Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Thực trạng về thuế nhập khẩu đối với mặt hàng ôtô ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.06 KB, 71 trang )

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ NHẬP KHẨU VÀ THUẾ NHẬP
KHẨU MẶT HÀNG ÔTÔ
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ NHẬPKHẨU
1.1.1. Xuất sứ và khái niệm về thuế nhập khẩu
Thuế nhập khẩu có nguồn gốc từ Trung quốc. Do có những lợi thế so
sánh tương đối và tuyệt đối (chủ yếu là tuyệt đối) mà một số hàng hóa sản
xuất ở quốc gia này có giá thành thấp hơn ở một số quốc gia khác. Các
thương gia đã vận chuyển các mặt hàng đó sang các quốc gia có giá thành cao
hơn nhằm thu lợi nhuận. Để có thể vận chuyển hàng hóa và tham gia thị
trường của một quốc gia, các thương gia phải nộp một khoản tiền cho chính
quyền sở tại. Lâu dần các khoản tiền này được hợp thức hóa thành một khoản
thu của Chính phủ và dần dần trở thành một sắc thuế của quốc gia, đó là thuế
nhập khẩu hay còn gọi là thuế quan. Ban đầu, thuế nhập khẩu chỉ thu đối với
hàng hóa vận chuyển ở đường bộ, dần dần thuế nhập khẩu được thu đối với
hàng hóa vận chuyển bằng đường thủy, đường sắt và đường hàng không.
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, tự do
hóa thương mại, dịch vụ, đầu tư…đang trở thành một trào lưu chung của thế
giới. Tuy nhiên, do những lý do về kinh tế, chính trị, xã hội riêng có ở mỗi
quốc gia mà việc tự do hóa thương mại vẫn bị ngăn chặn ở những mức độ
khác nhau. Một trong những công cụ có tính chất cổ điển trong chính sách
ngoại thương của các chính phủ là công cụ thuế quan. Thuế nhập khẩu là một
loại thuế mà một quốc gia hay vùng lãnh thổ đánh vào hàng hóa có nguồn
gốc từ nước ngoài trong quá trình nhập khẩu.
1
1.1. 2. Phân loại thuế nhập khẩu
Tuỳ thuộc vào tiêu thức và yêu cầu của việc phân loại, có nhiều cách
phân loại thuế nhập khẩu, đó là:
1.1.2.1. Căn cứ vào mục đích của việc thu thuế
Nếu căn cứ vào mục đích của việc thu thuế thì thuế nhập khẩu được
chia thành các loại sau:


- Theo mục đích ngân khố: Nhiệm vụ chủ yếu của dạng thuế này là
nhằm tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Dạng thuế này mang tính chất là
một dạng thuế tiêu dùng đánh vào các hàng hóa nhập khẩu mà trong nước
chưa sản xuất được hoặc đánh vào các hàng hóa hạn chế nhập khẩu vì những
lý do kinh tế-xã hội như: rượu, bia, thuốc lá Người ta còn gọi là thuế quan
tiêu dùng hay thuế quan cân đối.
- Loại để bảo hộ: Loại này thường được quy định có lựa chọn. Nếu
trong nước có sản xuất hoặc có khả năng sản xuất nhưng chưa đủ sức cạnh
tranh, cần có sự bảo hộ của nhà nước thì xây dựng mức thuế bảo hộ để hàng
sản xuất trong nước đủ sức cạnh tranh với hàng nhập khẩu.
- Loại để trừng phạt: Loại thuế này thường được sử dụng để trả đũa lại
những hành vi phân biệt đối xử của một quốc gia này đối với hàng hoá của
một quốc gia khác. Ví dụ, Nhật Bản áp dụng mức thuế nhập khẩu đối với
hàng nông sản của Trung Quốc cao hơn mức thuế thông thường đang áp dụng
với các nước khác. Để trả đũa lại hành vi phân biệt đối xử này, Trung Quốc
đã áp dụng mức thuế nhập khẩu đối với ô tô của Nhật Bản cao hơn mức thuế
thông thường đang áp dụng với các nước khác.
Loại thuế quan trong đàm phán: Dạng thuế này thường được ấn định
trên giới hạn cần thiết để bảo hộ nền sản xuất trong nước, đồng thời là
phương tiện dùng để mặc cả với các nước khác trong đàm phán thương mại.
2
1.1.2.2. Căn cứ vào phạm vi tác dụng
Nếu căn cứ vào phạm vi tác dụng thì thuế nhập khẩu có các loại sau:
- Thuế nhập khẩu tự quản: là loại thuế thể hiện tính độc lập của một
quốc gia (quy định tuỳ ý theo mục tiêu của quốc gia mình mà không phụ
thuộc vào bất kỳ một Hiệp định song phương hoặc đa phương nào đã ký kết).
- Thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế: là loại thuế thực hiện theo
các cam kết trong các Hiệp định song phương hoặc đa phương đã ký kết. Ví
dụ phân loại thuế nhập khẩu thành thuế nhập khẩu ưu đãi, thuế nhập khẩu ưu
đãi đặc biệt, thuế nhập khẩu thông thường để áp dụng tuỳ theo quan hệ

thương mại giữa các nước.
1.1.2.3. Căn cứ vào cách thức đánh thuế
Nếu căn cứ vào cách thức đánh thuế thì thuế nhập khẩu được phân
thành các loại:
- Thuế nhập khẩu tính theo tỷ lệ phần trăm (%): Thuế nhập khẩu tính
thuế theo tỷ lệ phần trăm là hình thức tính thuế được quy định theo tỷ lệ phần
trăm (%) tính trên trị giá tính thuế của hàng hoá nhập khẩu .
- Thuế nhập khẩu tính theo đơn vị (thuế tuyệt đối):
Tính thuế theo mức tuyệt đối là thuế được ấn định bằng số tiền nhất
định tính trên một đơn vị hàng hóa nhập khẩu, chẳng hạn như: thu thuế nhập
khẩu 20.000USD/chiếc xe ô tô, 5 USD/m
2
kính xây dựng
- Thuế kết hợp giữa thuế tính theo tỷ lệ phần trăm (%) và thuế tuyệt đối:
Tính thuế kết hợp giữa tính theo tỷ lệ phần trăm (%) và thuế tuyệt đối
là sự kết hợp giữa thuế nhập khẩu tính theo tỷ lệ và thuế nhập khẩu tính theo
đơn vị. Ví dụ, ngoài việc phải nộp thuế nhập khẩu bằng 150% trị giá tính thuế
3
của chiếc xe ô tô nhập khẩu từ Hàn Quốc thì nhà nhập khẩu còn phải nộp
thêm số tiền thuế tính theo mức tuyệt đối cho chiếc xe đó là 2.000USD.
Để phát huy tính điều tiết bao quát của cả hai hình thức thuế phần trăm
và thuế tuyệt đối, phương thức kết hợp hoặc hỗn hợp giữa thuế tuyệt đối và
thuế phần trăm thường được áp dụng phổ biến hơn so với phương thức chỉ áp
dụng thuế tuyệt đối hoặc chỉ áp dụng thuế theo tỷ lệ phần trăm.
- Thuế nhập khẩu biến thiên:
Thuế nhập khẩu biến thiên là thuế nhập khẩu được đánh trên hàng nhập
khẩu, nhưng thuế suất thay đổi thường xuyên, thậm chí mỗi ngày. Sắc thuế
này thường được ấn định ở một mức nhằm triệt tiêu ưu thế về giá cả của nước
xuất khẩu đối với hàng hóa sản xuất trong nước. Loại thuế nhập khẩu kiểu
này được các nước trong nội bộ Liên minh Châu Âu (EU) áp dụng đối với các

sản phẩm nông nghiệp. Thuế nhập khẩu loại này chỉ phù hợp đối với những
dòng hàng thuộc nhóm bị ràng buộc thuế nhập khẩu khi tham gia WTO. Tuy
nhiên, khía cạnh biến thiên của loại thuế này chắc chắn sẽ làm ảnh hưởng đến
chủ trương chấp nhận thuế nhập khẩu trong WTO. Trường hợp này có thể lý
giải rằng, nếu thuế nhập khẩu ở mức cố định, thì các nhà sản xuất nước ngoài
có thể vượt rào cản bằng cách hạ giá bán.
1.1.4. Các yếu tố chính của sắc thuế nhập khẩu
1.1.4.1. Đối tượng chịu thuế
Theo luật và các văn bản, đối tượng chịu thuế nhập khẩu là tất cả các hàng
hóa được phép nhập vào một quốc gia, bao gồm hàng hóa từ nước ngoài nhập vào
thị trường nội địa của nước đó, hàng hóa từ các khu chế xuất trên lãnh thổ quốc
gia đó xuất vào thị trường trong nước. Cụ thể:
4
Thứ nhất, Hàng nhập khẩu của các tổ chức kinh tế trong nước thuộc các
thành phần kinh tế được phép trao đổi, vay nợ với nước ngoài.
Thứ hai, Hàng nhập khẩu của các tổ chức kinh tế nước ngoài, của các
hình thức đầu tư nước ngoài tại quốc gia đó.
Thứ ba, Hàng nhập khẩu để làm hàng mẫu, quảng cáo, dự hội chợ
triển lãm.
Thứ tư, Hàng viện trợ hoàn lại và không hoàn lại.
Thứ năm, Hàng vượt quá tiêu chuẩn hành lý miễn thuế mang theo của
người nước ngoài khi nhập cảnh qua cửa khẩu, biên giới của quốc gia đó.
Thứ sáu, Hàng là quà biếu, quà tặng vượt quá tiêu chuẩn miễn thuế của các
tổ chức, cá nhân nước ngoài và người của quốc gia đó định cư nước ngoài mang
hoặc gửi về cho các tổ chức, cá nhân người trong nước.
Thứ bảy, Hàng nhập khẩu vượt quá tiêu chuẩn miễn thuế của các tổ
chức quốc tế, cơ quan ngoại giao nước ngoài tại quốc gia đó và của các cá
nhân nước ngoài làm việc tại các tổ chức nói trên hoặc các hình thức đầu tư
nước ngoài tại quốc gia đó.
1.1.4.2. Hàng hóa không thuộc diện chịu thuế nhập khẩu

Trên nguyên tắc những loại hàng hóa tuy đi vào lãnh thổ quốc gia,
nhưng không tiêu thụ ở thị trường của quốc gia đó, hoặc hàng nhập vào thị
trường của quốc gia đó song không mang tính kinh doanh mà chỉ vì mục tiêu
nhân đạo thì không thực hiện chịu thuế nhập khẩu.
Cụ thể, theo qui định hiện hành thì các trường hợp vận động của hàng
hóa sau đây không chịu thuế nhập khẩu của quốc gia đó:
5
Thứ nhất, Hàng hóa vận chuyển quá cảnh hoặc mượn đường qua cửa
khẩu, biên giới quốc gia trên cơ sở hiệp định ký giữa hai chính phủ, hoặc
ngành, điạ phương được Thủ tướng Chính phủ cho phép. Hàng từ nước ngoài
nhập vào khu chế xuất của quốc gia, hoặc hàng vận chuyển từ khu chế xuất
này sang khu chế xuất khác trên lãnh thổ quốc gia đó.
Thứ hai, Hàng chuyển khẩu, gồm các hình thức:
- Hàng chuyển đến cảng của quốc gia đó nhưng không làm thủ tục nhập
khẩu vào quốc gia đó mà đi luôn đến cảng nước nhập khẩu.
- Hàng đưa vào kho ngoại quan rồi chuyển đến nước khác không làm
thủ tục nhập khẩu vào quốc gia đó mà theo qui chế quản lý kho ngoại quan.
Thứ ba, Hàng viện trợ nhân đạo của các tổ chức Liên hợp quốc, viện
trợ nhà nước theo các chương trình dự án viện trợ đã được ký kết và các
khoản viện trợ đột xuất của chính phủ, tổ chức nước ngoài để hỗ trợ khắc
phục thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh…
1.1.4.3. Đối tượng nộp thuế
Đối tượng nộp thuế là các thể nhân và pháp nhân làm nhiệm vụ nhập khẩu
được phép nhập khẩu các hàng hóa thuộc diện chịu thuế nhập khẩu bao gồm:
- Chủ hàng hóa nhập khẩu
- Tổ chức nhận ủy thác nhập khẩu
- Cá nhân có hàng hóa nhập khẩu khi xuất cảnh, nhập cảnh, gửi hoặc
nhận hàng hóa qua cửa khẩu, biên giới quốc gia.
1.1.4.4. Căn cứ tính thuế và cách tính thuế.
Để đảm bảo công bằng giữa người tiêu dùng và người sản xuất ở các

nước trên thế giới, thì việc xác định giá trị đối với các mặt hàng nhập khẩu
6
làm sao cho đúng và phù hợp là một vấn đề không phải dễ dàng. Vì vậy,
GATT đã đưa ra các phương pháp xác định trị giá tính thuế đối với hàng hoá
nhập khẩu. Theo điều 7 trị giá GATT có 6 phương pháp:
- Phương pháp 1: Phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá
giao dịch đối với hàng hoá nhập khẩu.
- Phương pháp 2: Phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá
giao dịch của hàng hoá nhập khẩu giống hệt.
- Phương pháp 3: Phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá
giao dịch của hàng hoá nhập khẩu tương tự.
- Phương pháp 4: Phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá
khấu trừ.
- Phương pháp 5: Phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá
tính toán.
- Phương pháp 6: Phương pháp suy luận.
Tuy nhiên, thì tùy từng quốc gia việc lựa chọn các phương pháp để xác
định là khác nhau. Thông thường các nước tính trị giá thuế đối với hàng hóa
nhập khẩu theo phương pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch
đối với hàng hoá nhập khẩu :
Về nguyên tắc chung giá tính thuế hàng nhập là giá mua hàng tại cửa
khẩu của khách hàng bao gồm cả chi phí vận tải (F) và chi phí bảo hiểm (I).
Giá này được gọi là CIF.
CIF = FOB + F +I
Giá tính thuế theo hợp đồng mua và phải phù hợp với các chứng từ có
liên quan đến việc mua hàng.
7
 Các qui định về thuế suất thuế nhập khẩu.
Thuế suất thuế nhập khẩu được qui định thành các dạng: thuế suất thông
thường, thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và thuế suất trừng phạt.

- Thuế suất ưu đãi áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ
nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong
quan hệ thương mại với quốc gia đó. Thuế suất ưu đãi được qui định cụ thể
cho từng mặt hàng tại biểu thuế nhập khẩu ưu đãi do Bộ trưởng Bộ Tài Chính
ban hành. Người nộp thuế tự khai và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về
xuất xứ hàng hóa.
- Thuế suất ưu đãi đặc biệt (GPS), áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu có
xuất xứ từ nước mà quốc gia và nước đó có thỏa thuận ưu đãi đặc biệt về thuế
nhập khẩu. Chính phủ qui định thuế suất ưu đãi đặc biệt đối với từng mặt
hàng theo thỏa thuận đã ký kết với các nước.
- Thuế suất thông thường áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất
xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ không thực hiện đối xử tối huệ
quốc và không thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với quốc gia đó.
Thuế suất thường được áp dụng thống nhất bằng 150% mức thuế suất ưu đãi
của từng mặt hàng tương ứng quy định tại Biểu thuế suất ưu đãi
Thuế suất thông thường = thuế suất ưu đãi x 150%
Ngoài việc chịu thuế theo qui định trên, nếu hàng hóa nhập khẩu quá
mức vào quốc gia đó, có sự trợ cấp, được bán phá giá hoặc có sự phân biệt
đối xử đối với hàng hóa xuất khẩu của quốc gia đó thì bị áp dụng thuế chống
trợ cấp, thuế chống bán phá giá, thuế chống phân biệt đối xử, thuế để tự vệ và
được thực hiện theo các văn bản qui phạm pháp luật hướng dẫn riêng.
1.1.4.5. Miễn, giảm và hoàn thuế nhập khẩu.
8
 Các trường hợp miễn thuế nhập khẩu.
- Hàng viện trợ không hoàn lại, bao gồm: hàng viện trợ song phương,
đa phương của các tổ chức chính phủ, các tổ chức phi chính phủ; hàng viện
trợ do các tổ chức nhân đạo, giáo dục, y tế, văn hóa nước ngoài của các tổ
chức tôn giáo quốc tế viện trợ cho các cơ quan khoa học, giáo dục, y tế, văn
hóa và các tổ chức tôn giáo ở quốc gia đó để dùng trực tiếp cho khoa học,
giáo dục, y tế, văn hóa, tôn giáo.

- Hàng tạm nhập tái xuất để dự hội chợ, triển lãm, bao gồm: hàng tạm
nhập để dự hội chợ, triển lãm, hết thời hạn hội chợ, triển lãm phải xuất khẩu
ra nước ngoài.
- Hàng là tài sản di chuyển của các cá nhân, tổ chức nước ngoài vào
Việt Nam trong mức qui định.
- Hàng hóa mang theo hoặc gửi về nước của công dân quốc gia đó đi
hợp tác lao động hoặc hợp tác chuyên gia, công tác, học tập ở nước ngoài
thực hiện theo qui định của Chính phủ về tiêu chuẩn hành lý nhập cảnh.
- Hàng nhập khẩu của tổ chức, cá nhân người nước ngoài được hưởng
tiêu chuẩn miễn trừ ngoại giao do Chính phủ qui định phù hợp với điều ước
quốc tế mà quốc gia đó ký kết hoặc tham gia.
- Hàng là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để gia công cho nước ngoài rồi
xuất theo hợp đồng đã ký kết bao gồm các hình thức: nhập vật tư, nguyên liệu
về sản xuất rồi giao lại toàn bộ thành phẩm; hoặc trả tiền một phần hay toàn
bộ vật tư, nguyên liệu để bán lại toàn bộ thành phẩm cho nước ngoài theo hợp
đồng gia công đã ký.
Các trường hợp được xét miễn thuế, bao gồm:
9
- Hàng nhập khẩu chuyên dùng phục vụ trực tiếp cho an ninh, quốc
phòng, nghiên cứu khoa học và giáo dục đào tạo trên cơ sở kế hoạch hàng
năm đã được Bộ trưởng Bộ chủ quản duyệt.
- Hàng nhập khẩu của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và của bên
nước ngoài hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh trong
trường hợp đặc biệt cần khuyến khích đầu tư.
- Hàng là quà biếu, quà tặng của các tổ chức, cá nhân nước ngoài cho
các tổ chức, cá nhân của quốc gia đó được miễn thuế theo mức quy định của
Bộ Tài Chính.
- Hàng miễn nhập khẩu để bán miễn thuế tại các đơn vị được cơ quan có
thẩm quyền cho phép kinh doanh bán hàng miễn thuế phục vụ cho người xuất
cảnh, các cơ quan đại diện nước ngoài và người nước ngoài tại quốc gia đó.

 Trường hợp giảm thuế.
Hàng hóa trong quá trình vận chuyển, bốc xếp bị hư hỏng, mất mát có
lý do xác đáng được Công ty giám định hàng hóa xuất, nhập khẩu chứng nhận
thì được giảm thuế tương ứng với tỷ lệ hư hao của hàng hóa.
 Các trường hợp hoàn thuế.
Theo qui định hiện hành, thuế nhập khẩu được hoàn lại trong các
trường hợp sau:
- Hàng nhập khẩu đã nộp thuế mà còn lưu kho, lưu bãi ở cửa khẩu được
Bộ thương mại cho phép tái xuất.
-
Hàng đã nộp thuế theo tờ khai nhưng thực tế nhập khẩu ít hơn
.
10
- Hàng đã nhập khẩu nhưng chưa phù hợp về chất lượng so với hợp
đồng, giấy phép nhập khẩu, vì phía chủ hàng nước ngoài gửi sai, có biên bản
giám định của Vinacontrol, có xác nhận của chủ hàng.
- Hàng nhập khẩu là vật tư, nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu,
được hoàn thuế tương ứng tỷ lệ thành phẩm xuất khẩu.
-
Hàng tạm nhập để tái xuất về nguyên tắc không nộp thuế, nhưng nếu
đã nộp thì được hoàn lại số tiền thuế tương ứng số hàng đã xuất.
-
Hàng nhập khẩu một số doanh nghiệp của quốc gia đó được phép
nhập để làm đại lý, giao bán cho nước ngoài có đăng ký trước với Bộ Tài
Chính thì được hoàn thuế đối với số hàng thực bán để đưa ra khỏi quốc gia.
1.1.5. Ảnh hưởng của thuế nhập khẩu
1.1.5.1. Ảnh hưởng của thuế nhập khẩu khi nước có nền kinh tế nhỏ.
Trong hoạt động ngoại thương, một nền kinh tế nhỏ được hiểu với một
khái niệm là nền kinh tế đó có thị phần rất nhỏ bé và không có khả năng chi
phối giá cả thế giới ở một mặt hàng, một nhóm mặt hàng cụ thể nào đó. Do

đó, mọi thay đổi về cung, cầu, giá cả của nền kinh tế đó hầu như không ảnh
hưởng gì đến cung, cầu ,giá cả của nền kinh tế thế giới. Khi một nền kinh tế
nhỏ ban hành thuế quan sẽ ảnh hưởng như thế nào tới hoạt động ngoại thương
của nền kinh tế đó? Đó là một trong những vấn đề cần có sự quan tâm đặc
biệt của các nhà hoạch định chính sách. Ta có thể xem xét ảnh hưởng của thuế
nhập khẩu đối với giá cả và nền kinh tế bằng sơ đồ như trên:
11
P
w
P
t
P
0
P (giá) S
D
Q (sản lượng)Q
Dt
1
2
3
4
F
E
Q
s
Q
st
Q
0
Q

D
Biểu 1.1: Ảnh hưởng của thuế nhập khẩu đối với giá cả của nước có
nền kinh tế nhỏ

Giả sử mặt hàng X của một quốc gia chỉ chiếm một thị phần rất nhỏ
trong tổng mặt hàng của thế giới. S là đường cung, D là đường cầu nội địa của
mặt hàng này. Nếu nền kinh tế đóng cửa hoàn toàn, thị trường cân bằng cung-
cầu tại điểm E với giá P
0
, sản lượng Q
0
.
Trong khi đó, giá thế giới của mặt hàng này (giá CIF) là P
w
, thấp hơn
nhiều so với P
0
.
Nếu với mức giá P
w
, lượng cung nội địa chỉ là Q
s
, nhỏ hơn nhiều so với Q
0
,
trong khi đó lượng cầu lại là Q
D
, lớn hơn nhiều Q
0
. Nền kinh tế thiếu hụt sản

lượng là ( Q
D
- Q
s
). Đó chính là sản lượng cần nhập khẩu. Nếu nền kinh tế mở
hoàn toàn, sản lượng thiếu hụt sẽ được bù đắp bằng nhập khẩu và sẽ đạt tới cân
bằng mới tại điểm F với giá P
w
và sản lượng Q
D
.
Khi chính phủ đánh thuế nhập khẩu (t), làm cho giá của thị trường tăng
từ P
w
lên P
t
= P
w
+ t và lượng cầu chỉ còn Q
Dt
, nhỏ hơn Q
D
, nhưng lại làm cho
sản lượng cung nội địa tăng lên là Q
st
lớn hơn Q
s
.
Nhìn vào sơ đồ ta thấy ảnh hưởng của thuế nhập khẩu như sau:
 Đối với người tiêu dùng:

- Mất một khoản thặng dư tiêu dùng lớn
- Sẽ giảm mức tiêu dùng mặt hàng X từ Q
D
xuống Q
Dt
tức giảm tiêu
dùng một lượng Q
D
– Q
Dt
. Đó là ảnh hưởng tiêu dùng của thuế quan.
12
 Đối với người sản xuất:
- Thu được một khoản thặng dư sản xuất ròng.
- Tăng sản lượng sản xuất nội địa từ Q
s
lên Q
st
do giá mặt hàng X tăng
từ P
w
lên P
t
. Khi sản xuất mặt hàng X được mở rộng sẽ thu hút các nguồn lực
trong nước vào sản xuất mặt hàng X (ngành được bảo hộ bằng thuế quan).
Người ta gọi ảnh hưởng này là ảnh hưởng bảo hộ của thuế quan.
 Đối với hoạt động ngoại thương: Thuế quan làm giảm lượng
hàng hóa nhập khẩu từ (Q
D
- Q

s
) xuống (Q
Dt
- Q
st
) và ảnh hưởng này được gọi
là ảnh hưởng của ngoại thương của thuế quan.
Khi thuế quan có mức cao làm cho giá mặt hàng X khi nhập khẩu vào
thị trường nôi địa phải bán ở mức giá P
0
thì lúc này lượng hàng nhập khẩu sẽ
bằng 0 và người ta gọi đây là thuế quan cấm đoán. Việc áp dụng thuế quan
cấm đoán sẽ đưa nền kinh tế đến tình trạng tự cung, tự cấp và nó tương đương
với lệnh cấm nhập khẩu.
 Đối với ngân sách nhà nước: Thuế quan mang lại một khoản thu
nhập cho ngân sách nhà nước, đó là T = t x (Q
Dt
– Q
st
). Khi áp dụng thuế quan
cấm đoán thì số thu cho ngân sách nhà nước từ thuế quan bằng 0.
 Đối với khía cạnh tái phân phối: Khi áp dụng thuế quan thì thu
nhập của người tiêu dùng chuyển sang thu nhập của người sản xuất. Chi phí
mà người tiêu dùng phải trả thêm thể hiện ở tổng các diện tích (1), (2), (3)
được biểu diễn trên đồ thị. Sự giảm sút thặng dư tiêu dùng sẽ bao gồm phần
diện tích (1)+(2)+(3)+(4). Một phần làm tăng thêm số thu của ngân sách nhà
nước (3)=T; một phần làm tăng thêm thu nhập cho nhà sản xuất (1) gọi là
thặng dư sản xuất tăng thêm T
s
= t x (Q

s
+ Q
st
)/2; một phần, (2) là những lãng
phí mà xã hội phải trả thêm cho việc sản xuất mặt hàng X trong nước thay cho
việc nhập khẩu theo giá chung của quốc tê (còn gọi là chi phí bảo hộ):
13
T
bh
= t x (Q
st
– Q
s
)/2; một phần (4) là những mất mát vô ích (hay còn gọi là
phần “mất trắng hoàn toàn”) của lợi ích tiêu dùng so với chi phí biên của xã
hội mà xã hội đã hy sinh khi giảm mức tiêu dùng mặt hàng X từ Q
D
xuống
Q
Dt
. T
mt
= t x (Q
D
– Q
Dt
)/2. Mất mát ròng của xã hội do việc đánh thuế nhập
khẩu sẽ bao gồm hai diện tích (2) và (4). Đây chính là mảnh đất màu mỡ cho
việc buôn lậu.
Từ sự phân tích trên đây của thuế nhập khẩu với một mặt hàng được

bảo hộ đã thấy rất rõ ảnh hưởng của thuế nhập khẩu. Trên thực tế ảnh hưởng
của thuế quan còn lan tỏa xa hơn đối với một ngành sản xuất được thuế quan
bảo hộ ban đầu. Đứng trên tổng thể của nền kinh tế đối với nước có nền kinh
tế nhỏ khi ban hành thuế nhập khẩu sẽ ảnh hưởng tới nền kinh tế trên các khía
cạnh chủ yếu sau:
- Thuế nhập khẩu làm cho giá cả tương đối của hàng hóa chịu thuế
nhập khẩu trong nước có nền kinh tế nhỏ tăng. Điều này có ảnh hưởng sâu sắc
đến các tổ chức kinh tế trong nước đó.
- Nguồn lực trong sản xuất của nước có nền kinh tế nhỏ có sự di
chuyển đến các ngành sản xuất được bảo hộ bằng thuế quan.
- Ảnh hưởng đến tiêu dùng trong nước. Khi Nhà nước ban hành thuế
nhập khẩu, mức tiêu dùng trong nước có xu hướng giảm xuống không chỉ đối
với hàng hóa nhập khẩu mà cả với hàng hóa nội địa do có sự tăng giá của cả
hàng hóa nhập khẩu và cả hàng hóa xuất khẩu.
- Ngân sách nhà nước có thêm nguồn thu từ thuế nhập khẩu, nhưng
tổng nguồn thu sẽ giảm xuống không chỉ do nguồn thu từ hàng hóa nhập khẩu
giảm mà còn do sản xuất hàng hóa trong nước giảm do mức tiêu dùng giảm.
Người sản xuất có thể tăng thu nhập do giá cả tăng cao; nhưng người tiêu
14
dùng thì bị mất một khoản thặng dư tiêu dùng rất lớn do phải chi trả cho giá
tăng cao, do phải giảm tiêu dùng vì giá tăng.
- Thuế quan sẽ tạo ra một khối lượng sản xuất trong nước được bảo hộ
bởi giá cao, nguồn lực trong nước sẽ tập trung sản xuất mặt hàng được bảo
hộ, tạo công ăn việc làm và sự nâng đỡ cần thiết cho một số ngành cần thiết
bảo hộ; nhưng cũng tạo sự lãng phí nguồn lực xã hội, nên cần có sự tính toán
kỹ cả về mặt hàng bảo hộ, cả về thời gian bảo hộ. Mặt khác, thuế quan còn tạo
ra một khoản “mất trắng” là mảnh đất màu mỡ cho nạn buôn lậu. Hơn nữa,
bọn buôn lậu không chỉ nhòm ngó vào phần “mất trắng” mà còn nhòm ngó cả
vào phần thặng dư khác mà người tiêu dùng bị mất nên nguy cơ buôn lậu khi
có thuế nhập khẩu là rất lớn.

1.1.5.2. Ảnh hưởng của thuế nhập khẩu khi nước có nền kinh tế
lớn.
Nền kinh tế lớn là nền kinh tế chiếm thị phần lớn và hầu như chi phối
hoàn toàn giá cả của thị trường thế giới ở một mặt hàng, một nhóm mặt hàng
nào đó. Giá cả của nền kinh tế lớn đồng nghĩa với giá cả thế giới. Giả sử nước
có nền kinh tế lớn đánh thuế nhập khẩu vào mặt hàng Y nào đó. Ảnh hưởng
thuế quan sẽ được thấy rõ qua hình sau:
Biểu 1.2: Ảnh hưởng của thuế nhập khẩu đến giá cả đối với nước có
nền kinh tế lớn
15
S
D
P (giá)
Q (sản lượng)
2
1
P
w
Q
1
P
t
Q
0
Nước có nền kinh tế lớn đánh thuế nhập khẩu (t) vào mặt hàng Y, lúc
này giá của nhà xuất khẩu chỉ còn P
t
= P
w
- t. Sản lượng xuất khẩu tương ứng

chỉ còn Q
t
nhỏ hơn Q
0
; kim ngạch xuất khẩu chỉ còn Q
1
x P
t
nhỏ hơn nhiều so
với Q
0
x P
w
.
Ảnh hưởng của thuế nhập khẩu ở đây là:
- Đối với người tiêu dùng trong nước có nền kinh tế lớn: không ảnh
hưởng tới người tiêu dùng vì giá của mặt hàng Y trên thị trường không đổi.
- Đối với người sản xuất trong nước: không thu được lợi ích gì vì giá
không đổi. Đối với nhà xuất khẩu nước ngoài, mà thực chất là nhà sản xuất
hàng xuất khẩu nước ngoài sẽ mất một khoản thặng dư, do chỉ có thể xuất
khẩu với giá thấp hơn, nên phải giảm sản lượng hàng xuất khẩu vào thị trường
có nền kinh tế lớn. Từ đó, dẫn đến thu hẹp quy mô sản xuất, sa thải công
nhân, …
- Đối với hoạt động ngoại thương: Thuế quan làm giảm lượng hàng hóa
nhập khẩu từ Q
0
xuống Q
1
và ảnh hưởng này gọi là ảnh hưởng ngoại thương
của thuế quan.

- Đối với nguồn thu nhập của ngân sách nhà nước có nền kinh tế lớn:
Thuế quan mang lại một khoản thu nhập cho ngân sách nhà nước là: T = t x Q
1
.
- Đối với khía cạnh tái phân phối: Khi áp dụng thuế quan thì thu nhập
của người xuất khẩu chuyển sang thu nhập của nhà nước có nền kinh tế lớn.
Sự giảm sút thặng dư của người sản xuất hàng xuất khẩu nước ngoài sẽ bao
gồm phần diện tích (1) + (2). Một phần làm tăng thêm số thu của ngân sách
nhà nước (1) = T; một phần (2) là những mất mát vô ích (hay còn gọi là phần
16
“mất trắng hoàn toàn”) của thặng dư người sản xuất hàng xuất khẩu nước
ngoài. Đây cũng là điều kiện thuận lợi cho nạn buôn lậu.
1.2. THUẾ NHẬP KHẨU ĐÁNH VÀO MẶT HÀNG ÔTÔ.
Hiện nay, ôtô là phương tiện vận chuyển khá phổ biến trên thế giới. Ở
các nước phát triển ôtô là phương tiện vận chuyển khá phổ biến. Đối với các
nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, số lượng ôtô đưa vào sử dụng
ngày càng nhiều. Song thực tế thấy rằng, ngành công nghiệp sản xuất ôtô hiện
nay phát triển mạnh ở những nước có trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ
phát triển như Mỹ, Anh, Đức, Trung Quốc, Nhật Bản,…còn đối với các nước
đang phát triển thì ngành công nghiệp sản xuất ôtô vẫn còn chưa phát triển. Vì
thế, nó chưa đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng của người dân trong nước. Điều đó,
dẫn đến việc phải nhập khẩu ôtô từ các nước khác. Tuy nhiên, việc nhập khẩu
với số lượng bao nhiêu phải nằm trong giới hạn cho phép nhập khẩu của
Chính phủ nước đó. Để ngăn ngừa ôtô tràn lan vào thị trường nội địa, đồng
thời tạo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, giảm thiểu tình trạng ùn tắc giao
thông…Chính phủ quốc gia đó đã sử dụng công cụ thuế nhập khẩu đối với
mặt hàng ôtô. Thuế nhập khẩu ôtô được coi như là một công cụ hữu hiệu nhất
để bảo hộ cho nền sản xuất ôtô của quốc gia đó.
 Ôtô được chia ra làm các loại:
- Xe ôtô chở người gồm có nhiều loại ví dụ như: Xe dưới 10 chỗ ngồi;

Xe 20-24 chỗ ngồi; Xe thể thao việt dã…
- Xe ôtô chở hàng (xe tải): Xe tải nhẹ; Xe rơ moóc….
Mức thuế suất thuế nhập khẩu đánh vào mặt hàng ôtô có thể căn cứ vào:
số lượng ghế ngồi, trọng lượng xe, phân khối, loại động cơ, dung tích xi lanh…
17
Ví dụ như ở Việt Nam có thể phân loại các mức thuế suất đánh vào
từng mặt hàng ôtô như sau:
• Đối với xe ôtô chở người thuộc nhóm 8702 và 8703 có thể căn
cứ vào các loại sau:
- Xe ôtô chở 10 người trở lên.
- Loại động cơ đốt trong kiểu piston đốt cháy bằng sức nén (diesel
hoặc bán diesel).
- Tổng trọng lượng có tải tối đa không quá 6 tấn.
- Tổng trọng lượng có tải tối đa trên 6 tấn nhưng không quá 18 tấn.
- Xe ôtô có động cơ được thiết kế chủ yếu chở người, kể cả xe chở
người có khoang hành lý riêng và ôtô đua. Căn cứ vào dung tích xi lanh của
từng loại mà mức thuế suất thuế nhập khẩu cũng khác nhau như: dung tích xi
lanh dưới 1800 cc, dung tích xi lanh từ 1800 cc trở lên nhưng dưới 2000 cc,
dung tích xi lanh từ 2000 cc trở lên nhưng dưới 2500 cc,…
• Đối với xe tải thuộc nhóm 8704 có thể chia thành các loại sau:
+ Căn cứ vào tổng trọng lượng:
- Loại trọng lượng có tải tối đa không quá 5 tấn.
- Loại trọng lượng có tải tối đa trên 5 tấn nhưng không quá 10 tấn.
- Loại trọng lượng có tải tối đa trên 10 tấn nhưng không quá 20 tấn.
- Và các loại trọng lượng có tải tối đa trên 20 tấn.
+ Căn cứ vào loại xe có động cơ đốt trong kiểu piston đốt cháy bằng
sức nén (diesel hoặc bán diesel):
- Xe đông lạnh.
18
- Xe thu gom phế thải có bộ phận nén phế thải

- Xe téc.
Tóm lại, trong chương 1 đã khái quát xuất xứ của thuế nhập khẩu, ảnh
hưởng thuế nhập khẩu đối với các nền kinh tế. Đồng thời nghiên cứu, tìm hiểu
về các loại ôtô, căn cứ để đánh mức thuế suất nhập khẩu đối với từng loại mặt
hàng ôtô. Tiếp đến chương 2 sẽ trình bày về thực trạng thuế nhập khẩu đối
với mặt hàng ôtô ở Việt Nam.
Chương 2
THỰC TRẠNG VỀ THUẾ NHẬP KHẨU ĐỐI VỚI MẶT HÀNG ÔTÔ
Ở VIỆT NAM
2.1. KHÁI QUÁT VÀI NÉT VỀ NGÀNH CÔNG NGHIỆP ÔTÔ VÀ NHẬP KHẨU
ÔTÔ Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
2.1.1. Ngành công nghiệp ôtô ở Việt Nam
Ngành công nghiệp ô tô Việt Nam là ngành sinh sau đẻ muộn, ra đời
sau các nước trong khu vực từ 40-50 năm. Ngành công nghiệp ôtô là ngành
rất quan trọng, phục vụ rất hiệu quả trong quá trình công nghiệp hoá – hiện
đại hoá và xây dựng tiềm lực an ninh, quốc phòng của đất nước và là ngành
luôn luôn được ưu đãi nhất trong số các ngành công nghiệp.
Nền tảng của các doanh nghiệp ôtô trong nước là những doanh nghiệp
lớn trước kia chuyên làm công việc sửa chữa, đại tu xe, nay được đầu tư bổ
sung, nâng cao năng lực sản xuất. Các doanh nghiệp ôtô hầu hết được tổ chức
theo hướng chuyên môn hóa một số chủng loại xe với dây chuyền sản xuất
đơn giản như: gò, hàn, sơn, lắp ráp thiếu sự liên kết với nhau. Hơn thế nữa,
trang thiết bị phần lớn đã hết khấu hao, rất lạc hậu.
19
Việc “chế tạo” ôtô ở Việt Nam chỉ dừng lại chủ yếu ở việc hàn, sơn, và
sản xuất một số linh kiện, phụ tùng như lốp, ắc quy, ghế, đèn trần, tay nắm
cửa Động cơ ôtô vẫn phải nhập, hầu như dưới dạng nguyên chiếc. Phần lớn
các chi tiết vỏ xe phải nhập khẩu dưới dạng CKD. Kính, đèn vẫn phải nhập
khẩu phần lớn. Thống kê cho thấy tỷ trọng nội địa hóa trong nhiều mẫu xe chỉ
dừng lại ở con số 5-6%, và thường không vượt quá 20% trong toàn ngành.

Từ khi mới bắt đầu đăng ký đầu tư năm 1995, các liên doanh đã cam
kết sau năm thứ ba (tính từ lúc đi vào sản xuất) sẽ sử dụng linh kiện, phụ tùng
chế tạo trong nước với tỷ lệ tăng dần từng năm, để đến năm thứ 10 sẽ đạt ít
nhất 30% giá trị xe. Nhằm khuyến khích điều này, trong nhiều năm, Chính
phủ Việt Nam đã có nhiều ưu đãi như dựng hàng rào thuế quan hạn chế xe
nhập khẩu hay buộc các đơn vị mua xe bằng vốn ngân sách phải mua xe sản
xuất trong nước Ngoài ra, chính sách ưu đãi cho ngành cơ khí, trong đó có
việc sản xuất phụ tùng ôtô, xe máy cũng đã được Chính phủ ban hành. Ngay
mức thuế đối với linh kiện nhập khẩu đến thời điểm hiện nay cũng chưa bằng
mức quy định trong lộ trình nội địa hóa. Thế nhưng việc chuyển giao công
nghệ hầu như chưa được thực hiện khiến cho tiến trình nội địa hóa vẫn ở
trong tình trạng ì ạch.
Việt Nam với số dân 84 triệu người, tăng trưởng GDP trung bình đạt
8%/năm nhưng chỉ đang sở hữu khoảng 670.000 ôtô, số lượng xe ô tô ở Việt
Nam mới chỉ đạt 8 xe/1.000 dân, trong khi ở Trung Quốc là 24 xe/1.000 dân,
Thái Lan 152 xe/1.000 dân, Hàn Quốc 228 xe/1.000 dân, Mỹ 682 xe/1.000
dân….Có thể khẳng định Việt Nam thực sự là một thị trường với tiềm năng
khổng lồ chưa được khai thác, chưa nói đến những lợi thế cạnh tranh từ điều
kiện kinh tế xã hội như lao động rẻ, chính trị và tiền tệ ổn định,…
20
Sau khi gia nhập WTO Việt Nam sẽ phải bãi bỏ các biện pháp đầu tư
liên quan đến thương mại. Sẽ không còn chuyện các doanh nghiệp ôtô nước
ngoài bị yêu cầu phải liên doanh với các doanh nghiệp nội địa nếu muốn sản
xuất ôtô ở Việt Nam.
Hiện nay, các hãng ôtô nước ngoài đã đầu tư vào Việt Nam với tốc độ
khá nhanh, đã có hơn chục liên doanh đi vào hoạt động. Tổng số vốn đầu tư
của các liên doanh này khoảng 600 triệu USD, với tổng công suất gần
150.000 xe các loại/năm.
+ Số doanh nghiệp sản xuất ô tô: 14 liên doanh
+ Tổng vốn đầu tư: 875 triệu USD

+ Công suất thiết kế: 185.000 xe/năm
+ Kiểu dáng: 28 kiểu xe
+ Số doanh nghiệp tham gia sản xuất, lắp ráp, sửa chữa và chế tạo phụ
tùng ôtô: 160 doanh nghiệp trong đó 60 doanh nghiệp chuyên chế tạo phụ tùng.
+ Đối tác nước ngoài: Mỹ, Nhật, Tây Âu
+ Dự án đang triển khai: 11 dự án. Công suất: 132.600 ngàn xe/năm
+ Sản lượng khai thác: 5-6 ngàn xe/năm (5% công suất thiết kế).
Theo dự báo của Mitsubishi, nhu cầu xe hơi tại Việt Nam vào năm
2010 sẽ là 250.000 xe, trong đó nhu cầu các loại xe trong nước đã sản xuất
được chỉ khoảng 50%.
Theo quyết định 177/2004/QĐ-TTG dự kiến sản lượng ôtô các loại cụ
thể là:
Bảng 2.1: Bảng dự kiến sản lượng ôtô các loại
Đơn vị: Xe
21
STT Loại xe
Năng lực
hiện tại
năm 2006
Sản lượng
yêu cầu
năm 2010
(dự báo)
Sản
lượng cần
bổ sung
năm 2010
Ghi chú
1
Xe con đến 5 chỗ

ngồi
100.000 60.000
Không cần
ĐT thêm
2
Xe con từ 6 - 9 chỗ
ngồi
4.000
(đến 2010)
10.000 6.000 Đầu tư thêm
3 Xe khách 8.000 36.000 28.000
+ 10 - 16 chỗ ngồi 21.000 21.000 ĐT thêm
+ 17 - 25 chỗ ngồi 5.000 5.000 ĐT thêm
+ 26 - 46 chỗ ngồi
7.000
(đến 2010)
6.000
Không cần
ĐT thêm
+ > 46 chỗ ngồi 2.000 4.000 2.000 ĐT thêm
4 Xe tải 14.000 127.000 113.000
+ Đến 2 tấn 10.000 57.000 47.000 ĐT thêm
+ > 2 tấn - 7 tấn 4.000 35.000 31.000 ĐT thêm
+ > 7 tấn - 20 tấn 34.000 34.000 ĐT thêm
+ > 20 tấn 1.000 1.000 ĐT thêm
5 Xe chuyên dùng 300 6.000 6.000 ĐT thêm
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư
Bảng 2.2: Dự kiến sản lượng ô tô các loại đến năm 2020
Đơn vị: xe
TT 2005 2010 2020

22
1 Tổng số ô tô 120.000 239.000 398.000
2 Xe con đến 5 chỗ ngồi 32.000 60.000 116.000
3 Xe con từ 6 - 9 chỗ ngồi 3.000 10.000 28.000
4 Xe khách 15.000 36.000 79.900
+ 10 - 16 chỗ ngồi 9.000 21.000 44.000
+ 17 - 25 chỗ ngồi 2.000 5.000 11.200
+ 26 - 46 chỗ ngồi 2.400 6.000 15.180
+ > 46 chỗ ngồi 1.600 4.000 9.520
5 Xe tải 68.000 127.000 159.800
+ Đến 2 tấn 40.000* 57.000* 50.000
+ > 2 tấn - 7 tấn 14.000 35.000 53.700
+ > 7 tấn - 20 tấn 13.600 34.000 52.900
+ > 20 tấn 400 1.000 3.200
6 Xe chuyên dùng 2.000 6.000 14.400
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư
Khả năng tiêu thụ của thị trường ô tô Việt Nam trong tương lai rất lớn
nhưng năng lực sản xuất hiện tại của nhiều loại xe còn chưa đáp ứng được
nhu cầu đó. Đây chính là cơ hội mở cho các nhà đầu tư.
2.1.2. Tình hình nhập khẩu ôtô ở Việt Nam trong những năm gần
đây.
2.1.2.1. Năm 2007
23
Thị trường ôtô Việt Nam sẽ rất sôi động. Giờ là lúc, ngành công nghiệp
xe hơi Việt Nam cần có những bước chuẩn bị cho cuộc hội nhập bắt buộc và
sự đòi hỏi quyền lợi của người tiêu dùng có thể sẽ đến trong nay mai.
Trong năm 2007, thuế suất thuế nhập khẩu ôtô liên tục được thay
đổi và giảm dần theo cam kết gia nhập WTO của Việt Nam. Tổng cục Hải
quan cho biết, trong số xe nhập về sau khi giảm thuế nhập khẩu, lượng xe
nhập khẩu tăng kỷ lục, với 28.000 xe các loại, bằng 223% lượng xe nhập

của năm 2006 với trị giá hơn 500 triệu USD (so với hơn 200 triệu USD
của năm 2006). Như vậy, so với mức nhập khẩu trung bình trước đây, số
xe ôtô dưới 12 chỗ ngồi nhập về đã tăng mạnh, tăng hơn 10000 xe so với
năm 2006.
Cùng với lượng xe nguyên chiếc nhập khẩu tăng mạnh, số lượng linh
kiện phụ tùng phụ ôtô nhập về với số lượng hơn 4000 bộ…
Như vậy, động thái giảm thuế đối với mặt hàng xe ôtô mới đây của Bộ
Tài Chính đã có tác động, xe ôtô nguyên chiếc và linh kiện đã nhập về nhiều
và nguồn cung cho hàng hóa trong nước đã được tăng cường.
2.1.2.2. Năm 2008
Trong năm 2008, mặc dù nền kinh tế gặp nhiều khó khăn nhưng lượng ôtô
nhập khẩu nguyên chiếc về Việt Nam ở mức 50.400 xe và tổng giá trị kim ngạch
nhập khẩu các loại sản phẩm ôtô đạt mức 2,44 tỷ USD.
Tổng Cục Thống kê cho biết, tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu các
loại sản phẩm ôtô năm 2008 cao hơn năm 2007 là 1 tỷ USD và đạt mức
2,44 tỷ USD, trong đó, mặt hàng ôtô nhập khẩu nguyên chiếc chiếm giá trị
24
hơn 1 tỷ USD, cao gấp đôi năm 2007 với tổng số 50.400 xe, tăng 22.400
xe so với năm 2007.
Theo các chuyên gia đánh giá, kim ngạch ôtô nhập khẩu năm 2008 đạt
mức như vậy một phần lớn là do nhu cầu mua sắm ôtô của người tiêu dùng
tăng mạnh từ năm 2007. Tiếp đó, giữa năm 2008, do thuế nhập khẩu liên tục
được điều chỉnh tăng khiến các nhà nhập khẩu đua nhau nhập xe về để “chạy
thuế” đã dẫn đến lượng ôtô nhập khẩu về Việt Nam tăng nhanh, chủ yếu trong
khoảng giữa năm 2008.
2.1.2.3. Năm 2009
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong tháng 1/2009, lượng ôtô
nguyên chiếc nhập khẩu đạt 1.300 chiếc với giá trị kim ngạch 27 triệu USD.
Và ước tính trong tháng 2/2009, lượng ôtô nguyên chiếc nhập khẩu cũng sẽ
chỉ tương đương với tháng đầu năm, mặc dù giá trị kim ngạch có thể cao hơn

đôi chút, đạt khoảng 30 triệu USD.
Như vậy, kim ngạch nhập khẩu ôtô nguyên chiếc trung bình trong hai
tháng đầu năm 2009 chỉ bằng khoảng một nửa kim ngạch của tháng 12/2008
(57,3 triệu USD, với lượng xe nhập về đạt con số 2.000 chiếc).
Còn nếu so sánh với cùng kỳ năm 2008, kim ngạch nhập khẩu ôtô
nguyên chiếc trong hai tháng đầu năm 2008 có mức giảm rất mạnh mẽ, có khi
chỉ bằng khoảng 24,7% về lượng và 27% về giá trị.
Việc kim ngạch nhập khẩu ôtô nguyên chiếc giảm mạnh trong hai
tháng đầu năm, theo các chuyên gia phân tích, là hoàn toàn dễ hiểu. Bởi trong
bối cảnh kinh tế suy thoái, thắt chặt chi tiêu thì nhu cầu mua sắm ôtô của
người dân, các cơ quan và kể cả của các doanh nghiệp quốc doanh và tư nhân
là rất thấp.
25

×