theo tác giả Mai Thế Hởn, làng nghề được quan niệm là một cụm dân
cư sinh sống trong thôn (làng) có một hay một số nghề được tách ra khỏi nông

nghiệp để sản xuất kinh doanh độc lập. Thu nhập từ các nghề đó chiếm tỷ
trọng cao trong tổng giá trị sản phẩm của toàn làng [21, tr.11-13].
Làng nghề theo quan niệm của tác giả Mai Thế Hởn là những làng có
tuyệt đại đa dân số làm nghề cổ truyền. Nó được hình thành, tồn tại và phát
triển lâu đời trong lịch sử, được nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác kiểu
cha truyền con nối hoặc ít nhất cũng tồn tại hàng chục năm. Trong làng sản
xuất mang tính tập trung, có nhiều nghệ nhân tài hoa và một nhóm người có
tay nghề giỏi làm hạt nhân để phát triển nghề. Cùng với thời gian, các làng
11

nghề thủ công này đã trở thành nghề nổi trội, một nghề cổ truyền, tinh xảo,
với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp đã
chuyên tâm sản xuất, có quy trình công nghệ nhất định và sống chủ yếu bằng
nghề đó. Sản phẩm làm ra mang tính tiêu biểu độc đáo, tinh xảo, nổi tiếng và
đậm nét văn hóa dân tộc [21, tr.13-15].
Làng nghề là một cụm dân cư sinh sống mà ở đó tập trung một số
lượng lớn lao động vào làm một hoặc một số nghề nào đó, chiếm ưu thế
về thời gian làm việc và số thu nhập so với nghề nông.
Theo tác giả, để xác định một làng là làng nghề thì cần có những tiêu
chí sau:
- Số hộ và số lao động làm nghề truyền thống ở làng đạt từ 50% trở lên so với
tổng số hộ và lao động của làng.
- Giá trị sản xuất và thu nhập từ ngành nghề truyền thống ở làng đạt trên 50%
tổng giá trị sản xuất và thu nhập của làng trong năm.
- Sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ mang đậm nét văn hóa và bản sắc dân tộc
Việt Nam.
- Sản xuất có quy trình công nghệ nhất định, được truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác.
1.1.2. Du lịch làng nghề truyền thống
Nhìn chung, khái niệm du lịch làng nghề vẫn còn khá mới mẻ ở nước ta.

Du lịch làng nghề thuộc loại hình du lịch văn hóa đang thu hút sự quan tâm
của nhiều du khách trong và ngoài nước. Bởi làng nghề là nơi chứa đựng kho
tàng kinh nghiệm kỹ thuật, bí quyết nghề nghiệp từ việc sử dụng nguyên liệu,
kỹ thuật chế tác đến chủ đề sáng tạo trong việc tạo ra một sản phẩm thủ công
truyền thống. Đó chính là phần văn hóa phi vật thể. Ngoài ra, làng nghề còn
có các giá trị văn hóa vật thể như: đình, chùa, các di tích có liên quan trực tiếp
đến làng nghề, các sản phẩm thủ công.
12

Theo Phạm Quốc Sử, du lịch làng nghề là một loại hình du lịch sinh thái
nhân văn được tiến hành tại một làng nghề tiêu biểu, mà ở đó còn lưu giữ
tương đối nguyên vẹn những di sản văn hóa làng xã truyền thống (di tích lịch
sử văn hóa, phong tục, lễ hội ), đặc biệt là truyền thống công nghệ cổ, thông
qua những nghệ nhân tài giỏi. Đến với mỗi làng nghề, du khách sẽ được khám
phá và thẩm nhận những giá trị văn hóa vừa đậm đà bản sắc dân tộc, vừa độc
đáo, mang tính đặc thù địa phương. Ngoài sự chứng kiến tận mắt những thao
tác công nghệ do các thợ thủ công thực hiện, du khách có thể tìm hiểu sâu hơn
về truyền thống công nghệ ở các nghệ nhân, có thể mua đồ lưu niệm là những
sản phẩm công nghệ với giá cả phải chăng, có thể tìm kiếm các cơ hội đầu tư,
hợp tác kinh doanh ( nếu là du khách thương gia), đồng thời đó cũng là dịp để
du khách lấy lại cân bằng về tinh thần sau những bức xúc, căng thẳng do nếp
sống công nghiệp và cuộc sống đô thị gây ra. Thông qua chuyến viếng thăm
làng nghề, du khách sẽ thu lượm được nhiều nhất những giá trị văn hóa Việt
Nam truyền thống ( bởi tính điển hình của làng nghề), và có thể hiểu sâu sắc
hơn về đất nước và con người Việt Nam [32, tr19,20]
Từ đó, ta có thể hiểu du lịch làng nghề như sau: du lịch làng nghề là loại
hình du lịch văn hóa mà du khách muốn thẩm nhận các giá trị văn hóa vật thể
và phi vật thể có liên quan mật thiết đến một làng nghề của dân tộc.
1.2. Các điều kiện phát triển du lịch làng nghề
Sự phát triển du lịch làng nghề chịu ảnh hưởng bởi nhiều điều kiện.

1.2.1 Điều kiện cung
1.2.1.1 Tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch quan trọng nhất của du lịch làng nghề chính là các
làng nghề. Nét nổi trội của một làng nghề là tài nguyên văn hóa, với những
tinh hoa công nghệ truyền thống, những di tích lịch sử văn hóa, những cảnh
quan hài hòa giữa những vẻ đẹp tự nhiên và nhân văn, những phong tục, tập
quán, lễ hội…
Đối với hoạt động du lịch, làng nghề được xem là một loại tài nguyên du
lịch nhân văn. Mỗi làng nghề là một môi trường văn hóa, kinh tế- xã hội và
13

công nghệ truyền thống lâu đời có khả năng thu hút khách du lịch, làm phong
phú thêm tài nguyên du lịch, phong phú thêm các hoạt động du lịch để hấp
dẫn du khách góp phần vào mục tiêu phát triển chung. Có thể nói rằng, du lịch
làng nghề sẽ là địa chỉ lý tưởng để du khách tham quan tìm hiểu các giá trị
văn hóa, các phong tục tập quán, lễ hội, chiêm ngưỡng và mua sắm những
sản phẩm thủ công truyền thống.
Tài nguyên du lịch làng nghề bao gồm các sản phẩm thủ công mỹ
nghệ truyền thống, đội ngũ các nghệ nhân và thợ làng nghề, các di tích lịch sử -
văn hóa gắn với hoạt động sản xuất của làng nghề; hệ thống đình, chùa; truyền
thống văn hoá, phong tục tập quán của dân cư làng nghề (yếu tố này ảnh hưởng
lớn đến tính đặc thù, tính nhân văn của sản phẩm [19, tr 43-56]).
1.2.1.2 Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch
Hệ thống giao thông vận tải, điện, nước, thông tin liên lạc, cơ sở lưu trú,
ăn uống, vui chơi giải trí…có ảnh hưởng rất lớn đến phát triển du lịch ở các
làng nghề. Trong công cuộc CNH-HĐH, sự phát triển của du lịch làng nghề
chịu ảnh hưởng rất lớn bởi hệ thống cung cấp điện nước, tiến bộ công nghệ
thiết bị, máy móc hiện đại để đổi mới công nghệ cổ truyền nhằm tăng năng
suất lao động, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm và làm giảm thiểu ô nhiễm
môi trường. Ngoài ra, sự hoạt động của du lịch làng nghề trong nền kinh tế thị

trường còn chịu tác động mạnh của yếu tố thông tin nói chung, bưu chính viễn
thông nói riêng. Nó giúp nắm bắt kịp thời, nhanh chóng, chính xác những
thông tin về thị trường, giá cả, mẫu mã, quy cách sản phẩm … để từ đó có
những ứng xử thích hợp đáp ứng nhu cầu thị trường nói chung và thị trường
du lịch nói riêng.
Trong nền kinh tế thị trường, không chỉ có kinh nghiệm cổ truyền mà
phải có khoa học công nghệ hiện đại. Kết hợp các yếu tố truyền thống với
khoa học công nghệ hiện đại để tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, giá
thành hạ nhưng vẫn mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, được người tiêu dùng
trong xã hội hiện đại chấp nhận và tăng tính hấp dẫn cho du khách.
14

1.2.1.3. Nguồn nhân lực
Nghệ nhân và đội ngũ thợ làng nghề là yếu tố rất quan trọng trong việc
phát triển du lịch làng nghề. Tài năng của các nghệ nhân, thợ cả đã tạo nên
những sản phẩm làng nghề tinh xảo và độc đáo. Chính người nghệ nhân,
người thợ cả đã giữ cho làng nghề tồn tại, đã đào tạo những người thợ mà
trước hết là con cháu của họ, rồi đến những người trong làng và từ đời này
qua đời khác kế tiếp nhau. Để đến ngày nay có những nghề và những làng
nghề nổi tiếng với những sản phẩm có một không hai, tạo nên tính hấp dẫn
cho du khách. Khả năng cạnh tranh, sức sống của sản phẩm làng nghề chủ
yếu phụ thuộc vào tài hoa, kinh nghiệm tay nghề của nghệ nhân, thợ cả. Vì
vậy, phát triển du lịch làng nghề tùy thuộc rất nhiều vào việc xây dựng đội
ngũ các nghệ nhân của các làng nghề và truyền nghề cho những người lao
động trẻ tuổi.
Đội ngũ lao động tham gia trực tiếp vào các hoạt động du lịch có vai trò
quan trọng thúc đẩy du lịch làng nghề phát triển. Bởi họ chính là những người
cung cấp các loại hình và sản phẩm cho du khách như hướng dẫn, phục vụ ăn
uống, vận chuyển, Những trải nghiệm của du khách tại làng nghề phụ thuộc
vào chất lượng dịch vụ do người dân địa phương cung cấp. Vì vậy, kỹ năng

làm du lịch của người dân làng nghề (kỹ năng phát triển sản phẩm, kỹ năng
ngôn ngữ, kỹ năng chăm sóc khách hàng, kỹ năng quản lý…) có ảnh hưởng
rất lớn đến việc phát triển du lịch làng nghề.
1.2.1.4 Hoạt động xúc tiến quảng bá
Ngày nay hoạt động xúc tiến đã trở nên phổ biến và có sức thuyết phục
lớn đối với người tiêu dùng. Hoạt động xúc tiến có tác dụng định hướng cho
sở thích và hình thành thị hiếu và hành vi tiêu dùng của khách hàng.
Hoạt động xúc tiến góp phần nâng cao giá trị sử dụng của sản phẩm, kích
thích lòng mong muốn và hướng dẫn người tiêu dùng giúp họ tự tin lựa chọn
hàng hóa và dịch vụ một cách thông minh và hiệu quả hơn.
15

Xúc tiến tuyên truyền quảng bá du lịch là biện pháp quan trọng để tạo
lập và nâng cao hình ảnh của du lịch Việt Nam cả trong và ngoài nước nhằm
thu hút khách, giáo dục du lịch toàn dân, góp phần thực hiện tuyên truyền đối
ngoại và đối nội, cần được chú trong thời gian tới, tập trung vào:
- Nghiên cứu tâm lý, thị hiếu tập quán, thói quen tiêu dùng của các đối
tượng khách để có những sản phẩm phù hợp với thị trường thông qua
các hình thức tuyên truyền quảng cáo.
- Tham gia thường xuyên các hội trợ, triển lãm, hội nghị, hội thảo du lịch
quốc tế ở nước ngoài; đồng thời tổ chức hội chợ, triển lãm, hội nghị,
hội thảo du lịch quốc tế ở trong nước; phối hợp các ngành, địa phương,
đơn vị liên quan tiến hành các chiến dịch phát động thị trường.
- Tiến hành thiết lập Đại diện Du lịch Việt Nam ở những nước là đầu
mối giao lưu quốc tế và thị trường trọng điểm.
- Tăng cường tuyên truyền quảng bá trên các phương tiện truyền thông,
thông tin đại chúng với các loại hình khác nhau.
- Phối hợp với các lực lượng làm thông tin đối ngoại, tranh thủ các
nguồn lực từ bên ngoài và hỗ trợ quốc tế để công tác xúc tiến quảng bá
du lịch đạt hiệu quả.

1.2.2. Điều kiện cầu
 Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đóng vai trò quan trọng trong quá trình
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm du lịch. Sự tận dụng hiệu quả các tài nguyên du
lịch và việc thỏa mãn các nhu cầu của du khách phụ thuộc một phần lớn vào
cở vật chất kỹ thuật du lịch.
Cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng xã hội là những phương tiện vật chất
không phải là do các tổ chức du lịch xây dựng lên mà là của toàn xã hội. Đó
là hệ thống đường xá, nhà ga, sân bay, bến cảng, dường sắt, công viên của
16

toàn dân, mạng lưới thương nghiệp của khu dân cư, hệ thống thông tin viễn
thông, hệ thống cấp thoát nước, mạng lưới điện, các rạp chiếu phim, nhà hát,
viện bảo tàng
Đối với ngành du lịch thì yếu tố cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội là yếu tố cơ
sở nhằm khai thác tiềm năng du lịch và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch.
Mặt khác phát triển du lịch cũng là một yếu tố tích cực thúc đẩy, nâng cao mở
rộng cơ sở hạ tầng kỹ thuật du lịch của một vùng hay của cả đất nước.
 Hệ thống giao thông
Hệ thống giao thông vận tải, hệ thống thông tin viễn thông, hệ thống cấp,
thoát nước; hệ thống cung cấp điện có tầm quan trọng đặc biệt vì nó nằm sát
ngay nơi du lịch, nó quyết định nhịp độ phát triển du lịch và trong chừng mực
nào đó còn quyết định chất lượng phục vụ du lịch
1.2.3. Chính sách phát triển du lịch
Để du lịch làng nghề thực sự phát triển Chính phủ cần có hệ thống
chính sách phát triển du lịch phù hợp trong chiến lược quy hoạch, các chương
trình, các chương trình, đề án phát triển du lịch. Chính sách phải đảm bảo
khuyến khích, huy động tập trung nguồn lực, khai thác tối ưu tiềm năng, thế
mạnh của đất nước; bảo tồn và phát huy được những giá trị truyền thống;
nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức mạnh cạnh tranh, tạo động lực phát triển

kinh tế- xã hội
 Chính sách dài hạn
- Nhóm chính sách khuyến khích du lịch: tạo điều kiện thuận lợi cho
khách quốc tế đến Việt Nam; tăng cường năng lực, ứng dụng công nghệ
cao, đơn giản hóa thủ tục xuất, nhập cảnh, miễn thị thực; khuyến khích
đầu tư khu vực tư nhân vào các lĩnh vực, ngành nghề du lịch, đặc biệt
là cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất du lịch; ưu đãi đối với vùng sâu, vùng
xa có tiềm năng du lịch nhưng khả năng tiếp cận hạn chế; khuyến khích
phát triển sản phẩm mới, sản phẩm đặc thù, sản phẩm/ dịch vụ mang
17

tính chiến lược; hình thành quỹ thời gian nghỉ ngơi khuyến khích du
lịch, tăng cường du lịch MICE, du lịch giáo dục, du lịch công đoàn,
thanh niên và du lịch bởi nhóm xã hội; chú trọng du lịch cao cấp, điều
tiết hợp lý du lịch đại chúng.
- Nhóm chính sách kiểm soát chất lượng du lịch: nâng cao nhận thức,
kiến thức về quản lý chất lượng, áp dụng hệ thống tiêu chuẩn, quy
chuẩn, hệ thống kiểm định, công nhận chất lượng phát triển; phát triển
tôn vinh thương hiệu, thúc đẩy nhượng quyền thương hiệu; hình thành
và tôn vinh hệ thống danh hiệu, nhãn hiệu.
- Nhóm chính sách phát triển du lịch bền vững: khuyến khích bằng công
cụ tài chính và hỗ trợ đối với các mô hình tiết kiệm năng lượng, sử
dụng nguyên vật liệu địa phương, ứng dụng công nghệ sạch; khuyến
khích ưu đãi đối với các dự án phát triển du lịch có sử dụng nhiều lao
động địa phương; khuyến khích, hỗ trợ thực hiện chương trình giám sát
môi trường tại các khu, tuyến điểm và cơ sở dịch vụ du lịch; cơ chế lập
quỹ bảo tồn và phát huy các giá trị tự nhiên và nhân văn phục vụ hoạt
động du lịch. Khuyến khích hỗ trợ các loại hình du lịch sinh thái, du
lịch cộng đồng, du lịch xanh, du lịch có trách nhiệm xã hội và môi
trường.

 Chính sách cấp bách
-
Chính sách đầu tư tập trung cho các khu du lịch trọng điểm quốc gia có
sức cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế: ưu đã bằng các công cụ
tài chính, thu hút FDI, hỗ trợ trực tiếp từ nhà nước về cơ sở hạ tầng,
phát triển sản phẩm, phân cấp quản lý đối với du lịch quốc gia.

-
Chính sách đầu tư phát triển sản phẩm du lịch đặc trưng vùng, quốc gia
có sức mạnh khu vực và quốc tế; tăng cường nghiên cứu thị trường, xây
dựng chiến lược sản phẩm; khuyến khích sản phẩm mới có tính chiến

×