Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Pháp luật về biện pháp bảo đảm đầu tư và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài tại CHDCND lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.49 KB, 59 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một nhu cầu tất yếu của các quốc
gia trên thế giới. Cùng với sự phát triển đó, nguồn vốn đầu tư trên thế giới
luôn dịch chuyển từ khu vực này sang khu vực khác; từ quốc gia này sang
quốc gia khác; từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển; thậm chí
từ các nước đang phát triển sang các nước đang phát triển. Một xu hướng khá
phổ biến của những thập niên đầu của thế kỷ XXI là vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) có xu hướng “chảy” từ các nước phát triển vào các nước đang
phát triển. Mở rộng quan hệ quốc tế không phải là một vấn đề được một mình
Lào quan tâm mà còn là vấn đề “nóng hổi” của thế giới.Cú rất nhiều yếu tố
tạo nên một môi trường đầu tư thông thoáng và hấp dẫn mà một trong những
yếu tố đú chớnh là hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật về đầu tư.
Xuất phát từ thực tiễn và nhu cầu phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước
Lào đặc biệt quan tâm đến các biện pháp bảo đảm đầu tư và khuyến khích đầu
tư trực tiếp nước ngoài nhằm thu hút các dự án đầu tư. Ngay từ khi mới thành
lập, Lào đã hết sức coi trọng vấn đề đầu tư, coi đây là động lực để phát triển
kinh tế. Luật đầu tư nước ngoài tại CHDCND Lào năm 1988, Luật khuyến
khích và quản lý đầu tư nước ngoài năm 1994 và Luật khuyến khích đầu tư
nước ngoài năm 2004 cựng các văn bản pháp luật liên quan đó xác lập một
khung pháp lý vững chắc để thu hút đầu tư.
Việc tìm hiểu các quy định về BĐĐT và KKĐT là một vấn đề hết sức ý
nghĩa đối với CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay. Đó cũng chính là lý do
tác giả chọn đề tài : “Pháp luật về Biện pháp Bảo đảm đầu tư và khuyến
khích đầu tư trực tiếp nước ngoài tại CHDCND Lào” làm Khóa luận tốt
nghiệp đại học Luật.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài.
Liên quan đến hoạt động đầu tư nói chung và các biện pháp BĐĐT và
KKĐT trực tiếp nước ngoài nói riêng đã có nhiều công trình khoa học về vấn
đề này. Tại CHDCND Lào hiện nay đó cú một số công trình nghiên cứu về
đầu tư đăng trên tạp chí TARGET (viết về hoạt động đầu tư của Lào) và một


số công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước, công trình khoa học của
các nghiên cứu sinh ở nước ngoài. Mặc dù vậy, đến thời điểm hiện nay vẫn
chưa có một công trình nghiên cứu về vấn đề này một cách toàn diện. Việc
nghiên cứu còn mang tính đơn lẻ, chưa đồng bộ. Từ đó, những phương hướng
giải pháp hoàn thiện còn mang nặng tính lý thuyết, khó phát huy tác dụng
trong hoạt động đầu tư và quản lý Nhà nước, đặc biệt trong quản lý Nhà nước
về kinh tế.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Khóa luận được viết trên cơ sở Lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin về
Nhà nước và Pháp luật; Đường lối của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào về
phát triển kinh tế - xã hội ở Lào. Đồng thời, tác giả sử dụng các phương pháp
nghiên cứu, như: phõn tích, đánh giá, tổng hợp, so sánh, logic…và nhiều
phương pháp khoa học khác nhằm làm sáng tỏ những nội dung cơ bản của đề
tài trên phương diện lý luận và thực tiễn.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về biện pháp
BĐĐT và KKĐT đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Lào và các quy định về bảo
đảm đầu tư và khuyến khích đầu tư trực tiếp của CHDCND Lào.
Phạm vi nghiên cứu của Khóa luận được tập trung làm rõ những vấn đề
lý luận về bảo đảm đầu tư và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Lào. Thông qua việc đánh giá thực trạng pháp luật về biờn pháp BĐĐT và
KKĐT nước ngoài của CHDCND Lào; nêu những ưu, nhược điểm, đồng thời
tác giả đưa ra một số kiến nghị, đề xuất góp phần hoàn thiện hệ thống pháp
luật về đầu tư tại CHDCND Lào.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích của Khóa luận là từ việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn của đầu tư tại CHDCND Lào để nêu ra phương hướng hoàn thiện
pháp luật về BĐĐT và KKĐT trực tiếp nước ngoài.
Từ những mục đớch trên, nhiệm vụ nghiên cứu của Khóa luận tập trung
nghiên cứu các vấn đề sau:

Những vấn đề lý luận cơ bản và thực trạng các quy định pháp luật về biện
pháp BĐĐT và KKĐT trực tiếp nước ngoài ở CHDCND Lào.
Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về biện pháp BĐĐT và
KKĐT tại CHDCND Lào.
6. Những kết quả mới của khóa luận.
+ Trình bày một cách khoa học, cụ thể các khái niệm, như: Đầu tư trực
tiếp nước ngoài, Bảo đảm đầu tư, Khuyến khích đầu tư và pháp luật của một
số nước trên thế giới về các biện pháp bảo đảm đầu tư và khuyến khích đầu
tư.
+ Đỏnh giá, phân tích cụ thể việc áp dụng quy định pháp luật về các
biện pháp BĐĐT và KKĐT trực tiếp nước ngoài tại Lào trên phương diện lý
luận và thực tiễn. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những kiến nghị, đề xuất nhằm
góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật nước CHDCND Lào về vấn
đề này.
7. Cơ cấu của Khóa luận.
Khóa luận được chia làm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về các biện pháp BĐĐT và KKĐT
trực tiếp nước ngoài tại CHDCND Lào.
Chương II: Thực tiễn áp dụng các biện pháp BĐĐT và KKĐT trực tiếp
nước ngoài tại CHDCND Lào.
Chương III: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định của
pháp luật về các biện pháp BĐĐT và KKĐT tại CHDCND Lào.
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO
ĐẢM VÀ KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI TẠI CHDCND LÀO.
1.1.Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài, bảo đảm đầu tư và
khuyến khích đầu tư tại CHDCNDLào.
1.1.1 Khái niệm về ĐTTTNN tại CHDCND Lào
Đầu tư là khái niệm tương đối rộng. Hiện nay, tại Lào có nhiều quan

điểm khác nhau về đầu tư.
Theo Tiến sỹ Phonesay Vilaysack thì đầu tư là: “Đầu tư là của cải mà
có thể buôn bán được, hi vọng rằng nó tạo ra thu nhập hay tăng thêm giá trị
trong tương lai. Sự nhận thức về mặt kinh tế, đầu tư là việc buôn bán sản
phẩm mà không sử dụng trong ngay hôm nay nhưng nó sẽ được sử dụng trong
tương lai để tạo ra sự giàu có. Về mặt tài chính, đầu tư là của cải tiền tệ buôn
bán với ý của cải của nó sẽ thu lợi nhuận hoặc tăng thêm gớa trị trong tương
lai và có thể bán với giá cao hơn”.[17, tr 4,5]
Theo Thạc sỹ Souliya Pouangpadith thì đầu tư là: “Đầu tư là khái niệm
chỉ việc bỏ nhân lực, tài lực, vật lực vào một công việc gì đó dựa trên cơ sở
tính toán hiệu quả kinh tế - xã hội. Đầu tư bao giờ cũng có chủ thể xác định,
đối tượng, mục đích và cách thức thực hiện xác định” [16 , tr4 ].
Hiện nay, khái niệm đầu tư ở CHDCND Lào được hiểu và sử dụng rất
rộng. Đầu tư trong lĩnh vực kinh tế, đầu tư trong lĩnh vực xã hội, đầu tư trực
tiếp và đầu tư gián tiếp, đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài… Đầu tư có
thể được gọi là một hoạt động hoặc một chuỗi hoạt động nối tiếp nhau.
Dưới góc độ kinh tế, đầu tư được hiểu là khâu đầu tiên trong quá trình
sản xuất kinh doanh của chủ thể đầu tư. Đầu tư cũng được hiểu là toàn bộ các
chi phí được bỏ ra trước khi thu lợi nhuận ròng. Đầu tư có thể được coi là quá
trình lâu dài bao gồm nhiều khâu nhiều, bước.
Xột trên góc độ quốc gia, nguồn vốn đầu tư được chia làm 2 loại là
nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Do đó hoạt
động đầu tư cũng được phân chia thành hai hình thức cơ bản là : Đầu tư trong
nước và đầu tư nước ngoài.
Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một hình thức mà nhà
đầu tư bỏ vốn để tạo lập cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu tư. Trong
đó, nhà đầu tư có thể thiết lập quyền sở hữu toàn phần hay từng phần trong
toàn bộ vốn đầu tư và giữ quyền quản lý trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn
nhằm mục đích thu được các lợi nhuận từ các hoạt động đầu tư trên cơ sở tuân
theo các quy định của pháp luật đầu tư nước nào đó [13, tr5].

1.1.2 Khái niệm về Bảo đảm đầu tư.
BĐĐT có thể được hiểu là bảo toàn những lợi ích thiết thực, chính
đáng của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư, hoặc nói một cách cụ thể đó là
bảo toàn vốn và các tài sản được các nhà đầu tư đưa vào sản xuất, kinh doanh
đồng thời tạo thuận lợi cho vốn và tài sản đó mang lại lợi nhuận cho các nhà
đầu tư.
Chúng ta đều biết, các nhà đầu tư chỉ yên tâm và mạnh dạn bỏ vốn, tài
sản ra sản xuất kinh doanh khi họ chắc chắn rằng vốn họ bỏ ra sẽ có lãi và cả
vốn lẫn lãi của họ đều được bảo đảm an toàn. Do vậy, BĐĐT là một trong
những phương cách có tính chiến lược để khuyến khích đầu tư và thu hút vốn
đầu tư. Trong số các biện pháp BĐĐT thì biện pháp chắc chắn nhất và hiệu
quả nhất là bảo đảm bằng pháp luật. Vì thế, Nhà nước muốn khuyến khích,
thúc đẩy đầu tư đều cố gắng xây dựng, ban hành và bảo đảm thực hiện các
quy định về bảo đảm đầu tư [18, tr12,13 ].
BĐĐT là những cam kết của nước tiếp nhận đầu tư nhằm đảm bảo an
toàn về mặt thực tiễn đối với tài sản, vốn, các quyền và lợi ích hợp pháp của
nước ngoài khi tiến hành các hoạt động đầu tư tại nước tiếp nhận. Đặc trưng
của hoạt động đầu tư kinh doanh là xảy ra các rủi ro rất lớn, chính vì vậy khi
tiến hành đầu tư, các nhà đầu tư đều chú trọng tới việc lựa chọn các biện pháp
giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh [13, tr7,8].
Khả năng hạn chế rủi ro được cam kết giảm bớt hoặc ngăn chặn bởi
chính Nhà nước tiếp nhận đầu tư. Khi các nhà đầu tư tự tiến hành bảo đảm
đầu tư cho mỡnh thỡ cỏc nhà đầu tư đã cá biệt hoá dự án đầu tư của mình với
một khả năng giảm thiểu rủi ro so với các dự án đầu tự khác. Tuy nhiên, với
các biện pháp bảo đảm đầu tư do Nhà nước tiếp nhận đầu tư quy định thì
những cam kết đó được áp dụng với tất cả các dự án đầu tư, không phân biệt
quy mô vốn, nguồn gốc vốn cũng như địa bàn và lĩnh vực đầu tư. Nếu sử
dụng các biện pháp bảo đảm đầu tư do nước tiếp nhận đầu tư ban hành thỡ
cỏc nhà đầu tư còn tránh được những rủi ro về mặt luật pháp hoặc sự thay đổi
bất thường đối với các hoạt động kinh doanh của nước tiếp nhận đầu tư [ 19 ].

1.1.3 Khái niệm về khuyến khích đầu tư tại Lào.
Tại Hội nghị của Liên hợp quốc về Thương mại và phát triển
(UNCTAD) đã đưa ra khái niệm về KKĐT: “ Khuyến khích đầu tư hay còn
gọi là ưu đãi đầu tư là các biện pháp được chính phủ sử dụng để thu hút đầu
tư, hướng các dự án đầu tư vào các nghành, các khu vực cần thiết hoặc ảnh
hưởng đến tính chất của đầu tư ”.
Nước CHDCND Lào đang đẩy mạnh phát triển kinh tế thực hiện mục
tiêu chuyển đổi từ cơ cấu quản lý kiểu cũ sang cơ chế quản lý kiểu mới, đẩy
mạnh phát triển nền kinh tế thị trường để xây dựng đất nước giàu đẹp hơn qua
đó cải thiện đời sống cho nhõn dõn… Mặt khác quỏ trỡnh toàn cầu hoá đang
diễn ra sâu rộng và ảnh hưởng đến mọi mặt của cuộc sống, nếu không mở
rộng đầu tư, thu hút nguồn vốn đầu tư sẽ đồng nghĩa với sự lạc hậu, thụt lùi
hơn so với các nước trên thế giới. Đặc biệt Lào đang trong tớờn trỡnh đàm
phán để gia nhập Tổ chức Thương mai thế giới (WTO); vì vậy cần phải hoàn
thiện hơn nữa hệ thống pháp luật để tương thích với pháp luật quốc tế. Với
vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng, vấn đề thu hút đầu tư càng trở nên
nóng hổi hơn bao giờ hết. Ở nước CHDCND Lào, chưa có một khái niệm
chính thức về KKĐT; theo đó, khái niệm KKĐT được để cập ở nhiều văn bản
pháp luật khác nhau với các biện pháp khác nhau.
Từ kết quả nghiên cứu có thể đưa ra khái niệm về KKĐT như sau:
KKĐT là hệ thống các chính sách, biện pháp ưu đãi đầu tư của nhà
nước nhằm thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước hoặc
định hướng đầu tư theo những mục tiêu phát triển nhất định.
1.2 Vai trò của các biện pháp BĐĐT và KKĐT ở Lào.
CHDCND Lào đang tiến hành công cuộc đổi mới, nền kinh tế đang
trong tình trạng nghèo nàn lạc hậu, điểm xuất phát thấp, nền kinh tế mang
nặng tính chất tự cung tự cấp. Toàn bộ nền kinh tế vẫn đang trong quỹ đạo tái
sản xuất chưa được mở rộng. Một nguyên nhân quan trọng là vấn đề tạo dựng
nguồn vốn và quá trình sử dụng vốn cho hiệu quả còn hạn chế, sức ép của tình
trạng “đúi vốn” đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế cũng như yêu cầu đổi mới kỹ

thuật đã là vấn đề nặng nề trong tiến trình phát triển kinh tế của Lào. Nhu cầu
thu hút đầu tư đang trở nên bức thiết trong bối cảnh hiện nay. Sẽ không có sự
hoàn chỉnh nếu không có đầu tư tư bản và kỹ thuật hiện đại của các nước trên
thế giới… đối với các nước đang phát triển, đặc biệt thu hút FDI là nhân tố
chủ yếu cho tăng trưởng kinh tế quốc gia.
Xét một cách khách quan, Lào còn có nhiều tiềm năng để phát triển
kinh tế chưa được khai thác một cách hiệu quả. Năm 2008, kinh tế nước nhà
được các chuyên gia đánh giá là có bước phát triển khá. Nhịp độ tăng trưởng
kinh tế cao 7,3% trong đó hoạt động đầu tư nước ngoài vào Lào là một trong
những nhân tố tạo nên sự thành công này. Thế mạnh của Lào là phát triển
công nghiệp năng lượng và khai thác mỏ để đáp ứng nhu cầu trong nước và
xuất khẩu. Chính phủ Lào đã thành lập khu công nghiệp tại Thủ đụ Viờng
Chăn, khu kinh tế đặc biệt, tạo ra cơ hội tốt trong việc thu hút đầu tư. Vì vậy
các biện pháp BĐĐT và KKĐT có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Cụ thể :
Thứ nhất, các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào một quốc gia,
ngành nghề, lĩnh vực nào đó thì họ phải tìm hiểu để họ biết được những gì
trong đó? khả năng tái đầu tư ra sao? Vì vậy các biện pháp BĐĐT và KKĐT
chính là lời cam kết của Lào trong lĩnh vực đầu tư qua đó thúc đẩy FDI để
phát triển kinh tế.
Thứ hai, qua các biện pháp BĐĐT và KKĐT thể hiện được quan điểm
và chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như chính sách đầu tư và chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội trong một giai đoạn nhất định. Điều đó được
cụ thể hoá từ các văn bản pháp luật trong lĩnh vực đầu tư. Hệ quả của những
mục tiêu đó là khai thác có hiệu quả các nguồn lực kinh tế của quốc gia, bảo
vệ và xây dựng phát triển đất nước.
Thứ ba, CHDCND Lào đang gấp rút hoàn thiện hệ thống pháp luật có
thể đáp ứng các điều kiện cần và đủ gia nhập WTO. Các biện pháp BĐĐT và
KKĐT sẽ giúp Lào quảng bá hình ảnh của mình ra bạn bè quốc tế, qua đó tạo
thuận lợi để đàm phán thành công với các thành viên của WTO, thắt chặt tình
hữu nghị giữa các nước.

1.3 Pháp luật về bảo đảm đầu tư và khuyến khích đầu tư tại
CHDCND Lào.
Pháp luật về BĐĐT và KKĐT là hệ thống những quy phạm pháp luật
do Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực
bảo đảm và khuyến khích đầu tư.
Ngày 1-12-1975 CHDCND Lào đã ra đời, đánh dấu một mốc son lịch
sử trong tiến trình phát triển của đất nước. Ngay từ khi giành được độc lập,
Đảng và Nhà nước đã đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực đầu tư từ những năm
1980. Đại hội Đảng lần thứ IV năm 1986 đã đánh dấu bước đổi mới từ cơ chế
quản lý quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường. Do nhu cầu bước đầu tiên
của sự đổi mới kinh tế thương mại còn gọi là “kinh tế thương mại trong giai
đoạn đột phá của Lào” đã và đang tiếp tục vững chắc theo định hướng XHCN
là sự nghiệp cao quý của đất nước. Cũng tại Đại hội này, Hội đồng nhân dân
tối cao của Quốc hội đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Lào ngày 25-7-
1988. Điều đó thể hiện thái độ mong muốn của Nhà nước đối với
NĐTNN:“Chớnh phủ nước CHDCND Lào hoan nghênh việc đầu tư nước
ngoài ở Lào trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền của Lào và hai bên
cựng cú lợi” ( Điều 1 Luật đầu tư nước ngoài năm 1988). Tuy nhiên, những
quy định này tại thời điểm năm 1988 chỉ có thể xem như là một lời tuyên
ngôn, còn khả năng thực thi thì mới ở mức độ hạn chế. Sau khi Đảng và Nhà
nước Lào thực hiện chính sách mở cửa, Luật đầu tư nước ngoài đã được công
bố chính thức ngày 19-9-1988, đây là đạo luật cơ sở pháp lý cho hoạt động
FDI tại Lào (Luật đầu tư nước ngoài tại lào năm 1988, trang 1,2).
Theo Luật đầu tư nước ngoài 1988, nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư
vào Lào dưới một số hình thức như:
Hình thức đầu tư “ Hợp đồng hợp tác kinh doanh” là hình thức hai bên
cùng góp vốn, vật tư, trang bị kỹ thuật trên cơ sở một hợp đồng sản xuất hàng
hoá tại lào. Lợi ích sẽ được chia cho hai bên theo tỷ lệ nhất định do hai bên
thoả thuận truớc. Lợi ích chia cho bên nước ngoài không được tiêu thụ tại
Lào. Đây thực chất là một dạng của hình thức đầu tư “Hợp tác kinh doanh

trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh” theo pháp luật Lào hiện nay.
Hình thức Hợp doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước
thực chất là doanh nghiệp liên doanh giữa bên Lào và bên nước ngoài, doanh
nghiệp này do hai bên được thành lập và đăng ký theo pháp luật của Lào cùng
sở hữu kinh doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư Lào. Việc điều
hành, tổ chức hoạt động của liên doanh và mối quan hệ giữa cỏc bờn đó điều
chỉnh bởi hợp đồng được đăng ký giữa hai bên và điều lệ về kinh doanh phù
hợp với pháp luật của Lào. Điều VIII điều lệ năm 1988 quy định: “ Nhà đầu
tư trong liên doanh phải góp vốn tối thiểu là 30% tổng đầu tư của liên doanh,
vốn góp của một bên nước ngoài hoặc cỏc bờn nước ngoài trong doanh
nghiệp sẽ được chuyển đổi sang tiền Lào theo tỷ giá hối đoái của CHDCND
Lào và phù hợp với pháp luật của Lào”.
Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là hình thức đầu tư nước
ngoài của một hoặt nhiều đầu tư nước ngoài được thành lập và đăng ký theo
pháp luật của Lào mà không có sự tham gia của nhà đầu tư trong nước, có thể
là công ty mới hoặc một chi nhánh một văn phòng đại diện của công ty nước
ngoài.
Một số chế định khác thể hiện sự khuyến khích và bảo hộ của nhà nước
Lào đối với hoạt động FDI và các chế định về quyền và nghĩa vụ của bên
nước ngoài, xử lý tranh chấp cụ thể là:
- Nhà đầu tư nước ngoài được bảo đảm quyền kinh doanh trong một
thời hạn từ 10 đến 15 năm, trường hợp đặc biệt có thể kéo dài.
- Nhà nước Lào bảo hộ vốn cho các nhà đầu tư. Nếu do yêu cầu của
nền kinh tế quốc dân phải quốc hữu hoá xí nghiệp thì nhà nước Lào mua lại
theo giá cả hợp lý do hai bên thoả thuận.
- Nhà đầu tư nước ngoài được chuyển vốn và lợi nhuận ra nước ngoài,
khuyến khích đầu tư trở lại (tái đầu tư).
- Nhà đầu tư nước ngoài có thể được hưởng các ưu đãi về thuế (miễn
hoặc giảm thuế một hay nhiều lần, thời gian dài hay ngắn, các loại thuế phải
nộp) tuỳ theo lĩnh vực.

- Nhà đầu tư nước ngoài sử dụng công nhân lao động Lào [16. tr12].
Như vậy vấn đề KK và BHĐT đã được quy định trong pháp luật Lào,
cụ thể là Luật đầu tư 1988. So với các văn bản pháp luật được quy định trong
các lĩnh vực khác như dân sự, hình sư…Luật đầu tư của lào được ban hành
khá sớm (trước khi Hiến pháp Lào được ban hành 1991). Tất nhiên những
quy định này còn hết sức sơ sài, không có những điều kiện cụ thể và một môi
trường tốt để mang lại tính khả thi cho những quy định đó. Cả về mặt chủ
quan và khách quan, Luật đầu tư 1988 đã không đáp ứng được những đòi hỏi
mang tính khả thi trong hoạt động đầu tư tại Lào. Mặc dù vây, Luật đầu tư
nước ngoài năm 1988 vẫn thể hiện nhiều điểm thông thoáng và hẫp dấn
nhưng do tác động của một số yếu tố đã làm cho luật này kém hiệu quả cần
phải được sửa đổi bổ sung. Đó là:
• Sự cạnh tranh trong việc thu hút đầu tư giữa các quốc gia kêu gọi đầu
tư ngày càng gay gắt.
• Tình hình kinh tế nước Lào có nhiều thay đổi, nhiều thành phần kinh tế
được thừa nhận và được tạo điều kiện kinh tế để phát triển.
• Một trong những mục tiêu quan trọng của chiến lược kinh tế-xã hội
của nước Lào đến năm 2000 là ra sức thu hút đồng vốn FDI.[13,tr23]
Ngày 14-03-1994, Quốc hội CHDCND Lào đã thông qua Luật khuyến
khích và quản lý đầu tư nước ngoài tại kỳ họp thứ 3 khoá III Chủ tịch nước đã
công bố và ban hành. Luật mới này gồm 5 chương và 31 điều, trong đó có
một số điều được quy định cụ thể, chặt chẽ và phù hợp hơn so với các quy
định trước đó về hoạt động đầu tư. Luật đầu tư nước ngoài năm 1988 đã được
sửa đổi bởi Luật khuyến khích và quản lý đầu tư nước ngoài năm 1994, tiếp
đó được chủ tịch nước công bố áp dụng bằng sắc lệnh số 23/CTN ngày
21/4/1994.
Luật khuyến khích và quản lý đầu tư nước ngoài tại Lào năm 1994
được đánh giá là đạo luật của đường lối đổi mới đất nước. Trong đạo luật này,
khuyến khích và bảo đảm đầu tư nước ngoài đã dược làm rõ hơn, thể hiện
quan điểm mới của Đảng và Nhà nướcLào về vấn đề này. Lần đầu tiên, Nhà

nước Lào đã tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho nhà đầu tư nước ngoài.
Những biện pháp khuyến khích và bảo đảm cho nhà đầu tư trực tiếp nước
ngoài được mở rộng hơn, đảm bảo cho nhà đầu tư nước ngoài được hưởng
những quyền và lợi ích chính đáng, phù hợp hơn với thong lệ quốc tế.
So với Luật đầu tư nước ngoài của một số nước trong khu vực và trên
thế giới, Luật khuyến khích và quản lý đầu tư nước ngoài của Lào năm 1994
được các nhà đầu tư đánh giá là tương đối “cởi mở”. Tuy nhiên vấn đề quan
trọng là không để những quy định đó tồn tại trên giấy tờ, mà điều cơ bản là
các cơ chế để thực hiện chúng, làm cho chúng trở thành thực tế. Điều đó thì
vào thời điểm 1994 Lào lại chưa làm được. Tuy nhiên, cũng thấy được là so
với Điều lệ năm 1988, Luật khuyến khích và quản lý đầu tư nước ngoài 1994
là một sự thay đổi cơ bản về chất đối với vấn đề khuyến khích đầu tư và bảo
đảm đầu tư nước ngoài.[15, tr 13]
Căn cứ vào tình hình thực tiễn, Nhà nước Lào thực sự mong muốn
“hoan nghênh và khuyến khớch” các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành các
hoạt động đầu tư tại Lào. Có nhiều điểm khác biệt trong các biện pháp bảo
đảm đầu tư và khuyến khích đầu tư. Lào cũng thành lập riêng một Uỷ ban
khuyến khích đầu tư nước ngoài để quản lý hoạt động đầu tư, và đây là cơ
quan có trách nhiệm tạo những thủ tục thuận lợi nhất cho nhà đầu tư nước
ngoài. Luật mới này đã dành nhiều ưu đãi về thuế và những ưu đãi khác về
thuê đất, thời hạn đầu tư, lĩnh vực đầu tư.
Năm 1991, Hiến pháp đầu tiên của Lào được ban hành tạo cơ sở vững
chắc cho các văn bản pháp luật của các ngành luật khác nhau ra đời. Đi cùng
với nó, hàng loạt các đạo luật khác nhau như Luật doanh nghiệp, các luật
thuế, Luật phá sản doanh nghiệp, Luật ngõn hàng, Luật thương mại…Từng
bước tạo khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho hoạt động đầu tư. Nếu
không có các khung này thì hoạt động đầu tư nước ngoài sẽ không được tiến
hành. Đồng thời, môi trường đầu tư cũng ngày càng hoàn thiện hơn. Lào coi
việc đầu tư nước ngoài như một hệ quả tất yếu của nền kinh tế thị trường, đặc
biệt là trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế quốc tế. Do tận dụng hiệu quả

thu hút vốn của nhà đầu tư nước ngoài, nên Lào cũng rất tôn trọng những
quyền và lợi ích của các nhà đầu tư. Trong Luật khuyến khích và quản lý đõự
tư nước ngoài 1994, Lào đã tuân thủ những nguyên tắc của pháp luật quốc tế
về quyến khích và bảo đảm đầu tư. Đặc biệt là bảo hộ quyền sở hữu, quyền
chuyển vốn và lợi nhuận ra nước ngoài [13, tr14 ].
Mặt khác Nhà nước Lào đã chủ trương coi FDI như là một hoạt động
kinh tế đối ngoại không thể thiếu được. Do đó CHDCND Lào luôn cố gắng
hoàn thiện hệ thống pháp luật để tạo thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư. Tuy
nhiên, Luật khuyến khích và quản lý đầu tư nước ngoài năm 1994 đã tỏ ra có
nhiều bất cập. Vì vậy, yêu cầu hoàn thiện hơn nữa pháp luật về đầu tư nước
ngoài tiếp tục được đặt ra. Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài tại Lào năm
2004 đã từng bước tạo thêm những điều kiện cho hoạt động FDI đi vào ổn
định và có hiệu quả và ổn định, đống thời nâng cao lợi thế so với các nước
trong khu vực và trên thế giới.
Hệ thống các văn bản pháp luật của Lào hiện nay về FDI đó cú những
quy định về bảo đảm FDI như: Hiến pháp sửa đổi, bổ sung năm 2003; Luật
khuyến khích đầu tư nước ngoài tại Lào năm 2004; Nghị định 301/TTG ngày
12/10/2005 tổ chức thi hành luật khuyến khích đầu tư nước ngoài tại
CHDCND Lào; Bản hướng dẫn 331/CTUKĐ Ngày 29/03/2008 (Chủ tịch uỷ
ban kế hoạch và đầu tư) về một số biện pháp khuyến khích và bảo hộ hoạt
động FDI tại Lào là những văn bản chủ yếu, thể hiện chính sách và bảo đảm
hoạt động FDI tại CHDCND Lào thông qua những điểm sau:
• Chính phủ Lào đảm bảo thực hiện ổn định, lâu dài chính sách đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại lào, đồng thời sửa đồi, bổ sung chính sách đầu tư
nước ngoài theo nguyên tắc tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư.
• Chính phủ Lào khuyến khích và dành ưu đãi đặc biệt với dự án đầu tư
hàng xuất khẩu, sử dụng công nghệ cao, dự án đầu tư thuộc danh mục các dự
án đặc biệt khuyến khích đầu tư và danh mục các địa bàn khuyến khích đầu
tư.
• Chính phủ Lào công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư,

lợi nhuận, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của chủ đầu tư, các tài sản này
không bị quốc hữu hoá, không bị trưng dụng.
• Trường hợp các quy định mới của pháp luật làm thiệt hại đến lợi ích
của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các biện pháp hợp doanh đã
được quy định tại giấy phép đầu tư thỡ cỏc quy định đó sẽ không áp dụng đối
với các dự án đã được cấp giấy phép đầu tư, sẽ được cơ quan đầu tư cấp phép
điều chỉnh lại cho doanh nghiệp được hưởng những quy định mới.
Tóm lại, nội dung pháp luật về khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Lào được quy định cụ thể chặt chẽ gồm ba chế định sau:
Thứ nhất, chính sách đầu tư: Chính phủ nước CHDCND Lào khuyến
khích tất cả những cá nhân và pháp nhân nước ngoài đầu tư trên cơ sở hợp tác
hai bên cùng có lợi. Các nhà đầu tư có thể chọ lựa chọn nhiều lĩnh vực(trừ
những ngành pháp luật cấm).
Thứ hai, hình thức đầu tư bao gồm 2 hình thức :
+ Kinh doanh hợp tác theo hợp đồng;
+ Thành lập doanh nghiệp có vốn ĐTNN, bao gồm: Doanh nghiệp liên
doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước; Doanh nghiệp
đầu tư nước ngoài trăm phần trăm (Điều 5 Luật khuyến khích đầu tư nước
ngoài năm 2004).
Thứ ba, quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư nước ngoài được hưởng sự
ưu đãi trong việc thành lập, kinh doanh theo luật định ; được bảo hộ về quyền
và lợi ích chính đáng từ hoạt động kinh doanh; quyền sở hữu tài sản hợp pháp
của mỡnh…
Tuy nhiên pháp luật về đầu tư của Lào cũn cú một số hạn chế sau:
• Hệ thống chính sách, pháp luật của Lào đang trong quá trình hoàn thiện
nên thiếu tính đồng bộ và ổn định, nhiều quy định chưa rõ ràng, thậm chí có
những nội dung mâu thuẫn, chồng chéo, chậm được luật hoá. Một số trường
hợp đã được luật hoá nhưng sau một thời gian dài vẫn chưa có văn bản hướng
dẫn thi hành.
• Sự thiếu cụ thể của quy định pháp luật dẫn đến việc áp dụng chưa nhất

quán, gây tâm lý thiếu an tâm cho các nhà đầu tư. Mặt khác thực trạng này
làm các cơ quan nhà nước thiếu sự thống nhất trong thẩm định và cấp phép dự
án đầu tư FDI. Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài năm 2004 chỉ gồm 8
chương và 32 điều. Nếu so sánh với những yêu cầu điều chỉnh quan hệ đầu tư
thì vẫn thiếu. Chỉ tớnh riờng số lượng, luật này khó có thể tiên liệu hết các
vấn đề phát sinh từ quan hệ đầu tư. Điều này trở nên bất cập khi Lào đang mở
cửa kinh tế. Thực trạng hiện tại chưa cho phép điều chỉnh những vấn đề mới,
phức tạp đang nảy sinh và giải quyết kịp thời, hiệu quả.
• Hạn chế lớn nhất của hệ thống pháp luật đầu tư của CHDCND Lào là
sự thiếu thống nhất của phỏp lụõt trong việc điều chỉnh hoạt động FDI. Cụ thể
là chế độ điều chỉnh hoạt động FDI tại Lào được cấu thành hai bộ phận tương
ứng với hai thể loại đầu tư trong nước và nước ngoài. Đặc biệt có sự chênh
lệch khá lớn trong chính sách, ưu đãi đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
• Các quy định về thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư rất rắc rối “
Hiện nay Lào là một trong những nuớc kém nhất ở Châu Á về tốc độ xử lý
hành chính”.[22]
Trong thời gian tới, cơ hội gia nhập WTO đang đến rất gần CHDCND
Lào cần phải khắc phục những hạn chế này để xây dựng pháp luật quốc gia
tương thích hơn so với pháp luật quốc tế, trong đó trước hết phải kể đến hệ
thống pháp luật về hoạt động đầu tư.
1.4 Pháp luật của một số nước trên thế giới về các Biện pháp bảo
đảm và Khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trong bối cảnh kinh tế quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, kinh tế thế
giới đang bước vào giai đoạn khủng hoảng nghiêm trọng. Đã có rất nhiều các
tập đoàn, công ty xuyên quốc gia phá sản kéo theo hệ quả nghiêm trọng đến
việc thu hút đầu tư. Khủng hoảng kinh tế không chỉ ảnh hưởng đến các nước
phát triển mà còn ảnh hưởng đến các quốc gia đang phát triển. Không một
quốc gia nào có thể độc lập, tách rời mối quan hệ với các quốc gia khác. Hơn
bao giờ hết vấn đề thu hút đầu tư đã kéo theo sự quan tâm của tất cả các quốc
gia trên thế giới. Các chính sách thu hút đầu tư của các quốc gia đều có những

chiến lược rõ ràng thể hiện qua các quy định pháp luật về bảo đảm đầu tư và
khuyến khích đầu tư.
1.4.1 Pháp luật về BĐĐT và KKĐT của Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam.
Trước năm 2005, hệ thống pháp luật của Việt Nam cũng chia thành hai
lĩnh vực điều chỉnh chính là đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Tuy
nhiên, để đáp ứng tớnh hỡnh mới (đặc biệt từ khi Việt Nam gia nhập WTO).
Luật đầu tư được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngày
29/11/2005 đã thể hiện tư tưởng mới về các hoạt động đầu tư. Theo đú cỏc
hoạt động đầu tư không còn bị phân biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư
nước ngoài. Tất cả các dự án đầu tư đều chịu sự điều chỉnh của luật đầu tư
chung.
Các biện pháp bảo đảm đầu tư gồm có:
 Bảo đảm về vốn và tài sản
 Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
 Mở cửa thị trường đầu tư liên quan đến thương mại
 Chuyển vốn và tài sản, thu nhập hợp pháp ra nước ngoài
 Áp dụng giỏ, phớ, lệ phí thống nhất
 Bảo đảm trong trường hợp thay đổi chính sách, pháp luật
 Bảo đảm giải quyết tranh chấp
Các biện pháp khuyến khích đầu tư gồm có:
 Lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư.
 Uu đãi về thuế
 Ưu đãi trong chính sách tạo điều kiện mặt bằng sản xuất, kinh doanh
 Hỗ trợ và tạo điều kiện về vốn
 Uu đãi tín dụng đầu tư
Nhà nước Việt Nam không khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư tràn lan mà chỉ khuyến khích đầu tư theo hướng tập trung vào các mục
tiêu trọng điểm là các địa bàn ưu tiên góp phần giải quyết sự mất cân đối
trong cơ cấu về lĩnh vực , ngành nghề, vùng kinh tế, về cán cân thanh toán

như: sản xuất hàng xuất khẩu, nuôi trồng chế biến nông lâm, thuỷ sản, sử
dụng công nghệ cao, kinh tế hiện đại, bảo vệ môi trường sinh thái, đầu tư và
nghiên cứu phá triển, sử dụng nhiều lao động, chế biến nguyên liệu và sử
dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên tại Việt Nam.
1.4.2 Pháp luật về BĐĐT và KKĐT nước ngoài tại Singapore.
Singapore là một nước hầu như không có tài nguyên thiên nhiên nhưng
lại có một nền kinh tế rất hùng mạnh. Singapore coi việc thu hút vốn đầu tư
như là một quốc sách; vì vậy Singapore là một trong những nước có khung
pháp luật về đầu tư được đánh giá là thông thoáng nhất thế giới. Điểm khá
đặc biệt của pháp luật đầu tư Singapore là nước này không có một luật đầu tư
riêng để điều chỉnh. Các quan hệ đầu tư nước ngoài được điều chỉnh cùng với
một luật kinh doanh với các quan hệ đầu tự trong nước. Tất cả các biện pháp
BĐĐT và KKĐT đều được áp dụng chung với các nhà đầu tư không phân
biệt đầu tư trong nước với đầu tư nước ngoài.
Các biện pháp BĐĐT:
- Singapore tham gia rất nhiều hiệp định song phương và đa phương về
bảo hộ đầu tư với các nước ASEAN và một số nước khác. Theo đó, quyền sở
hữu của nhà đầu tư nước ngoài được đảm bảo không bị tịch thu sung công,
quốc hữu hoá và những rủi ro hành chính khác.
- Khi đầu tư vào Singapore các nhà đầu tư cũng quan tâm về vấn đề
trùng lặp thuế vì Singapore đã thực hiện việc tránh đánh thuế hai lần với một
số tổ chức và các nước khỏc trờn thế giới
Các biện pháp KKĐT:
- Chính sách thuế: Chính phủ Singapore đã ban hành nhiều đạo luật (Luật
miễn giảm thuế, luật thuế thu nhập) nhằm ngày càng cải cách vấn đề thuế theo
hướng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Thuế suất cố định là 26%
nhưng nếu công ty đó thuộc diện được hưởng ưu đãi thì mức thuế giảm xuống
rất thấp thậm chí miễn hoàn toàn thuế thu nhập.
- Chính sách ngoại hối : Singapore không quy định hạn chế nào về quản lý
ngoại hối. Mặt khác, đồng đôla Singapore là một trong rất ít đồng đôla được

coi là mạnh và chuyển đổi dễ dàng.
- Chính sách phát triển và bảo đảm nguồn nhân lực. Chính phủ Singapore
đã đầu tư vốn để thành lập Uỷ ban đào tạo công nghiệp với nhiệm vụ chính là
đưa ra các chương trình đào tạo nhân công với kỹ thuật và tác phong công
nghiệp. Các chương trình này hầu hết được hoạt động bằng vốn của chính
phủ, có sự đóng góp của công ty sử dụng nhân lực.
Ngoài những chính sách khuyến khích đầu tư cụ thể đó nờu. Singapore
cũn có một số biện pháp đầu tư khác, đặc biệt phải kể đến việc Singapore cam
kết sẵn sàng hỗ trợ vốn cho các nhà đầu tư nước ngoài dưới nhiều hình thức.
[13, tr26,27]
1.4.3 Pháp luật về các BĐĐT và KKĐT ở Campuchia.
* Các biện pháp bảo đảm đầu tư:
- Các nhà đầu tư phải được sự không phân biệt đối xử theo quy định của
pháp luật, ngoại trừ quyền sở hữu đất được quy định theo Hiến pháp của
Vương quốc Campuchia (Điều 8 Luật đầu tư 1994).
- Chính phủ cam kết không thực hiện chính sách quốc hữu hoá gây tổn hại
tới sở hữu tư nhân của các nhà đầu tư (Điều 9 Luật đầu tư 1994).
- Chính phủ không áp đặt việc kiểm soát giá hàng hoá hoặc các dịch vụ
được các nhà đầu tư cung ứng, phê chuẩn từ trước của Chớnh phủ (Điều 10).
- Theo đúng quy định của Ngân hàng quốc gia Campuchia, Chớnh phủ
phải cho phép các nhà đầu tư mua ngoại tệ từ hệ thống Ngân hàng và chuyển
ngoại tệ ra nước ngoài và thực hiện nghĩa vụ tài chính liên quan (Điều 11).
* Các biện pháp khuyến khích đầu tư:
- Các ngành công nghiệp tiên phong hoặc công nghệ cao, hướng về xuất
khẩu tạo việc làm, xây dựng cơ sở hạ tầng, năng lượng được khuyến khích
đầu tư (Điều 12).
- Theo quy định tại điều 13 việc khuyến khích đầu tư chỉ tập trung vào
biện pháp miễn toàn bộ hoặc một phần các loại thuế quan và thuế nội địa.
Luật đầu tư năm 1994 không đánh thuế đối với việc phân phối cổ tức hoặc lợi
nhuận phát sinh từ đầu tư dự cỏc khoản này được chuyển ra nước ngoài hay

phân phối ở trong nước. Tuy nhiên luật đầu tư sửa đổi, bổ sung năm 2003 đã
huỷ bỏ ưu đãi này.[13, tr29,30 ]
Tóm lại, qua việc tìm hiểu pháp luật của CHDCND Lào cũng như một
số nước trên thế giới chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
+ Việc thu hút đầu tư rất được coi trọng ở Lào.Cỏc luật này như là hạt
nhân của pháp luật về đõự tư. Rất nhiều nước không có đạo luật riêng về đầu
tư nước ngoài cũng như đầu tư trong nước. Việc khuyến khích đầu tư được
quy định tại đạo luật chung, áp dụng chung. Trong khi đó, pháp luật của
CHDCND Lào lại quy định đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước chịu sự
điều chỉnh của hai đạo luật riêng.
+ So sách với pháp luật đầu tư của các nước trên thế giới có thể nhận
thấy một số tính đặc thù của pháp luật đầu tư Lào. Trước hết luật khuyến
khích đầu tư nước ngoài năm 2004 chỉ điều chỉnh hoạt động FDI vào Lào chứ
không điều chỉnh hoạt động đầu tư của Lào ra nước ngoài. Các hoạt động đầu
tư gián tiếp của các nhà đầu tư trong nước, nước ngoài, đầu tư trực tiếp của
các pháp nhân Lào ra nước ngoài không chịu sự điều chỉnh của luật.[14, tr22 ]
CHƯƠNG II
THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP
BẢO ĐẢM ĐẦU TƯ VÀ KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ
TẠI CHDCND LÀO
2.1 Biện pháp Bảo đảm đầu tư của CHDCND Lào
2.1.1 Biện pháp bảo đảm về vốn và tài sản của NĐT
Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài tại Lào 2004 đã tạo cơ sở pháp lý
vững chắc cho các NĐT. Từ năm 1988 - 2007, CHDCND Lào đã thu hút
được 1,796 dự án với tổng số vốn FDI đạt 9,2 tỷ USD. Đạt được kết quả như
vậy là CHDCND Lào đã có quy định khá rõ ràng về bảo đảm đầu tư. Chính
phủ Lào khẳng định sự tôn trọng cuả mình đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Điều đó được thể hiện qua các quy định của pháp luật Lào về bảo đảm vốn và
tài sản của nhà đầu tư.
Sự bảo đảm vốn cho nhà đầu tư của Nhà nuúc Lào được quy định trong

Luật KKĐTNN tại Lào năm 2004. Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở
hữu về tài sản, vốn đầu tư, thu nhập, và các quyền và lợi ích hợp pháp khác
của nhà đầu tư; thừa nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của các hình thức
đầu tư.
Khoản 1 Điều 4 Luật KKĐTNN 2004 quy định: “Vốn đầu tư và tài
sản hợp pháp của nhà đầu tư không bị quốc hữu hoá, không bị tịch thu bằng
các biện pháp hành chớnh”. Khoản 2 Điều 4 quy định: “ Trường hợp cần
thiết vỡ lớ do quốc phòng, an ninh, Nhà nước trưng dụng tài sản thì nhà đầu
tư được thanh toán hoặc bồi thường theo giá thụ trường tại thời điểm công
bố viờc trưng thu trưng mua theo quy định của pháp luật. Việc thanh toán
hoặc bồi thường theo giá thị trường phải bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà
đầu tư và không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư”. Nhà nước không chỉ
ghi nhận về việc đảm bảo vốn đầu tư trong đạo luật này mà việc quy định
trong các văn bản pháp luật khác cũng chú trọng đến bảo đảm vốn cho nhà
đầu tư nước ngoài. Hiện nay, nước CHDCND Lào ký Hiệp định khuyến khích
và bảo hộ đầu tư với rất nhiều nước; tham gia Hiệp ước MIGA với các quy
định về bảo hiểm đầu tư và việc chuyển tài sản ra nước ngoài.
Theo quy định trong hệ thống pháp luật của Lào, chủ đầu tư có toàn
quyền quyết định việc sử dụng vốn bằng tiền, thiết bị máy móc, dụng cụ bộ
phận rời được đưa vào đầu tư dưới mọi hình thức mà pháp luật cho phép.
Bên cạnh đó, việc bảo đảm về tài sản của chủ đầu tư cũng được quy
định khá rõ ràng. Hiến pháp sửa đổi bổ sung năm 1994 quy định: “Người
nước ngoài cư trú tại Lào được Nhà nước Lào bảo hộ tính mạng, tài sản và
quyền lợi chính đáng theo pháp luật CHDCND Lào”. (Điều 7 và điều 9)
Với các động sản là các thu nhập hợp pháp tư liệu sinh hoạt, người
nước ngoài được hưởng quyền sở hữu như công dân Lào. Theo Luật nhà ở thì
nhà đầu tư nước ngoài được hưởng quyền sở hữu nhà ở trong thời gian đầu tư
tại Lào. Một trong những quyền cơ bản cũng được ghi nhận - quyền thừa kế
đối với nhà đầu tư. Theo Luật dân sự năm 2004 thì người nước ngoài có để lại
di sản cho người khác theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật hoặc trở

thành người thừa kế theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Cũng theo
pháp luật Lào thì nhà đầu tư nước ngoài sẽ có quyền thừa kế nhà ở, kho tàng,
nhà xưởng và các vật sở hữu của người để lại di sản.
Tóm lại, việc bảo đảm vốn và tài sản là một trong những biện pháp
quan trọng mà Đảng và Nhà nước Lào cam kết với nhà đầu tư nước ngoài.
Trong Luật đầu tư của các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Việt
Nam hay Trung Quốc đều cú cỏc quy định về bảo đảm vốn và tài sản đầu tư.
Có thể nói biện pháp bảo đảm vốn và tài sản là biện pháp trực tiếp tác động
đến hoạt động đầu tư do đó được rất nhiều các nhà đầu tư quan tâm. Bởi vì,
khi xác định đầu tư vào một quốc gia, một lĩnh vực, một ngành nghề thì tất cả
các nhà đầu tư đều mong muốn Nhà nước nước tiếp nhận đầu tư sẽ bảo toàn
vốn và tài sản của họ.
2.1.2 Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Nhà nước Lào cam kết bảo hộ quyền SHTT trong quá trình đầu tư.
Hiện nay, Lào được xét vào các quốc gia có tình trạng vi phạm bản quyền
cao. Để thể hiện quyết tâm của Lào chống vi phạm bản quyền sở hữu trí tuệ
và cũng là lời cam kết của Lào khi ra nhập WTO, Khoản 7 Điều 12 Luật
khuyến khích đầu tư nước ngoài 2004 quy định với nội dung sau: “Được bảo
hộ quyền Sở hữu trí tuệ mà có đăng ký với cơ quan có thẩm quyền của Lào”.
Nhà nuớc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong Luật đầu tư, bảo đảm lợi ích hợp
pháp của nhà đầu tư trong việc chuyển giao công nghệ tại CHDCND Lào theo
quy định pháp luật của Lào về sở hữu trí tuệ và các quy định khác của pháp
luật liên quan. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho chủ sở hữu thực hiện được các
quyền và lợi ích liờn quan đến sở hữu trí tuệ thì Luật khuyến khích đõự tư
nước ngoài năm 2004 đã cho phép chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có thể áp dụng
một trong các biện pháp dân sự, hành chính, hình sự để bảo vệ quyền sở hữu
của mình. Trong khuôn khổ các quy định của WTO về sở hữu trí tuệ thì có
nhiều quy định mà hiện nay pháp luật Lào cần phải sửa đôi bổ sung cho phù
hợp với thông lệ quốc tế, như: quyền sở hữu công nghiệp, quyền tác giả,
quyền sở hữu trí tuệ liờn quan đến thuơng mại…

2.1.3 Bảo đảm đầu tư trong trường hợp thay đổi chính sách và pháp
luật.
Trong một thời gian dài thu hút về đầu tư, CHDCND Lào đã đạt được
một số thành tựu đáng kể. Song một điều không thể phủ nhận được là môi
trường pháp lý về đầu tư của Lào còn nhiều kẽ hở. Xét về mặt thực tế, các nhà
đầu tư lớn bao giờ cũng quan tâm đến môi trường pháp lý hơn là đầu tư nhỏ,
điều đó có nghĩa muốn thu hút các dự án lớn, Lào cần có một hệ thống pháp
luật đồng bộ rõ ràng hơn[18,tr46 ].
Các quy định về bảo đảm trong trường hợp thay đổi chính sách, pháp
luật được thực hiện cụ thể như sau:
• Nếu sự thay đổi về chính sách mang lại những ưu đãi nhiều hơn hoặc
lợi nhuận cao hơn cho các nhà đầu tư so với các quy định trước đây thỡ cỏc
nhà đầu tư đuợc huởng mới.
• Nếu sự thay đổi về chính sách pháp luật làm ảnh hưởng thiệt hại hoặc
gây ra sự giảm sút về ưu đãi đầu tư thì Nhà nước vẫn đảm bảo cho các nhà
đầu tư được hưởng những điều kiện, quyền lợi mà trước đó họ đã và đang
được hưởng.
• Nếu không được tiếp tục hưởng những ưu đãi của Nhà nước cam kết
bảo đảm quyền lợi cho các nhà đầu tư bằng cách thực hiện một số biện pháp
giải quyết, như:
+ Tiếp tục hưởng các quyền về ưu đãi.
+ Được trừ thiệt hại và thu nhập chịu thuế
+ Được điều chỉnh mục tiêu hoạt động của dự án
+ Được xem xét bồi thường trong trường hợp cần thiết
Như vậy, trong một số trường hợp có sự thay đổi chính sách hoặc quy
định pháp luật từ phía Nhà nước thì quyền lợi tối đa của các nhà đầu tư phải
được bảo đảm. Xét về một góc độ nhất định, rõ ràng Nhà nước đã nhận về
phía mình một sự bất lợi và dành cho các nhà đầu tư sự tự chủ động lựa chọn
phương pháp giải quyết một khi có sự thay đổi từ phía Nhà nuớc. Điều này
thể hiện rõ thiện chí và mong muốn của nhà nước đối với việc thu hút FDI.

2.1.4 Các quy định về bảo hộ vận chuyển lợi nhuận và thu nhập hợp
pháp của nhà đầu tư ra nước ngoài.
Nhà nước Lào luôn tôn trọng và đảm bảo cho các nhà đầu tư nước
ngoài có thể chuyển lợi nhụõn và tài sản hợp pháp của mình ra nước ngoài
một cách thuận tiện và nhanh chóng. Nhà nước luôn khuyến khích các nhà
đầu tư dùng lợi nhuận để tái sản xuất đầu tư vào các ngành và lĩnh vực nhất
định. Đồng thời, Nhà nước Lào cũng tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các nhà
đầu tư chuyển lợi nhuận và thu nhập hợp pháp ra nước ngoài.
Theo Khoản 8 Điều 12 Luật KKĐTNN năm 2004 nhà đầu tư nước
ngoài được chuyển ra nước ngoài những khoản hợp pháp ra nước ngoài bao
gồm :
+ Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh, những khoản tiền trả
cho việc cung cấp các dịch vụ sở hữu trí tuệ;
+ Tiền gốc và lói cỏc khoản vay nước ngoài;
+ Vốn đầu tư từ các khoản thanh lý đầu tư, các khoản tiền và tài sản
hợp pháp thuộc sỏ hữu của nhà đầu tư; thu nhập hợp pháp của người lao động
nước ngoài làm việc tại các dự án đầu tư.
Tuy nhiên, căn cứ để xác định thế nào là thu nhập hợp pháp thì pháp
luật Lào còn chưa rõ ràng; ví dụ: Các nhà đầu tư nước ngoài sử dụng nguồn
vốn đầu tư không rõ xuất xứ của nguồn vốn đầu tư hợp pháp hay bất hợp pháp
vào một lĩnh vực thuộc diện ưu đãi đầu tư, phát sinh lợi nhuận từ hoạt động
đầu tư. Như vậy, lợi nhuận thu là từ nguồn vốn bất hợp pháp nếu được chuyển
ra nước ngoài sẽ gây thiệt hại đến môi trường đầu tư của Lào nói riêng và môi
trường đầu tư của các nước trên thế giới nói chung. Nếu Nhà nước Lào không
quản lý tốt việc này thì Lào sẽ trở thành “ thiên đường rửa tiền” của các
nguồn vốn bất hợp pháp của các nơi trên thế giới.
Trước đây, theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài năm 1988 và
Luật khuyến khích và quản lý đầu tư nước ngoài năm 1994; Sắc lệnh của Chủ
tịch nước CHDCND Lào ngày 5/3/2003 thì việc chuyển lợi nhuận ra nước
ngoài của các nhà đầu tư vẫn được tiến hành. Tuy nhiên, khi chuyển lợi nhuận

ra nước ngoài nhà đầu tư phải nộp các khoản thuế gọi là thuế chuyển lợi
nhuận ra nước ngoài. Việc quy định về thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài
có những bất cập và một trong những bất cập đó là đánh trùng lặp thuế trên
một đối tượng chịu thuế. Trên thực tế phần lợi nhuận của các nhà đầu tư phải
gánh chịu nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp, nếu sau đó là thuế chuyển lợi
nhuận ra nước ngoài thì không hợp lý. Vì vậy, pháp luật hiện hành của
CHDCND Lào về thuế cũng như đầu tư đã thống nhất bỏ thuế chuyển lợi
nhuận ra nước ngoài nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư.
2.1.5 Bảo đảm giải quyết thoả đỏng các tranh chấp trong đầu tư
Qỳa trình đầu tư, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không thể
tránh khỏi những tranh chấp phát sinh. Vì vậy việc giải quyết những tranh
chấp là một nhu cầu tất yếu của các nhà đầu tư. Giải quyết tranh chấp giúp
môi trường đầu tư vận hành trong sạch hơn đồng thời củng cố lòng tin của
nhà đầu tư vào Nhà nước Lào.
Việc giải quyết tranh chấp giữa các bên trong qỳa trỡnh đầu tư được
quy định rõ ràng cụ thể tại các điều 25, điều 26, điều 27 Luật KKĐTNN 2004.
Khi có tranh chấp phát sinh sẽ có hai cách giải quyết:
- Các tranh chấp phát sinh từ hoạt động đầu tư tạo Lào cũng như tranh
chấp giữa xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài với các tổ
chức kinh tế của Lào hoặc giữa các xí nghiệp với nhau trước hết phải giải
quyết thông qua thượng lượng, hoà giải. Trong trường hợp cỏc bờn tranh chấp
vẫn không thoả thuận được với nhau thì vụ tranh chấp đưa ra tổ chức Trọng
tài của Lào hoặc một tổ chức Trọng tài khác hoặc một cơ quan xét xử khác và
cuối cùng là có thể đưa ra Toà án để xét xử.
- Khi hợp tác liên doanh hoặc kinh doanh, các nhà đầu tư phải hoạt
động dựa trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc hợp đồng liên doanh.
Pháp luật Lào quy định trong luật đó phải có một nội dung về giải quuyết
tranh chấp. Căn cứ vào đó, khi tranh chấp xảy ra (cỏc bên liờn doanh phải hợp
doanh ) thì sẽ được giải quyết theo sự thoả thuận lựa chọn được ghi nhận
trong một điều khoản của hợp đồng.

Có thể thấy, pháp luật của CHDCND Lào đã quy định khá đầy đủ về
các quy định giải quyết tranh chấp trên cơ sở tôn trọng sự thoả thuận của các
bên và sẵn sàng đứng ra giải quyết những vấn đề liên quan. Trong trường hợp,
nếu hai bên thoả thuận nhờ nước thứ ba đứng ra giải quyết thì nước Lào
không ngăn cấm mà còn tôn trọng cách giải quyết đó cho các nhà đầu tư.

×