Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

báo cáo đường lối chủ trương quan điểm của Đảng về công nghiệp hoá hiện đại hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.88 KB, 12 trang )

BÁO CÁO ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
Câu 1: Phân tích các quan điểm , chủ trương CNH HĐH hiện nay so với thời kì
trước đổi mới có gì khác nhau?
1. Những điểm giống nhau về quan điểm, chủ trương thực hiện CNH, HĐH đất
nước trước đổi mới và hiện nay được thể hiện là:
- Đảng ta luôn khẳng định CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ
quá độ;
- Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, nâng
cao đời sống vật chất, văn hoá tinh thần cho nhân dân.
2. Những điểm khác nhau về quan điểm, chủ trương thực hiện CNH, HĐH đất
nước trước đổi mới và hiện nay được thể hiện là:
a. Thời kì trước đổi mới:
- Về quan điểm:
+ Chúng ta hiểu CNH một cách chưa đầy đủ, cho rằng CNH đơn giản là
quá trình chuyển đổi từ lao động thủ công sang lao động máy móc.
+ Thực hiện theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp vì vậy nó được xem là
công việc của nhà nước, nhà nước chỉ đạo các DNQD và kinh tế tập thể thực
hiện là chủ yếu;
+ Chưa chú trọng đến hiệu quả kinh tế, nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch sản
xuất cho các đơn vị kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, đồng thời bao tiêu sản
phẩm làm ra, do đó không phát huy được tính chủ động, sáng tạo của doanh
nghiệp, sản phẩm đạt chất lượng chưa cao; bên cạnh đó, nhà nước chỉ chú
trọng đầu tư xây dựng các xí nghiệp quy mô lớn mà chưa chú ý đến tính hiệu
quả trong sản xuất.
+ Thực hiện trong mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, khép kín, hoặc chỉ
quan hệ với các nước trong hệ thống XHCN, đây là mô hình phù hợp
trong thời kỳ chống Mỹ-cứu nước.
Về nội dung CNH, HĐH:
+ Trong những năm từ 1960-1981, chúng ta chủ trương CNH phải đi từ công
nghiệp nặng và vấn đề ưu tiên phát triển công nghiệp nặng được nâng thành
bản chất cốt lõi của CNH, HĐH đất nước do đó đã tập trung đầu tư cho các


ngành kinh tế mũi nhọn lúc này là cơ khí, luyện kim và năng lượng (chủ yếu là
thuỷ điện) mà chưa chú ý đến đầu tư cho công nghiệp nhẹ và đặc biệt là nông
nghiệp, trong khi tiền đề vật chất cần thiết chưa được tạo ra, cũng như hoàn
cảnh chiến tranh và hậu quả của cuộc chiến tranh chưa cho phép. Đến năm
1982, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 5 của Đảng đã xác định phải ưu tiên
phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đồng thời đẩy
mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp
nặng quan trọng; tuy nhiên do không đề ra được các chính sách, giải pháp cụ
thể, đồng bộ để phát triển nông nghiệp, vì vậy CNH, HĐH vẫn chủ yếu tập
trung vào ngành công nghiệp nặng, chưa chú trọng đến việc chuyển đổi cơ cấu
kinh tế cho phù hợp.
- Hạn chế:
Cơ sở vật chất kỹ thuật còn hết sức lạc hậu. Những ngành công nghiệp then
chốt còn nhỏ bé và chưa được xây dựng đồng bộ, chưa đủ sức làm nền tảng
vững chắc cho nền kinh tế quốc dân.
- Lực lượng sản xuất trong nông nghiệp mới chỉ bước đầu phát triển, nông
nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho xã hội. Đất
nước vẫn trong tình trạng nghèo nàn lạc hậu, kém phát triển, rơi vào khủng
hoảng kinh tế - xã hội.
* Nguyên nhân của hạn chế:
- Về khách quan, chúng ta tiến hành công nghiệp hóa từ một nền kinh tế lạc
hậu, nghèo nàn và trong điều kiện chiến tranh kéo dài, vừa bị tàn phá nặng nề,
vừa không thể tập trung sức người, sức của cho công nghiệp hóa.
- Về chủ quan, chúng ta mắc những sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định
mục tiêu, bước đi về cơ sở vật chất kỹ thuật, bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu
tư…Đó là những sai lầm xuất phát từ chủ quan duy ý trí trong nhận thức và
chủ trương công nghiệp hóa.
b. Thời kì đổi mới đến nay:
- Mục tiêu lâu dài, cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là giống với thời kì
trước đổi mới:

+ Xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
đại.
+ CNH, HĐH nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
+ CNH để đủ sức lực hội nhập kinh tế thế giới khi đó là xu hướng tất yếu.
Tuy nhiên, thời kì hiện nay còn có mục tiêu trước mắt: Về cơ bản, đến năm
2020 nước ta trở thành nước công nghiệp.
- Nhận thức được được sai lầm trong thời kì trước đổi mới:
+ Sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất-
kỉ thuật cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, do tư tưởng chỉ đạo chủ
quan, nong vội muốn bỏ qua những bước đi cần thiết nên chúng ta đã chủ
trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa co đủ các tiền đề cần thiết.
+ Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế,trước hết cơ cấu sx và đầu tư thường chỉ sự
xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh,không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu
công nghiệp với nông nghiệp thành 1 cơ cấu hợp lí,thiên về sx công nghiệp
nặng và những công trình quy mô lớn,không tập trung sức giải quyết về căn
bản vấn đề lương thực,thực phẩm hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.Đầu tư
nhiều nhưng hiệu quả thấp.
+ Không thực hiện nghiêm chỉnh nghị quyết của Đại Hội lần thứ V(3/1982)
vẩn chưa thật sự coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu,công nghiệp nặng không
phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
- Về quan điểm:
+ Đảng ta chính thức xác định CNH, HĐH ở nước ta là: quá trình chuyển đổi
căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh
tế, xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách
phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến,
hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
+ Trong giai đoạn hiện nay, do sự phát triển vượt bậc của KHCN và dự kiến
trong thời gian tới sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa do đó yêu cầu phải
gắn chặt HĐH với CNH đã được đặt ra và ngày càng trở nên bức bách hơn.
+ Hiện nay, thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, xem

thị trường là yếu tố quan trọng góp phần trong việc phân bổ các nguồn lực cho
sản xuất, trong việc hình thành cơ cấu kinh tế, xác định mục tiêu, bước đi, biện
pháp tiến hành CNH, HĐH. CNH, HĐH được xác định là sự nghiệp của toàn
dân, tất cả các thành phần kinh tế đều tham gia, trong đó kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo.
+ Thực hiện CNH, HĐH phải: “Lấy hiệu quả kinh tế- xã hội làm tiêu chuẩn cơ
bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ. Đầu
tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển
mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu
hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết
và có hiệu quả”- (Văn kiện ĐH
VIII của Đảng, tr 85).
+ “CNH, HĐH phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là
độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh.
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với
ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước” – (Văn kiên ĐH IX
của Đảng, tr 25).
+ Hiện nay, chúng ta xác định: kết hợp chặt chẽ và toàn diện phát triển kinh tế
với củng cố, tăng cường nền quốc phòng- an ninh của đất nước, vì vậy thực
hiện CNH, HĐH phải đảm bảo đi đôi với giữ vững quốc phòng- an ninh đất
nước.
- Về nội dung:
Trong giai đoạn hiện nay, nội dung cơ bản của CNH, HĐH được xác định là:
đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, phát triển toàn diện
nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm thuỷ sản; phát
triển công nghiệp theo hướng ưu tiên phát triển các ngành chế biến lương thực-
thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp điện tử và
công nghệ thông tin; xây dựng có chọn lọc một số cơ sở ông nghiệp nặng như
dầu khí, luyện kim, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây

dựng… với bước đi hợp lý, phù hợp với điều kiện về vốn, công nghệ, thị
trường, đồng thời phát huy được hiệu quả; mở rộng thương nghiệp, du lịch,
dịch vụ; đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại, coi xuất khẩu là hướng ưu
tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Từ những nội dung đó, chúng ta dễ
dàng thấy được CNH, HĐH trong giai đoạn hiện nay đã có sự khác biệt nhiều
so với trước thời kỳ đổi mới. Từ tập trung ưu tiên cho phát triển công nghiệp
nặng nay đã chú ý đến phát triển công nghiệp nhẹ, xem CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của CNH, HĐH đất nước;
điều này là hoàn toàn phù hợp bởi vì nước ta vẫn là một nước nông nghiệp với
75% dân số sống ở nông thôn, phát triển kinh tế nông thôn sẽ góp phần quan
trọng vào việc phát triển kinh tế và ổn định chính trị đất nước. Từ chỗ chỉ tập
trung phát triển công nghiệp nặng với một số ít ngành công nghiệp mũi nhọn
nay đã chú ý đến cơ cấu kinh tế ngành, thành phần kinh tế và phát triển hợp lý
các vùng, lãnh thổ; chú ý phát triển các ngành công nghiệp năng lượng, vật
liệu, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin và tự động hoá. Từ mô hình kinh
tế nhập khẩu nay đã chuyển sang mô hình hướng mạnh xuất khẩu là chính…
Kết luận: Như vậy Từ năm 1960 đến nay, đường lối CNH của Đảng ta ở các
thời kỳ khác nhau có những quan điểm, nội dung khác nhau. Thực chất đó là
quá trình thể nghiệm, trăn trở để tìm ra hướng đi CNH phù hợp với đất nước và
thời đại. Đặc biệt, với trên 25 năm đổi mới, quan niệm, mô hình CNH ở nước
ta đã được xác định ngày càng rõ hơn.
Thời kỳ quá độ là lâu dài, với nhiều chạng đường đầy khó khăn, phức tạp, do
đó trong quá trình thực hiện CNH, HĐH, bên cạnh những kết quả tích cực đạt
được chắc chắncũng sẽ có lúc gặp trở ngại hoặc sai lầm, dẫn đến hiệu quả
không cao; điều quan trọng là phải biết khắc phục những yếu kém, khuyết
điểm đó, tranh thủ tốt thời cơ để vươn lên. Từ những thành tựu đạt được qua
20 năm đổi mới, từ những kết quả đạt được trong những năm tiến hành CNH,
HĐH theo tinh thần nghị quyết Đại hội VIII của Đảng.
Câu 2: Trong quá trình tiến hành CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay một cách hiệu
quả và bền vững theo bạn cần những giải pháp nào?

- Đề tài: GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP
I. Đánh giá thực trạng:
1. Kết quả đạt được:
- Dạy nghề đã phục hồi và có bước phát triển mạnh, từng bước đáp ứng nhu
cầu nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế, góp phần tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội:
- Thiết lập hệ thống pháp luật tương đối đồng bộ và thống nhất về dạy nghề;
hình thành hệ thống dạy nghề chính quy với 3 cấp trình độ (sơ cấp nghề, trung
cấp nghề, cao đẳng nghề) và dạy nghề thường xuyên.
- Số lượng tuyển sinh học nghề tăng 1,96 lần (từ 887,3 ngàn người năm 2001
lên 1,748 triệu người năm 2012);
- Mạng lưới cơ sở dạy nghề mở rộng, phân phân bố tương đối hợp lý ở các
ngành kinh tế, địa phương, vùng, miền (Tính đến tháng 10/2012 cả nước có
149 trường cao đẳng nghề, 305 trường trung cấp nghề, 867 trung tâm dạy nghề
và hơn 1000 cơ sở khác có tham gia dạy nghề).
- Đã có một số cơ chế chính sách để mọi người có nhu cầu học nghề đều được
tham gia học nghề một cách dễ dàng; đồng thời chú trọng xây dựng và ban
hành chính sách ưu tiên dạy nghề cho nhóm người yếu thế như: người dân tộc
thiểu số, người nghèo, người tàn tật và chính sách ưu tiên dạy nghề cho bộ đội
xuất ngũ, cho lao động thuộc vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất và dạy
nghề cho lao động nông thôn (Quyết định số 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm
2020, Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007 của Thủ tướng Chính
phủ về tín dụng đối với học sinh sinh viên, Quyết định số 103/2008/QĐ-TTg
ngày 21/7/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án hỗ trợ thanh niên
học nghề và tạo việc làm giai đoạn 2008 - 2015…)
- Các điều kiện đảm bảo chất lượng được cải thiện nên chất lượng và hiệu quả
dạy nghề có bước chuyển biến tích cực, đào tạo nghề đã gắn với sử dụng lao
động. Kỹ năng nghề của học sinh tốt nghiệp các cơ sở dạy nghề đã được nâng
lên. Theo đánh giá của các doanh nghiệp, 80% - 85% số lao động qua đào tạo

nghề được sử dụng đúng trình độ đào tạo; 30% có kỹ năng nghề từ khá trở lên.
Ở một số nghề (nghề hàn, nghề dịch vụ nhà hàng, nấu ăn, thủy thủ tầu biển,
thuyền trưởng, và một số nghề thuộc lĩnh vực viễn thông…), kỹ năng nghề của
lao động Việt Nam đã đạt chuẩn quốc tế. Lao động qua đào tạo nghề tham gia
vào hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân và đã đảm nhận được các vị
trí công việc phức tạp mà trước đây phải do chuyên gia nước ngoài thực hiện;
khoảng 70% học sinh tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm ngay sau khi tốt
nghiệp, ở một số nghề và một số cơ sở dạy nghề tỷ lệ này đạt trên 90%. Tại các
Hội thi tay nghề thế giới, thi tay nghề ASEAN đoàn thí sinh Việt Nam đều có
kết quả cao.
2. Hạn chế:
- Thứ nhất, hiệu quả công tác dạy nghề còn hạn chế. Hiệu quả công tác dạy
nghề thể hiện ở việc đầu tư của nhà nước rất lớn nhưng người học nghề ít. Việc
đầu tư vẫn còn mang tính giàn trải, phong trào chưa tạo ra được những mô hình
hay những điển hình tốt cũng như những đột phá về chất lượng dạy nghề.
Không ít cơ sở dạy nghề khang trang hiện đại nhưng trang thiết bị, đội ngũ
giáo viên không đồng bộ nên rất lãng phí. Có thể nói đầu tư cơ sở vật chất
trong lĩnh vực dạy nghề lãng phí mọi nơi, trang thiết bị mua về đắp chiếu hoặc
để bụi bặm, mạng nhện bao phủ do không khai thác sử dụng.
Việc quy hoạch cơ sở dạy nghề chưa có sự phối hợp với ngành giáo dục và đào
tạo ở cấp quốc gia và cấp địa phương do vậy quy hoạch cơ sở dạy nghề, ngành
nghề đào tạo bị chồng chéo gây lãng phí. Lãng phí về cơ sở vật chất do chồng
chéo quy hoạch, do thiếu nguồn tuyển sinh và đặc biệt là đất đai để xây dựng
trường học cho dạy nghề, cho trung cấp chuyên nghiệp, cho các trường cao
đẳng, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm dạy nghề và bộ máy biên
chế cứ thế phình to ra mãi. Thiếu chú ý đến thực trạng trình độ chuyên môn kỹ
thuật của nhân lực Việt Nam (khoảng trên 32 triệu người chưa được đào tạo kỹ
năng nghề nghiệp - 84,7 % không có chuyên môn kỹ thuật) để có kế hoạch và
chiến lược đào tạo nghề hợp lý.
Việc thiết kế chương trình dạy nghề theo mô đun và môn học đã thiếu sự tích

hợp cần thiết giữa việc thiết lập tiêu chuẩn nghề với tiêu chuẩn đào tạo (chuẩn
đầu ra, nội dung, đánh giá, giáo viên, giáo trình, phương pháp, tổ chức quản lý,
cơ sở vật chất), trong việc phát triển chương trình dạy nghề. Mặt khác, theo
nguyên lý phối hợp và xếp chồng mô đun từ sơ cấp nghề lên đến trung cấp
nghề và cao đẳng nghề thì việc thực hiện nguyên tắc này đã bị vi phạm bởi các
văn bản dưới luật khác. Một chương trình khung trung cấp nghề chi phí khoảng
trên 480 triệu đồng, trong khi đó chương trình khung cao đẳng nghề (của cùng
nghề) trên 500 triệu đồng đã gây ra lãng phí rất lớn do không theo nguyên lý
xếp chồng của mô đun năng lực nghề.
Chương trình khung ban hành nhưng thiếu đánh giá ở cấp độ quốc gia, chương
trình dạy nghề ở trường cũng không có đánh giá do thiếu quy định. Đặc biệt,
theo nguyên tắc liên thông giúp cho người lao động học suốt đời và nhiều cơ
hội chuyển đổi nghề nghiệp, chương trình dạy nghề cần có sự hài hòa với
chương trình cao đẳng, đại học do Bộ GDĐT quản lý nhà nước. Nhưng chưa
bao giờ có sự thống nhất, hợp tác trong cách làm chương trình dẫn đến sự khác
biệt rất xa giữa chương trình cao đẳng nghề và cao đẳng trong nhiều ngành.
Việc điều phối nguồn lực quốc gia cho công tác dạy nghề chưa thật tốt giữa
các Bộ ngành, địa phương. Còn nhiều dự án, chương trình cho dạy nghề có các
nội dung trùng lắp trong việc biên soạn tài liệu, tập huấn, đầu tư
Thứ hai, dạy nghề thiếu hội nhập và phá vỡ tính hệ thống. Việc Luật dạy
nghề quy định 3 trình độ trong dạy nghề đã làm cho hệ thống các trình độ trở
nên hết sức rắc rối và thiếu tính hội nhập. Ngày nay, rất nhiều người ở trong
nước không phân biệt nổi giữa trung cấp nghề và trung cấp chuyên nghiệp,
giữa cao đẳng nghề và cao đẳng (không nghề). Điều này đã gây khó khăn cho
công tác quy hoạch phát triển nhân lực cũng như hội nhập về đào tạo và việc
làm với thế giới. Tính hệ thống bị phá vỡ do sự lộn xộn của các trình độ dạy
nghề. Một bên là cao đẳng nghề do Bộ LĐ quản lý, một bên là "Cao đẳng
không nghề" do Bộ GD quản lý đến ta cũng không thể hiểu nổi chưa nói gì
các doanh nghiệp nước ngoài.
Những vấn đề của lịch sử về bậc thợ trước đây (công nhân 7 bậc) vẫn chưa giải

quyết thấu đáo để công nhận tương đương với trình độ sơ cấp, trung cấp hay
cao đẳng nghề. Con số lao động hiện vẫn còn hàng triệu người mang các bậc
thợ khác nhau nhưng không thể quy đổi sang trình độ đào tạo nghề được.
Tên gọi của luật là Luật dạy nghề không đảm bảo phản ánh đúng bản chất của
công tác đào tạo nghề nghiệp. Không có quốc gia nào trên thế giới gọi là "Luật
dạy nghề" mà thường gọi là đào tạo nghề nghiệp hoặc giáo dục nghề nghiệp
(gồm cả dạy và học). Trung Quốc cũng có Luật giáo dục nghề nghiệp
(Vocational education law - 1996) hoặc Cộng hòa liên bang Đức hay Hàn
Quốc có Luật đào tạo nghề (Vocational Training Law).
Thứ ba, chất lượng dạy nghề thấp. Mỗi năm, nhà nước đầu tư hàng nghìn tỉ
đồng, nhưng chất lượng đào tạo nghề còn nhiều hạn chế, nguyên nhân chủ yếu
do thiếu đội ngũ giáo viên có năng lực và kinh nghiệm nghề nghiệp. Giáo trình
dạy nghề cũng khá nghèo nàn do thiếu các chuyên gia có kinh nghiệm và tâm
huyết biên soạn.
Ngoài ra, sự hợp tác giữa trường đào tạo nghề và doanh nghiệp chưa được đẩy
mạnh. Chương trình dạy nghề được thiết kế khá tốt (chỉ đối với dạy nghề)
nhưng thiếu điều kiện thực hiện và không đồng bộ. Hệ thống đánh giá kỹ năng
nghề phát triển khá chậm, nhưng lại chỉ bó gọn vào kỹ năng nghề do Bộ
LĐTBXH quản lý nhà nước mà không phải là đánh giá và công nhận kỹ năng
nghề nghiệp cho những người lao động có trình độ đào tạo khác cao hơn các
trình độ nghề hiện tại.
Thứ tư, xã hội hóa còn hạn chế. Việc huy động nguồn lực xã hội cho công tác
đào tạo nghề có thể xem là một định hướng chiến lược của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, tư duy bao cấp vẫn còn khá phổ biến, đào tạo nghề chưa theo sát
với nhu cầu nhân lực và bối cảnh dân số, việc làm trong xã hội. Đối với một số
nghề, học sinh ra trường có việc làm ngay (lĩnh vực kỹ thuật công nghệ) nhưng
rất nhiều nghề rất khó kiếm việc làm do năng lực thực hành, thái độ lao động
của học sinh yếu. Việc đào tạo kỹ năng cho người lao động trong doanh nghiệp
thiếu cơ chế khuyến khích hiệu quả. Tư nhân hóa công tác dạy nghề diễn ra
còn chậm, doanh nghiệp dường như đứng ngoài cuộc trong công tác đào tạo

nghề.
Thứ năm, hệ thống dạy nghề không có vai trò nhiều trong giáo dục hướng
nghiệp góp phần phân luồng học sinh sau THCS. Có thể xem hiện tượng học
sinh bỏ học ở cấp trung học cơ sở và không tiếp tục vào học trong các trường
dạy nghề sau khi tốt nghiệp THCS là một vấn đề lớn hiện nay đối với hệ thống
giáo dục và đào tạo quốc dân. Mỗi năm có chừng khoảng trên 200.000 em bỏ
học ở cấp học trung học cơ sở lại không được học nghề sẽ tạo ra sự lãng phí về
con người cũng như nguy cơ nảy sinh ra những vấn đề xã hội.
Thế nhưng, các trường dạy nghề cũng như sở LĐTBXH ở cấp địa phương
không có vai trò gì đối với các học sinh trong trường phổ thông do quy định về
quản lý nhà nước giữa sở GDĐT và sở LĐTBXH. Cơ sở vật chất của trường
nghề cũng như đội ngũ giáo viên dạy nghề không được huy động để làm công
tác giáo dục hướng nghiệp. Chỉ nhìn vào số liệu học sinh, sinh viên vay để học
nghề ta biết ngay sức hấp dẫn của cơ sở dạy nghề đối với thanh niên hiện nay.
Việc dạy chữ và dạy nghề đang tách rời trên địa bàn cấp quận huyện vừa gây
khó khăn cho người dân tiếp cận đến giáo dục và vừa lãng phí nguồn lực dàn
trải ở cấp quận huyện.
II. Giải pháp giải quyết vấn đề chất lượng đào tạo nghề thấp:
1. Nguyên nhân tồn tại:
a. Nguyên nhân chung:
Chất lượng đầu vào thấp
Chấp lượng đầu ra thấp
Doanh nghiệp không tuyển dụng
Không có người học
- Tâm lý xã hội nói chung là sính bằng cấp, theo kết quả khảo sát của Viện Khoa
học giáo dục Việt Nam thì có tới hơn 90% học sinh Trung học phổ thông sẽ thi
vào đại học sau khi tốt nghiệp. Học sinh không vào được đại học sau khi tốt
nghiệp Trung học phổ thông được coi là thất bại trong con đường lập nghiệp.
Ngoài ra, tỉ lệ thất nghiệp ở học viên tốt nghiệp trường nghề hiện nay cao hơn
hẳn so với học viên tốt nghiệp đại học và cao đẳng. Chính vậy nên học sinh sẽ

không dám chọn trường nghề để theo học nên không phải là trường hợp bất
khả kháng. Khi làm việc cho chính phủ, đối với cùng một công việc thì người
có bằng đại học sẽ có hệ số lương cao hơn mà bất chấp năng lực của họ, điều
đó càng làm cho hệ nghề kém hấp dẫn hơn trong mắt của học viên. Chính vì
vậy nên chất lượng đầu vào là rất thấp.
- Hoạt động hướng nghiệp của các trường từ Trung học cơ sở đến Trung học phổ
thông đều tập trung vào các trường Đại học, Cao đẳng chính quy, hạn chế
trong việc định hướng học nghề, lựa chọn học nghề là một lựa chọn cuối cùng
khi không thể vào đâu học được.
- Học phí học nghề thấp không đủ để thực hiện các hoạt động dạy nghề. Bên
cạnh đó học phí học nghề của các trường công lập và ngoài công lập chênh
nhau quá lớn đối với cùng 1 nghề.
- Đầu tư của Nhà nước cho dạy nghề chưa đáp ứng yêu cầu phát triển dạy nghề;
chưa tập trung, đồng bộ theo nghề; các nguồn lực khác đầu tư cho dạy nghề
còn hạn chế.
- Hoạt động gắn kết giữa cơ sở dạy nghề và doanh nghiệp trên địa bàn thành phố
không tốt. Còn nhiều doanh nghiệp đứng ngoài công tác đào tạo nghề là một
trở ngại rất lớn trong việc tạo ra mối liên kết giữa 3 thành tố Người học – Nhà
trường - Doanh nghiệp.
b. Khó khăn của các trường:
+ Nội dung giảng dạy chưa sát thực tế, không có tính cập nhật, còn nặng về
mặt lý thuyết.
+ Phương pháp giảng dạy chưa tiên tiến, chưa phù hợp.
+ Đội ngũ giáo viên thiếu kinh nghiệm thực tiễn, không có nhiều điều kiện
để tiếp xúc thực tiễn ở các doanh nghiệp.
+ Cơ sở vật chất phục vụ dạy nghề chưa đáp ứng yêu cầu.
+ Chưa chú trọng đến việc đào tạo ngoại ngữ và các kỹ năng mềm.
- Việc định hướng lựa chọn ngành nghề đặc trưng của các cơ sở cũng yếu kém,
dẫn đến tình trạng đào tạo nghề chồng chéo, chất lượng đào tạo chưa được quan
tâm thỏa đáng. Người học ra trường chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc,

dẫn đến tình trạng thất nghiệp với chính nghề được đào tạo ra.
2. Giải pháp:
- Nâng cao nhận thức về học nghề và phát triển dạy nghề:
+ Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam
tham gia tuyên truyền chính sách của Đảng và Nhà nước về dạy nghề giai đoạn
2011 - 2020, tư vấn, hướng nghiệp đoàn viên, học sinh tại các trường THPT,
THCS góp phần làm thay đổi nhận thức của xã hội trong đó có thanh niên về học
nghề.
+ Tăng cường công tác tư vấn, hướng nghiệp trong nhà trường; mỗi trường cần
thành lập các bộ phận chuyên trách làm công tác tư vấn, hướng nghiệp cho học
sinh.
+ Hoạt động hướng nghiệp của các trường từ Trung học cơ sở đến Trung học phổ
thông phải tiến hành song song giữa các trường Đại học, Cao đẳng chính quy và
việc định hướng học nghề, lựa chọn học nghề.
- Đổi mới và hoàn thiện chính sách cho người học nghề:
+ Thu học phí phân biệt theo nghề và trình độ đào tạo, đào tạo nghề cho các đối
tượng chính sách, nhóm yếu thế trong xã hội và phổ cập nghề cho người lao động.
Tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người tham gia học nghề (ưu tiên đối tượng chính
sách, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật)
+ Huy động nguồn quỹ đầu tư cho hoạt động dạy nghề từ chính các doanh nghiệp
đang sử dụng lao động một cách miễn phí từ nhiều năm nay và các nguồn khác
của địa phương, ưu tiên đầu tư cho những cơ sở đào tạo nghề được đánh giá uy tín
có chất lượng, không phân biệt đơn vị công lập và ngoài công lập.
+ Giải thể những trường đại học kém chất lượng, giảm số lượng trường xuống,
đảm bảo chất lượng đào tạo ở những trường còn lại.
- Nâng cao chất lượng giáo viên và giáo trình đào tạo nghề:
+ Chuẩn hóa đội ngũ giáo viên dạy các nghề trọng điểm cấp độ quốc gia về trình
độ đào tạo, kỹ năng và sư phạm nghề. Thường xuyên tổ chức tập huấn kỹ năng
cho giáo viên, mời các kỹ sư, nhân viên có kinh nghiệm tham gia giáo dục nghề
nghiệp.

+ Phát triển chương trình, giáo trình: Đối với các nghề trọng điểm quốc gia, xây
dựng và ban hành chương trình, giáo trình dạy nghề trên cơ sở tiêu chuẩn kỹ năng
nghề quốc gia. Đối với các nghề cấp độ khu vực và quốc tế, tiếp nhận và sử dụng
chương trình, giáo trình dạy nghề của các nước tiên tiến trong khu vực ASEAN và
quốc tế phù hợp với thị trường lao động Việt Nam. Nội dung đào tạo phải được
gói gọn theo từng cấp trình độ dạy nghề, quá trình đào tạo phải đảm bảo được tính
liên thông. Tăng cường ngoại ngữ và kỹ năng mềm cho học viên.
+ Tăng cường cơ sở vật chất và thiết bị dạy nghề.
- Gắn kết giữa dạy nghề với thị trường lao động và sự tham gia của doanh
nghiệp:
+ Thành lập trung tâm dự báo tình hình việc làm trên địa bàn tỉnh, xây dựng tầm
nhìn về nhu cầu việc làm theo từng giai đoạn cụ thể để các trường có định hướng,
từ đó đưa ra các chính sách phù hợp cho hoạt động đào tạo nghề.
+ Doanh nghiệp có trách nhiệm cung cấp thông tin về nhu cầu việc làm (số lượng
cần tuyển dụng theo nghề và trình độ đào tạo, yêu cầu về thể lực, năng lực khác…)
và các chế độ cho người lao động (tiền lương, môi trường và điều kiện làm việc,
phúc lợi…) cho các cơ sở dạy nghề; đồng thời thường xuyên có thông tin phản hồi
cho cơ sở dạy nghề mức độ hài lòng đối với “sản phẩm” đào tạo của cơ sở dạy
nghề.Cơ sở dạy nghề có trách nhiệm tiếp nhận các thông tin từ phía doanh nghiệp
và thay đổi để thích ứng với nhu cầu của doanh nghiệp.Phát triển hệ thống thông
tin thị trường lao động để gắn kết đào tạo và sử dụng lao động.
+ Chú trọng việc đào tạo cung ứng cho nước ngoài, thị trường này rất tiềm năng
và lợi nhuận cao.

×